Hội nghị đã bắt đầu từ thứ Năm, ngày 13 tháng Sáu vừa qua và kéo dài đến ngày 15 tháng Sáu. Bà Meloni cho biết khi mời Đức Thánh cha, bà xác tín rằng sự hiện diện và phát biểu của ngài có thể góp phần quan trọng trong việc tìm ra một khuôn khổ luân lý đạo đức và văn hóa cho việc sử dụng trí tuệ nhân tạo đối với võ khí.
Đức Thánh cha rời Vatican lúc 11 giờ, và sau hơn một tiếng rưỡi bay, trực thăng của không quân Ý chở ngài đã đáp xuống sân thể thao ở Borgo Egnazia. Đức Thánh cha được bà Thủ tướng Meloni đón tiếp, rồi Đức Thánh cha dùng xe thể thao về nơi ở dành riêng.
Tại đây, trong một tiếng rưỡi đồng hồ, Đức Thánh cha lần lượt gặp gỡ và trao đổi song phương với bà Kristalina Georgieva, người Bulgaria, Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế, Tổng thống Ucraina, ông Volodymyr Zelensky, rồi Tổng thống Emmanuel Macron của Pháp, Thủ tướng Justin Trudeau của Canada.
Tiếp đến, lúc quá 14 giờ đã có lễ nghi bà Giorgia Meloni, chính thức đón tiếp Đức Thánh cha tại sân của Borgo Egnazia và chụp hình, trước khi Đức Thánh cha được hướng dẫn đến phòng Arena để tham dự phiên họp chung. Lần đầu tiên trong lịch sử 50 năm của G7, một vị Giáo hoàng tham dự và phát biểu tại một buổi họp của nhóm các cường quốc này.
Phát biểu của Đức Thánh cha
Phiên họp bắt đầu lúc 14 giờ 15. Và trong bài phát biểu, Đức Thánh cha nói đến những cơ may, những nguy hiểm và hậu quả của trí tuệ nhân tạo: ngài nhấn mạnh rằng nhân loại sẽ có một tương lai vô vọng, nếu người ta tước bỏ của con người khả năng quyết định về bản thân cũng như về đời sống của mình, kết án con người phải lệ thuộc những chọn lựa của máy móc.
Rất tiếc là nguy cơ ấy là điều có thực hơn bao giờ hết: trí tuệ nhân tạo là một dụng cụ có sức thu hút, nhưng đồng thời nó cũng là một dụng cụ kinh khủng, nhất là nó có thể mang lại bao nhiêu lợi ích, nhưng cũng có thể tạo nên những thiệt hại, như bao nhiêu vật dụng khác do con người tạo nên. Đề tài trí tuệ nhân tạo đã được Đức Thánh cha nói đến trong sứ điệp nhân ngày Thế giới Truyền thông Xã hội Lần thứ 58, cử hành ngày 12 tháng Năm vừa qua.
Nay trước những nhân vật nam nữ đang nắm giữ những trách nhiệm to lớn trên thế giới, Đức Thánh cha nêu rõ hơn những cơ may và rủi ro của trí tuệ nhân tạo đối với tương lai của nhân loại, nhất là trong bối cảnh cuộc chiến tranh “từng mảnh” ngày càng bị ráp lại với nhau.
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Trong một thảm trạng như các cuộc xung đột võ trang, điều cấp thiết là xét lại sự phát triển và sử dụng các dụng cụ gọi là “võ khí tự động giết người” để nghiêm cấm sử dụng chúng, bắt đầu từ quyết tâm thực sự và cụ thể ngày càng du nhập sự kiểm soát chặt chẽ của con người.
Đừng bao giờ để những chiếc máy giết người đã tạo nên chúng. Đức Thánh cha khai triển ý tưởng này. Đây không phải là một thành kiến đối với những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật, nhưng đúng hơn là sự trôi dạt, không thể thể kiểm soát nổi các dụng cụ ấy. Đức Thánh cha nói: Khoa học và kỹ thuật là những sản phẩm đặc biệt do tiềm năng sáng tạo của con người, và chính từ việc sử dụng tiềm năng sáng tạo mà Thiên Chúa ban cho chúng ta mà trí tuệ nhân tạo được chào đời. Đó là một phương tiện hết sức mạnh mẽ, được sử dụng trong rất nhiều lãnh vực hoạt động của con người, như: y khoa, lao động, văn hóa, truyền thông, giáo dục và chính trị. Người ta được phép cho rằng việc sử dụng trí tuệ nhân tạo ngày càng ảnh hưởng đến lối sống, tương quan xã hội và trong tương lai, nó sẽ ảnh hưởng tới cả quan niệm của chúng ta về căn tính con người”.
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Vì những lý do đó, đứng trước những kỳ công của máy móc dường như biết chọn lựa một cách độc lập, chúng ta phải ý thức rõ rằng quyết định phải luôn luôn thuộc về con người”. Và Đức Thánh cha cảnh giác rằng: “Chúng ta sẽ kết án nhân loại phải chịu một tương lai không có hy vọng, nếu chúng ta tước đoạt khỏi con người khả năng quyết định về chính mình, bó buộc nó phải lệ thuộc những chọn lựa của máy móc. Chúng ta phải bảo vệ và đảm bảo một không gian kiểm soát quan trọng của con người đối với tiến trình chọn lựa các chương trình của trí tuệ nhân tạo. Điều này liên hệ tới chính phẩm giá con người”.
Sau bài phát biểu của Đức Thánh cha, nhiều tham dự viên khác cũng lên tiếng về vấn đề này. Tiếp đến, từ lúc 17 giờ 30, Đức Thánh cha còn có những cuộc gặp gỡ song phương với các vị Tổng thống của Kenya bên Phi châu, Thủ tướng Narendra Modi của Ấn Độ, Tổng thống Joe Biden của Mỹ, Tổng thống Brazil, Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, sau cùng là Tổng thống nước Algeria, ông Abdelmadjid Tebboune.
Lúc gần 20 giờ, Đức Thánh cha mới đáp trực thăng bay trở về Vatican.
Tài liệu nghiên cứu này được đưa ra sau 29 năm thông điệp của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II về cam kết của Giáo hội Công giáo đối với sự hiệp nhất Kitô giáo, Ut Unum Sint (Để tất cả nên một), mời gọi các mục tử và các nhà thần học của các giáo hội Kitô giáo khác để “thấy— dĩ nhiên là cùng nhau - những hình thức” trong đó sứ vụ của Giám mục Rôma “có thể hoàn thành việc phục vụ yêu thương mà các bên đều nhìn nhận”.
Đức Giáo hoàng người Ba Lan đã đưa ra lời mời gọi khi nhận thức được quyền tối thượng của Giám mục Rôma đã và vẫn gây ra những trở ngại cho các giáo hội Kitô giáo khác trên hành trình hướng tới sự hiệp nhất như ý muốn của Chúa Kitô.
Tài liệu nghiên cứu mới này bối cảnh hóa lời mời gọi của Thánh Gioan Phaolô II. Nó nhắc lại rằng “sự hiểu biết và thực thi sứ vụ của Giám mục Rôma đã bước vào một giai đoạn mới với Công đồng Vatican II. Kể từ đó, chiều kích đại kết đã trở thành một khía cạnh thiết yếu của sứ vụ này, như các vị giáo hoàng kế nhiệm minh họa”. Tài liệu nghiên cứu cho biết lời mời gọi của Thánh Gioan Phaolô II trong Ut Unum Sint “đã đánh dấu một thời điểm mang tính lịch sử trong nhận thức đại kết này”, đồng thời nói thêm rằng “lời mời đó nhận được sự hỗ trợ đặc biệt” trong triều đại giáo hoàng của Đức Phanxicô, vốn đã nhấn mạnh đến chiều kích đồng nghị của sứ vụ giáo hoàng.
Tài liệu dài 147 trang mang tựa đề “Giám mục Rôma: Quyền tối thượng và tính hiệp hành trong các cuộc đối thoại đại kết và trong các câu trả lời cho thông điệp Ut Unum Sint”. Tài liệu đã được Đức Hồng y người Thụy Sĩ Kurt Koch, 74 tuổi người, Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, giới thiệu trong một cuộc họp báo ở Vatican ngày 13.6.2024 cùng với Đức Hồng y Grech, 67 tuổi, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng.
Không giống như những tranh luận trong quá khứ, Đức Hồng y Koch nói, “vấn đề về quyền tối thượng không chỉ còn được coi đơn giản là một vấn đề nữa, mà còn là cơ hội để suy tư chung về bản chất của Giáo hội và sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới”.
Tuy nhiên, Đức Hồng y Koch nhắc lại rằng trong tông huấn Evangelii Gaudium năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét rằng “chúng ta đã đạt được rất ít tiến bộ” để đáp lại yêu cầu của Đức Gioan Phaolô II nhằm tìm ra “một cách thực thi quyền tối thượng sao cho nó hoàn toàn không từ bỏ những gì thiết yếu cho sứ mạng, nhưng vẫn cởi mở trước các tình hình mới”.
Đức Hồng y Koch nói rằng tài liệu nghiên cứu này là một bước tiến được Bộ thực hiện nhân kỷ niệm 25 năm thông điệp của Thánh Gioan Phaolô II; “[nó] đã nhìn thấy một cơ hội để tổng hợp những suy tư này và thu thập những thành quả chính,” như Đức Thánh Cha Phanxicô đã yêu cầu. Hơn nữa, “việc triệu tập Thượng Hội đồng về tính hiệp hành đã xác nhận sự liên quan của dự án này như một sự đóng góp cho chiều kích đại kết của tiến trình thượng hội đồng”.
Theo Đức Hồng y Koch, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn việc phát hành, người nhấn mạnh rằng tài liệu này “không yêu cầu làm cạn kiệt chủ đề cũng như không tóm tắt toàn bộ huấn quyền Công giáo về chủ đề này. Mục đích của nó là đưa ra một tổng hợp khách quan về cuộc thảo luận đại kết chính thức và không chính thức về chủ đề này” phản ánh cả những hiểu biết sâu sắc và những hạn chế của nó.
Tài liệu nghiên cứu kết thúc “với một đề xuất ngắn gọn từ Phiên họp toàn thể của Bộ có tựa đề ‘Hướng tới việc thực thi quyền tối thượng trong thế kỷ 21’”, trong đó xác định những khuyến nghị quan trọng cho sứ vụ hiệp nhất của Giám mục Rôma.
Đức Hồng y Koch cho biết tài liệu “là thành quả của gần ba năm làm việc thực sự mang tính đại kết và hiệp hành”. Nó tóm tắt 30 câu trả lời cho “Ut Unum Sint” và 50 tài liệu đối thoại đại kết về chủ đề này. Đã có sự tham vấn không chỉ trong phiên họp toàn thể của Bộ mà còn với các cơ quan Giáo triều Rôma và Thượng Hội đồng Giám mục.
Đức Hồng y, người đứng đầu Bộ của Vatican này từ tháng 7 năm 2010, đã trình bày những ý tưởng chính của tài liệu. Ngài chỉ ra rằng “nhiều” tài liệu đối thoại và câu trả lời về Ut Unum Sint, bao gồm cả một số hợp tác với các giáo hội khác, đã góp phần suy tư về quyền tối thượng và tính hiệp hành. Ngài lưu ý rằng mặc dù một số người có những cách giải thích khác nhau về cách thức thực thi sứ vụ này, “tất cả các tài liệu đều nhất trí về sự cần thiết phải phục vụ sự hiệp nhất ở cấp độ phổ quát”.
Đức Hồng y Koch cho biết điều đặc biệt thú vị là “sứ vụ Phêrô của Giám mục Rôma là nội tại của tính năng động thượng hội đồng, cũng như khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể Dân Thiên Chúa và chiều kích hiệp đoàn của sứ vụ giám mục”.
Nhìn về tương lai và những bước cần thực hiện trong các cuộc đối thoại thần học, Đức Hồng y Koch cho biết, tài liệu nghiên cứu gợi ý sự cần thiết phải có “một sự kết nối tốt hơn giữa các cuộc đối thoại – địa phương và quốc tế, chính thức và không chính thức, song phương và đa phương, Đông phương và Tây phương. —để làm phong phú cho nhau.” Nó cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải “cùng nhau giải quyết quyền tối thượng và tính hiệp hành” như “hai thực tế hỗ tương lẫn nhau”. Nó kêu gọi “làm rõ từ vựng” cho Dân Chúa và “thúc đẩy việc tiếp nhận kết quả của các cuộc đối thoại ở mọi cấp độ [trong các giáo hội]”.
Ngài kết luận bằng cách chỉ ra bốn gợi ý hoặc khuyến nghị thực tiễn cần được giải quyết trong Giáo hội Công giáo “để một sự hiểu biết mới và việc thực thi quyền tối thượng của Giáo hoàng có thể góp phần khôi phục sự hiệp nhất Kitô giáo”.
Khuyến nghị đầu tiên kêu gọi “việc ‘tiếp nhận lại’, ‘tái diễn giải’, ‘giải thích chính thức’, ‘cập nhật bình luận’ hoặc thậm chí là ‘tái diễn đạt’” các giáo huấn của Vatican I về giáo hoàng theo kiểu Công giáo. Nó cho biết, “một số cuộc đối thoại nhận thấy rằng những giáo huấn này đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi bối cảnh lịch sử của chúng, và gợi ý rằng Giáo hội Công giáo nên tìm kiếm những cách diễn đạt và từ vựng mới trung thành với ý định ban đầu nhưng được tích hợp vào nền giáo hội học cộng đồng và thích nghi với nền văn hóa và bối cảnh đại kết hiện nay.”
Khuyến nghị thứ hai kêu gọi “một sự phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của Giám mục Rôma, đặc biệt giữa sứ vụ tối thượng của ngài trong việc xây dựng sự hiệp nhất và hiệp thông giữa các giáo hội, cả Tây phương và Đông phương, có thể mở rộng ý tưởng này để xem xét làm thế nào các Giáo hội Tây phương khác có thể coi Giám mục Rôma là tối thượng trong khi bản thân Giám mục Rôma có quyền tự chủ nhất định”. Nó cho biết cũng cần phải phân biệt các trách nhiệm thượng phụ, tối thượng và chính trị của giáo hoàng.
Nó gợi ý rằng “việc nhấn mạnh hơn đến việc thực thi sứ vụ của Giáo hoàng trong Giáo hội đặc biệt của ngài, giáo phận Rôma, sẽ làm nổi bật sứ vụ giám mục mà ngài chia sẻ với các giám mục anh em của mình, và đổi mới hình ảnh của giáo hoàng”.
Khuyến nghị thứ ba đề xuất “sự phát triển tính hiệp hành trong Giáo hội Công giáo”, nhấn mạnh việc này cũng sẽ góp phần như thế nào vào cam kết đại kết của Giáo hội. Nó xác định các lĩnh vực cần có tính hiệp hành lớn hơn trong Giáo hội Công giáo, đặc biệt là liên quan đến “thẩm quyền của các hội đồng giám mục Công giáo quốc gia và khu vực, mối quan hệ của họ với Thượng Hội đồng Giám mục và với Giáo triều Rôma”. Nó kêu gọi sự tham gia sâu sắc hơn của “toàn thể dân Chúa vào tiến trình thượng hội đồng”.
Khuyến nghị thứ tư kêu gọi “thúc đẩy ‘hòa giải công đồng’” thông qua các cuộc gặp gỡ thường xuyên, cũng như hành động và chứng tá chung giữa các nhà lãnh đạo giáo hội trên khắp thế giới.
Trong cuộc họp báo ngày 13.6.2024, Đức Hồng y Mario Grech đã “hoan nghênh” tài liệu nghiên cứu này và nói rằng nó được đưa ra vào thời điểm thích hợp, vì vấn đề này nằm trong chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng. Ngài nhắc lại rằng trong bài phát biểu nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh “sự cần thiết và cấp bách” đối với “một sự hoán cải triều đại giáo hoàng”. Ngài nhấn mạnh rằng “Giáo hoàng không...ở trên Giáo hội; nhưng trong đó với tư cách là một trong những người đã được rửa tội, và trong Giám mục đoàn với tư cách là Giám mục giữa các Giám mục, đồng thời được kêu gọi… lãnh đạo Giáo hội Rôma, là giáo hội chủ trì trong tình bác ái trên tất cả các Giáo hội.”
Trong bài phát biểu đó, Đức Phanxicô cũng lưu ý rằng “cam kết xây dựng một Giáo hội hiệp hành có ý nghĩa đại kết quan trọng” và rằng tính hiệp hành có thể chiếu sáng “một ánh sáng lớn hơn…về việc thực thi Quyền tối thượng của Phêrô”.
Đức Hồng y Grech trích dẫn báo cáo tổng hợp của Thượng Hội đồng, trong đó nói rằng “sứ vụ Phêrô của Giám mục Rôma là nội tại của năng động Thượng hội đồng, cũng như khía cạnh cộng đồng bao gồm toàn thể Dân Chúa và chiều kích tập thể của việc thực thi sứ vụ Giám mục. Do đó, tính hiệp hành, tính hiệp đoàn và quyền tối thượng liên quan đến nhau: quyền tối thượng bao hàm việc thực thi tính hiệp hành và tính hiệp đoàn, giống như cả hai đều bao hàm việc thực thi quyền tối thượng”.
Ngài cho biết Thượng Hội đồng nhấn mạnh rằng “ở đây cần có cái nhìn sâu sắc hơn về cách hiểu mới về hàng Giám mục trong một Giáo hội có tính hiệp hành ảnh hưởng đến sứ vụ của Giám mục Rôma và vai trò của Giáo triều Rôma như thế nào”.
Tài liệu đề xuất việc “đọc một cách đổi mới” các bản văn nói về thừa tác vụ Phêrô, điều mà trong lịch sử đã trở thành một trở ngại cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu và chỉ ra rằng quyền tối thượng của Giám mục Roma vừa là một “thể chế về quyền thánh thiêng” vừa là quyền con người.
Tài liệu kết thúc với một đề xuất từ Bộ, xác định những đề xuất quan trọng nhất được đưa ra “cho việc thực hiện một cách đổi mới thừa tác vụ hiệp nhất của Giám mục Roma”, được tất cả các Kitô hữu thừa nhận.
Một cơ hội để suy tư và tranh luận
Giới thiệu tài liệu, Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, Kurt Koch, nhấn mạnh rằng tài liệu “là kết quả của gần ba năm làm việc đại kết và hiệp hành” và nó tóm tắt khoảng 30 câu trả lời cho thông điệp Ut unum sint và 50 tài liệu đối thoại đại kết. Không chỉ các thành viên của Bộ đã tham gia mà còn có “các chuyên gia Chính thống và Tin lành, phối hợp với Viện Nghiên cứu Đại kết”.
Kết luận quan trọng nhất, như Đức Hồng Y Koch nhấn mạnh, là “tất cả các tài liệu đều nhất trí về việc cần phải phục vụ sự hiệp nhất ở cấp độ phổ quát, mặc dù nền tảng của việc phục vụ này và cách thức thực hiện nó tùy thuộc vào những cách giải thích khác nhau”. Ngài nói: “Không giống như những tranh cãi trong quá khứ, vấn đề về quyền tối thượng không còn được coi là một vấn đề nữa mà còn là một cơ hội để suy tư và tranh luận”.
Cơ hội suy tư chung về bản chất của Giáo hội và sứ mạng của Giáo hội trên thế giới
Kết thúc tài liệu, Bộ Cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu khẳng định rằng thừa tác vụ của Giám mục Roma, “không nên chỉ được coi là một vấn đề, mà còn là một cơ hội để suy tư chung về bản chất của Giáo hội và sứ mạng của Giáo hội trên thế giới”.
Để đạt được mục đích này, họ đề xuất một cách giải thích mới của Giáo hội Công giáo về những giáo huấn của Công đồng Vatican I và “sự phân biệt rõ ràng hơn giữa các trách nhiệm khác nhau của Giám mục Roma”. Họ cũng kêu gọi nhấn mạnh nhiều hơn đến việc thực thi thừa tác vụ của Giáo hoàng trong giáo phận Roma.
Những bước đi mới trong các cuộc đối thoại đại kết
Họ cũng bày tỏ rằng “đã đến lúc phải thực hiện những bước đi mới trong các cuộc đối thoại đại kết” và rằng “cần có sự kết nối tốt hơn giữa các cuộc đối thoại” để tránh sự lặp lại và làm phong phú lẫn nhau. Tương tự như vậy, văn bản nêu bật sự cần thiết phải “làm rõ từ vựng được sử dụng trong các cuộc đối thoại”, đồng thời thúc giục làm rõ ý nghĩa của cụm từ “Giáo hội hoàn vũ”.
Tài liệu cũng có nói rằng “chiều kích hiệp hành của Giáo hội Công giáo rất quan trọng đối với dấn thân đại kết của Giáo hội”, cũng như “việc cải cách giáo triều”, được thúc đẩy bởi tông hiến Praedicate Evangelium.
Điều răn “Chớ giết người” là nguyên tắc cơ bản hướng dẫn mọi người có lương tâm ngay thẳng
Trong tuyên bố, Hội đồng Giám mục Ba Lan nói: “Trước áp lực ngày càng tăng ở nơi công cộng và trước các hành động của chính phủ nhằm thay đổi sự bảo vệ hợp pháp đối với sự sống con người theo hướng hợp pháp hóa việc giết hại trẻ em trong bụng mẹ, các giám mục nhắc lại quan điểm rõ ràng và bất di bất dịch của Giáo hội về vấn đề này”.
Các ngài nói rõ rằng “bất kỳ hình thức cố ý nào hủy diệt sự sống con người, kể cả sự sống của một bào thai, đều không phù hợp với luật tự nhiên và đức tin Công giáo”. Theo nghĩa đó, các ngài khẳng định rằng điều răn “Chớ giết người” là “một nguyên tắc cơ bản của con người cần hướng dẫn mọi người có lương tâm ngay thẳng”.
Vì vậy, các Giám mục “đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ đến lương tâm không chỉ của các tín hữu, mà còn của tất cả những người có thiện chí, kiên quyết phản đối những nỗ lực hợp pháp hóa việc phá thai và hành động dứt khoát để thúc đẩy việc bảo vệ sự sống”.
Điều khoản lương tâm của các nhân viên y tế
Các ngài tái khẳng định: “Sự sống con người là một giá trị tối thượng. Vì vậy, không ai được nhân danh tự do cá nhân để có quyền quyết định về sự sống của người khác. Các bác sĩ, nhân viên y tế và dược sĩ cũng không nên bị buộc phải giết thai nhi, người già và người bệnh, vi phạm quyền giữ lại điều khoản lương tâm của họ”.
Sự quan tâm không ngừng đối với phúc lợi của trẻ em
Hội đồng Giám mục Ba Lan cảm ơn những người mẹ và người cha “đã phục vụ sự sống với tình yêu và bảo vệ con cái của họ ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất khi họ làm chứng rằng niềm vui, vẻ đẹp và sự cao cả của tình mẫu tử và tình phụ tử là sự quan tâm không ngừng đối với phúc lợi của trẻ em, bất kể hoàn cảnh nào”.
Các Giám mục nhắc lại rằng “Giáo hội cung cấp mọi sự giúp đỡ và hỗ trợ có thể và áp dụng các hành động cụ thể để bảo vệ tất cả trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực”
Cuộc họp được tổ chức bởi Phái đoàn Thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc và Quỹ “Caritas in Veritate” tập trung vào đề tài “Với giá nào? Hướng tới việc bãi bỏ mang thai hộ: ngăn chặn việc bóc lột và biến phụ nữ và trẻ em thành hàng hóa”.
Lên tiếng tại cuộc họp, bà Gambino cho rằng mang thai hộ thể hiện sự vi phạm nghiêm trọng phẩm giá và quyền của phụ nữ và trẻ em, cộng đồng quốc tế phải cảm thấy được kêu gọi suy nghĩ về tính cấp bách của việc đưa ra lệnh cấm tuyệt đối đối với thực hành này, như mong muốn của Đức Thánh Cha được thể hiện trong bài phát biểu đầu năm gửi tới ngoại giao đoàn cạnh Toà Thánh.
Bà giải thích mục đích của cuộc họp là để phản ánh tính cấp bách của phản ứng quốc tế đối với hiện tượng mang thai hộ. Mọi người nhận thức rằng, thực tế “du lịch sinh sản” là do thiếu hoà hợp các quy định của nhà nước liên quan đến việc mang thai hộ, và đó là nguyên nhân đưa đến việc bóc lột phụ nữ và trẻ em xuyên quốc gia. Đối với bà Gambino cần phải thúc đẩy một cam kết chung để đảm bảo bảo vệ toàn cầu phẩm giá và quyền con người của các chủ thể liên quan.
Trích dẫn Tuyên bố gần đây Dignitas Infinita của Bộ Giáo lý Đức tin, Phó Tổng Thư ký đã nhấn mạnh rằng mọi trẻ em đều có quyền “có nguồn gốc con người đầy đủ và đón nhận hồng ân sự sống thể hiện phẩm giá của người cho và người nhận”. Bà cũng nhắc lại không phải mọi phương pháp sinh đều hợp pháp và không được viện lý “quyền có con” để biện minh cho bất kỳ hoạt động sinh con.
Liên hiệp Tin lành Luther thế giới được thành lập cách đây 77 năm (1947) và hiện quy tụ 140 Giáo hội thành viên tại 78 nước, với tổng cộng 74 triệu tín hữu.
Phái đoàn do vị Chủ tịch mới của Liên hiệp làm trưởng đoàn, đó là Đức giám mục Henri Stubkjaer, người Đan Mạch làm trưởng đoàn, và vị tổng thư ký là nữ mục sư Anne Burghardt, người Đức.
Ngỏ lời trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh cha nhắc đến dịp kỷ niệm 1.700 năm Công đồng chung Nicea, năm 325, mừng vào năm tới, công đồng này tạo nên một mối liên hệ đại kết với trung tâm là Chúa Kitô. Ngay từ trước khi kết thúc Công đồng chung Vatican II, hồi năm 1965, các tín hữu Công giáo và Luther tại Mỹ, trong cuộc gặp gỡ ở thành phố Baltimore, đã cùng nêu chứng tá chung và khẳng định rằng: “kinh Tin Kính tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Chúa Con, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, tiếp tục cam đoan với chúng ta rằng chúng ta thực sự được cứu chuộc; vì chỉ có Đấng là Thiên Chúa mới có thể cứu chuộc chúng ta” (The Status of the Nicene Creed as Dogma of the Church, 7-7-1965).
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Chúa Kitô là con tim của phong trào đại kết. Ngài là hiện thân lòng Chúa Thương Xót, và sứ mạng đại kết của chúng ta, là làm chứng về lòng thương xót ấy. Trong tuyên ngôn chung về đạo lý ơn công chính hóa, các tín hữu Luther và Công giáo biểu lộ đối tượng chung là “Tuyên xưng Chúa Kitô trong mọi sự, là Đấng duy nhất chúng ta đặt mọi tín thác, vì Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất (Xc 1 Tm, 2.5-6). Qua Người, Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Linh, ban chính thân mình và đổ tràn các hồng ân của Ngài để đổi mới mọi sự” (n.18).
Cụ thể rất ít người ở Hong Kong, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam nói rằng tôn giáo “rất quan trọng” trong cuộc sống của họ hoặc cầu nguyện hàng ngày.
Cuộc khảo sát cũng cho thấy mặc dù không coi tôn giáo như một phần thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, nhưng nhiều người vẫn tham gia và tin vào các hoạt động tôn giáo như thờ cúng tổ tiên.
Ở Đài Loan, 11% người trưởng thành nói tôn giáo rất quan trọng đối với họ, nhưng 87% tin vào nghiệp báo, 36% nói rằng họ đã từng được tổ tiên viếng thăm và 34% nói đã từng thực hành thiền.
Tại Nhật Bản, 70% số người được hỏi cho biết đã dâng thức ăn, nước uống để bày tỏ lòng tôn kính như một phần tín ngưỡng hoặc truyền thống của họ. Con số này ở Việt Nam là 86%.
Việc thờ kính tổ tiên truyền thống trong khu vực được diễn tả qua việc thăm viếng, thắp hương, cúng tại các nghĩa trang hoặc bàn thờ tổ tiên. 50% người trưởng thành không theo tôn giáo nào và đa số là Phật tử nói rằng trong năm qua, họ đã thắp hương cho tổ tiên.
Có ít Kitô hữu tham gia vào các hoạt động này hơn các nhóm còn lại tại các quốc gia được khảo sát, ngoại trừ Việt Nam. Tại Việt Nam, khoảng 86% Kitô hữu cho biết trong năm qua đã thắp hương và 81% đã cắm hoa hoặc thắp nến tưởng nhớ tổ tiên.
Cuộc khảo sát cũng phân tích việc thay đổi tôn giáo khác. Nhiều người Đông Á nói họ được nuôi dưỡng theo một tôn giáo trong thời thơ ấu và hiện không theo tôn giáo nào cả. Nhưng xu hướng này ít phổ biến ở Việt Nam. Ví dụ, 15% người trưởng thành ở Hong Kong nói họ được nuôi dạy theo Kitô giáo nhưng giờ đây không thực hành. Trong khi đó, 14% người trưởng thành ở Hàn Quốc và Nhật Bản cho biết họ được nuôi dưỡng theo Phật giáo nhưng hiện không theo tôn giáo nào.
Trung tâm Nghiên cứu Pew chỉ ra rằng tỷ lệ chuyển đổi tôn giáo ở Đông Á (từ 32% tại Nhật Bản đến 53% tại Hong Kong và Hàn Quốc) cao hơn so với nhiều nơi khác. Ví dụ, trong các cuộc khảo sát trước đây về tôn giáo trên khắp châu Á kể từ năm 2019, chỉ có tỷ lệ chuyển đổi tôn giáo của Singapore (35%) mới đạt mức tỷ lệ được thấy ở các xã hội Đông Á.
Trong số các tân linh mục vừa nói, hai phần ba thuộc các giáo phận và phần còn lại thuộc các dòng tu và các cộng đồng, phong trào của Giáo hội. Ví dụ, có chín tân linh mục thuộc Cộng đoàn thánh Martin. Trong số hơn 90 giáo phận ở Pháp, hai giáo phận có số tân linh mục đông nhất, là Paris và Fréjus-Toulon.
Trong cuộc họp báo, hôm 19 tháng Sáu vừa qua, Đức cha Bertrand Lacombe, Tổng giám mục Giáo phận Auch, thuộc Hội đồng các thừa tác viên thánh chức và Chủ tịch Hội đồng toàn quốc về phó tế, cho biết các giám mục Pháp đang suy tư và nghiên cứu về những sáng kiến trong các giáo phận để khơi dậy và cổ võ ơn gọi. Đức cha cũng nhắc nhở về sứ mạng thiết yếu của các linh mục trong Giáo hội và ý nghĩa sứ vụ này ngày nay, giữa lòng một xã hội Pháp ngày càng bị tục hóa.
Trong số 67 triệu dân cư ở Pháp, khoảng một nửa còn xưng mình là tín hữu Công giáo. Tuy nhiên, số tín hữu thực hành đạo, - theo báo chí - chỉ có 2%; số linh mục và tu sĩ giảm sút nhiều từ những thập niên qua.
Từ lâu, trong Giáo hội này có sự tranh chấp về nghi lễ thánh lễ, nhưng rồi Hội đồng của Giáo hội này, là cơ quan điều hành Giáo hội, đã quyết định dứt khoát về cách cử hành, theo đó trong phần đầu lễ và cuối lễ, linh mục quay xuống giáo dân, còn phần Phụng vụ Thánh Thể, với nghi thức truyền phép, linh mục quay lên bàn thờ.
34 giáo phận của Giáo hội Syro Malabar đã chấp nhận quyết định trên đây, ngoại trừ tại Tổng giáo phận Ernakulam-Angamaly, là giáo phận lớn nhất, thì còn vấn đề: hơn 300 linh mục chống đối, bất tuân lệnh của thẩm quyền Giáo hội. Trong gần ba năm qua, nhiều cố gắng hòa giải đều không thành công, kể cả những lời nhắn nhủ tha thiết của Đức Thánh cha qua một sứ điệp Video và trong buổi tiếp kiến ngày 13 tháng Năm năm 2024, dành cho phái đoàn do Đức tân Tổng giám mục Trưởng Raphael Thattil hướng dẫn, và gồm có sáu giám mục, một số linh mục, cùng với giáo dân từ Ấn Độ.
Mới đây, các vị lãnh đạo Giáo hội Công giáo Syro Malabar bên Ấn Độ ra lệnh tối hậu cho các linh mục bất tuân chỉ thị của Hội đồng Giáo hội về việc cử hành thánh lễ.
Trong thư chung, công bố hôm mùng 09 tháng Sáu vừa qua, và được đọc trong các nhà thờ giáo xứ ở địa phương, hôm Chúa nhật, ngày 16 tháng Sáu sau đó, Đức Tổng giám mục Trưởng và Đức cha Bosco Puthur, Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Ernakulam, khẳng định rằng sau ngày 03 tháng Bảy sắp tới, tín hữu Công giáo nào tham dự thánh lễ Syro Malabar, không theo cơ cấu đã được Hội đồng Giáo hội chấp thuận, thì không chu toàn giới răn dự lễ Chúa nhật. Và từ ngày 03 tháng Bảy, những linh mục nào không tuân hành kỷ luật phụng vụ trong thời gian đó sẽ bị cấm không được thi hành thừa tác vụ linh mục nữa và bị đối xử như những người rời bỏ tình hiệp thông của Giáo hội Công giáo. Những linh mục ấy không thể cử hành thánh lễ”.
Tuy có lệnh trên đây, nhưng hôm Chúa nhật, ngày 16 tháng Sáu vừa qua, tại 321 nhà thờ thuộc giáo phận, linh mục và giáo dân đã từ chối đọc thư của các vị giám mục hữu trách. Có những người thuộc nhóm nổi loạn đã xé thư chung, đốt hoặc quăng xuống nước hoặc ném vào thùng rác.
Giờ đây, người ta chờ đợi biện pháp kỷ luật của giáo quyền, sau hạn tối hậu ngày 03 tháng Bảy tới đây.
Hôm 20 tháng Sáu vừa qua, hãng tin Công giáo Á châu đưa tin: Giáo hội Công giáo Syro Malabar bên Ấn Độ đã tìm được một giải pháp dung hòa để giải quyết những tranh chấp về phụng vụ.
Từ lâu, trong Giáo hội này có sự tranh chấp về nghi lễ thánh lễ, nhưng Hội đồng của Giáo hội này, là cơ quan điều hành Giáo hội, đã quyết định dứt khoát về cách cử hành, theo đó trong phần đầu lễ và cuối lễ, linh mục quay xuống giáo dân, còn phần Phụng vụ Thánh Thể, với nghi thức truyền phép, linh mục quay lên bàn thờ.
34 giáo phận của Giáo hội Syro Malabar đã chấp nhận quyết định trên đây, ngoại trừ tại Tổng giáo phận Ernakulam-Angamaly, là giáo phận lớn nhất, hàng trăm linh mục không chấp nhận.
Trong thư chung, công bố hôm mùng 09 tháng Sáu vừa qua, và được đọc trong các nhà thờ giáo xứ ở địa phương, hôm Chúa nhật 16 tháng Sáu vừa rồi, Đức Tổng giám mục Trưởng và Đức cha Bosco Puthur, Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Ernakulam, khẳng định rằng sau ngày 03 tháng Bảy sắp tới, tín hữu Công giáo nào tham dự thánh lễ Syro Malabar, không theo cơ cấu đã được Hội đồng Giáo hội chấp thuận, thì không chu toàn giới răn dự lễ Chúa nhật. Và cũng từ ngày 03 tháng Bảy, những linh mục nào không tuân hành kỷ luật phụng vụ trong thời gian đó, sẽ bị cấm không được thi hành thừa tác vụ linh mục nữa và bị đối xử như những người rời bỏ tình hiệp thông của Giáo hội Công giáo. Những linh mục ấy không thể cử hành thánh lễ nữa”.
Tuy có lệnh trên đây, trong một cuộc họp, khoảng 300 linh mục tuyên bố sẽ tiếp tục cử hành thánh lễ, quay xuống giáo dân, sau ngày 03 tháng Bảy.
Nay, hãng tin Ucan cho biết, có hy vọng giải quyết tranh chấp này, theo đó vào những ngày thường, các linh mục có thể cử hành thánh lễ theo nghi thức cũ, nhưng thánh lễ Chúa nhật trong các giáo xứ, thì phải cử hành theo nghi thức đã được Hội đồng của Giáo hội chấp thuận. Linh mục nào đi ngược với quy định này sẽ bị phạt theo giáo luật.
Một lãnh tụ nhóm linh mục chống đối tuyên bố rằng lời thỉnh cầu của chúng tôi đã được chấp nhận.
Theo Ucan, quyết định trên đây đang chờ sự chấp thuận của Tòa Thánh.
Sáng ngày 21 tháng Sáu, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến Đức Tổng giám mục Leopoldo Girelli, Sứ thần Tòa Thánh tại Ấn Độ và Népal. Có thể buổi tiếp kiến này có liên hệ tới vấn đề của Giáo hội Công giáo Syro Malabar.
Tiểu bang Louisiana của Mỹ áp đặt “Mười điều răn” trong các trường học
Ngày thứ tư 19 tháng 6, tiểu bang Louisiana đã đặt “Mười điều răn” vào trong các lớp học, khơi dậy cuộc tranh luận về sự tách biệt giữa Giáo hội và Nhà nước. Louisiana là bang bảo thủ ở miền nam Hoa Kỳ.
Louisiana là tiểu bang đầu tiên đặt “Mười Điều Răn” vào trong các lớp học.
Ông Jeff Landry, thống đốc đảng Cộng hòa của Louisiana đã ký thành luật một dự luật quy định việc đặt Mười điều răn trong các trường do tiểu bang tài trợ từ mẫu giáo đến đại học bắt đầu từ năm tới. Ông nói trong lễ ký kết: “Nếu chúng ta muốn tôn trọng pháp quyền thì chúng ta phải bắt đầu từ luật gốc, luật của ông Môsê.”
Hiển thị trên áp phích hoặc trong khung
Luật quy định Mười điều răn phải được hiển thị trên các áp phích hoặc trong một “khung đủ lớn và có phông chữ phù hợp để có thể đọc được”.
Ngay lập tức, Tổ chức bảo vệ các quyền tự do ACLU nói họ sẽ đưa vấn đề này ra tòa: “Luật này vi phạm sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước và rõ ràng là vi hiến.”
Lần đầu tiên ở Hoa Kỳ
Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ cấm việc thành lập một tôn giáo quốc gia hoặc cấm ưu tiên tôn giáo này hơn tôn giáo khác.
Các bang bảo thủ khác trong “khuôn viên Kinh thánh” ở miền nam Hoa Kỳ đã cố gắng áp dụng các biện pháp tương tự, nhưng đây là lần đầu tiên một bang đưa ra thành luật.
Giáo phận San Diego phải đối diện với khoảng 450 vụ kiện cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên của các linh mục, tu sĩ và giáo dân trong giáo phận, hôm nay hồng y McElroy thông báo giáo phận sẽ nạp đơn xin phá sản lần thứ hai.
Thông báo này đưa ra 16 tháng sau khi hồng y cho biết giáo phận đang xem xét công việc này. Trong thư ngày 13 tháng 6, hồng y viết: “Trong năm qua, giáo phận đã tổ chức các cuộc nói chuyện với các luật sư đại diện cho các nạn nhân bị lạm dụng, tôi phối hợp với ban lãnh đạo Giáo phận đã đi đến kết luận, đây là thời điểm chính thức đi vào giai đoạn phá sản và tiếp tục bàn thảo quá trình phá sản.”
Ngài giải thích việc phá sản mang lại con đường tốt nhất cho giáo phận: “Vừa bồi thường công bằng cho nạn nhân bị lạm dụng tình dục, vừa tiếp tục sứ mệnh giáo dục, phục vụ mục vụ và đến với người nghèo, với những người bị gạt ra ngoài lề xã hội của giáo hội. Việc nạp đơn xin phá sản là để có được sự công bằng giữa các yêu cầu bồi thường khác nhau của các nạn nhân, thành lập một quỹ để bồi thường cho nạn nhân bị lạm dụng tình dục trong quá khứ, giải quyết việc phá sản, chịu trách nhiệm pháp lý với họ và hướng làm việc trong tương lai.”
Bất chấp những thách thức, hồng y McElroy nói rõ: “Giáo hội phải chịu trách nhiệm. Khi chúng ta vượt qua quá trình khó khăn này trong năm tới, điều quan trọng là tất cả chúng ta phải nhớ đó là sự thất bại về mặt đạo đức của những người trực tiếp lạm dụng trẻ em và thanh thiếu niên, cũng như sự thất bại về mặt đạo đức to lớn không kém của những người đã phân công, đã không cảnh giác dẫn đến những vết thương tâm lý và tinh thần vẫn còn làm tan nát trái tim và tâm hồn của rất nhiều người trong chúng ta.”
Ngài nói thêm: “Những bước tiến to lớn mà chúng ta đã thực hiện trong 20 năm qua để bảo vệ trẻ vị thành niên trong Giáo hội và hơn thế nữa không thể bắt đầu với việc giảm nhẹ trách nhiệm đạo đức to lớn mà tôi, với tư cách là giám mục của anh chị em, và toàn bộ cộng đồng công giáo tiếp tục gánh chịu.”
Phía các luật sư của các nạn nhân cho rằng việc nạp đơn xin phá sản là để tránh việc bồi thường công bằng cho các nạn nhân lạm dụng tình dục trẻ em. Luật sư Irwin Zalkin của Công ty Luật Zalkin cho biết: “Sau gần một năm hòa giải, chúng tôi hy vọng các trẻ em nạn nhân sống sót sau vụ lạm dụng tình dục, giáo phận và công ty bảo hiểm của giáo phận sẽ có thể có được thỏa thuận giải quyết và đồng ý lập kế hoạch bồi thường qua vụ phá sản không thể tránh khỏi của giáo phận đã công bố khoảng một năm trước. Rõ ràng các giáo phận công giáo và các công ty bảo hiểm đã áp dụng chiến lược sử dụng các vụ phá sản để giải quyết các vụ lạm dụng tình dục trẻ em, giảm tiền bồi thường trả cho người sống sót và tước bỏ quyền xét xử của họ. Những nỗ lực này là lạm dụng hệ thống phá sản.”
Khoảng 450 vụ kiện chống lại giáo phận San Diego bắt nguồn từ luật AB 218 của California năm 2019 loại bỏ thời hiệu với bất kỳ khiếu nại nào về lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trong ba năm, kể từ ngày 1 tháng 12 năm 2020 đến ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Sau khi nộp đơn xin phá sản năm 2007, giáo phận đã phải trả 198 triệu đô la để giải quyết 144 khiếu nại về lạm dụng, trước đó hồng y McElroy đã nói vụ này đã làm cạn kiệt phần lớn tài sản của giáo phận. Những tuyên bố này được thúc đẩy bởi việc dỡ bỏ thời hiệu của bang California. Nếu những con số trong các vụ kiện hiện tại tương tự như những con số của năm 2007, thì khoản chi trả của giáo phận cho những người sống sót có thể vào khoảng 500-600 triệu đô la.
Trong thư ngày 13 tháng 6, hồng y McElroy cho biết, dù chỉ có giáo phận nạp đơn xin phá sản nhưng các giáo xứ của giáo phận và các trường trung học sẽ phải “đóng góp đáng kể vào việc giải quyết để có giải pháp cuối cùng cho trách nhiệm pháp lý mà họ phải đối diện”.
Giáo phận San Diego là giáo phận thứ sáu ở California nạp đơn xin phá sản.
Gần đây nhất là giáo phận Fresno đã nạp đơn xin phá sản tháng trước khi phải đối diện với 154 vụ kiện lạm dụng tình dục trẻ em. Bốn giáo phận khác ở California đã xin phá sản là tổng giáo phận San Francisco, và các giáo phận Sacramento và Oakland.
The Roman Catholic Diocese of San Diego Pastoral Center
Đó là giáo phận San Diego, giáo phận thứ bảy tại bang California, nại đến biện pháp này, sau khi nghị viện tiểu bang mở cửa trong vòng ba năm, để nạn nhân các vụ lạm dụng xảy ra trong quá khứ và hết thời hiệu, để tố giác các vụ đó, nay cũng có thể nạp đơn kiện.
Hồi tháng Hai năm nay, Đức Hồng y Robert McElroy, giám mục sở tại đã thông báo rằng giáo phận đang cứu xét biện pháp đăng ký phá sản, đứng trước những phí tổn pháp luật để đáp lại 400 vụ kiện mới tại bang này, sau khi Nghị viện tiểu bang mở cửa trong vòng ba năm, để nạn nhân các vụ lạm dụng xảy ra trong quá khứ và hết thời hiệu hầu tố giác các vụ đó, nay cũng có thể nạp đơn kiện. Đức Hồng y cũng nói rằng các vị hữu trách của Giáo phận San Diego đã dành mười sáu tháng qua để duyệt lại những vụ kiện lạm dụng và đi đến kết luận rằng đây là lúc nạp đơn chính thức để khai phá sản. Việc đăng ký này là cần thiết để Giáo hội có thể tiếp tục sứ vụ giáo dục, mục vụ và tìm đến với những người nghèo, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Đức Hồng y McElroy nhắc lại rằng giáo phận đã phải trả những món tiền lớn cho những vụ kiện lạm dụng tính dục, từ sau vụ khai phá sản hồi năm 2007.
Hồi đầu tháng Sáu này, Giáo phận Fresno, cũng thuộc bang California đã khai phá sản và trên toàn bang này, có khoảng 3.000 vụ kiện chống các tổ chức Công giáo.
Sau khi cứu xét và chấp nhận đơn khai phá sản, Tòa án đặc biệt sẽ quản lý tài sản của giáo phận, và sau khi chi cho các nhu cầu chính đáng của giáo phận, số tiền còn lại mới được chia cho các nạn nhân các vụ lạm dụng.
San Diego là giáo phận Công giáo thứ 40 ở Mỹ khai phá sản. Cho đến nay, đã có 24 trường hợp kết thúc. Trên toàn nước Mỹ có 198 giáo phận.
Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò đã bị buộc tội ly giáo và được triệu tập để xét xử tại Bộ Giáo lý Đức tin. Để đáp lại cáo buộc nghiêm trọng đó, ngài đã đưa ra một phản ứng kích động – gọi Vatican II là một “bệnh ung thư”, “Bergoglio” là bất hợp pháp – và từ chối trả lời lệnh triệu tập. Vatican đã cho ngài thời hạn đến Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu, để trả lời, bằng văn bản hoặc đích thân đến Tòa Thánh, nếu không ngài “sẽ bị xét xử vắng mặt”.
Dưới đây là năm cân nhắc về các vấn đề phức tạp đang diễn ra.
“Chúng tôi cũng kêu cầu những nước tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh, Thụy Sĩ và Ucraina, hãy làm sáng tỏ điều này là: dưới hình thức nào đã coi Tòa Thượng phụ là người đã ký tên vào tuyên ngôn. Thêm vào đó, chúng tôi nhấn mạnh rằng chính sách của nhà nước Thổ Nhĩ Kỳ về quy chế của Tòa Thượng phụ chung không thay đổi.
Trong tuần qua, theo lời thỉnh cầu của Ucraina, Thụy Sĩ đã tổ chức Hội nghị về hòa bình. Trong số những vị đến tham dự, có Tổng thống Pháp và Ucraina, Phó Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Đức, Chủ tịch Ủy ban hành pháp của Liên hiệp Âu châu, Thủ tướng Áo, v.v. Ngoài Đức Thượng phụ Bartolomaios, cũng có Đức Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, nhân vật thứ hai tại Vatican.
Trong số những điều được khẳng định trong tuyên ngôn chung kết của Hội nghị, có vấn đề an ninh của các trung tâm năng lượng hạt nhân ở Ucraina, bảo vệ các tàu hàng và các cảng dân sự chống lại các cuộc tấn công, việc trao đổi tù binh chiến tranh và hồi hương các trẻ em Ucraina bị bắt đưa sang Nga... Có 83 nước đã ký vào tuyên ngôn chung. Đức Thượng phụ Bartolomaios và Đức Hồng y Parolin, tuy ca ngợi Tuyên ngôn nhưng không ký vào văn kiện này. Đức Hồng y Parolin chỉ tham dự chính thức với tư cách là quan sát viên.
Tuy nhiên, sau đó, ngày 18 tháng Sáu, Đức Thượng phụ Chính thống đã ký tuyên ngôn chung. Ngay từ đầu, ban tổ chức đã minh định rằng không phải chỉ có các quốc gia, nhưng cả các tổ chức khác cũng có thể ký vào Tuyên ngôn ấy.
Hãng tin Công giáo Áo nhận định rằng phản ứng của Bộ Ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy rõ vai trò tế nhị của Tòa Thượng phụ Chính thống chung trong các vấn đề quốc tế. Theo quan điểm pháp lý của Thổ Nhĩ Kỳ, Đức Thượng phụ ở Istanbul chỉ là thủ lãnh tinh thần của các tín hữu Chính thống còn lại ở Istanbul, tức là khoảng 4.500 người, chứ không phải là Thượng phụ chung có một tầm quan trọng và qui chế rộng lớn trên thế giới.
Trong thực tế, Đức Thượng phụ Bartolomaios được coi là Giáo chủ danh dự của toàn Chính thống giáo, đồng thời có quyền tài phán trên các cộng đoàn Chính thống thuộc quyền của ngài tại nhiều quốc gia. Nhà nước Thổ bắt buộc vị Thượng phụ Chính thống tại đây phải là người có quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ.
Theo Đức Phanxicô, trí tuệ nhân tạo sẽ đóng một vai trò lớn trong vận mệnh nhân loại: “Sự phát triển hoàn toàn của trí tuệ nhân tạo có thể đồng nghĩa với sự kết thúc loài người.” Trong buổi tiếp kiến ngày 22 tháng 6 năm 2024, với những thành viên dự hội nghị về trí tuệ nhân tạo, ngài trích dẫn lời của nhà vật lý Stephen Hawking (1942-2018) về trí tuệ nhân tạo trong một phỏng vấn cũ của BBC với nhà vật lý Stephen Hawking (1942-2018).
Hội nghị mang tên “Trí tuệ nhân tạo và mô hình kỹ trị: làm thế nào để thúc đẩy hạnh phúc nhân loại, chăm sóc thiên nhiên và một thế giới hòa bình” được Quỹ Centesimus Annus Pro Pontifice tổ chức. Những người tham dự tranh luận tại học viện giáo phụ Augustinianum từ ngày 20 tháng 6.
Trong hội nghị, Đức Phanxicô nhắc trí tuệ nhân tạo là chủ đề trọng tâm vì nó “làm gián đoạn nền kinh tế và xã hội và có thể có những tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống, mối quan hệ giữa con người và giữa các quốc gia, sự ổn định quốc tế và ngôi nhà chung”.
Với các thuật toán đạo đức
Phù hợp với Thông điệp hòa bình ngày 1 tháng 1 và sự can thiệp gần đây của ngài tại Hội nghị G7 ngày 14 tháng 6. Một lần nữa ngài tố cáo nguy cơ hy sinh quyền tự do con người cho “quyền của kỹ trị”: “Chúng ta có chắc chắn muốn tiếp tục gọi cái không phải là trí thông minh là ‘trí thông minh’ không?”, ngài tố cáo việc dùng từ ngữ không đúng mức. Đặc biệt ngài nhắc lại tầm quan trọng của “sự phát triển đạo đức của các thuật toán”, trí tuệ nhân tạo vẫn phải là “công cụ trong tay con người”, không thoát khỏi sự kiểm soát của con người.
Xác định giới hạn của sự đổi mới
Ngài xin các nhà khoa học, luật sư, những người ra quyết định chính trị và kinh tế cùng làm việc với nhau để cùng nhau xác định các giới hạn đặt ra cho sự đổi mới nếu nó đi ngược lại nhân loại. Đặc biệt ngài kêu gọi “các quy định hiệu quả, vừa kích thích đổi mới đạo đức hữu ích cho sự tiến bộ nhân loại, vừa ngăn cấm hoặc hạn chế những tác động không mong muốn”.
Ngài cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của những thách thức đạo đức của trí tuệ nhân tạo trong lãnh vực giáo dục, triết học và luật pháp, đồng thời kêu gọi suy ngẫm về hậu quả của AI đối với công việc và chi tiêu năng lượng trên thế giới. Ngài nhấn mạnh: “Chính nhờ sự đổi mới công nghệ mà tương lai của nền kinh tế, văn minh, của chính nhân loại sẽ được định hình”.
Theo Tự sắc, công bố hôm 25 tháng Sáu vừa qua, mang tựa đề “Fratello Sole”, Anh mặt trời, hệ thống sản xuất năng lượng mặt trời sẽ được thiết lập ở khu đất Santa Maria di Galeria, rộng 440.000 hécta, gấp 10 lần quốc gia thành Vatican, và cách Vatican khoảng 20 cây số, vốn là nơi đặt các ăngten phát thanh của đài Vatican.
Tự sắc này nhắm thực hiện cụ thể điều đã được Đức Thánh cha nói đến trong thông điệp Laudato sì, về việc bảo vệ trái đất như căn nhà chung của nhân loại. Thông điệp này phản ánh những lời báo động về sự hâm nóng trái đất, trong đó một trong những nguyên nhân là sự sử dụng các nhiên liệu phiến thạch. Quyết định trên đây của Đức Thánh cha sẽ góp phần vào nỗ lực của mọi quốc gia, theo khả năng của mỗi nước, mang lại một câu trả lời thích hợp cho các thách đố đang được đề ra cho nhân loại và căn nhà chung, do sự thay đổi khí hậu”.
Trong tự sắc, Đức Thánh cha ủy thác cho Đức Hồng y Fernando Vérgez Alzaga, Thống đốc Quốc gia thành Vatican, cùng với Đức Tổng giám mục Giordano Piccinoti, Chủ tịch cơ quan quản trị tài sản của Tòa Thánh, gọi tắt là APSA, việc kiến thiết trung tâm năng lượng mặt trời ở Santa Maria di Galeria. Đức Thánh cha cũng yêu cầu Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh làm sao để không gì bị mất mát trên lãnh thổ vừa nói, điều đã được đặt cho Tòa Thánh sử dụng cho đến nay”.
Trong số các tân linh mục vừa nói, hai phần ba thuộc các giáo phận và phần còn lại thuộc các dòng tu và các cộng đồng, phong trào của Giáo hội. Ví dụ, có chín tân linh mục thuộc Cộng đoàn thánh Martin. Trong số hơn 90 giáo phận ở Pháp, hai giáo phận có số tân linh mục đông nhất, là Paris và Fréjus-Toulon.
Trong cuộc họp báo, hôm 19 tháng Sáu vừa qua, Đức cha Bertrand Lacombe, Tổng giám mục Giáo phận Auch, thuộc Hội đồng các thừa tác viên thánh chức và Chủ tịch Hội đồng toàn quốc về phó tế, cho biết các giám mục Pháp đang suy tư và nghiên cứu về những sáng kiến trong các giáo phận để khơi dậy và cổ võ ơn gọi. Đức cha cũng nhắc nhở về sứ mạng thiết yếu của các linh mục trong Giáo hội và ý nghĩa sứ vụ này ngày nay, giữa lòng một xã hội Pháp ngày càng bị tục hóa.
Trong số 67 triệu dân cư ở Pháp, khoảng một nửa còn xưng mình là tín hữu Công giáo. Tuy nhiên, số tín hữu thực hành đạo, - theo báo chí - chỉ có 2%; số linh mục và tu sĩ giảm sút nhiều từ những thập niên qua.
Năm 2024, hơn một trăm chủng sinh trẻ sẽ được chịu chức, tăng 20% so với năm 2023. Tin vui chỉ trong một thời gian ngắn, nhưng thật đáng chú ý: năm 2024 sẽ có 105 linh mục được chịu chức ở Pháp. Năm 2023 chỉ có 88, năm 2022 có 114; năm 2021 có 99, năm 2020 có 81. Trong khoảng mười năm, số lượng linh mục chịu chức xê xích từ 80 đến 100 linh mục mỗi năm.
Ngày thứ tư 19 tháng 6, tổng giám mục Bertrand Lacombe giáo phận Auch, cựu giám mục phụ tá giáo phận Bordeaux phụ trách phong chức cho các tân linh mục bình luận về sự gia tăng, ngài tránh nói đây là một chiến thắng: “Chúng tôi rất vui khi vượt qua con số 100, nhưng đây không phải là điều quan trọng, điều quan trọng nhất là giới trẻ đã dự phần.”
Vì không có gì là hiển nhiên. Với thời gian, số thanh niên trẻ quyết định vào chủng viện đang liên tục giảm, đến mức tin tức đã không tiết lộ số liệu của năm 2023 mà theo một số giám mục cho là “đáng lo ngại”. Năm 2020 có 815 chủng sinh, năm 2022 có 709 chủng sinh. Hội đồng giám mục nhận thấy sự gia tăng số linh mục chịu chức năm nay tương ứng với sự gia tăng được thấy trong những năm 2017 và 2018.
Một gia tăng không kéo dài. Từ hai mươi năm nay, số linh mục chịu chức đã giảm 50%. Năm 2019, hai chủng viện quan trọng là Lille và Bordeaux đã phải đóng cửa. Ngay cả giáo phận Paris nơi từ lâu có nhiều ơn gọi nhờ hồng y Lustiger, nhưng năm nay chỉ có 6 linh mục chịu chức ngày 29 tháng 6, trong số này có hai linh mục thuộc cộng đoàn Emmanuel và Canh tân đặc sủng.
Giáo phận nhỏ Meaux (Seine-et-Marne), dưới sự lãnh đạo của giám mục Jean-Yves Nahmias sẽ phong chức cho ba tân linh mục, trong đó có chủng sinh Jason Nioka, người Pháp gốc Phi, cựu vô địch judo quốc gia, anh nói về ngày chịu chức 23 tháng 6: “Đây là sự kiện giáo phận đã không thấy từ 10 năm nay. Không có công thức kỳ diệu nào để có thêm linh mục, ngoại trừ lời cầu nguyện của giáo dân.”
Tân linh mục Jason Nioka đặc biệt nhớ ơn thân mẫu: “Lúc tôi 14 tuổi, bà đã nhét quyển Kinh Thánh vào hành lý của tôi, lúc đó tôi đi học thể thao xa nhà. Một bài đọc luôn giúp tôi trong các lần thi đấu để có bình an nội tâm sâu đậm. Tôi cảm nhận bình an này trong chuyến hành hương Lộ Đức với gia đình, một cảm nhận mà niềm vui thể thao chưa bao giờ có thể cho tôi. Vào một buổi sáng buồn bã sau một trận thua, mẹ dứt khoát nói với tôi: Jason, judo sẽ không đem con lên thiên đàng!”
Từ từ và mãnh liệt, Jason đã chín chắn trong quyết định của anh: “Chúa sẽ chiếm vị trí đầu tiên trong cuộc đời tôi.” Sẽ không bao giờ có linh mục nếu không có tấm gương của các linh mục trên con đường của anh: “Tôi xin cám ơn sự dấn thân của các linh mục! Nếu không có họ, tôi sẽ không thể chọn con đường này!”
Tổng giám mục Lacombe nói: “Thế giới cần các linh mục, với bất kỳ phát triển quan trọng nào của Giáo hội, không thể hình dung Giáo hội không có linh mục. Chúng ta cần các linh mục! Cái gì hiếm thì đắt và các phong chức này mang lại giá trị lớn lao cho Giáo hội.”
Tổng giám mục Lacombe được đào tạo về quản lý nhân sự, lẽ ra ngài sẽ làm việc trong ngành này nhưng bây giờ ngài đứng đầu một giáo phận nông thôn, nơi một nửa trong số 40 linh mục đã trên 75 tuổi. Ngài nói: “Vấn đề cơ bản là số lượng các gia đình công giáo và tín hữu kitô, vì ơn gọi liên quan trực tiếp đến số lượng này. Đó là một tỷ lệ, và tỷ lệ tín hữu kitô và ơn gọi không thay đổi. Không có tín hữu kitô thì không có linh mục.”
Ngài nhận ra khó khăn mà các giám mục gặp phải khi kêu gọi giới trẻ dấn thân: “Chúng tôi có thể dám kêu gọi các ông đã lập gia đình làm phó tế vĩnh viễn bằng cách đến gặp họ, nhưng chúng tôi ngần ngại hơn với công việc bạn trẻ (…) vì chúng tôi cảm thấy rụt rè, cảm thấy có một mong manh nào đó của tuổi trẻ.”
Vẫn còn một hỏi khó có câu trả lời: “Vì sao cộng đồng này lại có nhiều ơn gọi hơn các cộng đồng khác!”
Bức tranh khảm của Marko Rupnik ở Nhà nguyện Redemptoris Mater, Dinh tông tòa Vatican.
Câu trả lời được đưa ra tại một hội nghị ở Atlanta, khi bộ trưởng Bộ Truyền thông Paolo Ruffini đến tham dự hội nghị của Liên đoàn Truyền thông Công giáo tổ chức ngày thứ sáu 21 tháng 6, được hỏi về việc vẫn còn các bức tranh khảm của Marko Rupnik tại các nơi chính thức của Vatican. Linh mục Marko Rupnik người Slovenia nổi tiếng đã bị loại khỏi Dòng Tên tháng 7 năm 2023, ông bị hàng chục phụ nữ tố cáo ông hiếp dâm, đụng chạm và khống chế trong các sinh hoạt tâm linh.
Bộ trưởng Ruffini nói trên trang America: “Loại bỏ, xóa đi, phá hủy nghệ thuật không bao giờ là một lựa chọn tốt.” Ông chờ phán quyết của bộ Giáo lý Đức tin vào cuối phiên tòa đang diễn ra để đưa ra quyết định: “Chúng ta đang nói về những vấn đề mà chúng ta không biết. Tôi là ai để có thể đánh giá về chuyện này của linh mục Rupnik? Tôi nghĩ với tư cách là tín hữu kitô, chúng ta hiểu sự gần gũi với các nạn nhân là điều quan trọng, nhưng tôi không biết liệu việc xóa các tác phẩm nghệ thuật của Rupnik có phải là một cách để đến gần họ hơn hay không.”
Những bình luận này được đưa ra khi ở Pháp, thánh đường Lộ Đức phải sớm đưa ra quyết định về các bức tranh của Marko Rupnik trang trí cho vương cung thánh đường Đức Mẹ Mân Côi. Nhưng một cách rộng hơn, việc này cũng tiết lộ một trạng thái tư duy của người la-mã, vì tại Rôma, các bức tranh này có mặt khắp nơi. Rôma có không dưới 43 nhà nguyện hoặc nhà thờ trang trí với các tranh của linh mục do xưởng Aletti của ông sản xuất. Đó là 1/5 trong số 231 tác phẩm của Rupnik trên khắp thế giới.
Ở trung tâm của Vatican
Các bức tranh khảm được trưng bày trong nhà nguyện Redemptoris Mater, dinh tông tòa, khánh thành năm 1999 dưới thời Đức Gioan-Phaolô II, lúc đó các tranh này được mô tả là “công trình vĩ đại” giao thoa giữa truyền thống phương Đông và phương Tây. Đây là hành lang dành cho khách được giáo hoàng tiếp kiến đi qua để đến gặp ngài, các bức tường vẽ các cảnh trong Kinh Thánh. Nhà nguyện của thánh bộ Phụng thờ Thiên Chúa và Các kỷ luật bí tích cũng được trang trí với các bức tranh khảm nổi tiếng từ năm 2005.
Những nơi khác ở Rôma cũng trưng bày không kém phần quan trọng các tác phẩm này, đó là nhà nguyện của đại chủng viện giáo hoàng ở Rôma. Kể từ năm 2021, nơi cầu nguyện chính của các linh mục tương lai ở Rôma được trang hoàng với các bức tranh này. Vào dịp này, các bức khảm cũ được chính Đức Phaolô VI khánh thành năm 1965 đã biến mất, bây giờ bị ẩn giấu đằng sau một vách ngăn được dựng lên để nhường chỗ cho những bức tranh của Rupnik. Bao phủ toàn bộ các bức tường, từ sàn đến trần, các bức vẽ này trải rộng trên diện tích 1.700 mét vuông với các cảnh trong Cựu Ước và Tân Ước, với các màu chính là đỏ, cam và vàng.
Tại Chủng viện Pháp
Nhiều cơ quan trong giáo triều, nhiều nhà dòng trên thế giới đã nhờ linh mục Rupnik trang trí như Dòng Tên, Dòng Thánh Mẫu hay dòng các nữ tu Thánh Tâm Chúa Giêsu. Các chủng sinh Pháp đang học ở Rôma ngắm các tranh này trong nhà nguyện, trong phòng ăn của họ. Các Giáo hoàng Học viện, các phòng khám đa khoa, các giáo xứ cũng có các bức tranh này và danh sách còn dài.
Một hồng y của giáo triều bực mình: “Chúng tôi sẽ không loại bỏ các tác phẩm này, không có lý do gì để làm như vậy. Quý vị tưởng tượng nếu chúng tôi làm việc này với các tranh của Michelangelo không?” Một lập luận chúng ta thường thấy với các tác phẩm của danh họa Caravaggio, bị buộc tội là kẻ giết người và bị một số người buộc tội ông là kẻ ấu dâm. Hai tài liệu tham khảo được bộ trưởng Ruffini nhắc đến ở Atlanta.
Lộ Đức sẽ sớm đưa ra quyết định
Trong dịp kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra, mặt tiền thánh đường Đức Mẹ Mân Côi trang trí bằng các bức tranh khảm khổng lồ về các mầu nhiệm của Kinh Mân Côi được đặt hàng từ xưởng của Marko Rupnik.
Mùa xuân năm 2023, các bức khảm này là chủ đề của việc bàn luận nên giữ nguyên vị trí, loại bỏ hoặc che giấu vì Lộ Đức được cho là nơi an ủi cho các nạn nhân của bạo lực tình dục trong Giáo hội. Các giám mục, các viện trưởng, nạn nhân, chuyên gia về nghệ thuật thiêng liêng và nhà trị liệu tâm lý đã thành lập ủy ban nghiên cứu. Quyết định này dự kiến sẽ sớm được công bố. Giám mục Jean-Marc Micas đã gặp Đức Phanxicô ngày 21 tháng 6 tại Rôma nhưng không biết vấn đề này có được đem ra thảo luận hay không.
Hôm 24 tháng Sáu vừa qua, Hãng tin Công giáo Đức KNA cho biết trong một thư chung gửi Thủ tướng Israel Netanyahu, nhiều vị lãnh đạo Kitô tố giác “một cuộc tấn công có phối hợp chống lại sự hiện diện của Kitô giáo tại Thánh địa. Chiến dịch này đạt tới mức độ chưa từng có.”
Trong số các vị ký tên vào thư chung đó, có Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa, Đức Thượng phụ Theophilos III, Giáo chủ Chính thống Hy Lạp ở Jerusalem. Các vị khẳng định quyền về mặt lịch sử và pháp lý cũng như những thỏa thuận hiện hữu. Chính quyền các thành phố ở Israel đã vi phạm quy luật gọi là “Status quo” đã có từ lâu, điều hành sự hiện hữu và hoạt động của các Giáo hội Kitô tại Thánh địa, theo đó các tài sản của Giáo hội được miễn các thuế thành phố từ thời Ottoman cũng như miễn thuế cho các dịch vụ xã hội do các Giáo hội cung cấp. Giáo hội đầu tư vào các tổ chức, như vườn trẻ, trường học, các nhà dưỡng lão và nhà thương để mưu ích cho xã hội nói chung, vì thế Giáo hội bổ túc cho các công việc của nhà nước.
Đức Hồng y Thượng phụ Pizzaballa và các vị lãnh đạo Kitô khác mô tả thời điểm tăng thuế của các chính quyền thành phố là điều gây sốc. Các Giáo hội đang ở trong thời kỳ kinh tế khó khăn, tám tháng rồi không có các tín hữu hành hương và đang sống trong tình trạng bấp bênh. “Thay vì kiên nhẫn, cảm thông, hiệp nhất trong việc cầu nguyện và hy vọng, thì các biện pháp tăng thuế được đưa ra với những đe dọa.
Thư của các vị lãnh đạo Kitô cũng nhắc đến vụ leo thang tranh chấp hồi năm 2018, khi các Giáo hội đóng cửa Đền thờ Thánh Mộ ba ngày để phản đối yêu cầu của Israel và hành động tương tự như thế đã xảy kể từ khi lập quốc Israel, hồi năm 1948. Một ủy ban đã được thiết lập hồi đó để giải quyết trong việc đối thoại với các Giáo hội. Nay các Giáo hội cũng hy vọng vấn đề này được giải quyết, chính quyền thành Jerusalem thu hồi quyết định đánh thuế và duy trì Qui chế Status quo, để tránh cuộc khủng hoảng đáng tiếc với các Giáo hội.
Trọng tâm của Giáo hội Công giáo tập trung vào phần mộ Thánh Phêrô, nơi ngay sau khi vị Tông đồ cả qua đời đã thu hút khách hành hương và tín hữu. Theo thời gian, ký ức về Thánh nhân đã trở thành trọng tâm thu hút của Đền thờ, nơi với cuộc nghiên cứu khảo cổ do Đức Giáo Hoàng Piô XII và sau đó là Thánh Giáo hoàng Phaolô VI mong muốn, đã trở thành một sự hiển nhiên cụ thể.
Qua Vatican News, Giáo sư Viện Khảo cổ Kitô của Toà Thánh Vincenzo Fiocchi Nicolai ôn lại những sự kiện của những khám phá này, một trong những sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử khảo cổ học. Nhân vật chính của cuộc khám phá này là bà Marguerita Guarducci, giáo sư khảo cổ chuyên đọc các chữ vạch trên tường.
Từ đỉnh mái vòm của Michelangelo, một sợi dây vô hình đi thẳng xuống và xuyên qua ánh sáng, chìm trong bóng tối dưới lòng đất, bao trùm hàng thế kỷ lịch sử và các giai đoạn xây dựng. Ở phía dưới, trên nền đất trống là nơi có hài cốt Thánh Phêrô, cách không xa nơi Thánh nhân chịu tử đạo trong khu vực giải trí của Nero. Thánh Phêrô được chôn cất tại nghĩa trang Ager Vaticanus giữa nhiều người vô danh và nghèo khổ như ngài. Không có dấu hiệu nào được lưu giữ trong kho lưu trữ của Đế quốc La Mã liên quan đến tội nhân người Galilê tầm thường này. Tuy nhiên, ký ức thì mạnh mẽ hơn, các Kitô hữu đã giữ dấu vết của địa điểm cực kỳ linh thiêng này, một địa điểm hành hương từ gần hai thiên niên kỷ qua.
Qua nhiều thế kỷ, xung quanh phần mộ, một ngôi thánh đường được hình thành. Đây là trường hợp duy nhất trong thế giới Kitô giáo: thánh đường được xây dựng trực tiếp trên mộ của vị tử đạo, và trong trường hợp này là Thánh Phêrô, Giám mục tiên khởi của Giáo hội Roma.
Ngôi mộ Thánh Phêrô là một câu chuyện phức tạp. Theo thời gian, ký ức trở thành niềm xác tín, cho đến năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã quyết định tiến hành các cuộc khảo cổ, mặc dù điều kiện khách quan không thuận tiện.
Tìm được mộ phần của Thánh Phêrô
Trong sứ điệp phát thanh ngày 23/12/1950, dịp bế mạc Năm Thánh, khi công bố mộ Thánh Phêrô đã được tìm thấy, Đức Giáo Hoàng Piô XII nói: “Nhưng câu hỏi thiết yếu là: Mộ của Thánh Phêrô có thực sự được tìm thấy không? Kết luận cuối cùng của công việc và nghiên cứu trả lời câu hỏi này rất rõ ràng là ‘Có’. Mộ của Hoàng tử các Tông đồ đã được tìm thấy”.
Giáo sư Vincenzo Fiocchi Nicolai cho biết về sự kiện quan trọng này: “Sự hiện diện của mộ Thánh Phêrô được chứng minh dựa trên nhiều yếu tố. Bởi vì ngay bên dưới bàn thờ của cuối thế kỷ XVI, người ta đã tìm thấy: ngoài một bàn thờ thời trung cổ, có quan tài bằng cẩm thạch rất đẹp do Constantine thực hiện để chỉ ra rằng có một ngôi mộ được tìm thấy bên dưới. Ngôi mộ này giống với những ngôi mộ khác có niên đại từ những thập kỷ cuối của thế kỷ I và bắt đầu thế kỷ thứ II sau Công Nguyên. Trên cơ sở này và những yếu tố khác, như những nét vẽ trên tường chứng thực đây là mộ phần của vị Tông đồ”.
Khám thờ của Gaio
Trong hoạt động khai quật này, giáo sư Fiocchi Nicolai cũng đề cập đến một khám thờ của Gaio. Đó là một công trình kiến trúc nhỏ dưới hình thức một nhà nguyện nhỏ, với các hàng cột, trong đó chứa hài cốt của Thánh Phêrô. Theo giáo sư, những khám thờ này là những yếu tố mang tính khải hoàn và chiến thắng đánh dấu ngôi mộ vị Tông đồ tử đạo. Vì thế có thể xác định niên đại của công trình này dựa trên đoạn văn của Eusebio đặt Gaio vào thời của Giáo hoàng Zefirino, khoảng thời gian từ năm 198 đến 217. Trên cơ sở khảo cổ học, toà nhà này đã hiện diện trong thời điểm đó, và có thể xác định niên đại của nó vào khoảng những năm 60 của thế kỷ thứ II. Chắc chắn đây chính là nơi đánh dấu ngôi mộ.
Những nét vẽ trên tường xác thực “Phêrô ở đây”
Cũng trong sứ điệp phát thanh ngày 23/12/1950, sau khi công bố mộ Thánh Phêrô đã được tìm thấy, Đức Giáo Hoàng Piô XII tiếp tục giải thích rằng không thể khẳng định các xương được tìm thấy cùng với nhiều xương khác ở nghĩa địa của thế kỷ thứ nhất này thuộc về Thánh Phêrô.
Từ đó bắt đầu một trong những sự kiện thu hút mọi người nhất trong lịch sử khảo cổ học và nhân vật chính là một phụ nữ, sinh vào đầu thế kỷ XX, một nhà khảo cổ học Margherita Guarducci.
Là một chuyên gia về các dòng chữ do bàn tay con người tạo ra, bà Margherita Guarducci đã nghiên cứu nhiều câu khắc được tìm thấy trên các bức tường của khám thờ Gaio Khải hoàn, có niên đại từ năm 160. Theo bà, những nét vẽ trên tường rất quan trọng vì chúng thể hiện lòng mộ đạo của các tín hữu tiên khởi khi đến đây để tôn vinh ký ức về vị Giáo hoàng tiên khởi.
Giáo sư Guarducci giải thích trên những hình vẽ trên tường màu đỏ có thể thấy những mảnh với các câu khắc khác nhau, trong số đó có “Petros eni”, trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Phêrô ở đây” hoặc “Phêrô yên nghỉ”.
Tìm được hài cốt của Thánh Phêrô
Trong quá trình khai quật, gần dòng chữ này các chuyên gia tìm được một chiếc hộp bằng đá porphyry được trang trí quý giá, được đặt vào một cái lỗ đào trên bức tường của khám thờ Gaio, nhưng bên trong không có gì.
Bà Margherita Guarducci tiến hành một cuộc điều tra bí mật và đã thu hồi được những mảnh xương qua lời khai của một trong những người đã tham gia vào cuộc khai quật trong những năm đầu tiên khám phá. Người này cho biết trong quá trình dọn dẹp, có một hộp gỗ trong đó có những mảnh xương đã được lấy đi nhưng những nhà khảo cổ không biết. Những mảnh xương này được xác định là của một người đàn ông có độ tuổi từ 60 đến 70, sống và làm việc ngoài trời nhiều, với chứng bệnh khớp.
Công bố tin vui
Trong buổi tiếp kiến chung ngày 26/6/1968, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI nhắc lại các cuộc thẩm tra và nghiên cứu trước đó đồng thời nhấn mạnh rằng “Việc nghiên cứu, xác minh và thảo luận sẽ không kết thúc với điều này”, đã công bố “tin vui”: “Chúng ta càng phải vui mừng hơn vì chúng ta có lý do để tin rằng chúng ta đã tìm thấy tung tích phàm trần nhỏ bé nhưng rất thánh của Hoàng tử các Tông đồ, của Simon con ông Giôna, của người đánh cá được Chúa Kitô gọi là Phêrô, của người đã được Chúa Chúa Kitô chọn là nền móng của Giáo hội, người được Chúa giao phó chìa khóa vương quốc Người, với sứ vụ chăn dắt và hiệp nhất đàn chiên Người, nhân loại được cứu chuộc, cho đến ngày Người trở lại vinh hiển”.
Từ các thánh tích được đặt trong phần mộ dưới Đền thờ Thánh Phêrô, Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã lấy 9 mảnh để đặt trong nhà nguyện trong căn hộ Giáo hoàng ở dinh Tông tòa. Trong Thánh lễ bế mạc Năm Đức Tin vào ngày 24/11/2013, theo ý muốn của Đức Thánh Cha Phanxicô, tại sân Đền thờ Thánh Phêrô hộp thánh tích này được mở ra và đặt bên cạnh bàn thờ.
Thánh tích được trao tặng, một biểu tượng hiệp nhất
Ngày 29/6/2019, khi phái đoàn của Toà Thượng Phụ Bartolomaios của Giáo hội Chính thống Constantinople đến thăm Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tặng các mảnh xương Thánh Phêrô cho Đức Thượng Phụ. Trong thư gửi đến vị lãnh đạo Giáo hội Chính thống này, Đức Thánh Cha viết: “Các xương được tìm thấy dưới đền thờ Vatican được xem là xương của thánh Phêrô”. Tôi muốn tặng cho ngài và cho Giáo hội Constantinople mà ngài tận tâm lãnh đạo, chính cái hộp có chứa 9 mảnh xương của thánh Tông đồ này”.
Giải thích cho cử chỉ này, Đức Thánh Cha nói khi ngài suy tư về quyết định chung tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn của Giáo hội, ngài nhớ đến món quà mà Đức Thượng Phụ Athenagoras đã tặng cho Thánh Phaolô VI. Đó là bức vẽ hai Thánh Phêrô và Anrê đang ôm nhau, liên kết trong đức tin và tình yêu của Chúa của các ngài. Đức Thánh Cha cảm thấy thật là ý nghĩa khi vài mảnh thánh tích của Thánh Phêrô được đặt bên cạnh thánh tích của thánh Anrê, thánh bổn mạng của Giáo hội Chính thống Constantinople.
Cử chỉ được Chúa Thánh Thần soi sáng, được Đức Thánh Cha xem như là lời khẳng định về hành trình mà các Giáo hội cùng đi với nhau, trong một phúc lành, trong cầu nguyện chung, để tiến đến gần nhau hơn, để phục vụ cho một gia đình nhân loại mà ngày nay đang muốn xây dựng một tương lai không có Thiên Chúa.
Một sợi chỉ không bị đứt đoạn
Khảo cổ học là một ngành khoa học dựa trên những bằng chứng rõ ràng, nhưng chính những suy luận thường có khả năng tái tạo lịch sử. Trong trường hợp của phần mộ và xương của Thánh Phêrô, những yếu tố hội tụ xung quanh khu vực bàn thờ tuyên xưng đức tin tái khôi phục một bức tranh sự thật, bởi vì ngoài những dấu vết xác định được, điều quyết định là đức tin. Đức tin được phân tầng qua nhiều thế kỷ của hàng ngàn tín hữu hành hương, các Giáo hoàng và các thánh, những người đã cùng nhau dệt nên sợi dây ký ức và không bị đứt đoạn.
Kể từ những năm 1980, mọi người đã có thể tiếp cận các cuộc khai quật của Đền thờ Thánh Phêrô, mang đến cho các tín hữu một cuộc hành hương thực sự ngày càng gần với thời tiên khởi của Giáo hội.
Hôm 27 tháng Sáu vừa qua, Hội đồng Giám mục Đức công bố thống kê cho biết con số trên đây, tính đến ngày 31 tháng Mười Hai năm ngoái. Con số này thấp hơn năm trước đó. Năm 2022, có gần 523.000 người Công giáo rời bỏ Giáo hội, một con số kỷ lục trong lịch sử Giáo hội tại nước này. Nếu tính cả con số những tín hữu qua đời, và gia nhập Giáo hội, thì trong năm qua, Giáo hội Công giáo Đức suy giảm gần 592.000 tín hữu, và tổng số tín hữu Công giáo tại nước này là 20 triệu 345.000 tín hữu. Nếu tính từ năm 2019, là năm bắt đầu Con đường Công nghị của Công giáo Đức, thì đã có một triệu 800.000 tín hữu xin ra khỏi Giáo hội.
Giáo hội Công giáo Đức trong năm ngoái, có 11.702 linh mục, tức là giảm 285 linh mục so với năm 2022 trước đó. Trong năm ngoái, có 38 tân linh mục, gồm 34 linh mục triều và 4 linh mục dòng. Tỷ lệ giáo dân tham dự các buổi lễ ở nhà thờ có phần gia tăng so với năm trước đó, tức là 6,2%, so với 5,7%.
Về phía Tin lành: năm ngoái có 380.000 tín hữu rời bỏ Giáo hội, và số người qua đời là 340.000 người. Tỷ lệ Tin lành xin ra khỏi Giáo hội năm ngoái tăng gần 2% so với năm 2022. Như vậy, tính đến cuối năm ngoái, tại Đức, có 18 triệu 600.000 tín hữu thuộc 20 Giáo hội tiểu bang.
Đứng trước những con số của Giáo hội Công giáo, Đức cha Georg Bätzing báo động và nói rằng: “Những dữ kiện đó cho thấy Giáo hội lâm vào trong một cuộc khủng hoảng sâu rộng. Tuy nhiên, cam chịu, co cụm hoặc lo lắng không phải là câu trả lời cho tình trạng đó. Dù trở nên nhỏ bé hơn, Giáo hội vẫn có sứ mạng loan báo Tin mừng, loan báo Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo và giải thoát. Giáo hội cần cấp thiết cải tổ để phục hồi sự tin tưởng của các tín hữu nơi khả năng thay đổi của Giáo hội. Nguyên các cuộc cải tổ mà thôi, vẫn không đủ đề loại bỏ tình trạng khủng hoảng của Giáo hội, nhưng những cuộc khủng hoảng sẽ trở nên trầm trọng hơn, nếu Giáo hội không cải tổ. Vì thế, cần cấp thiết thay đổi. Các nghiên cứu cho thấy rằng dân ở Đức trước sau vẫn đặt nhiều mong đợi nơi Giáo hội, trong lãnh vực xã hội hoặc giáo dục. Chúng ta phải để ý đến những mong đợi và để ý đến các lãnh vực, khi chúng ta tự hỏi đâu là những ưu tiên chúng ta cần thực hiện, một khi các tài nguyên trở nên ít ỏi hơn”.
Đức cha Bätzing cổ võ nghiên cứu những lãnh vực tương lai, đưa Giáo hội đến gần hơn cuộc sống cụ thể của con người và các gia đình.
Như một phần của cuộc giằng co đang diễn ra với các Giám mục Đức về con đường cải cách gây tranh cãi của đất nước, Vatican đã yêu cầu thực hiện một số thay đổi đối với cơ quan Giáo hội quốc gia mới mà các quan chức Giáo triều cho rằng không có nền tảng trong Giáo luật.
Trong một tuyên bố vào ngày 28 tháng 6 sau một ngày làm việc kéo dài với các đại diện của Hội đồng Giám mục Đức (DBK), Vatican cho biết cuộc thảo luận kéo dài cả ngày và “một lần nữa được đặc trưng bởi một bầu khí tích cực, cởi mở và mang tính xây dựng”.
Cuộc thảo luận diễn ra sau một cuộc họp tương tự được tổ chức vào ngày 22 tháng 3, là một phần của cuộc đối thoại sâu rộng hơn bắt đầu vào năm 2022 trong bối cảnh của một cuộc tham vấn quốc gia của các tín hữu Công giáo Đức được gọi là “Con đường Công nghị”, và sau khi các quan chức trong DBK phớt lờ những cảnh báo của Vatican về việc ngừng và hủy bỏ một số dự án nhất định.
Trong cuộc họp vào tháng 3, Vatican đã vạch ra một đường lối cứng rắn, yêu cầu các Giám mục Đức cam kết tôn trọng Giáo luật và trao cho Tòa Thánh tiếng nói cuối cùng về bất kỳ cải cách nào được đề xuất.
Vatican cho biết lời hứa này là nền tảng của cuộc gặp gỡ trong ngày.
Cụ thể, tuyên bố cho biết rằng họ đã thảo luận về “các hình thức cụ thể của việc thực thi tính công nghị trong Giáo hội ở Đức, phù hợp với Giáo hội học của Công đồng Vatican II, các quy định của Giáo luật, và thành quả của Thượng Hội đồng của Giáo hội hoàn vũ, để được trình lên Tòa Thánh phê chuẩn”.
Trong cuộc thảo luận hôm thứ Sáu, các Giám mục đã cung cấp cho các quan chức Vatican thông tin cập nhật về cuộc họp gần đây nhất của Ủy ban Thượng hội đồng, một cơ quan gây tranh cãi có nhiệm vụ thành lập một Hội đồng Thượng Hội đồng đang được bàn cãi, được coi là cơ quan quản lý mới của Giáo hội ở Đức bao gồm cả giáo dân lẫn Giám mục.
Về điểm này, “các nền tảng thần học và khả năng hiện thực hóa pháp lý của một cơ quan quốc gia đã được thảo luận”, tuyên bố cho biết.
Cuộc họp hôm thứ Sáu, tuyên bố cho biết, “tập trung vào mối quan hệ giữa việc thực thi thừa tác vụ Giám mục và việc thúc đẩy tính đồng trách nhiệm của mọi tín hữu, và đặc biệt, về các khía cạnh của Giáo luật đối với việc thiết lập một hình thức đồng nghị cụ thể trong Giáo Hội ở Đức”.
“Mong muốn và cam kết tăng cường tính đồng nghị trong đời sống của Giáo hội, nhằm hướng tới việc truyền giáo hiệu quả hơn, được chia sẻ”, tuyên bố cho biết.
Là một phần của cuộc đối thoại đang diễn ra giữa các Giám mục Đức và Vatican, theo tuyên bố, một ủy ban mới sẽ được thành lập bởi Ủy ban Thượng Hội đồng để giải quyết cụ thể “các câu hỏi liên quan đến tính đồng nghị và cơ cấu của một cơ quan đồng nghị”.
Ủy ban này, tuyên bố cho biết, sẽ hợp tác chặt chẽ với một ủy ban tương tự về phía Vatican bao gồm các đại diện từ các văn phòng Giáo triều có thẩm quyền, để đề xuất một dự thảo về chủ đề này.
Theo tuyên bố, hôm thứ Sáu, các quan chức Giáo triều đã yêu cầu các Giám mục Đức “thay đổi tên và trong một số khía cạnh của đề xuất đã được đưa ra trước đó về một cơ quan đồng nghị quốc gia có thể có”.
“Về quan điểm của cơ quan này, có sự nhất trí rằng trên thực tế là nó không ở trên cũng như không ngang hàng với Hội đồng Giám mục quốc gia”, tuyên bố cho biết, đồng thời làm rõ rằng dù cơ quan này nắm giữ bản chất nào đi nữa, nó sẽ không thể bãi bỏ Hội đồng Giám mục.
Hôm thứ Sáu, thành phần tương lai của phái đoàn DBK tham gia vào cuộc đối thoại đang diễn ra với Vatican cũng đã được thảo luận.
Các đại diện của Giáo triều Rôma bao gồm các Đức Hồng y Victor Manuel Fernandéz, Tổng Trưởng Bộ Giáo lý Đức tin; Đức Hồng y Kurt Koch, Tổng Trưởng Thánh Bộ Cổ võ sự Hiệp nhất Kitô giáo; Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Vatican; Đức Hồng y Robert Prevost, Tổng Trưởng Bộ Giám mục; Đức Hồng y Arthur Roche, Tổng Trưởng Bộ Phụng tự; và Đức Tổng Giám mục Filippo Iannone, Tổng Trưởng Bộ các Văn bản Luật.
Về phía Đức, các tham dự viên bao gồm các Đức Giám mục Georg Bätzing Địa phận Limburg; Đức Giám mục Stephan Ackermann Địa phận Trier; Đức Giám mục Bertram Meier Địa phận Augsburg; và Đức Giám mục Franz-Josef Overbeck Địa phận Essen, những người lần lượt giữ các chức vụ là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, và Chủ tịch các Ủy ban Giám mục về Phụng vụ, về Giáo hội Hoàn vũ và về Đức tin.
Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Đức, bà Beate Gilles; và phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Đức, ông Matthias Kopp, cũng có mặt.
Cuộc họp hôm thứ Sáu diễn ra sau khi Vatican hồi đầu năm nay đưa ra chỉ thị cho các Giám mục Đức tạm dừng cuộc bỏ phiếu về các quy chế của Ủy ban Thượng Hội đồng và đe dọa hành động Giáo luật nếu họ không tuân thủ.
Là một phần của Đại hội đồng từ ngày 19-22 tháng 2 tại Augsburg, khoảng 60 thành viên của DBK tham dự đã được lên kế hoạch để xem xét kết quả của quá trình cải cách “Con đường Công nghị” đã kết thúc gần đây của họ và bỏ phiếu về các quy chế của “Ủy ban Thượng Hội đồng” vốn có nhiệm vụ thành lập một “Hội đồng Thượng Hội đồng” quốc gia mới.
Tuy nhiên, các Giám mục đã ngưng tổ chức bỏ phiếu sau khi nhận được lá thư từ Vatican đe dọa sẽ có các biện pháp trừng phạt nếu họ tiếp tục tiến hành.
Ý tưởng thành lập Hội đồng Thượng Hội đồng, một cơ quan điều hành bao gồm cả các Giám mục lẫn giáo dân sẽ giám sát lâu dài Giáo hội ở Đức, đã được thông qua trong phiên họp toàn thể lần thứ tư của “Con đường Công nghị” của Đức vào tháng 9 năm 2022, với mục đích đưa ra “các quyết định cơ bản có tầm quan trọng cấp Giáo phận”.
Hội nghị đó cũng đã phê chuẩn một “Ủy ban Thượng Hội đồng”, do Đức Giám mục Georg Bätzing Địa phận Limburg, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, đồng chủ trì, và một giáo dân, có nhiệm vụ cụ thể là thành lập Hội đồng Thượng Hội đồng để hoạt động vào năm 2026.
Vào tháng 1 năm ngoái, những người đứng đầu một số cơ quan chính của Vatican đã viết một lá thư cho các Giám mục Đức phủ quyết Hội đồng Thượng Hội đồng với lý do rằng nó tạo thành một hình thức thẩm quyền Giáo hội mới không được công nhận về mặt Giáo luật, và về cơ bản sẽ tiếm quyền của Hội đồng Giám mục quốc gia.
Vào thời điểm đó, các Giám mục Đức đã phớt lờ những lời cảnh báo của Vatican, đồng thời tuyên bố trong hội nghị mùa xuân vào tháng 3 năm 2023 rằng kế hoạch thành lập Ủy ban Thượng Hội đồng vẫn đang được xúc tiến.
Đức Thánh Cha Phanxicô và một số người đứng đầu Thánh Bộ trong Giáo triều Rôma đã nhiều lần can thiệp vào tiến trình Công nghị của các Giám mục Đức, được khởi động với mục đích cải tổ các cơ cấu Giáo hội để ứng phó tốt hơn với các vụ giáo sĩ bê bối lạm dụng trong nước.
Quá trình này nhanh chóng trở thành điểm thu hút các đề xuất chấm dứt tình trạng độc thân Linh mục, cho phép truyền chức Linh mục cho phụ nữ, chấp thuận rộng rãi các phép lành cho các cặp đồng giới, và trao quyền cho phụ nữ cử hành Bí tích rửa tội.
Vào năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết một lá thư gửi các Giám mục Đức cảnh báo rằng quá trình cải cách của họ có nguy cơ làm rạn nứt sự hiệp nhất của giáo hội, và sau đó ngài đã chỉ trích các đề xuất của cả Ủy ban Thượng Hội đồng lẫn Hội đồng Thượng Hội đồng trong một lá thư vào tháng 11 năm 2023 gửi các nhà thần học Đức chỉ trích tiến trình cải cách quốc gia, đồng thời cho biết rằng những cơ quan này “không thể hòa hợp với cơ cấu mang tính Bí tích của Giáo hội”.
Một trong những mối bận tâm chính đối với Hội đồng Thượng Hội đồng là nó sẽ tạo thành một cơ quan quản lý mới của Giáo hội không được Giáo luật công nhận và về cơ bản sẽ tiếm quyền của Hội đồng Giám mục quốc gia.
Một phần quyền hạn của Ủy ban Thượng Hội đồng cho phép họ thông qua các nghị quyết với đa số đơn thuần là 2/3. Chỉ với 23 Giám mục thành viên trong ủy ban, sau khi 4 người từ chối tham gia, hơn một nửa trong số 70 thành viên của cơ quan là giáo dân, có nghĩa là về mặt lý thuyết, các nghị quyết có thể được thông qua mà không cần sự chấp thuận của bất kỳ Giám mục nào trong nước.
Khi các Giám mục Đức đến thăm Vatican trong chuyến viếng thăm Ad limina thường kỳ vào tháng 11 năm 2022, các thành viên của Giáo triều Rôma đã đề xuất một lệnh tạm dừng tiến trình này, tuy nhiên thay vào đó họ đã đồng ý rằng một cuộc đối thoại đang diễn ra sẽ được thiết lập với các cuộc họp thường kỳ.
Cuộc họp đầu tiên diễn ra tại Vatican vào ngày 26 tháng 7 năm 2023 và cuộc thảo luận sâu hơn về các chủ đề cải cách quan trọng đã diễn ra trong phiên họp đầu tiên vào tháng 10 năm 2023 của Thượng Hội đồng Giám mục về Hiệp hành, với phiên họp thứ hai và cuối cùng sẽ diễn ra trong năm nay.
Trong cuộc họp gần đây của họ vào tháng 3, các quan chức Vatican đã vạch ra một đường lối cứng rắn, yêu cầu các Giám mục Đức cam kết rằng bất kỳ cuộc cải cách Giáo hội quốc gia nào cũng sẽ không vi phạm Giáo luật, và sẽ không có biện pháp mới nào được thông qua nếu không có sự chấp thuận trước của Tòa Thánh.
Cuộc gặp gỡ tiếp theo giữa các đại diện của Giáo triều Rôma và các Giám mục Đức sẽ diễn ra sau khi kết thúc phiên họp thứ hai và cuối cùng tại Rôma của Thượng Hội đồng Giám mục về Hiệp hành, dự kiến kéo dài trong suốt tháng 10.
Đức Hồng y Rainer Maria Woelki
Đức Hồng y Woelki đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong sứ điệp Video đăng trên trang mạng Tổng giáo phận của ngài, hôm 29 tháng Sáu vừa qua. Đức Hồng y nhắc lại lá thư dài mười chín trang Đức Thánh cha Phanxicô đã dành một tháng trời, trong những giờ rảnh rỗi, để tự tay viết lấy cách đây đúng năm năm. Nhưng hơn một lần Đức Thánh cha đã than phiền rằng lá thư của ngài không được các tín hữu Công giáo Đức để ý, dù ngài đã lặp đi lặp lại rằng lá thư này là điều ngài xác tín là quan trọng.
Đức Hồng y Woelki nói: “Chúng ta hãy thành thực: ai đã thực sự đọc lá thư này của Đức Giáo hoàng?”
Ngày 29 tháng Sáu năm 2019, Đức Thánh cha đã gửi lá thư “cho dân Chúa lữ hành ở Đức”, trong đó ngài nói đến tiến trình cải tổ mà Con đường Công nghị của Công giáo Đức đề ra, lúc ấy Con đường này còn ở trong giai đoạn hoạch định và nay tiến trình đó kết thúc, và tìm cách thi hành. Một đàng, Đức Thánh cha ca ngợi sự dấn thân và nỗ lực cải tổ của Công giáo Đức, nhưng đồng thời ngài kêu gọi hãy hiệp nhất với Giáo hội hoàn vũ. Thư này đã tạo nên một sự ngạc nhiên trong nội bộ Giáo hội, cả những người chống đối lẫn ủng hộ Con đường Công nghị đều cảm thấy được khích lệ nhờ lá thư, trong đó có Đức Hồng y Woelki.
Những đề nghị do Con đường Công nghị đưa ra cho đến nay đang tạo nên sự tranh chấp giữa các tín hữu Công giáo Đức và Đức Giáo hoàng Phanxicô, như người ta thấy trong cuộc đối thoại vòng ba, hôm thứ Sáu vừa qua, ngày 27 tháng Sáu, giữa các giám mục Đức và các hồng y liên hệ tại Tòa Thánh.
Trong Video mới, Đức Hồng y Woelki nhận định rằng với lá thư cách đây năm năm, Đức Thánh cha mời gọi dấn thân loan báo Tin mừng là sứ mạng cốt yếu của Giáo hội. Đức Hồng y nói: “tôi thiết nghĩ: chúng ta phải lắng nghe và cấp thiết thực thi ước muốn của Đức Thánh cha, quanh chúng ta cũng như trong Giáo hội Công giáo Đức. Chỉ như thế, Giáo hội tại nước này mới có tương lai”.
Cùng hiện diện tại bàn chủ tọa cuộc họp báo, còn có Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Dòng Tên, Tường trình viên của Thượng Hội đồng Giám mục, đồng thời có hai vị Tổng thư ký đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục lần này.
Cộng tác vào việc soạn Tài liệu Làm việc này, có hai mươi nhà thần học nam nữ, từ nhiều nơi trên thế giới, hoạt động từ ngày 04 tháng Sáu vừa qua, dựa trên những suy tư nảy sinh từ bản tường trình đúc kết khóa họp thứ nhất, hồi tháng Mười năm ngoái (2023). Tất cả những tài liệu và phúc trình của các Giáo hội địa phương được gửi về Roma, cả những chứng từ về tính đồng hành, hay hiệp hành, và việc thực thi tinh thần này. Giáo hội đồng hành không còn là một giấc mơ cần thực hiện, nhưng đang là một thực tại sinh động, tạo nên những sáng tạo và những kiểu mẫu tương quan mới giữa lòng Giáo hội địa phương hoặc các nhóm Giáo hội khác nhau.
Mở đầu thư Đức Thượng phụ Bartolomeo viết: “Giữa những biến động và khó khăn của thời đại chúng ta, Thiên Chúa đã ban cho chúng tôi một lần nữa cơ hội để bày tỏ những lời chào huynh đệ của chúng tôi tới Đức Thánh Cha nhân dịp Lễ trọng hai Tông đồ Phêrô và Phaolô, lễ Bổn Mạng của Giáo hội Rôma...”. “Hàng năm, vào ngày này, chúng tôi cảm nhận được sự củng cố của mối dây bác ái đầy phúc lành giữa chúng ta, một mối dây thúc đẩy và truyền cảm hứng cho chúng ta trên con đường hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn”.
Gương mẫu hiệp nhất của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô
Theo Đức Thượng phụ, sự hiệp nhất trong lý trí và con tim của hai thánh Tông đồ “là mẫu mực và kiểu mẫu tuyệt vời về sự hiệp nhất cho tất cả chúng ta”, và mục tiêu của chúng ta phải là chia sẻ đầy đủ “sự hiệp nhất của Thánh Thần trong mối liên kết hòa bình” thông qua việc tái lập sự hiệp thông Thánh Thể.
Hiệp hành
Đức Thượng phụ nhắc đến những nỗ lực của Đức Thánh Cha nhằm củng cố và đào sâu sự hiểu biết thần học và thực tiễn về tính hiệp hành trong đời sống của Giáo hội. Đây cũng là điều Giáo hội Chính Thống Constantinople đã khẳng định trong Thánh Hội đồng được tổ chức tại Crete vào năm 2016.
Đối thoại thần học trong tự do và cởi mở
Ngài cũng nhắc đến kết quả công việc của Ủy ban Quốc tế về Đối thoại Thần học giữa hai Giáo hội, việc khởi đầu quá trình soạn thảo hai tài liệu liên quan đến các vấn đề lịch sử và thần học liên quan đến mệnh đề Filioque (và bởi Chúa Con) trong Kinh Tin Kính và “tính bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng”. Theo ngài, “điều này đánh dấu một bước quan trọng trong Đối thoại, nơi chúng ta có thể tự do và cởi mở tiếp cận các vấn đề đã chia rẽ chúng ta từ lâu, mà bây giờ không cần dùng đến những cuộc bút chiến vô căn cứ và mang tính phá hoại, nhưng cùng nhau tìm kiếm, với lòng khiêm tốn và tình yêu, con đường dẫn đến sự chữa lành và sự thật”.
Chứng tá đối thoại, hòa bình và hòa giải của Đức Thánh Cha
Đức Thượng phụ cũng cảm ơn chứng tá của Đức Thánh Cha như một công cụ đối thoại, hòa bình và hòa giải trên toàn thế giới. Ngài viết: “Trong thời điểm chiến tranh và đau thương này, đặc biệt là ở Ucraina và Trung Đông, Đức Thánh Cha đã tỏa sáng như một người ủng hộ không mệt mỏi cho việc chấm dứt xung đột”. “Đức Thánh Cha là một gương mẫu quý giá của việc rao giảng nhiệt thành về hòa bình ở đây và bây giờ trên toàn thế giới”.
Hướng đến lễ kỷ niệm chung: kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa
Cuối thư, Đức Thượng phụ Bartolomeo tái khẳng định sự dấn thân để tái lập “mối hiệp thông giữa chúng ta”. Ngài cho biết cũng nóng lòng chờ đợi với niềm hân hoan thiêng liêng “về lễ kỷ niệm chung của chúng ta, vào năm 2025, kỷ niệm 1700 năm Công đồng Đại kết đầu tiên được tổ chức tại Nixêa”.
Trong năm 2023, “Đồng tiền thánh Phêrô” quyên góp được là 52 triệu Euro, trong khi số chi là 109 triệu 400.000 Euro, tức là quá gấp đôi. Mức lạc quyên này đã trở lại mức độ gần bằng 54 triệu Euro trước thời đại dịch Covid-19, và tăng thêm 8,5 triệu Euro so với năm 2022.
Số thu cho đồng tiền này đến từ ba cách thức khác nhau: trước tiên là các cuộc lạc quyên tại tất cả các nhà thờ trên thế giới, nhân lễ kính hai thánh tông đồ và được chuyển về Tòa Thánh, qua các Tòa Sứ thần và Khâm sứ Tòa Thánh. Trong năm qua, các giáo phận đã góp phần vào “Đồng tiền thánh Phêrô” là 31,2%, số tiền dâng cúng của các ân nhân riêng là 2,1%, các ngân quỹ giúp Đức Thánh cha là 13,9%, các dòng tu đóng góp 1,2%.
Ba quốc gia đóng góp nhiều nhất là Mỹ, 13,6%, Ý 3,1% và Brazil 1,9%.
Trong năm ngoái, Quỹ “Đồng tiền thánh Phêrô” đã giúp 103 triệu Euro, trong đó có 90 triệu dành cho các hoạt động của Tòa Thánh, 13 triệu để hỗ trợ các dự án trợ giúp trực tiếp cho người nghèo. Những đóng góp đó đến từ số tiền dâng cúng nhận được là 48,4 triệu Euro đến từ các hoạt động kinh tài, từ gia sản của Tòa Thánh, với 3,6 triệu Euro, trong khi phần còn lại 51 triệu Euro lấy từ gia sản “Đồng tiền thánh Phêrô”. Có 80 triệu dành để giúp Ucraina, qua các sáng kiến mục vụ và xã hội, hỗ trợ dân chúng nạn nhân chiến tranh. Trong số các dự án xã hội có “Các bệnh viện mở” ở Syria.
Đức Thánh cha, qua các bộ liên hệ, đã dành khoảng 32 triệu Euro, trong đó có 8 triệu từ “Đồng tiền thánh Phêrô”, cho các hoạt động từ thiện bác ái, cùng với 13 triệu Euro để tài trợ 236 dự án, tổng cộng là 45 triệu Euro cho các hoạt động từ thiện.
Để giữ lịch sự tại nơi cung kính, nhân viên làm việc tại Đền thờ Thánh Phêrô sẽ không được xăm hình hoặc đeo khuyên.
Các quy định mới được công bố vào cuối tuần áp dụng cho khoảng 170 nhân viên giáo dân của Fabbrica di San Pietro, văn phòng phụ trách vương cung thánh đường.
Ngày thứ hai 1 tháng 7, linh mục Enzo Fortunato, giám đốc truyền thông của Đền thờ Thánh Phêrô trả lời hãng tin Reuters, ngài cho biết quy định này đã hệ thống hóa các quy tắc “đã có trong quá khứ dưới một hình thức khác”, ngài cũng phủ nhận tin trên báo chí Ý cho rằng giáo dân chưa lập gia đình sẽ bị cấm làm việc tại đây, đây chỉ là “tin đồn”.
Văn phòng đưa ra các quy định: nhân viên phải có “hành vi tôn giáo và đạo đức mẫu mực, kể cả trong đời sống riêng tư và gia đình, phù hợp với giáo lý của Giáo hội”. Giáo hội dạy quan hệ tình dục giữa các cặp chưa kết hôn là tội và cả những cặp đã đính hôn cũng phải giữ đức khiết tịnh. Đức Phanxicô đã làm cho một số người bảo thủ không bằng lòng khi ngài liên tục nói Giáo hội nên tập trung vào lòng thương xót và tha thứ thay vì thực thi nghiêm ngặt các quy tắc.
Ngày 29 tháng 6, Văn phòng Vatican đã xuất bản Bản lưu ý của Đức Phanxicô về Quy chế và Quy định của Tu nghị Đền thờ Thánh Phêrô.
Tất cả nhân viên phải tuân thủ “sampietrini”, những người chịu trách nhiệm tiếp tân, giám sát, dọn dẹp và bảo trì đền thờ phải chăm sóc bề ngoài để phù hợp với nhu cầu và phong tục của môi trường làm việc. Vì vậy họ phải mặc y phục lịch sự phù hợp với hoạt động, cấm xăm hình lộ rõ trên da và xỏ khuyên.
Ngoài ra, họ phải tuyên xưng đức tin công giáo, sống theo các nguyên tắc của đức tin, phải có giấy chứng nhận kết hôn theo giáo luật, giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức, và chứng minh họ không mắc tội phạm hình sự. Ngoài ra, họ có nghĩa vụ phải tuân thủ nghiêm ngặt tính bảo mật và bí mật giáo hoàng; và nếu không có sự cho phép trước của cấp trên, họ không được trả lời các phỏng vấn.
Thông cáo của Bộ Giáo lý Đức tin cho biết, quyết định được đưa ra tại Đại hội của Bộ, ngày 04/7/2024, kết luận về thủ tục hình sự ngoài tư pháp được đề cập trong Bộ Giáo luật điều 1720, và dựa theo điều 751 và điều 1364 của Bộ Giáo luật, cựu Sứ thần Tòa Thánh bị vạ tuyệt thông vì ly giáo.
Thông cáo tiếp tục: “Những tuyên bố công khai của Tổng Giám Mục Viganò thể hiện việc ngài từ chối công nhận và phục tùng Đức Giáo Hoàng, từ chối hiệp thông với các thành viên của Giáo hội, cũng như tính hợp pháp và huấn quyền của Công đồng Vatican II”.
Thông cáo báo chí lưu ý, quyết định do Bộ Giáo lý Đức tin đưa ra, dựa theo giáo luật khoản 1, điều 1364, vì thế trong trường hợp này việc tha hình phạt chỉ dành riêng cho Tòa Thánh.
Cuối cùng, tuyên bố cho biết: “Quyết định này đã được thông báo tới Tổng Giám Mục Viganò vào ngày 05/7/2024”.
Trong những năm gần đây, nhiều lần cựu Sứ thần Toà Thánh tại Hoa Kỳ đã tuyên bố không công nhận tính hợp pháp của Đức Thánh Cha Phanxicô cũng như của Công đồng Vatican II.
Theo Bộ Giáo luật (điều 1331, khoản 1), cấm người bị vạ tuyệt thông: tham dự cử hành Hiến Tế Thánh Thể và bất cứ nghi lễ phụng vụ nào khác bằng bất cứ cách nào với tư cách là thừa tác viên; cử hành các bí tích hay các á bí tích, và lãnh nhận các bí tích; thi hành các giáo vụ, các thừa tác vụ hay bất cứ nhiệm vụ nào, hoặc thực hiện những công việc lãnh đạo.
Khoản hai của điều 1331 liệt kê những hậu quả xảy ra sau khi việc dứt phép thông công tiền kết được chính thức tuyên bố.
Dứt phép thông công được coi là một hình phạt như “thuốc chữa lành” nhằm kêu gọi người phạm tội ăn năn sám hối. Như vậy, Giáo hội luôn hy vọng người bị vạ tuyệt thông sẽ trở lại với sự hiệp thông.
Archbishop Jean-Claude Hollerich S.J.
Đức Hồng y Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục đã cho biết như trên, hôm mùng 09 tháng Bảy vừa qua, trong cuộc họp báo để công bố Tài liệu Làm việc của khóa II Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, sẽ nhóm vào tháng Mười năm nay, tại Roma.
Văn kiện mới sẽ làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về giáo luật và thần học về một số giáo vụ. Điều này cũng bao gồm cả vấn đề sự tham gia cần thiết của phụ nữ vào đời sống và sự lãnh đạo trong Giáo hội. Bộ Giáo lý đức tin sẽ đối thoại với Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục, trong việc soạn thảo văn kiện này.
Sự loan báo này có phần mới mẻ vì người ta nói nhiều về sự tham gia của
phụ nữ vào đời sống Giáo hội, nhưng nay cũng nói về sự tham gia vào việc lãnh đạo Giáo hội. Tiếp đến, chưa bao giờ Bộ Giáo lý đức tin cộng tác với Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục để soạn một văn kiện chung.
Theo Tài liệu làm việc, trong khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới không có bàn đến việc truyền chức linh mục hay phó tế cho phụ nữ, như một số người ở Đức hy vọng.
Đức Hồng y Jean Claude Hollerich, Tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng Giám mục, giải thích rằng Đức Thánh cha đã quyết định đưa vấn đề phó tế phụ nữ ra khỏi khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới và để cho một trong mười nhóm nghiên cứu đào sâu vấn đề này, một vấn đề không được nhiều Giáo hội trên thế giới muốn đề cập đến.
Vấn đề phó tế phụ nữ trong Giáo hội sơ khai đã được Đức Thánh cha Phanxicô yêu cầu hai ủy ban chuyên gia, nhưng cho đến nay chưa thấy có kết luận nào được công bố.
Đức Hồng y Hollerich nhấn mạnh rằng Giáo hội không phải là một Giáo hội giáo sĩ, nhưng là Giáo hội của những tín hữu đã được chịu phép rửa, người nam cũng như người nữ, được Thiên Chúa kêu gọi loan báo Tin mừng và cùng nhau họp thành Giáo hội. Vì thế, có sự cộng tác và đồng trách nhiệm của mọi người. Điều này không có nghĩa là từ bỏ thừa tác vụ của các giám mục và linh mục. Các chức vụ này tìm được trong một Giáo hội đồng hành hay hiệp hành ý nghĩa trọn vẹn của nó.
Đức Hồng y Hollerich thuộc Dòng Tên, người Luxemburg. Ngài giải thích thêm rằng về sự tham gia và đồng trách nhiệm, không có sự phân biệt giữa người nam và người nữ. “Chúng ta đã thấy điều đó khi Đức Giáo hoàng mở thừa tác vụ giúp lễ và đọc sách cho phụ nữ."
Dự luật về vấn đề này đã được Hạ viện Ý thông qua hồi năm ngoái và trong những ngày qua, dự luật đã được Ủy ban tư pháp của Thượng viện thông qua, trước khi đưa ra bàn thảo tại Thượng viện để bỏ phiếu.
Bà Eugenia Roccella, Bộ trưởng về Gia đình của Ý, tuyên bố rằng với luật này, nước Ý đi tiên phong trong việc bài trừ những hình thức mới khai thác phụ nữ và trẻ em.
Dự luật dự trù phạt tới hai năm tù và phạt tiền một triệu Euro những ai tổ chức hoặc quảng cáo việc mang thai mướn dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả bên ngoài nước Ý. Trong trường hợp những trẻ em sinh ra ở nước ngoài, các tòa lãnh sự Ý và văn phòng hộ tịch buộc phải điều tra xem trẻ em ấy có sinh ra do mang thai mướn hay không.
Bà Thượng nghị sĩ Campione, người trình bày dự luật tại thượng viện Ý, nhấn mạnh rằng dự luật muốn bảo vệ phụ nữ để họ khỏi trở thành những máy sinh sản, cũng như quyền của các con cái có căn tính được biết mình là con ai. Bà ghi nhận rằng nếu dự luật được thông qua, thì Ý sẽ là nước đầu tiên trên thế giới hoàn toàn cấm mang thai mướn. Theo ông Jacop Coghe, phát ngôn viên của tổ chức “Phò sự sống và gia đình”, tiền lệ do Ý mở ra có thể mở đường cho việc đạt tới một sự ngưng nạn mang thai mướn quốc tế.
Dự luật được chính phủ Ý, đang chiếm đa số tại quốc hội mạnh mẽ ủng hộ. Thượng nghị sĩ Antonio De Poli, Chủ tịch Liên minh đảng trung hữu của Ý (Unione di Centro), hậu thân của Đảng Dân Chủ Thiên Chúa giáo, tuyên bố rằng “chúng tôi tôn trọng quan điểm của mỗi người, nhưng theo ý chúng tôi, quyền của một trẻ em là có một gia đình, gồm một cha và một mẹ. Giá trị này thuộc về lịch sử và căn tính chính trị của chúng tôi. Coi trẻ em như thể chúng là sản phẩm để mua bán thì thật là điên rồ”.
Hiện nay, “Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng” thuộc về Toà Thánh được Đức Thánh Cha uỷ thác cho Dòng Tên. Với quy chế mới, tổ chức này vẫn tiếp tục được uỷ thác cho Dòng Tên, nhưng mở ra một chiều kích phổ quát, phục vụ mọi Giáo hội cụ thể trên thế giới, để điều phối ở cấp độ hoàn vũ, nơi các quốc gia và Giáo phận nhận việc cầu nguyện như một hình thức tông đồ, đặc biệt là nhận các ý cầu nguyện hằng tháng được Đức Thánh Cha đề xuất cho Giáo hội như là chủ đề hay chất liệu cho cầu nguyện cá nhân hay nhóm.
Mạng lưới cầu nguyện toàn cầu của Đức Giáo Hoàng mở ra cho tất cả các tín hữu Công giáo muốn tỉnh thức, canh tân và sống đặc tính truyền giáo bắt nguồn từ Bí tích Rửa tội.
Nền tảng của Mạng lưới cầu nguyện là linh đạo Thánh Tâm Chúa Giêsu, trao cho người môn đệ Chúa Giêsu một con đường để có cùng cảm thức và hành động hợp với trái tim Chúa Kitô, trong sứ mạng thương cảm với thế giới.
Về quản trị, tổ chức này trực tiếp thuộc thẩm quyền của Đức Thánh Cha và ngài điều hành thông qua Phủ Quốc vụ khanh, trong khi tôn trọng sự ủy thác lịch sử cho Dòng Tên kể từ khi bắt đầu Tông đồ Cầu nguyện.
Về việc quản lý tài sản, tổ chức này có năng lực pháp lý trên các tài sản tạm thời theo giáo luật và thuộc Quốc gia Thành Vatican, nhưng không có năng lực pháp lý cũng như không có quyền giám sát đối với hoạt động hành chính của các văn phòng quốc gia.
Quy chế mới này có hiệu lực ngay từ ngày ký và quy chế cũ được ký ngày 17/11/2020 hết hiệu lực.
Văn kiện này dài 36 trang, chia làm 112 đoạn, ngoài phần dẫn nhập và các nền tảng, và kết luận, còn được chia làm ba phần về những tương quan (I), những hành trình (II) và các nơi (III).
Văn kiện tiếp nối toàn thể tiến trình công nghị đã khởi sự từ năm 2021 và đưa ra những đề nghị để Giáo hội ngày càng gần gũi dân chúng và trong đó, tất cả các tín hữu đã chịu phép rửa, tham gia vào đời sống Giáo hội. Trong số những điểm suy tư, có sự đề cao vai trò nữ giới và những đòi hỏi của sự minh bạch và trách nhiệm.
“Rome Call for AI Ethics. Lời kêu gọi Roma cho Đạo đức trí tuệ nhân tạo” đã được Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hàn Lâm viện Toà Thánh về Sự sống, đại diện các công ty Microsoft, IBM, tổ chức Lương nông Quốc tế FAO, trước sự hiện diện của ông Chủ tịch Nghị viện Âu châu, cùng ký vào năm 2020, tại trụ sở Hàn Lâm viện Tòa Thánh về sự sống ở Vatican.
Sau đó, vào năm 2023, Lời kêu gọi Roma đã được các vị lãnh đạo ba tôn giáo độc thần Abraham: Kitô giáo, Hồi giáo và Do thái giáo, ký kết nhân danh sự sống chung. Như thế, Hội nghị này nhằm củng cố quan điểm, theo đó một lối tiếp cận đa tôn giáo đối với những vấn đề quan trọng, như luân lý đạo đức về Trí tuệ nhân tạo, là con đường phải theo.
Theo ban tổ chức, việc Hội nghị diễn ra tại Hiroshima cũng là điều rất ý nghĩa: thành phố này như một chứng tá mạnh mẽ về những hậu quả của kỹ thuật tàn phá và về ước muốn liên lỉ về hòa bình.
Trong bài phát biểu khai mạc, vào sáng thứ Ba, Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, đã nhắc lại vai trò quan trọng mà các tôn giáo được kêu gọi đóng góp để đảm bảo rằng sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, “một công cụ tuyệt vời với khả năng ứng dụng không giới hạn”, tiến hành song song với việc bảo vệ phẩm giá của mọi người và bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta. Ngài nhận xét: “Đây là trách nhiệm chung của chúng ta, và trong nỗ lực chung này, chúng ta có thể tái khám phá tình huynh đệ thực sự”.
Chủ tịch Hàn lâm viện Toà Thánh về Sự sống nhấn mạnh: “Tại Hiroshima, một địa điểm mang tính biểu tượng cao, chúng ta mạnh mẽ kêu gọi hòa bình và chúng ta yêu cầu công nghệ phải là động lực thúc đẩy hòa bình và hòa giải giữa các dân tộc. Chúng ta đứng đây, cùng nhau, để nói lớn rằng việc ở bên nhau và cùng hành động là giải pháp khả thi duy nhất”.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong sứ điệp gửi các tham dự viên Hội nghị Liên tôn về luân lý đạo đức Trí tuệ nhân tạo, tiến hành trong hai ngày 09 và 10 tháng Bảy vừa qua, tại thành phố Hiroshima, Nhật Bản, với chủ đề: “Luân lý đạo đức Trí tuệ nhân tạo phục vụ hòa bình: Các tôn giáo thế giới dấn thân thi hành Lời Kêu gọi tại Roma”. Tham dự Hội nghị, có hơn 150 người đến từ mười ba quốc gia và mười một tôn giáo.
Hội nghị được tổ chức với sự cộng tác của Cơ quan “Các tôn giáo ủng hộ hòa bình” ở Nhật Bản, Diễn đàn Abu Dhabi về hòa bình và Tòa Rabbi Trưởng của Israel. Ba vị lãnh đạo ba cơ quan này, cùng với Đức Tổng giám mục Vincenzo Paglia, người đã đọc diễn văn khai mạc Hội nghị. Tiếp theo đó là các bài thuyết trình của các chuyên gia trong ba khóa họp
Trong sứ điệp, Đức Thánh cha nhắc lại diễn văn ngài đã phát biểu trong Hội nghị thượng đỉnh của khối G7, ở miền nam Ý, đồng thời nhận định rằng: “Sự kiện các bạn tụ họp tại Hiroshima để nói về trí tuệ nhân tạo và hòa bình là một biểu tượng rất quan trọng. Trong số những xung đột hiện đang làm rúng động thế giới, đáng tiếc là ngoài sự oán ghét trong chiến tranh, người ta càng nghe thấy nói về kỹ thuật mới này. Vì thế, tôi thấy thật là rất quan trọng hội nghị ở Hiroshima này. Điều cơ bản là, khi liên kết với nhau như anh chị em, chúng ta có thể nhắc nhớ cho thế giới rằng: “Trong một thảm kịch, như các cuộc xung đột võ trang, điều cấp thiết là xét lại sự phát triển và sử dụng các thiết bị, như “các võ khí tự động giết người” để cấm sử dụng chúng, bắt đầu từ một quyết tâm thực sự và cụ thể để du nhập một sự kiểm soát ngày càng lớn và nhiều hơn của con người. Không máy móc nào có thể chọn lựa tước bỏ sự sống của con người” (G7, 14-6-2024).
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Nếu chúng ta để ý đến sự phức tạp của các vấn đề chúng ta đang có trước mặt, thì việc du nhập những phong phú về văn hóa của các dân tộc và các tôn giáo là một chìa khóa chiến lược để thành công trong cố gắng của các bạn nhắm đạt tới một sự quản trị khôn ngoan việc canh tân kỹ thuật”.
Cuối hội nghị, các vị đại diện tôn giáo và tổ chức đã ký vào Lời Kêu gọi Hiroshima, trong đó ngoài việc tái khẳng định cần sử dụng trí tuệ nhân tạo chỉ với mục đích mưu ích cho nhân loại và trái đất, nhưng còn kêu gọi cộng đồng quốc tế dùng những phương thế hòa bình để giải quyết các tranh chấp, làm sao để ngưng tức khắc mọi cuộc xung đột võ trang.
Ngày thứ năm 4 tháng 7, Đài thiên văn Vatican công bố kính thiên văn Công nghệ tân tiến của Vatican (VATT) đặt tại Arizona hiện được trang bị hệ thống điều khiển tự động mới, để có thể điều khiển từ Rôma.
Hiện nay hệ thống đang trong giai đoạn thử nghiệm và có thể hoạt động theo hai cách. Phương thức “truyền thống” được đơn giản hóa: các nhà thiên văn không còn cần di chuyển để bật và tắt các hệ thống con của kính theo cách thủ công nữa; việc tập trung quang học VATT nhanh hơn.
Thêm vào đó là phương thức “từ xa” sẽ cho phép 15 nhà thiên văn Dòng Tên của Đài thiên văn, kể cả các nhà khoa học có trụ sở tại Rôma, điều khiển và làm việc với kính thiên văn mà không cần phải đến tại chỗ.
Đài thiên văn Vatican có hệ thống robot hóa mới cho kính thiên văn do công ty ProjectSoft HK của Séc sản xuất và có tên là “Don” để vinh danh Donald Martin Alstadt (1921-2007), cựu chủ tịch của Công ty đa quốc gia Lord. Bà góa phụ Alstadt đã quyên góp cho dự án này.
“Don” sẽ cho phép điều khiển trạm thời tiết, vòm kính thiên văn và cửa chớp khe vòm, hệ thống dầu cho ổ trục thủy lực của giá đỡ và hệ thống làm mát của gương chính. Vì thế kính viễn vọng của các giáo hoàng có một tương lai robot “đầy hứa hẹn”.
Các khó khăn trong quá trình cài đặt
Gương của kính viễn vọng VATT có đường kính 1,8 mét, đây là chiếc gương đầu tiên được sản xuất bằng công nghệ đúc quay mang tính cách mạng, được sử dụng để sản xuất kính thiên văn lớn nhất thế giới, đã được thành lập cách đây hơn 30 năm. Kính viễn vọng ở trong khu phức hợp vật lý thiên văn Thomas J. Bannan, Arizona, nơi Vatican mở trung tâm nghiên cứu thứ hai năm 1981, sau Castel Gandolfo, để thoát khỏi ô nhiễm ánh sáng ở châu Âu.
VATT được cải tiến với công nghệ “Don”, cho phép hướng kính thiên văn với độ chính xác 3 giây cung – tương ứng với kích thước của một viên bi đặt trong một sân vận động lớn – và theo dõi các thiên thể trong 20 phút mà không cần hướng dẫn. Đài quan sát cho biết, việc khai triển hệ thống mới không phải là không có khó khăn, các kỹ thuật viên đã phải đối diện với những cơn bão tuyết trái mùa vào tháng 3 và tháng 4.
Kế thừa lịch sử lâu dài của thiên văn học, Đài thiên văn Vatican có từ thế kỷ 16 và tiếp tục thích ứng với tiến bộ khoa học.
Số thu nhập này do tiền thuế các tín hữu Công giáo đóng cho Giáo hội, theo hiến định. Tại hai bang Bavaria và Baden-Wuertemberg ở miền nam Đức, số tiền thuế mỗi tín hữu phải đóng cho Giáo hội của mình tương đương với 8% tiền thuế lợi tức họ đóng cho nhà nước. Tại các bang khác, tiền thuế Giáo hội là 9%. Nhà nước thu tiền thuế này và chuyển cho những Giáo hội được chính quyền công nhận.
Năm 2022, số tiền thuế Giáo hội Công giáo nhận được là sáu tỷ 840 triệu Euro, một con số kỷ lục, nhưng trong năm 2023, tiền thuế 27 giáo phận Công giáo tại Đức thu được là sáu tỷ 510 triệu Euro.
Tuy giảm sút, nhưng tiền thuế Giáo hội Công giáo nhận được vẫn cao hơn Tin lành: trong năm ngoái (2023), 20 Giáo hội Tin lành Đức đã nhận được năm tỷ 900 triệu Euro, tức là giảm 5,3% so với năm 2022 trước đó.
Trong những năm gần đây, đại diện của các Giáo hội Kitô vẫn nói rằng thuế Giáo hội sẽ giảm sút về lâu về dài, vì số tín hữu giảm sút, do có nhiều người làm đơn xin ra khỏi Giáo hội. Tuy nhiên, thu nhập thuế Giáo hội cũng tùy thuộc mức thu nhập của nhà nước. Sở dĩ thu nhập của các Giáo hội có thể đạt tới những mức kỷ lục trong những năm gần đây, là vì kinh tế của Đức tốt đẹp, số người dân có công ăn việc làm gia tăng, và tiền thuế của họ đóng cho nhà nước cũng tăng, kéo theo sự gia tăng thu nhập của các Giáo hội.
Trong một bài góp ý đăng trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Đức, ký giả Steffen Zimmermann cho rằng sự giảm sút thu nhập của Giáo hội Công giáo Đức không phải hoàn toàn là tiêu cực, vì nó có thể thúc đẩy các giáo phận cộng tác với nhau nhiều hơn trong lãnh vực truyền thông, hoặc những dự án liên giáo phận.
Dữ liệu phản ánh tư cách thành viên của hai Giáo hội Kitô giáo chính với tư cách là các đoàn thể công, theo ghi nhận của văn phòng đăng ký cư dân. Trong khi đó, số lượng người Hồi giáo ở Đức không được ghi nhận trong các cơ quan đăng ký vì Hồi giáo không phải là một đoàn thể công. Tuy nhiên, người ta ước tính có 4 đến 5 triệu người Hồi giáo ở Đức. Tổng dân số ở Đức khoảng 83 triệu người, hiện là quốc gia đông dân nhất châu Âu.
Theo phân tích của giáo sư xã hội học Michael Hermann tại Đại học Sư phạm Weingarten (Đức), có hai lý do giải thích tỷ lệ tín hữu của hai Giáo hội chính so với tổng dân số vốn đang giảm: thứ nhất, tỷ lệ sinh giảm và thứ hai, việc tín hữu rời bỏ các Giáo hội. Trên thực tế, ở Đức, các tín hữu có thể tuyên bố rời khỏi Giáo hội trước chính quyền nhà nước.
Theo dữ liệu của Giáo hội, trong năm ngoái 2023, 402.000 người Công giáo và 387.000 người Tin lành đã thực hiện bước này. Vào năm 2022, con số thậm chí còn lớn hơn. Nhìn chung, có nhiều người rời bỏ hoặc chết hơn là con số gia nhập Giáo hội. Cho đến nay, lý do phổ biến nhất được đưa ra bởi những người rời đi là cuộc khủng hoảng lạm dụng trong các Giáo hội. Trong khi đó, một lần nữa theo các cuộc điều tra, cái gọi là thuế tôn giáo, tức là phí thành viên mà Nhà nước thu thay mặt cho các Giáo hội, chỉ là lý do rất yếu để rời bỏ. Ở Đức, thuế tôn giáo lên tới 8% thuế thu nhập cá nhân của các thành viên.
Tuy nhiên, xã hội học tôn giáo ở Đức cũng cho thấy rằng xu hướng tôn giáo của người dân không giảm sút ở mức độ tương tự. Nhiều người rời bỏ Giáo hội vẫn tiếp tục xưng mình là Kitô hữu và thực hành đức tin của mình. Nhìn chung, người ta đang chứng kiến ở Đức sự đa dạng hóa bức tranh toàn cảnh tôn giáo, điều này cũng được thể hiện qua việc ngày càng có nhiều cộng đồng Kitô giáo tự do, không liên kết với hai Giáo hội lớn.
Theo những kết quả này, sự thế tục hóa, đa nguyên hóa và cá nhân hóa sẽ tiếp tục phát triển ở Đức. Thách thức đối với các Giáo hội Công giáo và Tin lành ở Đức sẽ là làm thế nào để tài trợ cho các hoạt động mục vụ và từ thiện của họ trong những điều kiện này. Trong trung và dài hạn, nhiều giáo phận ở Đức sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt ngân sách. Điều này cũng sẽ có tác động đến diện mạo của Giáo hội Công giáo. Ngay từ năm 1969, Joseph Ratzinger, người sau này là Đức Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, đã nói trong bối cảnh này về một “Giáo hội của những người bé mọn” được nội tâm hoá và một “Giáo hội của đức tin”, nghĩa là một Giáo hội được hợp thành từ một số ít của những người dấn thân đặc biệt.
Hãng tin Asia News, truyền đi hôm mùng 08 tháng vừa qua, cho biết Trường Công giáo Thánh Gia do Tòa Thượng phụ Công giáo Latinh ở Jerusalem thành lập năm 1974, được coi là một trong những trường tốt nhất trong vùng, có khả năng cung cấp một nền giáo dục chất lượng cao, hỗ trợ các cuộc trao đổi văn hóa và cống hiến một môi trường thích hợp và an toàn cho mọi học sinh.
Trong thời gian gần đây, vì chiến tranh ở Gaza nên trường không còn hoạt động như cơ sở giáo dục, nhưng được dùng làm nơi tạm trú cho hàng trăm thường dân tị nạn, không có tu sĩ nào cư ngụ tại trường.
Trong thông cáo, Tòa Thượng phụ mạnh mẽ phản đối và nghiêm khắc lên án những cuộc tấn công các thường dân, đồng thời khẳng định rằng: “Chúng tôi tiếp tục cầu xin lòng thương xót của Chúa và hy vọng các phe đạt tới một thỏa thuận chấm dứt ngay cuộc những vụ đổ máu kinh khủng và thảm họa này về nhân đạo ở trong vùng”.
Theo nguồn tin của đài truyền hình Arập al-Jazeera, hôm mùng 06 tháng Bảy vừa qua, các tên lửa của Israel cũng phóng vào trường al-Jawni ở Nuseirat, do tổ chức Unrwa của Liên Hiệp Quốc quản trị, trong đó có nhiều người Palestine tị nạn trú ngụ trong trường, khiến cho 16 người chết. Cuộc tấn công này của Israel cũng nhắm vào trại tị nạn, và tạo nên sự hỗn độn tại nhà thương “Các vị tử đạo al-Aqsa” ở Deir el-Balah. Bệnh viện này có khả năng đón nhận 200 bệnh nhân tại bệnh viện và chữa trị hơn 600 bệnh nhân. Giới chỉ huy quân đội Israel nói rằng trong cuộc tấn công vào nhà thương, mục đích là những “tên khủng bố” đang hoạt động trong vùng. Tuy nhiên, hãng tin Wafa của Palestine cho biết cho biết tòa nhà được dùng làm nơi tạm trú cho những người tị nạn, với hàng trăm phụ nữ và trẻ em. Phía Hamas cũng phủ nhận lập luận của Israel và nói là không có chiến binh nào của mình tại những nơi đó.
Từ khi Israel tấn công vào Gaza, sau cuộc khủng bố ngày 07 tháng Mười năm ngoái của các lực lượng khủng bố Hamas, giết hại 1.195 người Israel, phần lớn là thường dân và bắt cóc 251 người, trong đó 116 người còn bị giam giữ, cho đến nay đã có 38.153 người Palestine bị quân đội Israel giết chết, đại đa số là thường dân, phụ nữ và trẻ em.
Theo Đức Tổng giám mục Shevchuk, “Giáo hội Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương vẫn hiện hữu tại các vùng bị chiếm đóng, mặc dù có lệnh cấm, vì các tín hữu của chúng tôi đang sống tại đó, nhưng họ không được săn sóc về tinh thần. Cũng vậy, tại những lãnh thổ bị Nga chiếm đóng và cai trị, chế độ thời Stalin đang trở lại, hàng giáo sĩ bị đàn áp”.
Đức Tổng giám mục cho biết một số giáo sĩ của Công giáo Ucraina đã được Nga trả tự do, trong đó có hai cha Dòng Chúa Cứu Thế, từ miền Berdiansk, là cha Ivan Letitsky và cha Bohdan Heleta, được trả tự do ngày 28 tháng Sáu vừa qua, sau một năm rưỡi bị giam cầm.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Tổng giám mục Shevchuk cũng nói về số phận các thánh đường ở những vùng bị chiếm: “Tại một số thành thị như Mariupol, Maryinka, Volnovakha, v.v. các nhà thờ của chúng tôi hoàn toàn bị phá hủy, trong khi tại thành phố Melitopol và Berdyansk, thì nhà thờ bị đóng cửa. Chúng tôi mới nhận được tin nhà thờ chính tòa của chúng tôi ở Donetsk bị chiếm đóng. Khi các linh mục chúng tôi bị trục xuất khỏi đó, các tín hữu vẫn họp nhau cầu nguyện và nhà cầm quyền không hài lòng. Một hôm, khi các tín hữu đến nhà thờ thì thấy các chìa khóa của thánh đường đã bị thay đổi, và điều này có nghĩa là các tín hữu bị trục xuất khỏi nhà thờ.
“Chúng tôi cũng mới nhận được tin tình trạng tương tự như vậy ở thành phố Luhansk, và tại các làng ở vùng Kherson, Giáo hội Chính thống Nga đã tiếp thu nhà thờ của chúng tôi, gọi là để thực hiện một lễ nghi “thánh hiến” trước lễ Phục Sinh.”
Đức cha nói với Tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, nhân dịp viếng thăm trụ sở trung ương của cơ quan bác ái này ở thành phố Koenigstein im Taunus, bên Đức. Ngài nói: “Có nhiều người tự tử vì họ không biết tình thế sẽ như thế nào trong tương lai. Báo động phòng không ở vùng Charkiv hầu như luôn báo động 24 trên 24 giờ đồng hồ”.
Charkiv chỉ cách biên giới Nga 30 cây số. Các tên lửa bắn từ Nga chỉ cần không đầy một phút là rơi xuống Charkiv. Hôm mùng 08 tháng Bảy vừa qua, tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ kể rằng Đức cha cho biết thời gian ngắn ngủi như thế không đủ để báo động tại thành phố lớn thứ hai này của Ucraina. Các trường học và vườn trẻ tại đây đã đóng cửa. Các lớp học nhiều khi được thực hiện trong các trạm xe điện ngầm của thành phố.
Đức cha cho biết diện tích giáo phận của ngài (170.000 Km2) là một trong những giáo phận lớn nhất tại Âu châu, gấp quá hai lần nước Áo. Tại những vùng thiếu an ninh, không thể gửi các linh mục đến, nhưng sự hiện diện của các linh mục có một ý nghĩa lớn đối với dân chúng. Họ lý luận rằng “Nếu một linh mục ở đó được thì tôi cũng có thể ở lại. Sự cô đơn rất khó chịu nổi, nhất là khi người ta mất một người thân yêu”.
Vì thế, Đức cha Hontscharuk nhận xét rằng ngoài viện trợ nhân đạo, cả sự trợ giúp về tâm lý cũng rất cần thiết đối với dân chúng. Nhiều người không tin tưởng nơi các nhà tâm ý và cũng có ít các chuyên gia trong lãnh vực này. Đức cha nói: “Chúng tôi chỉ có một ít chuyên gia và đó là vấn đề. Hiện nay, tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ tài trợ việc huấn luyện cho các linh mục, tu sĩ và những nhân viên cứu trợ khác. Theo Đức cha, đó là điều quan trọng và chúng tôi rất biết ơn!”
Ngoài trợ giúp vừa nói, trong những tháng qua, cơ quan bác ái Công giáo quốc tế này cũng giúp cung cấp các lò sưởi để sưởi các nhà xứ và tu viện trong mùa đông, nơi mà nhiều người chạy đến tá túc. Các linh mục và nữ tu hoạt động ở tiền tuyến, cũng được huấn luyện về các phương pháp cấp cứu.
Tuy nguy hiểm đến tính mạng, nhưng cũng có 46 linh mục tuyên úy quân đội, nhiều khi các vị là những người duy nhất để các binh sĩ tiền tuyến chia sẻ các vấn đề tâm linh. Đức cha nói: “Điều mà những người lính ấy sống trong nội tâm là một ác mộng. Vì thế, vị tuyên úy quân đội là quan trọng. Linh mục lắng nghe những gì xảy đến trong tâm trí con người”.
Quyết định trên đây được Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nicaragua, bà María Amelia Coronel Kinlock, ký và công bố trên báo La Gaceta của chính phủ, hôm mùng 09 tháng Bảy vừa qua.
Thông cáo của Bộ Nội vụ Nicaragua nói rằng các tổ chức này đã không báo cáo chi tiết tài chánh của mình trong khoảng thời gian từ hai đến hai mươi sáu năm qua.
Hãng tin Công giáo CNA, bằng tiếng Tây Ban Nha, cho biết đã tham khảo nguồn tin của mình ở Nicaragua, và được biết cũng chính nhà nước này, qua Bộ Nội vụ, đã quyết định từ chối không nhận các báo cáo tài chánh, khi các tổ chức này nộp, và nay lại nại lý do đó để đóng cửa.
Thông cáo trên báo La Gaceta nói thêm rằng tất cả các tài sản của các tổ chức bị đóng cửa sẽ được chuyển giao cho chính phủ Nicaragua.
Ngày 11 tháng Tư năm nay, Radio Maria ở Nicaragua đã thông báo tài khoản của mình tại Banco de la Producción, Ngân hàng Sản xuất, đã bị nhà nước đóng băng. Qua tài khoản này, Đài phát thanh vẫn nhận tiền hỗ trợ của các ân nhân bằng đôla, và tiền córdobas của Nicaragua.
Trong một bài đăng trên mạng xã hội X (trước đây là Twitter), ông Arturo Mcfields Yescas, cựu đại sứ Nicaragua cạnh tổ chức các nước Mỹ châu, đã tố cáo những hành động bách hại vừa nói của chế độ độc tài Daniel Ortega ở Nicaragua.
Trong thời gian trước đây, nhiều linh mục, và cả giám mục, nữ tu đã bị chế độ này cầm tù hoặc trục xuất, trong đó có cả các nữ tu Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta. Cả Đại học Trung Mỹ của Dòng Tên tại đây cũng bị đóng cửa.
Hai ngày Đức Giáo Hoàng John Paul II và cựu Tổng Thống Donald Trump đã bị ám sát rơi vào những ngày kỷ niệm Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ mục đồng là Francisco, Jacinta và Lucia tại Fatima thuộc Bồ Đào Nha. Đức Mẹ đã hiện ra 6 lần vào các ngày 13 của các tháng 5,6,7,8,9, 10 của năm 1917. Điều đáng nói là cả hai vị đã thoát chết trong gang tấc và cả hai đều nói lên ý nghĩ là phải có Thiên Chúa và Mẹ Maria đã ra tay cứu giúp ....
1/ Đức Giáo Hoàng John Paul II bị ám sát vào ngày 13-5-1981:
Ngày 13-5-1981, khi Đức Giáo Hoàng John Paul II đang đứng trên xe hơi đi thăm hàng ngàn giáo dân khắp nơi đang tề tụ tại quảng trường thánh Phêrô của tòa thánh Vatican thì ngài đã bị sát thủ người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca đứng cách ngài 3 mét dùng súng ngắn nhắm vào ngài bắn ra 3 phát. Khi đó, Đức Giáo Hoàng 61 tuổi đã ngã gục trong vòng tay của Đức ông Stanislaw Dziwisz, thư ký riêng của ngài trước khi được đưa vào bệnh viện.
Đức Giáo Hoàng đã bị thương ở bụng, ở khuỷu tay phải và ngón trỏ bàn tay trái, sau nhiều tháng tỉnh dưỡng, Đức Giáo Hoàng John Paul II được bình phục. Ngày 17 tháng 5 năm 1982 ngài công khai tha thứ cho người tấn công mình và hai năm sau ngài vào tù thăm hắn ta.
Sau nầy các bác sĩ phẫu thuật và săn sóc ngài cho biết, khi mổ họ không nghĩ ngài sẽ sống sót vì mức độ tổn thương trầm trọng của ba viên đạn. Nhưng sự việc không có một cơ quan trọng yếu nào bị thương là dấu hiệu quan phòng kỳ lạ của Thiên Chúa.
Tay súng chuyên nghiệp Mehmet Ali Ağca đã dự trù dứt khoát là phải bắn trúng mục tiêu để giết Đức Giáo Hoàng John Paul II. Nhưng cả kinh nghiệm lẫn quyết tâm của ông đã không đụng đến các cơ quan trọng yếu của ngài.
Thật vậy, các bác sĩ tuyên bố viên đạn đã đi trệch đường. Sau khi bình phục, sự kiện quan trọng này được Đức Gioan-Phaolô II xem như phép lạ. ĐGH John Paul II tin chắc mình được Đức Mẹ Fatima can thiệp, Mẹ đã hành động đúng vào giây phút định mệnh để ngăn cái chết thấy rõ. Và chính ngài, ngài cho sự sống sót của mình là nhờ Đức Mẹ (dĩ nhiên ngài cũng cám ơn công việc đáng kể của đội ngũ y tế tại bệnh viện Gemelli). Vài tháng sau ngài tâm sự ngài cảm nhận được sự bảo vệ của Mẹ Maria: “Ngay lúc ngã xuống ở quảng trường Thánh Phêrô, tôi có cảm giác rằng tôi sẽ được cứu vì một tay kéo tôi và tay kia làm trệch đường đạn”. Và viên đạn không trúng đích.
Xác quyết này của Đức Gioan-Phaolô II càng mạnh hơn vì ngày 13 tháng 5 là ngày kỷ niệm lần đầu tiên Đức Mẹ hiện ra cho ba trẻ mục đồng ở Fatima, Bồ Đào Nha năm 1917. Để tỏ lòng biết ơn Đức Mẹ che chở, đúng một năm sau, ngài đến viếng Đức Mẹ Fatima và gắn viên đạn đã bắn ngài vào vương miện bằng vàng khối ở tượng Đức Mẹ nơi đền thánh.
2/ Cựu Tổng Thống Donald Trump bị ám sát vào ngày 13-7-2024:
Cựu tổng thống Donald Trump vừa thoát chết trong cuộc ám sát vào 6 giờ 15 phút chiều ngày thứ bảy 13-7-20204 trong buổi đi vận động tranh cử tại Butler, Pennsylvania. Ông đã bị thanh niên trẻ tên là Thomas Matthew Crooks, 20 tuổi cư dân tại Pennsylvania, núp trên mái của một tòa nhà cách xa nơi tổng thống Trump đang nói chuyện khoảng 150 mét đã dùng khẩu súng bán tự động AR15 bắn ra 8 viên đạn nhắm vào ông. Được biết khẩu súng AR-15 nầy có tầm bắn rất chính xác ở độ xa trong vòng 400 mét. Cựu TT Trump thật may mắn, nhờ ông quay đầu sang phía tay mặt khi chỉ tay về tấm bảng nói về thành tích của ông lúc làm tổng thống trước đây mà thoát chết. Viên đạn đầu tiên đã bay sớt qua lỗ tai bên mặt của ông làm máu chảy lan ra má và ông đã nhanh chóng nằm xuống tránh những viên đạn tiếp sau.
Sát thủ đã bị nhân viên mật vụ đứng trên tòa nhà khác bắn hạ. Vụ ám sát đã làm cho một người nhân viên cứu hỏa tham dự buổi vận động tranh cử chết và hai người khác bị trọng thương. Đây là một biến cố đau thương cho các nạn nhân và ngay cả thủ phạm đã phải chết lúc tuổi còn thanh xuân.Trong lúc được các các nhân viên đưa ra khỏi hiện trường, cựu Tổng thống Trump cũng vẫn điềm tĩnh và đưa nắm tay mặt lên cao hô to: “ Fight! Fight! Fight! - Chiến đấu! Chiến đấu! Chiến đấu!”. Quả thật, bạo lực đã không làm ông nản lòng theo đuổi con đường cứu nước mà ông đã chọn.
Sau vụ bị ám sát hụt, ông Trump cũng cho rằng là Chúa đã ngăn chặn "điều không thể tưởng tượng được ấy". Trong một bài viết đăng trên Truth Social vào tối ngày 14/7, ông Trump đã gửi lời cảm ơn tất cả mọi người và nói: “Chỉ có Chúa mới ngăn cản được điều không thể tưởng tượng được ấy xảy ra. Chúng ta sẽ không sợ hãi, mà thay vào đó vẫn kiên cường với đức tin của chúng ta và mạnh mẽ khi đối mặt với sự Tà Ác”.
Sau vụ ám sát nầy, các lãnh tụ của hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ đã nhận thức ra rằng cần phải hạ cường độ chỉ trích lẫn nhau.
Tổng Thống Joe Biden đã nhanh chóng phát biểu: “Tại Mỹ quốc không có chỗ cho loại bạo lực này. Thật bệnh hoạn, thật bệnh hoạn”. TT Biden đã ra lệnh rút bỏ những mẫu quảng cáo của ông có nội dung công kích cựu TT Trump.
Cựu tổng thống Trump cho biết ông đã hủy bỏ bài diễn văn có nội dung lên án ông Biden cùng chính sách của đảng Dân Chủ mạnh mẽ để thay bằng một bài diễn văn ôn hòa nhằm kêu gọi mọi người dân Hoa Kỳ cần đoàn kết để xây dựng đất nước trong ngày 18-7-2024 tại đại hội đảng Cộng Hòa đề cử ông ra ứng cử tổng thống năm nay.
Tóm lại, cuộc ám sát nhắm vào Đức Giáo Hoàng John Paul II,người lãnh đạo giáo hội Công Giáo toàn cầu vào ngày 13-5-1981 và cuộc ám sát cựu tổng thống Donald Trump, lãnh đạo Hoa Kỳ vào ngày 13-7-2024 đã có những điểm trùng hợp đáng kể. Hai vị nầy đều thoát chết trong đường tơ kẻ tóc nếu không nói là nhờ ơn Đức Mẹ Fatima và Thiên Chúa che chở.
Sau cuộc ám sát đã không làm Đức Giáo Hoàng nản chí theo đuổi con đường phục vụ Thiên Chúa và nhân loại, Riêng tổng thống Trump vẫn không đầu hàng trước bạo lực và cương quyết vẫn tiếp tục đấu tranh cho đường lối chính trị mà ông đã nêu ra là làm cho Hoa Kỳ được hùng mạnh trở lại “Make American Great Again”.
Cả hai Đức Giáo Hoàng và cựu Tổng Thống Trump không tìm cách trả thù mà đã chọn cho mình một giải pháp tốt đẹp hơn. Đức Giáo Hoàng đã tha thứ cho kẻ đã bắn mình và cựu tổng thống Trump thay vì lên án những kẻ âm mưu sát hại ông thì ông lên tiếng kêu gọi sự đoàn kết của mọi người dân Hoa Kỳ.
Hành động và cách xử sự của Đức Giáo Hoàng John Paul II và của cựu tổng thống Donald Trump thật đáng cho mọi người chúng ta phải ngưỡng mộ ./.
Khi Tổng thống Donald Trump nhậm chức, và chuẩn bị dời vào Nhà Trắng, ông đã mời Linh mục Andrew Mahana đến và thực hiện nghi thức trừ tà trong văn phòng…
Sau đó Lm Andrew Mahana đã tặng TT Trump một pho tượng Đức Mẹ Fatima và một chuỗi mân côi. TT Trump đã hỏi rằng liệu ông có thể giữ và mang cả hai vào Nhà Trắng.
Trong vụ việc cựu Tổng thống trump bị ám sát vừa qua, có một điều vô cùng lạ lùng trong đó là vào ngày 13 tháng 5 năm 1981 Lễ Mẹ Fatima, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô ll bị ám sát nhưng thoát chết và nay cựu tổng thống Trump cũng bị ám sát hụt lại trùng hợp vào ngày 13 tháng 7 là ngày lễ Mẹ Fatima hiện ra.
Cựu Tổng thống Donald Trump nói trên mạng xã hội Truth Social của ông: “Chỉ có Chúa mới ngăn chặn được điều không thể tưởng tượng này. Tôi xin cám ơn tất cả các bạn đã cầu nguyện cho tôi ngày hôm qua, vì chỉ có Chúa mới ngăn chặn được vụ này. Chúng tôi sẽ không nhượng bộ trước sợ hãi, chúng tôi sẽ kiên trì trong đức tin và duy trì thái độ thách thức khi đối diện với cái ác. Tại thời điểm này, điều quan trọng hơn bao giờ hết, chúng ta phải cùng nhau sát cánh, thể hiện bản chất thực sự của chúng ta là người Mỹ, luôn mạnh mẽ và quyết tâm, không để cái ác chiến thắng.”
Trong thánh lễ 5 giờ chiều thứ bảy 13 tháng 5, tôi giảng bài Phúc âm – tất cả chúng ta, theo một cách nào đó, được kêu gọi như các thánh tông đồ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng về hoán cải, ăn năn, chữa lành và hy vọng.
Sau khi về nhà, các sự kiện ở Butler, Pennsylvania đã làm thay đổi mọi thứ.
Tôi xem các hình ảnh trên đài truyền hình và chắc quý vị cũng đã xem. Khán đài nhuốm máu. Những người kinh hoàng trên khán đài. Máu chảy dài trên khuôn mặt cựu Tổng thống Trump. Tôi đọc một số bình luận, nghe các tuyên bố, đọc các lời kêu gọi cầu nguyện ở Mỹ và trên toàn thế giới.
Cuối cùng, tôi xem lại đoạn Kinh Thánh ngày chúa nhật – và tôi chú ý đến phần phụng vụ tôi thường không giảng: bài Thánh vịnh. Người viết thánh vịnh cầu nguyện cho một thế giới mà tất cả chúng ta đều mơ ước – nhưng lúc này thì quá xa vời.
“Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân người, cho kẻ trung hiếu. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho kẻ trung hiếu. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu tỏa trên đất nước chúng ta. Tín nghĩa ân tình này hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống từ trời cao.”
Tôi quyết định gác lại bài giảng và suy gẫm thêm đoạn này muốn nói gì với chúng ta trong ngày chúa nhật này. Tôi nhớ lại những sự kiện khác.
Tôi lớn lên không xa Laurel, Maryland, mẹ tôi từng đưa tôi đến Trung tâm mua sắm Laurel – cùng nơi mà George Wallace, người tranh cử tổng thống bị bắn và bị tàn tật.
Một thập kỷ sau, tôi làm việc cho CBS News ở Washington và một trong những đồng nghiệp của tôi là Charlie Wilson – người quay phim tổng thống Ronald Reagan khi ông bị bắn.
Và còn những người khác nữa: Gabby Giffords, Steve Scalise và bây giờ là Donald Trump. Danh sách có vẻ như vô tận.
Hôm nay chúng ta đứng trước câu: “Tín nghĩa ân tình này hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên.”
Khi nào? Như thế nào? Trong một thế giới bất công và thù địch, công lý và hòa bình ở đâu? Dù chúng ta theo đảng phái chính trị nào, chúng ta không thể không thấy mình bị sốc, bị bất lực và thậm chí sợ hãi. Chúng ta đã trở thành cái gì? Chúng ta phải lên án những hành động xấu xa này thường xuyên đến mức nào? Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?
Ngày 13 tháng 5 năm 1981, Ali Agca người Thổ Nhĩ Kỳ đã bắn và làm Đức Gioan-Phaolô II bị trọng thương. Bốn ngày sau, từ giường bệnh, ngài đọc Kinh Nữ Vương Thiên Đàng thường lệ ngày chúa nhật: “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã tấn công tôi, người mà tôi đã chân thành tha thứ. Hiệp nhất với Chúa Kitô, linh mục và nạn nhân, tôi dâng đau khổ của tôi cho Giáo hội và cho thế giới.”
Ngày nay có bao nhiêu người trên thế giới có thể làm được điều này? Chúng ta cần cố gắng.
Trong bài giảng của tôi ngày thứ bảy, tôi nói về việc tất cả chúng ta được kêu gọi trở thành tông đồ, trở thành sứ giả mang thông điệp chữa lành của Chúa Kitô vào thế giới tan vỡ của chúng ta.
Với suy nghĩ đó, tôi nghĩ khoảnh khắc này mang đến cho chúng ta một thử thách táo bạo – kêu gọi chúng ta nhìn lại cách chúng ta sống, cách chúng ta nói, cách chúng ta tham gia vào các phương tiện truyền thông xã hội. Chúng ta cần đặt ra một số câu hỏi khó khăn, quan trọng nhất là: chúng ta có thể làm gì để giảm bớt lời lẽ kích động đang bùng cháy ở nơi công cộng không? Làm thế nào chúng ta có thể làm cho mọi thứ tốt hơn? Chúng ta cần mang lại hòa hợp và hòa bình vào nền văn hóa ngày càng bị thù địch, chia rẽ, chiến tranh lấn chiếm.
Nhà thờ này này mang tên Thánh Phanxicô Assisi – Thánh của người gìn giữ hòa bình với kinh cầu nguyện nổi tiếng: “Xin cho con là khí cụ bình an để con đem yêu thương vào nơi hận thù.” Chúng ta cần điều này ngay bây giờ.
Bà của tôi đến đất nước này khi bà là cô gái trẻ Tiệp Khắc vào cuối thế kỷ 19. Bất cứ khi nào có giông bão ập đến vùng mỏ than Pennsylvania, bà đều quỳ xuống lần hạt. Bà biết sức mạnh của lời cầu nguyện có thể xoa dịu trái tim đầy lo lắng và sợ hãi.
Sấm sét đang ập đến đất nước chúng ta lúc này. Và chúng ta cần quỳ xuống cầu nguyện cho tất cả nạn nhân và người thân yêu của họ. Và chúng ta cũng cầu nguyện cho chính chúng ta.
Giữa tan vỡ, chúng ta cầu nguyện để được chữa lành. Trong giận dữ và thù địch, chúng ta cầu nguyện để được hiểu. Trong chia rẽ, chúng ta cầu nguyện để được hiệp nhất. Trong tuyệt vọng, chúng ta cầu nguyện để có hy vọng. Chúng ta cầu nguyện để có thể tha thứ cho những gì dường như không thể tha thứ. Vì đó là những gì Chúa Giêsu sẽ làm, những gì Ngài đã làm trên thập giá. Chúng ta cầu xin Ngài thầm thì với chúng ta những lời đầu tiên Ngài nói trong Phòng Tiệc Ly sau khi Chúa sống lại: “Bình an cho anh em.” Bình an.
Với tinh thần đó, tôi muốn dành thời gian này để xin anh chị em làm những gì bà tôi đã làm. Rất đơn giản: Cầu nguyện.
Đó là khởi đầu cho mọi sự. Cầu nguyện để giống như các tông đồ trong Phúc âm hôm nay – những sứ giả chữa lành xua đuổi ma quỷ và trao tặng món quà hy vọng.
Sau vụ ám sát Mục sư Martin Luther King, Jr., thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói: “Chúng ta hãy cống hiến hết mình cho những gì người Hy Lạp đã viết từ lâu: thuần hóa sự man rợ của con người và làm cho cuộc sống của thế giới này trở nên nhẹ nhàng hơn.”
Chúng ta cùng cầu nguyện cho điều này. Chúng ta cầu nguyện để chúng ta là những tác nhân thay đổi – những người đàn ông, đàn bà tái dấn thân để xây dựng một thế giới, nơi “lòng tốt và sự thật sẽ gặp nhau… nơi công lý và hòa bình sẽ giao duyên.”
Chúng ta cùng cầu nguyện cho đất nước, cho các nhà lãnh đạo chúng ta. Chúng ta cầu xin Thánh Phanxicô Assisi cầu bàu.
Đêm hôm qua, tôi đã tìm thấy một lời cầu nguyện từ một Phanxicô khác, giáo hoàng của chúng ta. Sáng nay, chúng ta hãy làm cho những lời này thành lời của chúng ta.
“Lạy Chúa… Chúa đã tạo dựng chúng con và Chúa kêu gọi chúng con sống như anh chị em. Xin Chúa ban cho chúng con sức mạnh hằng ngày để chúng con là khí cụ của hòa bình; xin cho chúng con biết nhìn nhận nhau là anh em trên con đường chúng con đi… Xin giữ ngọn lửa hy vọng luôn cháy trong chúng con, để với lòng kiên nhẫn và bền bỉ, chúng con có thể lựa chọn đối thoại và hòa giải… Lạy Chúa, xin xoa dịu bạo lực nơi lưỡi, nơi bàn tay chúng con. Xin đổi mới trái tim và tâm trí chúng con, để lời luôn đưa chúng con đến với nhau sẽ là lời ‘anh em’, và cách sống của chúng con sẽ luôn là hòa bình.”
Hình ảnh liên tục xuất hiện là hình ảnh A.I. tạo ra để mô tả vụ mưu sát xém chết của cựu Tổng thống Trump: có vẻ như đó là Maria, mắt xanh, son môi đỏ, đeo hoa tai nhỏ nhỏ xinh xinh, bình thản đưa ngón giữa ra để giật viên đạn (vẫn còn trong vỏ đạn) ra khỏi đường bắn chết người. Ngón cái và ngón trỏ làm cử chỉ nhắc cho người xem dấu hiệu “OK” của người da trắng thượng đẳng, nhưng với một số người khác thì đây giống cử chỉ ban phép lành thường thấy trong các tượng chính thống giáo.
Tôi đang phân tích chi tiết hình ảnh vô nghĩa nhưng lại rất có ý nghĩa – có lẽ không theo cách như A.I. dự định, nhưng minh họa cho một khoảnh khắc chính trị, văn hóa và tôn giáo.
Hình ảnh được nhiều người nghĩ Chúa đã can thiệp một cách kỳ diệu và trực tiếp để cứu ông Trump thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Viên đạn do Thomas Crooks bắn lẽ ra phải trúng hộp sọ, nhưng nó chỉ sượt qua tai, cứu ông, giải thoát ông để ông tiếp tục làm bất cứ chuyện gì ông muốn làm.
Và có lẽ đó là những gì Chúa đã làm! Tôi không biết Chúa làm gì hoặc không làm gì. Tôi không ảo tưởng Đấng toàn năng cân nhắc cẩn thận các quyết định của Ngài dựa trên phản ứng của một người trung niên thường ở trên mạng như tôi. Đường lối của Chúa không phải là đường lối của tôi, và tôi tạ ơn Chúa vì điều này.
Hoặc có thể chỉ là sự trùng hợp vô nghĩa khi viên đạn trượt. Có thể có con ruồi đen đã chích vào khuỷu tay của tay súng vào lúc nguy kịch, đủ để hắn giật mình bắn trệch vài milimét. Hoặc có thể hắn không phải là tay súng giỏi. Tôi không biết.
Rất nhiều người bình luận họ nghĩ như họ biết hết. Một linh mục đã cầu nguyện cho ông Trump được an toàn trước khi ông phát biểu, như thế có phải lời cầu nguyện của linh mục không được nhận lời sao? Chúa rõ ràng đã không nhận lời! Nhưng, có người phản đối, vì sao trên đời này Chúa lại tha mạng cho một tên bất trung sắp tàn phá không thể tưởng tượng cho quốc gia chúng ta một lần thứ hai nữa đó sao? Chúa sẽ không bao giờ làm như vậy!
Nhưng một khi chúng ta bắt đầu suy nghĩ về những gì Chúa làm và không làm, chúng ta sẽ rơi vào thế giới của những câu hỏi không có câu trả lời. Nếu Chúa, Đức Mẹ hay Thiên thần đẩy viên đạn đó trệch hướng để cứu mạng cựu tổng thống, nhưng vì sao Chúa lại để viên đạn khác bắn trúng vào đầu anh Corey Comperatore? Làm sao mà Mẹ Maria lại bình thản như vậy khi Mẹ biết điều này sắp xảy ra? Có phải vì ông Trump quyền lực hơn và do đó quan trọng hơn những người bình thường khác không? Có phải vì Đức Mẹ biết mọi người sẽ được truyền cảm hứng từ cái chết anh hùng của người đàn ông này, và như thế sẽ khơi dậy những điều tốt đẹp nhất cho những người nghe câu chuyện này không?
Nhưng có một số người khi nghe ông Comperatore dũng cảm hy sinh, lại cho điều này không quan trọng, vì chỉ có những kẻ phát xít mới có mặt tại cuộc mít tinh của ông Trump, và “những kẻ phát xít không phải là con người” (chính mắt tôi đọc phản hồi này trên Facebook). Một số người nói ông không xứng đáng được khen ngợi vì ông đã nói những điều không tốt về người Palestine trên Twitter, vì thế việc ông ra đi cũng chẳng sao. Chúng ta phải tự hỏi: Nếu sự sống sót của ông Trump là ý Chúa, thì vì sao Chúa lại không lo việc này sẽ tạo những chuyện tồi tệ nhất nơi nhiều người?
Câu trả lời: chúng ta từ chối chơi trò chơi này. Chúa không ấn tượng với quyền lực của một ứng cử viên chính trị (kể cả người mà chúng ta ủng hộ), và Ngài không mong muốn một ai (kể cả kẻ thù chính trị của chúng ta) phải chịu đau khổ và nhục nhã. Khi chúng ta đưa những ý tưởng xấu xa này ra ánh sáng, chúng ta phải thấy chúng ghê tởm đến mức nào.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cầu nguyện. Chúng ta vẫn cầu xin Chúa ban mọi sự được tốt đẹp. Nếu chúng ta không nghĩ Chúa lắng nghe và nhận lời cầu nguyện của chúng ta, thì tại sao chúng ta lại bận tâm?
Thật kỳ lạ, việc suy ngẫm về hình ảnh kỳ diệu của Mẹ Maria do A.I tạo ra đã cho tôi một số suy nghĩ mới về sự quan phòng của Chúa.
Tôi thấy một hình ảnh khác trên mạng xã hội. Nó không được chú ý nhiều như hình ảnh Đức Mẹ Maybelline gạt viên đạn sang một bên, nhưng nó đã chạm đến trái tim tôi. Chỉ vài giờ sau vụ ám sát, Matt Swaim chia sẻ một bức ảnh thánh giá, anh viết: “Thế giới quay cuồng, cây thánh giá vẫn đứng yên, Stat crux dum volvitur orbis.”
Đó không phải là hình ảnh bắt mắt, không có sức hấp dẫn bóng bẩy của A.I. Nhưng nó có tất cả những gì chúng ta muốn và tất cả những gì chúng ta cần. Đó là những gì tôi muốn nói.
Theo tôi hiểu, A.I. là sự kết hợp giữa những mong muốn trực tiếp của chúng ta (với những ẩn ý bí mật của những mong muốn không được nêu ra len vào cách chúng ta định hình các yêu cầu của mình), cộng với các yếu tố ngẫu nhiên mà thuật toán diễn giải là mong muốn, dựa trên những thứ như tính phổ biến.
Nhưng không có ý chí trong chương trình A.I., và đó là lý do vì sao nó thường bao gồm các chi tiết khó hiểu và gây khó chịu đi kèm với những gì chúng ta cần. Nó thực sự không biết và không thể biết bất cứ điều gì, và nó thực sự không muốn và không thể muốn bất cứ điều gì. Nó nhằm mục đích làm hài lòng, nhưng nó không muốn làm hài lòng. Nó không có ý thức theo bất kỳ cách nào. Nó vốn hỗn loạn, không phải vì nó không thể đoán trước, mà vì nó không có tâm trí, không có lý do. Nó là sự kết hợp giữa mong muốn của người dùng và… một khoảng trống. Một sự thiếu hiểu biết không thể chữa khỏi, tích lũy ngày càng nhiều dữ liệu, nhưng không bao giờ có thể thực sự biết bất cứ điều gì, giống như đàn ong bắp cày xây tổ xung quanh hư không. Dưới hình thức nhu cầu, nó lấy nhân tính, mong muốn và yêu cầu của chúng ta, tràn ngập sự trống rỗng. Tất cả những gì nó có thể làm là cho chúng ta thấy chính mình, nhưng đã bị phi nhân tính hóa.
Không giống như thập giá. Thập giá đứng yên, dù thế giới xoay chiều như thế nào.
Và đó là nơi sự quan phòng của Chúa ngự trị.
Bên trong đường ngắm của thập giá là ý Chúa. Đó là hình ảnh duy nhất về sự quan phòng mà chúng ta có thể tin tưởng. Bao gồm cả cái chết của người mình yêu và sự sống vĩnh cửu; vừa mất mát khủng khiếp, vừa là ơn không thể tưởng tượng; cả nỗi đau vô nghĩa và sự hy sinh mang lại ý nghĩa cho mọi thứ khác tồn tại. Có lý do thực sự: có Lời.
Đôi khi ý Chúa, quan phòng của Ngài làm chúng ta bối rối và bất an. Chúng không phải là những gì chúng ta cầu xin, không phải là những gì chúng ta muốn, không phải những gì chúng ta có thể dễ dàng hiểu được. Nhưng điều tạo nên tất cả sự khác biệt là ở cốt lõi của nó. Không phải là khoảng không, mà là nguồn nước, tưới mát cho nhân loại, để nhân loại phát triển mạnh mẽ. Ở cốt lõi của nó là trật tự và là nguồn gốc của mọi ý nghĩa. Sự quan phòng của Chúa lấy những gì chúng ta là, những gì chúng ta biết và những gì chúng ta muốn, và làm cho chúng ta nên giống Chúa.
Tôi không biết Chúa sẽ làm gì hoặc sẽ không làm gì, và bạn cũng không biết. Có lẽ Chúa đã cứu mạng ông Trump, cho ông cơ hội để ông ăn năn hoán cải, nhìn lại cuộc sống của mình một cách rõ ràng lần đầu tiên; và nếu vậy, thì với ý chí tự do như bất cứ ai, ông có thể quyết định điều gì ông sẽ làm tiếp theo, và ông sẽ mang theo các chọn lựa của ông bước vào đời sống vĩnh hằng, như cuối cùng ông sẽ làm. Chúng ta không biết và không thể biết.
Điều chúng ta có thể biết là những gì đã xảy ra trên sân khấu hôm đó là cơ hội để tất cả chúng ta ăn năn, hoán cải, nhìn nhận cuộc sống của chính mình một cách rõ ràng; và, với ý chí tự do, chúng ta có thể quyết định điều gì sẽ làm tiếp theo, sau khoảnh khắc kinh hoàng, khó hiểu và nản lòng này của lịch sử nước Mỹ.
Sau khi chứng kiến những gì chúng ta đã thấy, bây giờ chúng ta sẽ hành động như thế nào? Chúng ta sẽ cư xử với nhau như thế nào? Chúng ta sẽ nói về nhau như thế nào? Chúng ta sẽ mang theo những lựa chọn đó khi bước vào cuộc sống vĩnh hằng, như cuối cùng chúng ta sẽ làm. Chúng ta có để thập giá dẫn dắt chúng ta không?
Nếu Chúa đã can thiệp vào lịch sử, Ngài đã làm điều đó vì tất cả chúng ta. Mỗi ngày chúng ta được ân sủng tiếp tục sống là một ngày để thấy mình trong những đường ngắm bí ẩn đó. Một thánh giá được dựng lên. Stat crux.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết đây là lần thứ tư Đức Tổng giám mục Antonij được Đức Thánh cha tiếp kiến, lần đầu ngày 05 tháng Tám năm 2022, tức là hai tháng sau khi Đức Tổng giám mục được bổ nhiệm vào chức vụ này thay thế Đức Tổng giám mục Hilarion, được bổ làm Tổng giám mục Giáo phận Chính thống Nga ở Hungary.
Do lập trường ủng hộ cuộc chiến tranh của Nga chống Ucraina, Đức Thượng phụ Kirill, Giáo chủ Chính thống Nga, bị nhiều Giáo hội Kitô khác tẩy chay, nhưng Tòa Thánh vẫn mở ngỏ cánh cửa đối thoại với Chính thống Nga. Tại Nga và các nước vùng Baltique, các tín hữu Chính thống Nga bị nhà cầm quyền địa phương gia tăng kiểm soát và đặc biệt tại Ucraina, Giáo hội Chính thống Ucraina thuộc Tòa Thượng phụ ở Mascơva gặp rất nhiều hạn chế, nếu không muốn nói là bị bách hại.
Trong sắc lệnh công bố hôm 16 tháng Bảy, Bộ công bố phán quyết tích cực về những thành quả thiêng liêng, tiếp sau cũng cuộc hiện ra của Đức Mẹ với Cosimo Fragomeni, ở Santa Domenica, làng Placanica, miền Calabria, nam Ý. Bộ không phán quyết về nguồn gốc siêu nhiên của các cuộc hiện ra, nhưng các tín hữu được phép tin nhận.
Trong Sắc lệnh trả lời cho thư đề ngày 03 tháng Sáu vừa qua của Đức cha Francesco Oliva, Giám mục Giáo phận Locri-Gerace, Đức Hồng y Tổng trưởng, Victor Fernandez viết: “Trong một thế giới tục hóa chúng ta đang sống, có bao nhiêu người sống mà không có sự tham chiếu nào về sự siêu việt. Sự kiện các tín hữu đến Đền thánh Đức Mẹ Scoglio là một dấu chỉ đức tin mạnh mẽ” và ngài xác nhận việc Đức Thánh cha đề nghị không có gì ngăn trở là “không có gì ngăn trở” (Nihil obstat).
Theo quy luật mới của Bộ Giáo lý đức tin, việc tuyên bố “không có gì ngăn trở” việc các tín hữu tin và lui tới Đền thánh Đức Mẹ không có nghĩa là xác nhận tính cách siêu nhiên của hiện tượng, nhưng là một sự nhìn nhận một “kinh nghiệm về Thánh Linh”. Vì thế, Bộ khuyến khích Đức giám mục Giáo phận đánh giá cao giá trị mục vụ và cổ võ việc phổ biến đề nghị thiêng liêng này, kể cả qua các cuộc hành hương, trong đó các tín hữu được phép tin nhận những biến cố hiện ra ấy một cách thận trọng.”
Lai lịch Đền thánh
Lịch sử Đền thánh bắt đầu cách đây 56 năm: ngày 11 tháng Năm năm 1968, Đức Mẹ đã hiện ra lần đầu tiên với Cosimo Fragomeni, một nông dân khiêm hạ 18 tuổi.
Theo lời kể của anh Cosimo, cuộc hiện ra lần đầu tiên của Đức Mẹ, hồi năm 1968 khởi sự với một luồng sáng đến từ một tảng đá ở gần nhà anh và được lập lại trong bốn ngày liên tiếp. Trong những sứ điệp được Cosimo kể lại, Đức Mẹ mời gọi hoán cải và cầu nguyện, đồng thời bày tỏ ý muốn thấy nơi này thành một trung tâm lớn về linh đạo, nơi mà con người có thể gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa. Cosimo đã phá khu rừng quanh tảng đá, làm thành một khu đất bằng và khoét tảng đó thành một cái hốc để đặt một tượng Đức Mẹ bằng đá cẩm thạch, mua ở Carrara.
Nơi đó, chẳng bao lâu sau trở thành nơi hành hương. Các tín hữu đến từ các nơi ở Ý và các nước khác. Ban đầu chỉ là một nhà nguyện nhỏ nhưng sau đó thành một Đền thánh lớn. Năm 1987, Cosimo trở thành một thành viên Dòng Phanxicô tại thế.
Ngày 07 tháng Mười Hai năm 2008, Đức cha Fiorii Morosini, đặt Đền thánh Đức Mẹ Tảng Đá dưới sự chăm sóc của Giám mục giáo phận. Ngày 22 tháng Năm năm 2013, ông Cosimo được Đức giám mục đi kèm, đã xin Đức Thánh cha Phanxicô làm phép viên đá đầu tiên để xây Đền thánh Tảng Đá. Ba năm sau, Đức cha Oliva, Giám mục bản quyền nâng nơi này thành Đền thánh giáo phận và năm sau, 2017, ngài ủy thác cho các Thừa sai Loan báo Tin mừng đảm trách việc mục vụ tại Đền thánh này.
Trong sắc lệnh, Đức Hồng y Fernandez đề cao những hoa trái thiêng liêng đời sống Kitô tại Đền thánh Đức Mẹ Tảng Đá, tinh thần cầu nguyện, một số ơn gọi linh mục và tu sĩ, chứng tá bác ái và lòng sùng mộ chân thành tại đây.
Trong sắc lệnh công bố hôm 18 tháng Bảy vừa qua, Tòa Ân giải tối cao cho biết đáp lời xin của Đức Hồng y Kevin Joseph Farrell, Bộ trưởng bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, Tòa Ân giải tối cao ban ơn toàn xá cho các ông bà nội ngoại và người già cũng như tất cả các tín hữu, với tinh thần thống hối chân thành và lòng bác ái tham dự các buổi lễ cử hành nhân ngày này ở các nơi trên thế giới.
Ơn toàn xá được ban với những điều kiện thường lệ, như xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Thánh cha, và với mục đích gia tăng lòng sùng mộ của các tín hữu và phục vụ phần rỗi của các linh hồn. Ơn này có thể nhường lại cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng được ban cho các tín hữu, trong ngày 28 tháng Bảy, dành thời giờ thích hợp để viếng thăm những người già túng thiếu và ở trong hoàn cảnh khó khăn như bệnh tật, lẻ loi, khuyết tật, v.v. Cả những người già bệnh tật và những người không thể ra khỏi nhà vì lý do trầm trọng, nhưng hiệp ý tham dự các lễ nghi thánh trong Ngày Thế giới người cao tuổi, dâng kinh nguyện và tất cả những đau khổ của cuộc sống cho Thiên Chúa đầy lòng xót thương, khi tham dự các buổi lễ được truyền đi qua các phương tiện truyền thông, vì cũng được hưởng ơn toàn xá.
Sau cùng, Tòa Ân giải tối cao khuyến khích các linh mục, có năng quyền giải tội, hãy sẵn sàng và quảng đại ban bí tích này để các tín hữu khác có cơ hội lãnh nhận ơn Chúa.
Trong thánh lễ khai mạc, Đức Hồng y Christophe Pierre, người Pháp, Sứ thần Tòa Thánh tại Mỹ, khẳng định rằng: “Thánh Thể là một hồng ân vô biên cho sự hiệp nhất của Giáo hội và là nguồn mạch sự hiệp nhất ấy”. Ngài mời gọi các tín hữu đi xa hơn việc những thực hành sùng mộ gắn liền với Thánh Thể và chăm sóc tương quan với Chúa Kitô để học cách cư xử khác với tha nhân, chấp nhận người khác trong nghịch cảnh của họ.
Đức Hồng y giải thích rằng để thực hiện sự hiệp nhất, ta nên tự hỏi: “Sự phục hưng Thánh Thể là gì? Cụ thể là ‘làm thế nào để biết rằng ta đang cảm nghiệm sự phục hưng Thánh Thể?’. Sự phục sinh Thánh Thể đích thực, tuy luôn luôn có những việc thực hành sùng mộ, như chầu Mình Thánh Chúa, phép lành Mình Thánh Chúa, giáo lý, các cuộc rước kiệu Thánh Thể, nhưng sự phục hưng cần phải đi xa hơn nữa, cần nhìn thấy Chúa Kitô trong tha nhân, không những trong gia đình mình, nơi các bạn hữu và cộng đoàn của mình, nhưng cả nơi những người chúng ta cảm thấy xa cách, vì họ thuộc chủng tộc hoặc giai tầng xã hội khác, nơi những người khác cách suy tư của chúng ta hoặc có những ý kiến khác biệt. Khi chúng ta gặp những người ấy, Chúa Kitô ở đó như một cây cầu, liên kết tất cả các dân tộc, vốn là con cái của cùng một Cha trên trời, và được kêu gọi có cùng một vận mệnh vĩnh cửu”.
Trong ba năm qua, để chuẩn bị tinh thần cho Đại hội Thánh Thể hiện nay, trên toàn nước Mỹ, các tín hữu đã tham dự các cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa ở địa phương, trên các đường phố. Họ cũng tham gia các buổi học hỏi về bí tích Thánh Thể, với tất cả những hệ luận và sứ vụ đi kèm.
Chúa nhật, ngày 21 tháng Bảy này, Đức Hồng y Luis Tagle, người Philippines, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, trong tư cách là Đặc sứ của Đức Thánh cha, sẽ chủ sự thánh lễ bế mạc Đại hội Thánh Thể tại Mỹ.
Đức cha Cozzens nói rằng các Giám mục Mỹ lấy cảm hứng từ Tông huấn Niềm vui Tin Mừng của Đức Thánh Cha về việc loan báo Tin Mừng trong thế giới hôm nay. Ngài nói: “Gặp gỡ và truyền giáo là hai yếu tố chính trong Cuộc Phục hưng Thánh Thể của chúng tôi tại Đại hội. Chúng tôi muốn mọi người gặp gỡ Chúa Giêsu và sau đó cử họ đi truyền giáo, điều mà tất nhiên chúng tôi đã nhận được từ Evangelii gaudium”.
Hàng ngàn tín hữu hành hương quy tụ tại thành phố Indianapolis từ ngày 17-21/7 tham dự Đại hội Thánh Thể Toàn quốc lần thứ 10. Trước đó, từ ngày 17/5, hơn 100.000 tín hữu đã tham dự vào các chặng khác nhau của 4 hành trình hành hương từ bốn hướng của nước Mỹ về Indianapolis, với đoạn đường hơn 10.000 km.
Trưa ngày 16/7, sau khi các tín hữu của tuyến đường hành hương phía bắc đến trung tâm thành phố Indianapolis, Đức Tổng Giám mục Charles C. Thompson của Indianapolis đã chủ sự Thánh lễ chào đón. Cùng đồng tế với ngài có nhiều giám mục, trong đó có Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, đặc sứ của Đức Thánh Cha tại Đại hội, và Đức cha Andrew Cozzens, Giám mục giáo phận Crookston và cũng là Chủ tịch ủy ban tổ chức Đại hội.
Trở thành môn đệ truyền giáo
Đức cha Chủ tịch ủy ban tổ chức Đại hội Thánh Thể chia sẻ về những kỳ vọng của ngài đối với Đại hội Thánh Thể: “Chúng tôi mong đợi được thấy những phép lạ - bởi vì khi mọi người đến với nhau nhân Danh Chúa Giêsu, Người tỏ hiện một cách mạnh mẽ. Vì vậy, chúng tôi mong đợi những sự hoán cải sâu sắc, sự chữa lành và trên hết là một sự phát triển thực sự trong tinh thần truyền giáo”.
Nhấn mạnh chủ đề của năm thứ ba và năm cuối cùng của Cuộc Phục hưng Thánh Thể, Đức cha Cozzens nói: “Mục tiêu của chúng tôi là giúp Giáo hội tại Hoa Kỳ thực hiện sự biến đổi này mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi, sự biến đổi truyền giáo, để chúng ta có thể trở thành những người truyền giáo mà chúng ta được kêu gọi trở thành”.
Ngài nói thêm: “Chúng tôi thực sự cảm thấy vinh dự được tụ họp vào thời điểm mà thế giới của chúng ta thực sự cần đến Chúa Giêsu và sự sống của Người. Chúng ta biết rằng Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã ban sự sống của Người cho thế giới. Và chúng tôi muốn được bừng cháy để có thể mang Người đến với những người cần được giúp đỡ nhất”.
Sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ: Phục hưng Thánh Thể thực sự đưa tới hiệp nhất
Đức Hồng Y Christophe Pierre giải thích với các tín hữu rằng sự hiện diện của ngài là dấu chỉ cho thấy “sự gần gũi về mặt tinh thần và sự hiệp nhất của Đức Thánh Cha Phanxicô với anh chị em và với quốc gia này”.
“Là một ân ban tuyệt vời khi chúng ta có thể hiệp nhất như một Giáo hội qua Đức Thánh Cha”, ngài nói đồng thời nhắc lại rằng Thánh Thể cũng là một hồng ân vô giá cho sự hiệp nhất. Vì thế ý chỉ cầu nguyện chính cho Đại hội là “xin cho chúng ta, với tư cách là một Giáo hội, có thể lớn lên trong sự hiệp nhất, để chúng ta có thể sinh hoa trái hơn trong sứ vụ”.
Theo Đức Hồng Y Pierre, để nhận ra sự hiệp nhất này, cần phải đặt câu hỏi: “Phục hưng Thánh Thể là gì? Làm thế nào để biết rằng chúng ta đang trải nghiệm sự phục hưng Thánh Thể?”. Ngài giải thích mặc dù luôn phải có lòng sùng kính Bí tích như thờ phượng, phép lành, giáo lý và rước kiệu, phục hưng Thánh Thể thực sự phải vượt ra ngoài các thực hành này, có nghĩa là nhìn thấy Chúa Kitô trong người khác, không chỉ trong gia đình, bạn bè và cộng đoàn. Sự phục hưng thực sự có nghĩa là nhìn thấy Chúa Kitô ngay cả trong những người mà chúng ta cảm thấy bị chia rẽ, dù là về chủng tộc hay giai cấp, hay những người thách đố cách suy nghĩ của chúng ta, hoặc những người có suy nghĩ khác với chúng ta.
Đức Hồng Y Pierre nói: “Khi chúng ta gặp những người như vậy, Chúa Kitô hiện diện để trở thành nhịp cầu, hiệp nhất mọi dân tộc, những người là con của cùng một Cha trên trời và được kêu gọi đến cùng một số phận đời đời”.
Ở điểm này, ngài khẳng định những nỗ lực nhằm xây dựng những cây cầu hiệp nhất là dấu chỉ canh tân Thánh Thể thực sự. Khi cử hành Thánh Thể, Kitô hữu trải nghiệm Chúa Giêsu, Đấng đã xây cây cầu đầu tiên bằng cách trở thành con người ngay cả khi nhân loại xa cách Người. Vì thế, tin Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Thánh Thể dưới hình bách và rượu là chưa đủ, cần phải tin Người hiện diện trong cộng đoàn đức tin của Người, và cả nơi những người đang gặp thách đố để liên kết với Người vì những vết thương, nỗi sợ hãi hoặc tội lỗi. Hơn nữa, tôn thờ thiết yếu ở tương quan của chúng ta với Chúa Kitô, và từ đó học cách thiết lập tương quan với người khác theo cách tôn thờ sự hiện diện của Chúa trong họ.
Sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ kết thúc với lời mời gọi mọi người “cầu nguyện cho sự canh tân Thánh Thể đích thực”, để mắt chúng ta được mở ra và chúng ta có thể học cách suy nghĩ khác. Như thế sự phục hưng Thánh Thể phải dẫn đến “sự hoán cải mục vụ” và kêu gọi các tín hữu cầu xin Chúa cho thấy những nơi có sự chống đối, để khi để Chúa dẫn dắt, “chúng ta có thể trở thành những tông đồ đích thực trong Vương quốc của Người”.
Đầu bài giảng, Đức Hồng y Tagle đã chào mọi người hiện diện bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Hoa, Việt Nam, Tây Ban Nha, Pháp và Ý. Đức Hồng y kể rằng trước khi lên đường sang Mỹ, ngài đã gặp Đức Giáo hoàng để hỏi xem người có điều gì nhắn nhủ các tín hữu tại Đại hội hay không, Đức Giáo hoàng đáp: “Hãy hoán cải, trở về với Thánh Thể!”. Đi từ lời mời gọi này của Đức Thánh cha, Đức Hồng y Đặc sứ đã trình bày những suy tư về mối liên hệ giữa hoán cải Thánh Thể và hoàn cải thừa sai, vì cuối thánh lễ này, có nghi thức sai các Thừa sai Thánh Thể ra đi.
Đức Hồng y Tagle đề cập đến “Sứ mạng truyền giáo và Hồng ân”, đi từ bài Tin mừng kể lại việc Chúa Giêsu sai các môn đệ đi loan báo Tin mừng, và nói rằng “thừa sai là một hồng ân, vì thế nơi nào thiếu lòng nhiệt thành truyền giáo, có thể là vì tại đó thiếu sự ý thức và quý chuộng những hồng ân đã nhận lãnh nhưng không. “Nếu viễn tượng này biến mất, nếu chân trời của chúng ta chỉ là chân trời thành công và lợi lộc, thì sẽ không còn chỗ để thấy và lãnh nhận các hồng ân nhưng không nữa”. Một số người thích liên hệ hơn với các bạn bè hoặc với những hẹn hò do trí tuệ nhân tạo mang lại, vì họ không thấy những hồng ân, những món quà, nơi những người bằng xương bằng thịt”. Tình trạng này phải nêu lên một loạt các câu hỏi cho lương tâm của các tín hữu, linh mục, giáo dân, tu sĩ, giám mục, những người cha người mẹ gia đình.
Đức Hồng y Tagle cũng nhận xét rằng khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ hãy đón nhận Người, điều này trước tiên có nghĩa là hãy tin tưởng nơi Chúa, đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Đã có những người bắt đầu nghi ngờ điều đó, họ bỏ Chúa ra đi. Và Đức Hồng y đặt câu hỏi: Phải chăng chúng ta cũng là những môn đệ đã góp phần làm cho nhiều người khác xa lìa đức tin? Các cộng đoàn giáo xứ của chúng ta có cống hiến một kinh nghiệm về sự gần gũi và chăm sóc của Chúa Giêsu hay không? Các gia đình chúng ta có còn là những người chủ yếu giáo dục và thông truyền đức tin hay không? Những người trẻ có cảm thấy được lắng nghe và cảm thông trong việc tìm kiếm Chúa Giêsu hay không? Bao nhiêu người gọi là “ẩn náu”, những người nghèo, người di dân, người cao tuổi, vô gia cư, thổ dân, có thể cảm thấy lạc lõng và xa lạ, nhưng chúng ta đừng nản chí. Chúa Giêsu sẽ không mệt mỏi đến với chúng ta và sự hiến mình cho chúng ta, cả khi Ngài bị thương tổn”.
Sau cùng, Đức Hồng y Đặc sứ của Đức Thánh cha mời gọi các thừa sai Thánh Thể hãy ra đi và trao tặng, chia sẻ tình thương yêu dịu dàng của Chúa Giêsu cho những người mệt mỏi và đang cần được cảm thông. Đức Hồng y nói Tagle nói: “Trong thư bổ nhiệm gửi cho tôi, Đức Thánh cha Phanxicô đã bày tỏ hy vọng rằng những tín hữu tham dự Đại hội Thánh Thể ở Indianapolis, hoàn toàn ý thức về những hồng ân đại đội mà họ lãnh nhận từ thần lương thiên quốc, có thể thông truyền cho tha nhân”.
Sau cùng, Đức Hồng y Đặc sứ kể lại một kinh nghiệm bản thân: khi còn là cha sở, ngài nhận thấy có một bà rất sốt sắng, tận tụy đối với nhà thờ. Mỗi Chúa nhật bà đều đến sớm để giúp mọi thánh lễ và làm các công việc khác. Bà chỉ trở về nhà sau khi nhà thờ được dọn dẹp sạch sẽ và ngăn nắp trước khi đóng cửa.
Một hôm, Đức Hồng y cám ơn sự tận tụy của bà và cám ơn gia đình bà đã để cho bà phục vụ như vậy. Câu trả lời của bà làm ngài ngạc nhiên. Bà đáp: “Thưa cha, cha đừng bận tâm về gia đình con. Con ở lại đây trong nhà thờ để tham dự mọi thánh lễ, vì con không muốn nhìn thấy chồng và các con cái của con. Con muốn mỗi ngày đều là Chúa nhật, như vậy con có thể tránh gặp gia đình con”.
Và Đức Hồng y Tagle kết luận rằng: “Các bạn thân mến, khi linh mục hoặc phó tế nói “thánh lễ đã xong. Anh chị em hãy đi bình an!”, điều này có nghĩa là những gì anh chị em đã nghe, đã động chạm đến, đã nếm hưởng, anh chị em cần chia sẻ với những người khác để thế gian được sống”.
Cuối thánh lễ, Đức cha Andrew Cozzens, Giám mục Giáo phận Crookston, bang Minnesota, Chủ tịch ban Phục hưng Thánh Thể, thông báo rằng các giám mục Mỹ có dự án tổ chức Đại hội Thánh Thể toàn quốc lần thứ XI, vào năm 2033, Năm Cứu Độ, đánh dấu 2000 năm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra, Đức cha cũng thông báo rằng vào năm tới, 2025, một cuộc hành hương Thánh Thể, từ Indianapolis đến Los Angeles, cách nhau hơn 3.300 cây số.
Đức Tổng giám mục Balestrero đã trình bày lập trường của Tòa Thánh, trong khóa họp thứ hai, từ ngày 22 tháng Bảy đến ngày 02 tháng Tám tới đây, của Ủy ban chuẩn bị Hội nghị duyệt xét hiệp ước không làm lan tràn vũ khí hạt nhân, gọi tắt là TNT, sẽ nhóm vào năm 2026 tới đây. Ủy ban này nhắm tìm ra một thỏa thuận về một dự thảo văn bản để thay đổi Hiệp ước đã được thông qua và mở cho các quốc gia ký tên, rồi bắt đầu có hiệu lực từ năm 1970. Hiện có 191 nước tham gia hiệp ước, trong đó có năm nước sở hữu vũ khí hạt nhân.
Trong bài tham luận, Đức Tổng giám mục Balestrero nói: “Tòa Thánh rất lo âu vì sự đe dọa sinh tử mà việc lan tràn hạt nhân mà các vũ khí hạt nhân tiếp tục đề ra... Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng nhấn mạnh về sự vô luân của việc chế tạo và sở hữu các vũ khí hạt nhân”.
Ngoài ra, Đức Tổng giám mục Đại diện Tòa Thánh cũng báo động về những chi phí quân sự gắn liền với các vũ khí hạt nhân, trong 5 năm qua, những chi phí gắn liền với các vũ khí hạt nhân đã tăng vọt.... “Đó là một sự sỉ nhục đối với nhân loại, trước những tổn thất nặng nề mà một cuộc xung đột hạt nhân có thể gây ra. Trong khi nhiều cường quốc hạt nhân đang xung đột công khai, như Israel hoặc Nga, Đức Tổng giám mục Balestrero khẳng định rằng sự tìm kiếm đối thoại là một điều không ngừng”. Đức Tổng giám mục nói:
“Những cuộc xung đột võ trang hiện nay, đặc biệt là chiến tranh tại Ucraina, giúp nhắc nhở rằng sự tìm kiếm đối thoại phải không ngừng và sự sử dụng các vũ khí hạt nhân và các vũ khí tàn sát tập thể khác, là một sự gia tăng rủi ro, chỉ tạo nên một ảo tưởng hòa bình, như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết trong thư gửi Đức giám mục Giáo phận Hiroshima, ngày 19 tháng Năm năm ngoái (2023), nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh của khối G7 tại đây”.
Đức Tổng giám mục Balestrero nhắc lại lời kêu gọi Tòa Thánh hãy dùng những chi phí rất to lớn định dành cho các dự án phát triển và tân trang vũ khí hạt nhân vào các dự án phát triển đáp ứng các nhu cầu cấp thiết và đại đồng của những người dân nghèo khổ và dễ bị tổn thương hơn. Về điểm này, từ lâu Tòa Thánh đã đề nghị thiết lập một ngân quỹ thế giới, được tài trợ một phần nhờ số tiền lẽ ra dùng vào các chi phí quân sự, hầu xóa bỏ nghèo đói và thăng tiến phát triển tại các nước nghèo nhất, để góp phần thực hiện một nền văn hóa sự sống và hòa bình”.
Nội dung quy luật mới
Quy luật mới về vấn đề này, được Bộ giáo lý đức tin công bố trong cuộc họp báo sáng ngày 17/5 vừa qua và có hiệu lực từ ngày 19/5 sau đó. Quy luật mang chữ ký của Đức Hồng Y Tổng trưởng Victor Manuel Fernández, và vị Tổng thư ký là Đức Tổng Giám Mục Armando Matteo, với sự phê chuẩn của Đức Thánh Cha.
Điểm mới trong văn kiện này là từ nay giáo quyền có thể tuyên bố mau lẹ hơn so với trước đây về lòng sùng mộ bình dân, và trên nguyên tắc, không đòi sự can dự của quyền bính Giáo Hội trong sự tuyên định chính thức về tính cách siêu nhiên của một hiện tượng có thể đòi rất nhiều thời gian để nghiên cứu sâu rộng.
Một điểm mới khác là sự can dự rõ ràng hơn của Bộ giáo lý đức tin, cơ quan này sẽ phải phê chuẩn quyết định chung kết của Giám Mục và có năng quyền can thiệp trực tiếp bất cứ lúc nào. Trong nhiều trường hợp xảy ra những thập niên gần đây, các Giám Mục liên hệ đã bày tỏ lập trường về những vụ hiện ra hoặc hiện tượng siêu nhiên, có sự can dự của Bộ Giáo Lý đức tin, nhưng hầu như luôn luôn là có sự can thiệp đàng sau và yêu cầu không công khai.
Bây giờ, điều thúc đẩy sự can dự rõ ràng của Bộ cũng vì khó khăn trong việc giới hạn ở bình diện địa phương các hiện tượng lan rộng toàn quốc và thậm chí cả quốc tế nữa, “vì thế một quyết định tại một giáo phận cũng có những hệ quả ở các nơi khác”.
Lý do văn kiện cập nhật
Nguồn gốc văn kiện cập nhập này là kinh nghiệm lâu dài trong thế kỷ vừa qua, với những trường hợp Giám Mục địa phương phán quyết về đặc tính siêu nhiên trong thời gian rất mau lẹ, rồi sau đó Bộ giáo lý đức tin phải nói ngược lại. Hoặc những vụ một Giám Mục phán quyết một đàng, và Giám Mục kế nhiệm nói ngược lại về cùng một hiện tượng. Rồi cần những thời gian dài để thẩm định tất cả các yếu tố để đi tới quyết định xem đó có phải là hiện tượng siêu nhiên hay không. Thời gian dài như thế nhiều khi đi ngược với sự cấp thiết phải sớm đưa ra những câu trả lời mục vụ vì thiện ích của các tín hữu.
Trong cuộc họp báo để trình bày văn kiện, Đức Hồng Y Fernandez giải thích rằng “bao nhiêu lần những hiện tượng ấy đã tạo nên rất nhiều hoa trái thiêng liêng, sự tăng trưởng đức tin, lòng sùng mộ và tình huynh đệ, sự phục vụ, và trong một số trường hợp đã tạo nên một số Đền thánh rải rác các nơi trên thế giới, mà ngày nay những nơi này ở nơi trọng tâm lòng sùng mộ của nhiều dân tộc”.
Những khía cạnh tiêu cực
Nhưng cũng có thể có một số vụ được coi là có nguồn gốc siêu nhiên nhưng rồi chúng tỏ ra nhiều khía cạnh nguy hiểm, gây hại cho các tín hữu, những vụ trong đó “lợi lộc, quyền hành, danh tiếng xã hội, tư lợi” tới độ thống trị trên con người hoặc mang lại những vụ lạm dụng”. Cũng có thể có những sai lầm về đạo lý, thái độ quá thu hẹp trong việc trình bày sứ điệp Tin Mừng, phổ biến một thái độ phe phái”. Cũng có khi “các tín hữu bị lôi kéo vào một biến cố, gán cho sáng kiến đó cho Chúa”, nhưng thực tế chỉ là kết quả của tưởng tượng, thích huyền thoại hoặc xu hướng ngụy tạo của người nào đó.
6 nhận định có thể có về hiện tượng
Theo luật, “Giám Mục giáo phận, Hội đồng Giám Mục và cả Bộ giáo lý đức tin không có quyền tuyên bố các hiện tượng là có nguồn gốc siêu nhiên, và chỉ có Đức Thánh Cha mới có thể cho phép đưa ra lời xác nhận như vậy” (I,23).
Sau khi phân định về những hiện tượng hiện ra hoặc siêu nhiên, có thể có 6 kết luận:
- Trước tiên là Nihil Obstat: không có gì ngăn trở, nhận xét này không bày tỏ sự xác quyết đó là một hiện tượng siêu nhiên, nhưng nhìn nhận những dấu chỉ hành động của Thánh Linh.
- Thứ hai là “Prae oculis habeatur”, nhìn nhận những dấu chỉ tích cực, nhưng cũng có những yếu tố gây lẫn lộn hoặc có nguy cơ đòi phân định và đối thoại với người tiếp nhận.
- Thứ ba là “Curatur”: có những yếu tố đáng phê bình, nhưng có một sự phổ biến rộng rãi với những hoa trái thiêng liêng có thể kiểm chứng được. Vì thế không nên đưa ra lệnh cấm, có thể làm cho các tín hữu xôn xao, nhưng mời gọi Giám Mục không nên khuyến khích hiện tượng này.
- Thứ tư là “Sub mandato”: Những điểm gây vấn đề không gắn liền với chính hiện tượng, nhưng nó có thể bị những cá nhân và nhóm lợi dụng. Tòa Thánh ủy thác cho Đức Giám Mục hoặc một đại biểu việc hướng dẫn mục vụ nơi xảy ra hiện tượng ấy.
- Thứ năm là: “Prohibetur et osbstruatur”: mặc dù có một vài yếu tố tích cực, nhưng có nhiều vấn đề và nguy cơ trầm trọng. Bộ giáo lý đức tin yêu cầu Giám Mục tuyên bố không được tin theo hiện tượng ấy.
- Sau cùng là “Declaratio de non supernaturalitate”: Giám Mục được phép tuyên bố đó không phải là hiện tượng siêu nhiên, dựa trên những bằng chứng cụ thể.
Từ sau khi quy luật cập nhật trên đây được công bố, Bộ Giáo lý đức tin đã công bố phán quyết về 4 trường hợp:
1. “Đức Mẹ Trevignano”
Ngày 27/6 vừa qua, Bộ giáo lý đức tin công bố tuyên ngôn về “những điều gọi là hiện ra và mạc khải” do đôi vợ chồng người Ý là ông bà Gianni và Gisella Cardia.
Năm 2016, bà Gisella kể lại những lần “hiện ra” của Đức Mẹ, Chúa Giêsu và Chúa Cha ở thị trấn Trevignano Romano cách Roma khoảng 50 cây số về hướng bắc, bên bờ hồ Bracciano. Những cuộc hiện ra có kèm theo chảy nước mắt máu trên một tượng Đức Mẹ.
Hồi tháng 3 năm nay, tức là trước khi có quy luật mới trên đây của Bộ giáo lý đức tin. Đức Cha Marco Salvi, Giám Mục giáo phận Civita Castellana sở tại, đã công bố sắc lệnh với phán quyết tiêu cực về các hiện tượng hiện ra như ông bà Cardia kể lại. Ngài viết: “danh hiệu Đức Mẹ Trevignano không có giá trị về mặt Giáo Hội và không thể được sử dụng như thể tước hiệu ấy có thực, kể cả trong lãnh vực dân sự”.
Sắc lệnh của Bộ giáo lý đức tin khẳng định rằng dưới ánh sáng các quy luật mới, Bộ xác nhận giá trị pháp lý sắc lệnh của Đức Giám Mục, giữ nguyên phán quyết của Đức Cha khẳng định “không có nguồn gốc siêu nhiên” (constat de non supernaturalitate), cũng như sự hướng dẫn của ngài gửi đến những người cổ võ những điều gọi là các cuộc hiện ra”.
Và Bộ giáo lý đức tin kết luận rằng: “Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Giáo Hội và là Mẹ chúng ta, tái lập an bình và thanh thản vì thiện ích thiêng liêng của các tín hữu trong giáo xứ Trevignano Romano và toàn dân Chúa trong giáo phận Civita Castellana”.
2. “Hoa hồng mầu nhiệm”
Ngày 5 tháng 7 mới đây, Bộ giáo lý đức tin công bố một thư gửi Đức Cha Pierantonio Tremolada, Giám Mục giáo phận Brescia, về lòng sùng kính Đức Mẹ Hoa Hồng mầu nhiệm (Rosa Mystica), ở Fontanelle di Montichiari, Bắc Ý.
Thư của Bộ nêu bật nhiều khía cạnh tích cực trong các tác phẩm của bà Pierina Gilli, một giáo dân người Ý nói là Đức Mẹ hiện ra và bà nhận được các sứ điệp của Đức Mẹ từ năm 1947 đến 1966. Bộ cũng nói rằng một vài đoạn cần được làm sáng tỏ vì chúng gán những chức năng cho Đức Mẹ dễ bị giải thích sai”.
Và thư của Đức Hồng Y Tổng trưởng Fernandez kết luận: “Thưa Đức cha, chúng tôi có thể khẳng định rằng trong những đề nghị thiêng liêng đi từ những kinh nghiệm được bà Pierina Gilli kể lại về Đức Mẹ, Hoa Hồng Mầu nhiệm, đều được giải thích dưới ánh sáng những gì đã được nói, không chứa đựng những yếu tố thần học hoặc luân lý trái ngược với đạo lý của Hội Thánh”.
Đức Hồng Y xác định rằng “nay tùy thuộc Đức Giám Mục kết thúc sự phân định phù hợp với các quy luật được cập nhật”.
Đức Cha Tremolada đã thông báo kết luận của ngài trong sắc lệnh công bố
ngày 8/7 và xác định không có gì ngăn trở để đánh giá cao giá trị mục vụ của đề nghị tinh thần và cổ võ việc phổ biến, kể cả việc có thể thực hiện các cuộc hành hương. Vì thế các tín hữu Công Giáo được phép tin nhận điều ấy một cách thần trọng, nhưng không bắt buộc phải tin.
Đức cha cũng khuyên những người đọc các bút tích của bà Gilli hãy để ý tới những giải thích làm sáng tỏ của thư Bộ giáo lý đức tin.
3. Đức Mẹ mọi dân nước
Ngày 11/7 vừa qua, Bộ giáo lý đức tin ra thông cáo báo chí đề cập đến những điều gọi là “các cuộc hiện ra của Đức Mẹ mọi dân nước”, tại Amsterdam, thủ đô Hòa Lan, từ năm 1045 đến 1959.
Thông báo ghi nhận rằng trong quá khứ Bộ không công bố lý do những quyết định về hiện tượng này. Nhưng dưới ánh sáng những nghi ngờ còn tồn động về những cuộc hiện ra mà bà Ida Peerdeman đã nói, Bộ giáo lý đức tin quyết định chia sẻ những chi tiết của phán quyết hồi năm 1974. Các thành viên Bộ Giáo Lý đức tin đồng thanh quả quyết những cuộc hiện ra ấy không có tính cách siêu nhiên và kết luận rằng các biến cố đó cần được điều tra sâu hơn. Các quyết định ấy đã được ĐGH Phaolô VI phê chuẩn sau đó.
Bộ giáo lý đức tin khẳng định rằng: “Thông tin trên đây được thông báo để dân thánh của Chúa và các mục tử có thể rút ra những kết luận thích hợp”.
4. Đức Mẹ đá tảng (Madonna dello Scoglio)
Trong sắc lệnh công bố ngày 16/7 vừa qua, Bộ Giáo lý đức tin phán quyết tích cực về những thành quả thiêng liêng tiếp sau cuộc hiện ra của Đức Mẹ với Cosimo Fragomeni, ở Santa Domenica, làng Placanica, miền Calabria, nam Ý. Bộ không phán quyết về nguồn gốc siêu nhiên của các cuộc hiện ra, nhưng các tín hữu được phép tin nhận.
Trong sắc lệnh nhắm trả lời cho thư đề ngày 3/6 vừa qua của Đức Cha Francesco Oliva, Giám Mục giáo phận Locri-Gerace. Đức Hồng Y Tổng trưởng, Victor Fernandez viết: “Trong một thế giới chúng ta đang sống bị tục hóa, bao nhiêu người sống mà không có sự tham chiếu nào về sự siêu việt, sự kiện các tín hữu đến Đền Thánh Đức Mẹ Đá tảng là một dấu chỉ đức tin mạnh mẽ” và Đức Hồng Y xác nhận việc Đức Cha đề nghị là “không có gì ngăn trở” (Nihil obstat).
Lai lịch Đền Thánh
Lịch sử Đền thánh bắt đầu cách đây 56 năm: ngày 11/5/1968, Đức Mẹ đã hiện ra lần đầu tiên với Cosimo Fragomeni, một nông dân khiêm hạ 18 tuổi.
Theo lời kể của anh Cosimo, cuộc hiện ra lần đầu tiên của Đức Mẹ hồi năm 1968 khởi sự với một luồng sáng đến từ một tảng đá ở gần nhà anh và được lập lại trong 4 ngày liên tiếp. Trong những sứ điệp được Cosimo kể lại, Đức Mẹ mời gọi hoán cải và cầu nguyện, đồng thời bày tỏ ý muốn thấy nơi này thành một trung tâm lớn về linh đạo, nơi mà con người có thể gặp gỡ lòng thương xót của Thiên Chúa. Cosimo đã phá khu rừng quanh tảng đá, làm thành một khu đất bằng phẳng và khoét tảng đó thành một cái hốc để đặt một tượng Đức Mẹ bằng đá cẩm thạch quý.
Nơi đó chẳng bao lâu trở thành nơi hành hương, các tín hữu đến từ các nơi ở Ý và nước ngoài. Ban đầu chỉ là một nhà nguyện nhỏ nhưng sau đó thành một Đền thánh lớn. Dân chúng gọi đây là “Lộ Đức miền Calabria”. Năm 1987, Cosimo trở thành một hội viên dòng Phanxicô tại thế.
Ngày 7/12/2008, Đức Cha Fiori Morosini, đặt Đền thánh Đức Mẹ Tảng Đá dưới sự chăm sóc của Giám Mục giáo phận. Ngày 22/05/2013, ông Cosimo được Đức Giám Mục đi kèm, đến xin ĐTC Phanxicô làm phép viên đá đầu tiên để xây Đền Thánh “Đức Mẹ Đá tảng”. 3 năm sau, Đức Cha Oliva, Giám Mục bản quyền nâng nơi này thành Đền thánh giáo phận và năm sau, 2017, ngài ủy thác cho các Thừa Sai loan báo Tin Mừng đảm trách việc mục vụ tại Đền Thánh này.
Trong sắc lệnh, Đức Hồng Y Fernandez đề cao những hoa trái thiêng liêng đời sống Kitô tại Đền Thánh Đức Mẹ Tảng Đá, tinh thần cầu nguyện, một số ơn gọi linh mục và tu sĩ, chứng tá bác ái và lòng sùng một chân thành tại đây.
Vatican không có thông lệ bày tỏ quan điểm về đời sống chính trị của một quốc gia, tuy nhiên Rôma vừa làm một ngoại lệ đáng chú ý khi ngày 23 tháng 7 báo L'Observatore Romano đăng bài xã luận đáng chú ý về quyết định của Tổng thống Mỹ Joe Biden rút khỏi cuộc đua vào Nhà Trắng ngày 21 tháng 7.
Nhà xã luận Alessandro Gisotti viết: “Đây là quyết định cao cả của tờ báo chính thức của Vatican, đánh giá Tổng thống đã đặt lợi ích đất nước lên trên lợi ích cá nhân.”
Quyết định đưa ra không nhằm phục vụ chiến dịch bầu cử
Tờ báo nhấn mạnh: “Không những chỉ đưa ra các quyết định liên quan đến chiến dịch bầu cử, chúng ta có thể hy vọng Tổng thống sẽ có những sáng kiến mới can đảm và sáng tạo để đạt các mục tiêu xác định di sản của ông trong lịch sử, đặc biệt là trong chính sách đối ngoại, ngay từ đầu với việc chấm dứt xung đột ở Ukraine và Trung Đông.”
Bài báo viết: “Năm 1999, Nelson Mandela đã đưa ra một quyết định tương tự – ở một vài khía cạnh còn mạnh mẽ và đáng chú ý hơn – khi Tổng thống từ chối tranh cử nhiệm kỳ thứ hai và rút lui khỏi đời sống công cộng.”
Tương tự như Đức Bênêđíctô XVI
Trong bài viết, tác giả đưa ra một điểm tương đồng bất ngờ với Đức Bênêđíctô XVI khi ngài từ chức năm 2013: “Mỗi lần một nhân vật lãnh đạo chọn đi lui một bước, lập tức họ tạo sự đồng cảm và quý trọng của dư luận. Chúng ta đã sống sự kiện này ngày 11 tháng 2 năm 2013 khi Đức Bênêđíctô XVI từ bỏ sứ vụ Phêrô. Trong 24 giờ qua, chúng ta cũng đã thấy sự việc này dù trong một bối cảnh khác.”
Vatican theo dõi cuộc bầu cử ở Mỹ, một số quan chức không che giấu sự lo ngại khi thấy ông Donald Trump của đảng Cộng hòa trở lại Nhà Trắng. Vì kể từ khi Tổng thống công giáo Joe Biden đắc cử năm 2020, quan hệ của ông với Vatican rất cởi mở, vì thế giáo hoàng mất đi người đối thoại đáng tin cậy cho tương lai. Vatican cũng được Mỹ hỗ trợ rất mạnh trong các hoạt động hòa giải nhân đạo ở Ukraine.
Đức Phanxicô được xem như một sứ giả
Đức Phanxicô được một vài nhà lãnh đạo xem như một phương tiện để gởi đến Tổng thống công giáo của đảng Dân chủ. Gần đây là trường hợp cuộc chiến ở Ukraine, khi một vài chính phủ lo ngại Mỹ cung cấp nhiều vũ khí cho Ukraine có nguy cơ biến xung đột thành chiến tranh thế giới. Và trường hợp liên quan đến cuộc khủng hoảng ở Trung Đông, khi các chính phủ xin giáo hoàng hỗ trợ một số yêu cầu của họ gởi đến Tổng thống Mỹ.
Mặc dù có những nghiên cứu đưa ra dữ liệu về việc suy giảm thực hành tôn giáo, nhưng một xu hướng khác cho thấy sự quan tâm ngày càng gia tăng của giới trẻ đang mang lại niềm hy vọng về khả năng hồi sinh của Giáo hội trong tương lai gần đây.
Một nghiên cứu vào năm 2022 của Cardus cho thấy số người nhận mình là Công giáo nhìn chung đã giảm từ năm 2017. Những người thuộc trong số này là những người tin vào Chúa, thường xuyên đọc Kinh thánh, có trải nghiệm về Chúa trong cuộc sống, cầu nguyện thường xuyên và tham dự các cử hành Công giáo.
Tuy nhiên, phúc trình thấy một ngoại lệ ở những người Công giáo Canada trẻ. Phó tế Andrew Bennett, giám đốc Chương trình Cộng đoàn Đức tin Cardus, cho biết: “Chúng tôi đang chứng kiến điều dường như là một sự hồi sinh trong Giáo hội và điều đó đi ngược lại luận điểm cũ của tinh thần thế tục rằng khi một xã hội trở nên tục hóa hơn thì xã hội sẽ trở nên ít tôn giáo hơn”.
Theo giám đốc, khi xã hội Canada càng phát triển theo tinh thần thế tục thì Công giáo càng trở thành một lựa chọn hấp dẫn đối với những người ở độ tuổi từ 18 đến 34 như một hình thức từ chối hơn là một lối thoát. Ngày càng có nhiều người trẻ, dù đang học trung học, đại học hay nơi làm việc, không tin vào ý tưởng rất chủ quan của xã hội về sự thật. Họ đang tìm kiếm sự chính trực, khả tín và điều gì đó có sức mạnh bền bỉ thực sự. Điều này chứng tỏ họ đến hoặc quay trở lại Giáo hội mà họ đã lớn lên, nơi họ thấy rằng đức tin Công giáo nắm giữ một sự thật khách quan và phổ quát, một sự thật không phải là một triết lý thay đổi theo chiều gió mà là con người của Chúa Giêsu Kitô.
Nghiên cứu của Cardus cho thấy những người Canada nhận mình là Công giáo dưới 40 tuổi tham dự các cử hành ít nhất mỗi tháng một lần cao gần gấp đôi so với những người Công giáo lớn tuổi. Ngoài ra, 81% thanh niên Công giáo thể hiện niềm tin vào sự sống sau khi chết, với 91% giới nữ dưới 35 tuổi có niềm tin này, so với 60% ở những người lớn tuổi hơn họ.
Gần đây, Cardus cũng đã thực hiện một cuộc khảo sát mới dành cho tất cả các Giáo hội Kitô, và kết quả cho thấy những người trẻ Kitô có chủ ý hoặc dấn thân với giáo lý và thực hành đức tin hơn ông bà cha mẹ họ. Thế hệ trẻ đang bắt đầu mong muốn một cuộc sống Công giáo truyền thống hơn.
Tính đến giữa tháng Bảy này, đã có 240.000 tín hữu đến kính viếng mộ của thánh Giacôbê, và được Văn phòng hành hương tại nhà thờ chính tòa Santiago de Compostela chứng nhận. Họ đã thực sự đi trên con đường thánh Giacôbê.
Hãng tin Công giáo Áo cho biết trong số các tín hữu hành hương ấy, có 1.570 người từ Áo. Có nhiều con đường để đi hành hương đến Santiago, phần lớn các tín hữu từ Áo chọn con đường từ thành phố Porto bên Bồ Đào Nha, đi dọc theo bờ biển để đến Đền thánh. Con đường này dài 240km, bình thường đi bộ mất hai tuần lễ. Cũng có nhiều người khác đi bằng xe đạp, thậm chí có người đi bằng thuyền buồm dọc theo bờ biển. Họ đến một cảng gần đền thánh và đi bộ đoạn đường cuối dài 50km.
Truyền thống hành hương đến mộ thánh Giacôbê tông đồ có từ thế kỷ thứ VIII và Santiago được liệt vào một trong những nơi hành hương chính của Giáo hội Công giáo. Từ Áo, đi bộ đến mộ thánh tông đồ dài hơn 3.500 cây số.
Ngày 25 tháng Bảy là lễ kính thánh Giacôbê tiền, chính là cao điểm trong cuộc hành hương của các tín hữu.
Tôi do dự một thời gian dài trước khi nói về lễ khai mạc Thế vận hội Olympic 2024. Tôi cần một thời gian để hiểu những gì tôi thấy. Tôi đau buồn khi nghĩ đến anh em kitô hữu của tôi ở Pháp và trên thế giới thấy sự sỉ nhục họ phải chịu đựng trước cảnh suy đồi này.
Những gì chúng ta thấy không phải là vinh danh tinh thần thể thao, nhưng đây là cách nói lên chủ nghĩa woke cực đoan, vừa khiêu khích vừa đáng lo ngại.
Những em bé bị kẻ buôn người nham hiểm đưa lên thuyền qua đường cống và chúng biến mất một cách bí ẩn.
Sự hiện diện của máu trên Conciergerie, một phụ nữ đại diện cho hoàng hậu Marie Antoinette trong bộ đồ màu đỏ bị chặt đầu, một cảnh quan hệ tay ba, những người đàn ông chuẩn bị giao cấu. Với lý do tôn vinh tình yêu, không phải, đây là xúc phạm đến nhân phẩm. Có mối liên hệ nào giữa tinh thần thể thao và những hình ảnh đồi trụy này? Làm sao cha mẹ có thể giải thích cho con cái về những cảnh này?
Bức tranh Bữa Tiệc ly bị biến thái. Một phụ nữ béo phì thay thế Chúa Giêsu, hoàng hậu Marie Antoinette với một cái đầu bị cắt rời, đó là những hình ảnh khiêu khích trắng trợn. Một ông khỏa thân sơn thân hình màu xanh lá cây, những người đàn ông khỏa thân khác… Bao nhiêu thô tục, bao nhiêu khiêu khích là đủ? Đâu là duyên dáng, đâu là thẩm mỹ?
Và một lãng phí quá lố
Ngân sách ban đầu là 122 triệu âu kim nhưng rồi tổng chi phí cho Thế vận ước tính 11 tỷ âu kim. Pháp đã mắc nợ 3,1 ngàn tỷ âu kim, bây giờ lãng phí thêm cho những cảnh trụy lạc.
Trả cho Aya Nakamura 700.000 âu kim, cho Céline Dion 2 triệu âu kim trong khi người dân Pháp chật vật kiếm sống, một sự coi thường với thực tế kinh tế của đất nước.
Được các công ty lớn như LVMH và Coca-Cola tài trợ, buổi lễ đã hy sinh phẩm giá để gây sốc và khiêu khích. Sự kết hợp giữa sự đa dạng, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa woke và những khuôn sáo văn hóa chỉ gây chia rẽ hơn là đoàn kết.
Đây không phải là những gì chúng ta mong chờ từ Thế vận hội, chúng ta mong chờ mọi người xích lại gần nhau và tôn vinh những giá trị chung của thể thao.
Vì thế, thật hợp lý khi một số quốc gia đã kiểm duyệt các hình ảnh này để bảo vệ người dân của họ khỏi thấy các cảnh đã gây tranh cãi này. Phản ứng cho thấy các cảnh này không được thế giới chấp nhận, nói lên sự thiếu tôn trọng trắng trợn với sự nhạy cảm về văn hóa và tôn giáo.
Thế vận hội 2024: “Vì sao có người đàn ông bán khỏa thân màu xanh?”, bí ẩn nhìn từ nước ngoài.
Ca sĩ Philippe Katerine xuất hiện gần như khỏa thân, toàn thân sơn xanh trước hơn một tỷ khán giả trên thế giới. Màn trình diễn bất thường đã tạo làn sóng phản ứng ở nước ngoài, giữa bàng hoàng và thất vọng.
“Tại sao lại có người đàn ông bán khỏa thân trong lễ khai mạc Thế vận hội?”, đó là tiêu đề của một bài báo trên tờ Hindustan Times, một trong những tờ nhật báo lớn nhất Ấn Độ. Ở châu Á, báo chí xôn xao về “màn trình diễn kỳ lạ” của nghệ sĩ Pháp Philippe Katerine, đã trình diễn sáng tác Nu trong lễ khai mạc Thế vận hội Paris tối thứ sáu 26 tháng 7.
Nghệ sĩ 55 tuổi hát: “Hãy sống như khi chúng ta được sinh ra, nuuuus” trong phần trình diễn cùng với các ca sĩ Lady Gaga, Aya Nakamura, Celine Dion . Hơn một tỷ khán giả khám phá người nghệ sĩ Pháp lộ dạng dưới chiếc chuông khổng lồ, một nửa nằm trên đĩa trái cây, mặc chiếc quần lót, toàn thân phủ màu xanh lấp lánh. Với bộ râu màu cam, đầu đội chùm nho làm vương miện, đeo trên vai một vòng hoa mỏng, chiếc bụng lắc lư nhẹ nhàng theo nhịp điệu thanh tao của bài hát.
Sự phẫn nộ của Elon Musk
Thế giới đã sẵn sàng cho sự xuất hiện như vậy chưa? Việc phát sóng buổi lễ bị gián đoạn ở một số quốc gia. Tại Hoa Kỳ, kênh NBC đã quyết định không phát sóng cảnh này và màn biểu diễn Bữa Tiệc ly với các nữ hoàng drag. Ở Ma-rốc, kênh SNRT thay thế nghệ sĩ Philippe Katerine bằng hình ảnh của viện bảo tàng Louvre. Ở Australia, các nhà bình luận choáng váng, mất tinh thần trước cảnh này.
Một phụ nữ mặc váy khoét sâu đội mũ bạc, như hào quang Chúa Giêsu trong nhiều bức tranh nghệ thuật về Bữa Tiệc Ly. Tay bà vẽ hình trái tim trước mỗi động tác chụp hình.
Màn của nghệ sĩ Philippe Katerine đã là chủ đề tranh luận nhiều nhất trên Twitter. Bắt đầu với ông chủ Elon Musk, ông cho dàn dựng này “cực kỳ thiếu tôn trọng các tín hữu kitô”.
Ông không phải là người duy nhất chỉ trích, nhiều cư dân mạng cảm thấy khó khăn khi giải thích ý nghĩa màn trình diễn này. Thật ra khó theo dõi vì thiếu bản dịch bài hát, một số giả cho rằng màn này giống Xì Trum, bộ phim Avatar, thần hinđu Shiva hay một hippie điên cuồng.
Lời giải thích chính thức là hình ảnh thần Dionysus, vị thần của rượu vang và lễ kỷ niệm làm mọi người yên tâm. Các sử gia giải thích bữa tiệc của Dionysus không phải là nhái lại Bữa Tiệc Ly, nhưng là câu chuyện thần thoại hy lạp, liên quan đến tác phẩm của họa sĩ Jan Harmensz van Bijlert từ năm 1635. Nhật báo Hindustan Times cho rằng sự lựa chọn màu xanh lam của Philippe Katerine vẫn là điều bí ẩn.
Electron tự do
Nhiều người dùng Internet ở Pháp giải thích nghệ sĩ Philippe Katerine là người có tinh thần tự do, khôi hài, khiêu khích, khác thường và thơ mộng. Được Franceinfo hỏi sau buổi lễ, nghệ sĩ cho biết: “Bài hát hướng tới hòa bình. Người trần truồng vô hại, vì họ không thể giấu vũ khí. Nếu không có tranh cãi thì sẽ không có gì buồn cười.” Ông ngạc nhiên khi biết Elon Musk bị sốc. Philippe Katerine đã tạo cho mình một khả năng hiển thị đáng kinh ngạc.
Vài ngày sau những cảnh kinh hoàng tại lễ khai mạc Thế vận hội Olympic, linh mục Pierre Amar, giáo phận Versailles nhắc lại, đây là hậu quả của “khoảng trống đạo đức” nước Pháp rơi vào. Linh mục kêu gọi giáo dân quan tâm đến lãnh vực văn hóa để truyền tải văn hóa.
Theo linh mục, lễ khai mạc đã có những cảnh rất đẹp và rất xấu, có cảm hứng và có gây sốc, có huy hoàng và thô tục trong lễ khai mạc Thế vận hội Olympic Paris. Chúng ta không thể không nghĩ đến dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng trong Tin Mừng Thánh Mattêô, lại đúng Phúc âm ngày chúa nhật hôm sau.
Đúng, một số nghệ sĩ đã đùa vui. Nhưng có phải họ đã bóp méo thông điệp hòa hợp của tinh thần huynh đệ và hòa bình Olympic đó không? Họ có thể đã tập hợp nhưng họ lại thích phân chia và làm nổi bật những gì phân chia. Đúng, họ đã làm cho các trẻ em ngây thơ khi xem những cảnh này đã phải bối rối, thắc mắc không biết những cảnh này muốn nói gì. Đúng, họ đã chế nhạo di sản Do Thái-Kitô giáo của nước Pháp, nhưng trên hết họ đã xúc phạm đức tin của cả tỷ rưỡi tín hữu kitô. Đúng vậy, đạo công giáo là đạo duy nhất cho phép họ biếm họa và chế nhạo. Cho đến nay, đạo công giáo là đạo bị bức hại nhiều nhất thế giới. Những thái quá vô cớ và khiêu khích của lễ khai mạc không là gì so với những thử thách của anh em kitô hữu chúng ta phải chịu đựng ở Yemen, Nigeria hay Pakistan.
Khoảng trống đạo đức
Nhưng làm sao chúng ta không cay đắng khi xem lễ hội toàn cầu này? Chúng ta có thể làm gì để tránh không tự cho mình là nạn nhân và vô cảm? Chúng ta không cần phải bảo vệ Thiên Chúa: Ngài tự làm và làm rất tốt.
Khó khăn nhất của chúng ta là nhìn thấy những tiến bộ trong hệ tư tưởng thức tỉnh. Rõ ràng, tùy thuộc vào nơi chúng ta sống có được bảo vệ hay không, việc giải cấu trúc này không phải ai cũng thấy rõ. Năm 2013, chúng ta đã ôn hòa xuống đường để tuyên bố một điều hiển nhiên: bất cứ khi nào có thể, điều tốt nhất cho một em bé là em bé có cha, có mẹ và được cha mẹ giáo dục. Trong vòng chưa đầy mười năm, hệ tư tưởng tiến bộ đã thực sự phát triển: hiện nay chúng ta có luật phá thai trong Hiến pháp, hệ tư tưởng chuyển giới và đa thê được ca ngợi. Chúng ta sẽ sớm “hỗ trợ cái chết”… Nước Pháp đang bị bệnh. Khoảng trống đạo đức này đã được kỷ nguyên Macron tăng tốc. Có lẽ chúng ta đã quên. Hãy thức dậy, thế giới đang thay đổi và không có chúng ta!
Chúng ta quên trấu có lợi cho lúa mì sao? Sự hiện diện của cái ác, dưới mọi hình thức, có thể là tác nhân kích thích lớn lao cho điều thiện. Nó buộc chúng ta phải có một khởi đầu mạnh mẽ khi trông cậy vào Chúa. Luôn chủ động và không thụ động, lựa chọn và không đau khổ. Đức Phanxicô đã nói: đừng yên vị trên sofa của mình. Chúng ta muốn có buổi lễ tốt đẹp và những sáng tạo tốt đẹp? Vậy chúng ta phải cấp thiết đầu tư vào lãnh vực văn hóa và truyền tải văn hóa. Chấp nhận con cái chúng ta là giáo viên, nghệ sĩ, nhân viên giải trí, nhạc công… chúng không nhất thiết phải học kinh doanh.
Cuộc tranh cãi này nảy sinh vào giữa mùa hè. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xem đây là lời mời bắt đầu cuộc sống trí tuệ, tinh thần và văn hóa của mình? Trái tim phải ở hàng đầu !
Tâm điểm của những phê bình trên mạng xã hội là việc tái hiện bức tranh Bữa Tiệc Ly nổi tiếng của Leonardo da Vinci bởi khoảng 10 người nam chuyển giới, với trang phục sặc sỡ.
Trong một tuyên bố đưa ra ngay sáng hôm sau lễ khai mạc, ngày 27/7, Hội đồng Giám mục Pháp cho biết, nhiều vị lãnh đạo các Giáo hội Kitô đã bày tỏ tình liên đới với Giáo hội Công giáo Pháp về những cảnh nhạo báng Kitô giáo này.
Các Giám mục viết: “Chúng tôi nghĩ đến tất cả các Kitô hữu trên tất cả các châu lục đã bị tổn thương bởi sự quá đáng và khiêu khích của một số cảnh tượng. Chúng tôi hy vọng họ hiểu rằng lễ khai mạc Olympic vượt xa các khuynh hướng ý thức hệ của một số nghệ sĩ”.
Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna của Malta đã gửi tin nhắn tới Đại sứ Pháp tại Malta, bày tỏ “sự đau buồn và thất vọng sâu sắc trước sự xúc phạm đối với chúng tôi là các Kitô hữu trong lễ khai mạc Thế vận hội Paris 2024 khi một nhóm nghệ sĩ đồng tính chế giễu Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu”.
Đức cha Andrew Cozzens, Chủ tịch Ủy ban Truyền giáo và Giáo lý của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đã đưa ra tuyên bố kêu gọi người Công Giáo phản ứng trước sự việc ở Paris bằng việc cầu nguyện và ăn chay. Đề cập đến Đại hội Thánh Thể Quốc gia gần đây, Đức cha Cozzens viết: “Chúa Giêsu đã trải qua Cuộc Khổ nạn một lần nữa vào đêm thứ Sáu ở Paris khi Bữa Tiệc Ly của Người bị phỉ báng một cách công khai. Nước Pháp và toàn thế giới được cứu nhờ tình yêu tuôn đổ nhờ Thánh lễ đến với chúng ta qua Bữa Tiệc Ly. Được truyền cảm hứng từ nhiều vị tử đạo đã đổ máu để làm chứng cho sự thật của Thánh lễ, chúng ta sẽ không đứng sang một bên và lặng lẽ chịu đựng khi thế giới chế nhạo hồng ân lớn nhất của chúng ta từ Chúa Giêsu”.
Ngài nói tiếp: “Qua cầu nguyện và ăn chay, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần ban sức mạnh cho chúng ta với nhân đức và sức mạnh để chúng ta có thể rao giảng Chúa Kitô - Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, hiện diện thực sự trong Bí tích Thánh Thể - vì vinh quang của Thiên Chúa và ơn cứu độ các linh hồn”.
Một Giám mục khác của Hoa Kỳ, Đức cha Robert Barron của Winona-Rochester, kêu gọi người Công Giáo “lên tiếng” để đáp lại điều mà ngài gọi là “sự nhạo báng trắng trợn về Bữa Tiệc Ly”.
Đức Tổng Giám Mục Fernando Chomali của Santiago de Chile bày tỏ sự thất vọng với “sự chế giễu kỳ cục về điều thiêng liêng nhất của người Công Giáo chúng ta là Bí tích Thánh Thể. Sự bất khoan dung của ‘người khoan dung’ không có giới hạn. Đây không phải là cách để xây dựng một xã hội huynh đệ. Chúng ta đã chứng kiến chủ nghĩa hư vô ở mức độ cao nhất,” ngài nói thêm.
Trong một bài đăng của Hội đồng Giám mục Đức, Đức cha Stefan Oster gọi cảnh “Bữa Tiệc Ly kỳ lạ” là “một điểm thấp và hoàn toàn không cần thiết trong việc dàn dựng”.
Sau lễ khai mạc Thế vận hội Paris gây sốc và bị chỉ trích gay gắt vì kịch bản nhái lại Bữa Tiệc Ly, các nhà lãnh đạo công giáo ở Pháp và trên toàn thế giới lên án vụ việc.
Trong tuyên bố ngày 27 tháng 7, các giám mục Pháp lên tiếng: “Các giá trị, các nguyên tắc thể thao và tinh thần Thế vận thể hiện và truyền bá góp phần vào nhu cầu đoàn kết và tình anh em chúng ta đang rất cần, tôn trọng niềm tin của tất cả mọi người. Chung quanh các sinh hoạt thể thao, chúng ta gần nhau để thúc đẩy hòa bình giữa các quốc gia và trái tim. Lễ khai mạc đã mang đến cho toàn thế giới những khoảnh khắc tuyệt vời của vẻ đẹp, niềm vui, cảm xúc và được mọi người ca ngợi. Tuy nhiên không may đã có những cảnh nhạo báng kitô giáo, chúng tôi cực lực lên án việc này.”
Lễ khai mạc ngày 26 tháng 7 có màn trình diễn thời trang của các ông mặc y phục drag gợi cảm trên sân khấu như chế giễu Bữa Tiệc Ly. Một nhóm 18 người biểu diễn drag, có một số nhân vật nổi tiếng của Drag Race France đã chụp hình sau chiếc bàn dài với nền là Sông Seine và Tháp Eiffel ở phía sau.
Ở giữa là một phụ nữ mặc váy khoét sâu đội mũ bạc, như hào quang Chúa Giêsu trong nhiều bức tranh nghệ thuật về Bữa Tiệc Ly. Tay bà vẽ hình trái tim trước mỗi động tác chụp hình.
Khi các người mẫu bước lên sân khấu trình diễn, các nhân vật Bữa Tiệc Ly lắc lư bên lề, có một bé gái đứng cùng họ.
Sau đó, một khay đựng thức ăn lớn được đặt trên sân khấu, nắp mở ra để lộ một ông sơn người màu xanh từ đầu đến chân, như nhắc đến thần Dionysus của Hy Lạp, tượng trưng cho sự vô lý của bạo lực giữa con người với nhau.
Ban tổ chức bị chỉ trích vì cảnh này, những người chỉ trích lên án bản chất khiêu khích của bức tranh, họ còn lên án việc để một em bé ngồi cùng bàn với những ông mặc y phục drag.
Một số nhà bình luận cho rằng màn trình diễn muốn tôn vinh thần Dionysus để nhớ nguồn gốc Hy Lạp của Thế vận hội, nhưng người xem liên tưởng đến Bữa Tiệc Ly, vì cách bố trí giống bức tranh nổi tiếng của họa sĩ Leonardo Da Vinci.
Dân biểu công giáo Marion Maréchal viết trên Twitter: “Tín hữu kitô cảm thấy bị xúc phạm vì màn nhại lại Bữa Tiệc Ly của nữ hoàng drag, chúng ta nên nhớ không phải nước Pháp làm nhưng một nhóm thiểu số cánh tả sẵn sàng làm bất cứ hành động khiêu khích nào.”
Tổng giám mục Ý Vincenzo Paglia, chủ tịch Học viện Giáo hoàng về Sự sống của Vatican viết trên Twitter: “Sự chế giễu và nhạo báng Bữa Tiệc Ly ở Thế vận hội Paris đã bị các giám mục Pháp lên án cho thấy đây là một vấn đề sâu đậm.”
Tổng giám mục Malta Charles Scicluna, thư ký phụ tá phân bộ kỷ luật của bộ Giáo lý Đức tin đã gởi thư khiếu nại chính thức đến đại sứ Pháp tại Malta, ngài kêu gọi các giám mục khác cũng làm như vậy.
Trong đơn khiếu nại được đăng trên mạng xã hội, Tổng giám mục Scicluna lên tiếng: “Tôi muốn bày tỏ sự đau buồn và thất vọng lớn lao trước sự xúc phạm này.”
Giám mục Andrew Cozzens của Crookston, Minnesota, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Đại hội Thánh Thể Quốc gia và là người gần đây đã chủ trì sự kiện tại Indianapolis thu hút khoảng 50.000 người tham dự, ngày 27 tháng 7, ngài đã gởi thư phản đối vụ này: “Khi hàng chục ngàn người tụ họp để tôn kính Thánh Thể thì cả triệu người xem truyền hình đã chứng kiến sự chế giễu công khai đối với Thánh lễ. Bữa Tiệc Ly bị trình bày một cách ghê tởm, chúng tôi bị sốc, tức giận đến mức không lời nào có thể diễn tả được. chúng ta cùng ăn chay cầu nguyện để đền tạ, xin Chúa chữa lành và tha thứ cho tất cả những người dự vào việc chế giễu này.”
Giám mục Robert Barron của giáo phận Winona-Rochester, Minnesota, người sáng lập mục vụ Word on Fire đã đăng một video trên Twitter cho biết, đây là phản ảnh của một xã hội hậu hiện đại theo chủ nghĩa thế tục sâu sắc. Ngài đặt câu hỏi vì sao nước Pháp là nước tự hào có văn hóa tôn trọng cá nhân, nhân quyền, tự do dựa trên nguồn gốc kitô giáo lại chế giễu đức tin kitô giáo.
Giám mục xin giáo dân không nên thụ động, nhưng hãy lên tiếng.
Các nhà báo do thái và những người theo các tôn giáo khác cũng lên án màn trình diễn này trên mạng xã hội.
Trong tuyên bố của mình, các giám mục Pháp đã cám ơn các giáo phái khác đã liên lạc để bày tỏ sự đoàn kết của họ với chúng tôi. Họ nói: “Các tín hữu kitô trên thế giới đã bị tổn thương bởi sự thái quá và khiêu khích của một số màn trình diễn. Lễ kỷ niệm Olympic vượt xa những định kiến về ý thức hệ của một số nghệ sĩ.”
Trước những cảnh trình diễn chế nhạo Kitô giáo, với màn mô phỏng bức tranh Bữa tiệc ly của Leonardo da Vinci, ở Milan với khoảng mười người hóa trang trần trụi, Đức cha Robert Barron, Giám mục Giáo phận Winora-Rochester, bang Minnesota, Hoa Kỳ, và là nhà giảng thuyết nổi tiếng, hôm 27 tháng Bảy vừa qua, nhận định rằng hành vi phạm thượng (trong buổi khai mạc thế vận hội Olympic tại Paris, Pháp quốc) là biểu tượng một xã hội hậu tân thời bị tục hóa sâu đậm, coi Kitô giáo là kẻ thù của họ.
Đức cha cũng kêu các tín hữu Công giáo hãy lên tiếng để đáp lại sự chế nhạo thô lỗ đối với Bữa Tiệc ly.
Trong khi đó, Đức cha Donald Hying, Giám mục Giáo phận Madison, bang Wisconsin, mời gọi các tín hữu hãy “ăn chay và cầu nguyện, canh tân lòng sùng mộ đối với Thánh Thể, Thánh Tâm và Đức Trinh Nữ Maria”.
Một số người trong ban tổ chức buổi khai mạc Thế vận hội, ban đầu đã biện minh cho những màn trình diễn, và nại đến quyền tự do sáng tác nghệ thuật. Nhưng hai ngày sau đó, ban tổ chức đã lên tiếng “xin lỗi” các tôn giáo đã cảm thấy bị xúc phạm vì một số đoạn trong lễ nghi khai mạc Thế vận hội. Còn ông Thomas Jolly, người đã sáng tác hoạt cảnh giống Bữa Tiệc ly thì biện minh rằng: Tôi không lấy hứng từ Bữa Tiệc ly nhưng là một buổi liên hoan với Dionisio, một nghi thức ngoại giao.
Còn bà Anne Descamp, Giám đốc truyền thông của Thế vận hội Olympic 2024 giải thích rằng: “Chúng tôi không hề có ý thiếu tôn trọng đối với một nhóm tôn giáo nào”.
Dầu sao, ban tổ chức Thế vận hội Olympic Paris đã tháo gỡ buổi lễ khai mạc này ra khỏi mạng YouTube, dường như vì sự phẫn nộ của dư luận thế giới. Trong khi đó, công ty kỹ thuật C Spire ở Mỹ đã rút lại những quảng cáo ở Thế vận hội Paris và nói rằng: “Chúng tôi bị sốc vì sự chế nhạo Bữa Tiệc ly trong buổi khai mạc. Chúng tôi sẽ không thuê quảng cáo tại Thế vận hội này nữa”. Công ty C Spire là công ty về mạng không dây (Wireless) lớn thứ sáu ở Mỹ và có trụ sở ở Ridgeland, bang Mississippi.
Sau cùng, một trang mạng Công giáo ở Đức, Kath.net, đã đặt câu hỏi: “Liệu họ có dám chế giễu Hồi giáo như thế hay không?”
Từ sau lễ nghi khai mạc, nhiều cá nhân và tổ chức tiếp tục lên tiếng phản đối những cảnh trình diễn phạm thượng, chế giễu Kitô giáo, nhân danh tự do sáng tác nghệ thuật và tự do sống như mình muốn tại nước Pháp.
Trong thông cáo, công bố hôm 29 tháng Bảy vừa qua, Tòa Thượng phụ Chính thống khẳng định rằng: “Thế vận hội Olympic là một sinh hoạt thể thao thu hút sự quan tâm của hàng triệu người ở các nơi trên thế giới và lễ nghi khai mạc có tầm quan trọng rất lớn, vì đó là một cơ hội để quốc gia chủ nhà làm nổi bật lịch sử và văn minh của mình trong khi gửi đi sứ điệp cho cả thế giới. Vậy mà trong lễ nghi khai mạc ở Paris, chúng tôi rất đau buồn chứng kiến sự trình diễn những màn tấn công Kitô giáo và Thánh Tin mừng, xúc phạm đến mọi người văn minh, vốn nhìn nhận quyền tín ngưỡng và tôn trọng các biểu tượng tôn giáo. Những cảnh tượng đó không những không làm cho lễ khai mạc được phong phú, nhưng thực tế càng là làm cho nó nghèo nàn”. Tòa Thượng phụ giải thích rằng: “Phạm thượng chống lại Thiên Chúa không phải là một tiến bộ; cũng vậy, sự lăng mạ tín ngưỡng của dân chúng, đó không phải là một quyền. Chúng tôi mong rằng phản ứng bộc phát phủ nhận và phê bình đang gửi một sứ điệp đủ mạnh cho những người có trách nhiệm và sẽ là một nguồn hy vọng phòng ngừa những hành động tương tự trong tương lai”.
Thông cáo của Văn phòng cho biết Tổng thống Erdogan nói rằng vụ sát hại lãnh tụ Hamas Ismail Haniyeh và tấn công Liban chứng tỏ Israel là một đe dọa cho toàn vùng, cho thế giới và nhân loại. Điều này cũng được áp dụng trước tiên cho những tín hữu Hồi giáo và Kitô sống tại Palestine. Theo Tổng thống, nhân loại cần mau lẹ đưa ra những biện pháp trước tình trạng này; Đức Giáo hoàng có thể nói chuyện với những nước ủng hộ Israel để chấm dứt những cuộc tấn công và giúp kiến tạo hòa bình lâu bền.
Tổng thống Erdogan cũng lên án cuộc diệt chủng tại Gaza, nơi đang có cuộc khủng hoảng nhân đạo trầm trọng. Israel thực hiện những cuộc thảm sát dưới sự che chở về ngoại giao, kinh tế và quân sự của một số nước.
Trong cuộc điện đàm, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ cũng kêu gọi các tín hữu Kitô và Hồi giáo, liên kết với nhau để chống lại những màn trình diễn vô luân, như trong lễ khai mạc Thế vận hội Olympic ở Paris. Ông nói: “Dưới chiêu bài tự do tư tưởng và bao dung, phẩm giá con người bị chà đạp, các giá trị tôn giáo và luân lý bị chế nhạo, đó là điều làm thương tổn cả những người Hồi giáo cũng như thế giới Kitô giáo. Sự đặt lại vấn đề các giá trị tôn giáo, sự tuyên truyền sa đọa và sự sụp đổ luân lý mà thế giới đang lâm vào trong thế vận hội, vốn được tổ chức để liên kết các dân tộc, đó là điều đáng được báo động”.
Sau cùng, Phủ Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ cho biết Đức Giáo hoàng cám ơn Tổng thống Erdogan về những cố gắng bênh vực hòa bình và nhạy cảm đối với các giá trị tôn giáo.
Không có thông cáo hoặc phản ứng nào từ phía Tòa Thánh về tin trên đây.
Tổng giám mục Éric de Moulins-Beaufort trả lời trên báo Le Monde về việc các giám mục đã “ngăn chặn” cáo buộc tấn công tình dục của Abbé Pierre. Ngài nhắc lại cam kết của hàng giám mục trong việc làm sáng tỏ những lạm dụng này.
Một tuần trước, một ngày sau khi Hiệp hội Ê-mau công bố báo cáo về vụ Abbé Pierre tấn công tình dục một số phụ nữ từ những năm 1950, nhật báo Le Monde đã đăng một bài báo của bốn thành viên trong Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp được gọi là Ủy ban Ciase. Ủy ban được các giám mục và tu sĩ nam nữ Pháp thành lập giao cho ông Jean-Marc Sauvé điều hành. Tiêu đề của báo Le Monde: “Xung năng tình dục của hàng giáo sĩ công giáo dường như là chuyện hiển nhiên”. Các tiết lộ về Abbé Pierre: Việc cưỡng bức tình dục của giáo sĩ công giáo dường như là điều không thể nghi ngờ, dù báo có nói gì đi chăng nữa, thì vụ này cũng ảnh hưởng đến danh dự của hàng ngàn linh mục, phó tế, họ là những người dấn thân và tận hiến đời mình để phục vụ người khác. Một lần nữa, bài báo nghi ngờ các giám mục, ít nhiều họ bị buộc tội đã “ngăn chặn vụ việc”. Với tư cách là chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp, và vì sự thật, tôi không thể bỏ qua những khẳng định như vậy, đặc biệt là trên nhật báo lớn hàng đầu của Pháp.
Bài báo nói lên sự kiện một số giám mục trong những năm 1954-1956 chắc chắn đã biết chuyện này, điều này làm cho một số các giám mục lúc đó chịu trách nhiệm việc này đã hạn chế công việc mục vụ của Abbé Pierre, buộc ông phải trị liệu. Nhân đây tôi muốn nhấn mạnh vào thời điểm đó, các giám mục lớn tuổi nhất cũng chỉ mới phụ trách công việc mười năm. Việc nghiên cứu kỹ lưỡng tài liệu lưu trữ là việc cần thiết để hiểu Abbé Pierre đã nhận các biện pháp này như thế nào, liệu ông có tôn trọng hay không, và các cơ quan thẩm quyền của Giáo hội đã theo dõi vụ này như thế nào.
Chính Abbé Pierre vào những năm cuối đời (ông qua đời năm 2007) đã công khai nói về những vi phạm khiết tịnh của ông. Gần như lúc đó không ai tưởng tượng đó là vụ tấn công tình dục. Abbé Pierre lúc đó đã lớn tuổi, những lời thú tội này được một số người trong hay ngoài Giáo hội đón nhận như một hình thức tự do của một thể chế bị cho là quá áp bức. Khi đó, trong Giáo hội, trong dư luận, trong một số các cơ quan tư pháp, trên các phương tiện truyền thông, không ai quan tâm đến cách thức các vi phạm này của một linh mục cũng như hậu quả của vi phạm này với các nạn nhân. Điều này vô cùng đáng tiếc, nhưng cho thấy sự phát triển tích cực của tinh thần mà chúng ta đang trải qua ngày nay.
Tháng 7 năm 2022, một trong những người ký tên trong bài báo đã thư cho tôi đề cập đến các chủ đề rộng hơn, Ủy ban Ciase đã nhận ba lời khai của các phụ nữ bị Abbé Pierre tấn công và tìm thấy trong tài liệu lưu trữ của Giáo hội Pháp một hồ sơ cũ liên quan đến ông và bài báo đã đề cập đến. Mùa hè năm 2022, Giáo hội Pháp huy động toàn lực để đón nhận và hỗ trợ các nạn nhân khi họ còn là vị thành niên. Ủy ban Ciase không cho chúng tôi lời chứng họ nhận được, nhưng mời các nạn nhân liên hệ với các đơn vị lắng nghe do các giáo phận thành lập. Chúng tôi đồng ý không hạn chế thời hiệu cho các nạn nhân vì một số chưa sẵn sàng nói với các cơ quan Giáo hội hoặc chủ động đưa tin trên các phương tiện truyền thông. Cho đến nay, theo hiểu biết của chúng tôi, chưa có hệ thống nào của chúng tôi nhận được bất kỳ lời khai nào về Abbé Pierre.
Vậy “các giám mục” đã biết gì? Thành thật mà nói, kiểu khái quát hóa này không mang lại một ý nghĩa gì. Một hoặc nhiều giám mục có thể đã biết và có lẽ đã giải quyết một cách không thỏa đáng trong phạm vi của họ. Nhưng theo thời gian, không phải tất cả các giám mục đều biết về Abbé Pierre. Mặt khác, tôi có thể nói chắc chắn, kể từ khi nhận được báo cáo Ciase, tất cả các giám mục đều có một báo cáo đưa ra theo yêu cầu. Nhờ hỗ trợ tài chính và vật chất, các giáo phận và các dòng tu Pháp đã tham gia vào công việc cần thiết để sự thật được biết đến và để hành vi gây hấn hoặc bạo lực tình dục với trẻ vị thành niên hoặc người lớn được xử lý, báo cáo cho cơ quan hành chính hoặc tư pháp theo đúng quy định, đặt trọng tâm vào việc lắng nghe nạn nhân.
Nữ tu Véronique Margron, chủ tịch Hội đồng Tu sĩ Pháp được Giáo hội ủy nhiệm trong việc này đã nói trên báo Le Pèlerin: Giáo hội đã mang lại cơ hội cho nạn nhân được nói lên, được lắng nghe, được xem trọng.
Nhiều dự án đã được triển khai, từ các đơn vị lắng nghe đến tòa án hình sự quốc gia, thành lập các cơ quan công nhận và bồi thường độc lập và công việc phòng ngừa. Mốc quan trọng sẽ được thực hiện vào tháng 3 tới, không có nghĩa là mọi việc lẽ ra phải làm đều đã được thực hiện, nhưng để củng cố những gì đã làm và khởi động lại những gì còn phải làm.
Chúng tôi, các giám mục, đã ý thức bất kỳ quyền bính, quyền lực nào, dù có nguồn gốc cao quý đến đâu, đều có thể biến thành bạo lực thống trị và chiếm hữu, có thể thoái hóa thành lạm dụng, đặc biệt trong lãnh vực tình dục. Sự sáng suốt này mở rộng đến mọi lãnh vực của xã hội, đến mọi hình thức và mọi nơi có thẩm quyền, vì thế không chỉ với Giáo hội công giáo, ngay cả khi Giáo hội tự áp đặt mình một cách đặc biệt vì bản chất thiêng liêng của Giáo hội; chúng tôi, những giám mục ngày nay, muốn sống trong sự sáng suốt này. Chúng tôi biết, các linh mục công giáo có trách nhiệm phải giữ lời hứa của mình trước Thiên Chúa và trước dân Chúa. Mối quan hệ của người tín hữu với linh mục về bản chất là mối quan hệ không cân xứng mà linh mục phải chịu trách nhiệm, mối quan hệ này chỉ phục vụ cho lợi ích của những người đến với họ.
Các phong trào #MeToo, báo cáo của ủy ban Civise, một ủy ban do chính phủ thành lập để theo dõi một số đóng góp của báo cáo Ciase đã cho biết bạo lực tình dục trong toàn xã hội nhiều hơn những gì chúng ta dám nhìn, dám nghĩ cho đến ngày nay. Ủy ban kêu gọi toàn xã hội phải làm việc để thay đổi thái độ và quan điểm, để sự bất bình đẳng về vị trí trong mọi quan hệ xã hội được nhìn nhận một cách sáng suốt hơn. Các giám mục ở Pháp đang góp phần vào cuộc chiến thiết yếu này. Chúng tôi đã và đang làm, chắc chắn dưới áp lực của những tiết lộ được đưa ra trong những năm gần đây, nhưng còn hơn thế nữa vì chúng tôi mắc nợ Chúa Kitô, Chúa của chúng ta, và những người bị tổn thương mà Ngài luôn muốn đoàn kết với họ. Những người này cuối cùng có thể nói chuyện dễ dàng hơn. Chúng ta phải tiếp tục làm việc để lời nói của họ có thể thực hiện được, tạo điều kiện thuận lợi để những lời này được tôn trọng.
Tôi biết, chúng tôi đang tiến về phía trước trên con đường này, với sự chậm trễ, chậm chạp và vụng về, gây đau đớn cho các nạn nhân, nhưng cũng với quyết tâm. Dư luận có quyền đòi hỏi các giám mục chúng tôi, những người mang tham vọng nên thánh, chúng tôi chấp nhận đòi hỏi này. Nó nhắc chúng tôi đòi hỏi của Chúa Giêsu, Đấng ủy thác cho chúng ta Tin Mừng của Ngài. Nhưng nó không được trở thành một cách để các thành phần khác trong xã hội phải từ bỏ phần của họ.
Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ một nhóm phụ nữ vào cuối buổi tiếp kiến chung hàng tuần tại Đại thính đường Phaolô VI ở Vatican
vào ngày 2 tháng 3 năm 2022
Thật thú vị khi biết rằng Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô gần đây đã thuê hai người phụ nữ làm thành viên của La Fabbrica di San Pietro (Cơ quan bảo trì và quản trị Đền thờ Thánh Phêrô), lần đầu tiên kể từ khi tổ chức chịu trách nhiệm bảo tồn Vương cung Thánh đường được thành lập cách đây hơn 500 năm.
Kể từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô nhậm chức vào năm 2013, tỷ lệ phụ nữ làm việc tại Vatican đã tăng từ 19,2% lên 23,4. Hiện nay có 812 phụ nữ làm việc trong Giáo triều Rôma trong số 3.114 nhân viên, tăng sự hiện diện của phụ nữ lên gần như cứ 4 người thì có 1 phụ nữ.
Nữ tu Alessandra Smerilli Dòng Salêdiêng giữ chức vụ Tổng thư ký, chức vụ cao nhất mà một phụ nữ từng nắm giữ tại Tòa Thánh. Đáng chú ý, có 5 phụ nữ giữ chức Phó Tổng thư ký.
Giáo Hội thường được gọi là Mẹ Giáo Hội vì Giáo Hội được coi như người mẹ thiêng liêng của các thành viên, là Hiền thê của Chúa Kitô và được coi là mẹ của các tín hữu. Tại mỗi Giáo phận, Nhà thờ Chính Tòa là nơi thờ phượng chính của các Kitô hữu và được coi là nhà thờ “mẹ” của Giáo phận đó.
Giáo hội Công giáo đã công nhận nhiều vị thánh nữ nổi bật. Thân Mẫu của Chúa Giêsu là người đứng đầu trong số đó vì vai trò của Mẹ là Đấng đồng công cứu chuộc trong mối liên hệ với Chúa Kitô.
Ngoài ra, Giáo hội còn có 4 nữ Tiến sĩ của Giáo hội: Thánh Têrêsa Avila, Thánh Catarina Siena, Thánh Têrêsa Lisieux và Thánh Hildegard Bingen. Ngoài ra, hàng trăm phụ nữ đã được tuyên phong hiển thánh, phục vụ như những mẫu mực về sự thánh thiện và phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới.
Hàng triệu phụ nữ vô danh hoặc bị lãng quên cũng đã biến đổi gia đình và cộng đồng thông qua chứng tá của họ. Vô số phụ nữ tiếp tục phục vụ Giáo hội với tư cách là tu sĩ, giáo dân thánh hiến, giáo dân thừa sai, người cắm hoa, giáo lý viên, người coi phòng áo và trong nhiều vai trò khác nhau trong Giáo xứ.
Phụ nữ không được truyền chức
Trong các cuộc thảo luận thế tục cũng như giữa một số người Công giáo có thiện chí, câu chuyện mặc định về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội thường coi đó là pháo đài của sự khinh thường phụ nữ.
Quan điểm này được thúc đẩy bởi các vụ bê bối bởi hàng giáo sĩ, số lượng giáo dân đến nhà thờ giảm sút, các vấn đề về uy tín lịch sử và Kinh Thánh cũng như sự trì trệ được nhận thấy trong tư tưởng tiến bộ.
Giải pháp được đề xuất thường phản ánh các giáo phái Anh giáo và Lutheran bằng cách ủng hộ việc truyền chức Linh mục và Giám mục cho phụ nữ trong khi hạn chế vai trò của phụ nữ trong Giáo hội chỉ ở lĩnh vực mục vụ.
Một số người cho rằng phụ nữ sẽ làm Linh mục tốt hơn vì họ có vẻ phù hợp hơn với việc chăm sóc mục vụ và có xu hướng cảm thông hơn trong Tòa giải tội. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là ai sẽ làm Linh mục tốt hơn, mà là Chúa Giêsu dự định điều gì.
Tuy nhiên, Bí tích Truyền Chức Thánh, bao gồm việc giảng dạy, thánh hóa và điều hành, luôn được dành riêng cho nam giới, theo gương Chúa Kitô và họt động tông đồ.
Trong bữa ăn mừng Lễ Vượt Qua (Mt 26:17-30), Chúa Giêsu đã cắt cử 12 người đàn ông làm Tông đồ và không đưa ra những chỉ dẫn tương tự cho phụ nữ trong Tin Mừng về việc rửa tội, xức dầu cho bệnh nhân, thánh hiến Thánh Thể hay tha tội. Với địa vị là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu có quyền lựa chọn làm như vậy, nhưng Ngài đã chọn không làm vậy, mặc dù các Tin Mừng ghi lại thừa tác vụ của một số phụ nữ đã đi theo Chúa Giêsu và trợ giúp Ngài, bao gồm Maria Magdalene, Joanna, Susanna, và “nhiều phụ nữ khác” (Lc 8:2-3).
Không có phụ nữ nào có mặt trong Bữa Tiệc Ly. Việc chuẩn bị Lễ Vượt Qua là do các môn đệ là nam giới thực hiện. Mặc dù truyền thống Do Thái nhấn mạnh vai trò quan trọng của các bà mẹ và trẻ em trong việc chuẩn bị Lễ Vượt Qua, nhưng không có phụ nữ nào hiện diện tại bàn tiệc.
Một số người lập luận rằng Chúa Giêsu có thể đã bị ràng buộc bởi phong tục thời đó hạn chế quyền lực đối với nam giới, nhưng điều này đã bỏ qua khuôn mẫu phá vỡ các rào cản văn hóa của Ngài.
Chúa Giêsu đã trò chuyện với một người phụ nữ Samaritan bất chấp những điều cấm kỵ của xã hội, chọn Maria Magdalene làm người môn đệ thân thiết và là nhân chứng đầu tiên cho sự Phục sinh, đồng thời can thiệp để cứu một người phụ nữ khỏi bị ném đá.
Chúa Giêsu liên tục thách thức các chuẩn mực xã hội, cho thấy rằng nếu Ngài có ý định cắt cử phụ nữ vào chức Linh mục, thì Ngài sẽ làm như vậy, bất chấp những kỳ vọng về văn hóa.
Khái niệm nữ giáo sĩ tồn tại trong các tôn giáo vào thời và văn hóa của Chúa Giêsu, mặc dù không có trong Do Thái giáo. Nếu Chúa Giêsu muốn phụ nữ trở thành Linh mục, thì Đức Maria, Mẹ của Ngài, sẽ là một ứng cử viên lý tưởng, có thể đọc lời truyền phép: “Này là Mình Thầy. Này là Máu Thầy”.
Liệu Giáo hội có thể thay đổi quan điểm của mình?
Thậm chí ngay cả sau 2.000 năm, không ai, kể cả Đức Giáo hoàng, có thẩm quyền thay đổi cơ cấu nền tảng của Giáo hội mà Chúa Kitô đã thiết lập (GLCG 1547).
Điều đó có nghĩa là Giáo hội không thể thay đổi các thành phần cốt lõi của các Bí tích hoặc kho tàng đức tin. Ví dụ, Bí tích Rửa tội phải liên quan đến nước, chứ không phải rượu, và việc truyền phép bất cứ thứ gì khác ngoài bánh trong Thánh lễ đều khiến Bí tích trở nên vô hiệu. Tương tự như vậy, vì các Linh mục hành động nhân danh Chúa Kitô, đại diện cho Chúa Giêsu Kitô, nên Giáo hội không thể ban các Bí tích cho những cá nhân không thể thực thi vai trò này với tư cách là đại diện nam giới của Chúa Kitô.
Năm 1994, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố dứt khoát rằng: “Giáo huấn rằng việc truyền chức Linh mục chỉ dành riêng cho nam giới đã được bảo tồn bởi Truyền thống liên tục và phổ quát của Giáo hội và được Huấn quyền giảng dạy một cách kiên quyết. Bất chấp sự tranh luận ở một số nơi, phán quyết của Giáo hội rằng phụ nữ không thể được truyền chức không chỉ mang tính kỷ luật. Vì vậy, để loại bỏ mọi nghi ngờ về vấn đề cực kỳ quan trọng liên quan đến thiết chế thiêng liêng của Giáo hội, tôi tuyên bố, trong vai trò củng cố các huynh đệ, rằng Giáo hội không có thẩm quyền truyền chức Linh mục cho phụ nữ. Phán quyết này mang tính dứt khoát và ràng buộc đối với tất cả mọi tín hữu” (Ordinatio Sacerdotalis 4).
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông Huấn ‘Evangelii Gaudium’ (Niềm vui Tin Mừng), đã tái khẳng định điều tương tự: “Giáo hội không coi mình có thẩm quyền thừa nhận phụ nữ được truyền chức Linh mục. Giáo huấn này không được đưa ra để thảo luận, vì nó bắt nguồn từ sự hiểu biết của Giáo hội về chức Linh mục như một sự tham gia vào chức Tư tế vĩnh cửu của Chúa Kitô”.
Đức Thánh Cha Phanxicô chào đón các nữ đại sứ tại Tòa Thánh và các nữ lãnh đạo của các tổ chức Công giáo sau buổi tiếp kiến chung hàng tuần tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Vatican vào ngày 8 tháng 3 năm 2023, tức Ngày Quốc tế Phụ nữ
Làm nổi bật vai trò của phụ nữ
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với Tạp chí America, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại rằng phụ nữ không thể được truyền chức Linh mục nhưng đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của họ trong Giáo hội. Khi phóng viên Kerry Weber hỏi về việc phụ nữ cảm thấy được kêu gọi trở thành Linh mục mặc dù phục vụ trong những cương vị khác, Đức Thánh Cha giải thích một cách kiên quyết: “Tại sao một phụ nữ không thể được truyền chức Linh mục? Đó là vì Nguyên tắc Phêrô không cho phép điều đó”.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng thảo luận về “Nguyên tắc Maria”, nhấn mạnh cách thức phẩm giá của phụ nữ được phản ánh trong bản chất phu thê của Giáo hội. Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh sự cần thiết phải khám phá thần học sâu hơn về nguyên tắc này và ủng hộ việc tạo nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ trong các vai trò về mặt hành chính trong Giáo hội.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng thừa nhận sự cần thiết phải tạo ra “những cơ hội rộng rãi hơn cho sự hiện diện sâu sắc hơn của phụ nữ trong Giáo hội”. Thông qua “Motu Proprio”, ngài đã sửa đổi Điều 230§1 của Bộ Giáo luật cho phép phụ nữ được tiếp cận với Thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ.
Phụ nữ có thể trở thành Phó tế không?
Trong chương trình đặc biệt của CBS vào ngày 20 tháng 5, người phỏng vấn Norah O’Donnell đã hỏi Đức Thánh Cha Phanxicô về khả năng phụ nữ phục vụ với tư cách là Phó tế.
Đức Thánh Cha trả lời: “Nếu đó là các Phó tế với chức thánh thì câu trả lời là ‘không’”, ám chỉ Bí tích mà các Phó tế, Linh mục và Giám mục được truyền chức cho các Thừa tác vụ tương ứng của họ. Đức Thánh Cha Phanxicô thừa nhận vai trò mang tính lịch sử của phụ nữ trong các nhiệm vụ giống như các nữ Phó tế và ngài sẵn sàng nghiên cứu ý tưởng về phụ nữ với tư cách là Phó tế. Tuy nhiên, nhiệm vụ này sẽ không có chức thánh. Mặc dù chức Phó tế dành cho phụ nữ không được đưa ra thảo luận tại Thượng Hội đồng về Hiệp hành lần thứ hai, chủ đề này sẽ được đưa vào nghiên cứu của Vatican về vai trò lãnh đạo của phụ nữ.
Giáo hội đề cao chức tư tế cộng đồng (baptismal priesthood) được chia sẻ bởi tất cả các tín hữu, tạo cơ sở cho nhiều “thừa tác vụ không do chức thánh [hoặc giáo dân]” dành cho cả nam lẫn nữ. Nó khẳng định rằng phụ nữ không thể được truyền chức Linh mục nhưng đánh giá sâu sắc những đóng góp không thể thiếu của họ và “thiên tài nữ tính” trong Giáo hội.
Tuy nhiên, Giáo hội thừa nhận rằng chức tư tế thừa tác là “một sự phục vụ dân Chúa” chứ không phải là vấn đề quyền bính hay thống trị. Khía cạnh quan trọng của chức Linh mục là quyền cử hành các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, là “nguồn gốc thẩm quyền của chức Linh mục”.
Lavoisier Fernandes
**Lavoisier Fernandes là một nhà báo sinh ra và lớn lên ở London, Ấn Độ. Ông viết về các vấn đề liên quan đến thần học và Triều đại Giáo hoàng, đồng thời tổ chức các podcast trên đài phát thanh Công giáo. Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ánh quan điểm biên tập chính thức của UCA News.
Cha Pottayil đã chính thức nhận nhiệm vụ mới, từ ngày 01 tháng Năm vừa qua. Hội Kinh thánh Công giáo quốc tế, gọi tắt là SOBICAN có sứ mạng thăng tiến và phổ biến văn hóa Kinh thánh. Ngày 16 tháng Giêng năm nay, cha Domenico Solliman, Bề trên Tổng quyền của tu hội đã bổ nhiệm cha Pottayil vào sứ vụ vừa nói. Cha đã đảm nhận nhiều nhiệm vụ trong tu đoàn, từng làm Tổng cố vấn, Tổng đại diện và gần đây làm Bề trên Tỉnh dòng Ấn Độ, cũng như làm Giám đốc tông đồ và linh hoạt viên nhiều cộng đoàn và các nhóm khác nhau.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho cha Joe Eruppakkat, và được đăng trên mạng MattersIndia, cha cho biết Hội SOBICAN có trụ sở ở Madrid, Tây Ban Nha, và chuyên phổ biến Kinh thánh và văn hóa Kinh thánh qua các phương tiện truyền thông cũng như các sáng kiến giáo dục.
Cha Pottayil cũng cho biết ưu tiên của cha là nhận biết các hoạt động khác nhau của hội và phối hợp với ban lãnh đạo trung ương của Tu hội cũng như các tỉnh dòng để phổ biến và mở rộng hoạt động của Hội SOBICAN. Cha nói: Trên thế giới hiện nay, nhiều người ước muốn được biết Lời Chúa một cách sâu xa, không bỏ qua phần nào. “Nhu cầu và yêu cầu thật lớn lao. Vì thế, tôi có ý định mở rộng mạng hoạt động của Hội SOBICAN, dịch thuật, ấn hành sản xuất và phổ biến Kinh thánh trong nhiều ngôn ngữ và nhiều nước trên thế giới, để Lời Chúa có thể được công bố, được nhiều người thuộc mọi ngôn ngữ và quốc gia nhận biết và sống thực”. Đó cũng là ước nguyện vị sáng lập, chân phước Giacomo Alberione và Tu đoàn sẽ không từ bỏ cố gắng nào để thực hiện viễn tượng của ngài.
Cụ thể là trong năm qua, cơ quan APSA đã chi gần 38 triệu Euro cho hoạt động của các cơ quan Tòa Thánh, so với 32,27 triệu Euro trong năm 2022 trước đó.
Đức Tổng giám mục Giordano Picchiotti, Chủ tịch APSA nói rằng: “Những kết quả này đã đạt được, với xác tín phải hoạt động liên lỷ để gia tăng số thu nhập, hầu trang trải các chi phí, mà không phải bán các gia sản của Tòa Thánh, đặc biệt là bán các bất động sản công quyền.
APSA quản lý hơn năm ngàn bất động sản tại Ý và nước ngoài, trong đó 92% tọa lạc trong tỉnh Roma, phần lớn tập trung ở khu vực quanh Vatican, với 64% diện tích ở các khu vực trung tâm Roma, 19% ở các khu vực phụ cận và 17% ở ngoại ô. Các bất động sản của Tòa Thánh ở nước ngoài, đặc biệt tại các thành phố, như Luân Đôn, Paris, Genève và Lausanne bên Thụy Sĩ. Việc quản lý các bất động sản này mang lại lợi nhuận 35 triệu Euro.
Trước tiên là Đan viện Cát Minh Lucerna, thuộc tỉnh Cordoba, bên Tây Ban Nha, được coi là “Bạn của Đức Thánh cha Phanxicô”, nay buộc lòng phải đóng cửa, sau 412 năm hiện hữu liên tục.
Đan viện này được biết đến nhiều trong những năm gần đây vì sự quen biết của Mẹ Bề trên bấy giờ, là Adriana Chúa Giêsu chịu đinh với Đức Thánh cha Phanxicô, khi ngài còn là Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Buenos Aires, Argentina. Hai nữ tu khác người Argentina cũng là người quen biết với Đức Thánh cha.
Ngày 31 tháng Mười Hai năm 2013, Đức Thánh cha đã gọi điện cho các nữ tu và để lại trong máy thu tự động một sứ điệp nhân dịp Năm mới, khích lệ các chị hãy hy vọng và vui mừng. Vài giờ sau, ngài đã có thể nói chuyện trực tiếp với các nữ tu.
Theo báo “Iglesia en Córdoba” của giáo phận này, lúc Mẹ Adriana gần qua đời, Đức Thánh cha đã gọi điện an ủi mẹ trong lúc cuối đời, và sau khi Mẹ từ trần, ngài lại liên lạc để chia buồn với cộng đoàn các chị.
Báo của Giáo phận Cordoba cho biết: Trong những ngày qua, Mẹ Bề trên Madalena thánh Gioan Thánh Giá, đã thông báo rằng: “Chúng tôi rất đau buồn vì chỉ còn lại ba nữ tu. Sự khan hiếm ơn gọi và do sự thỉnh cầu của Đan viện Cát Minh khác đang ở trong tình trạng thiếu thốn, chúng tôi thấy rằng ý Chúa muốn sứ mạng của chúng tôi kết thúc tại đây”.
Các nữ tu từ thành Cabra đến đây hồi năm 1612 và cư ngụ trong Đan viện Cát Minh Lucerna, được thành lập năm 1603 trước đó.
Theo báo ABC, sự qua đi của Mẹ bề trên Adriana, hồi tháng Chín năm ngoái, làm cho nhân số của Đan viện xuống dưới mức tối thiểu năm nữ tu. Tuy nhiên, cộng đoàn được cấp một quy chế đặc biệt với sự hỗ trợ của Đức Thánh cha và Đức cha Demetrio Fernández, Giám mục sở tại. Nhưng với sự qua đi của một nữ tu khác, tương lai của Đan viện bị cáo chung. Hiện thời, ba nữ tu còn lại chuẩn bị chuyển đến một cộng đoàn ở Giáo phận Salamanca, mà các chị đã có liên hệ mật thiết từ lâu.
Thứ đến là Đan viện của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng.
Ngày 18 tháng Bảy vừa qua, Đan viện Cát Minh thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ở Lisieux bên Pháp, đã ra thông cáo nói rằng:
“Sau cuộc phân định giữa Cộng đoàn Cát Minh Lisieux và Dòng Cát Minh, đứng trước những khó khăn các nữ tu gặp phải trong việc đảm bảo đời sống thường nhật, Đan viện Cát Minh Lisieux nay bị tháp nhập vào Liên hiệp Têrêsa-Elisabeth của các nữ tu Cát Minh miền bắc Pháp. Điều này kéo theo những thay đổi sâu rộng trong đời sống của Đan viện Cát Minh.
Nữ tu Marie-Gabrielle, thuộc Đan viện Cát Minh Saulve, Chủ tịch của Liên hiệp, trở thành Bề trên thượng cấp. Cùng với Hội đồng cố vấn, chị đảm trách việc cai quản Đan viện Cát Minh Lisieux và bổ nhiệm nữ tu Marie làm Bề trên để điều hành đời sống thường nhật của Đan viện.
Trong tương quan chặt chẽ với Đức cha Jacques Harbert, Giám mục Giáo phận Bayeux-Lisieux, một thời gian chuyển tiếp được ấn định trong đó một nhóm nhỏ các nữ tu sẽ đảm trách sứ mạng cầu nguyện và phục vụ sự chiếu tỏa của thánh nữ Têrêsa một cách âm thầm và kín đáo hơn.
Vì thế, từ ngày 17 tháng Bảy này, kinh sáng và kinh chiều không còn được cử hành tại Nhà nguyện Cát Minh, ngoại trừ Kinh Chiều I (một) và Kinh Chiều Hai. Các chúa nhật, với các thánh lễ sẽ tiếp tục và được cử hành vào cùng thời điểm.
“Các nữ tu khác, mỗi chị sẽ được chuyển tới một nơi khác, có thể tiếp tục sống đời thánh hiến cho Chúa.
“Chúng tôi rất biết ơn vì sự nâng đỡ huynh đệ và cầu nguyện trung tín của các bạn hữu Cát Minh Lisieux, cộng đoàn sống giai đoạn quan trọng này trong đức tin và đức cậy, tuy không phải là không đau khổ.
“Các thành viên Đền thánh nữ Têrêsa tái bày tỏ tình thân hữu sâu sắc với các nữ tu Cát Minh, và cam đoan cầu nguyện trong chân lý và tình thương để Đan viện Cát Minh Lisieux tiếp tục là một nơi nguồn ơn thánh và cuộc sống thân mật với Chúa”.
Hãng tin Công giáo Ba Lan Ekai, truyền đi ngày 28 tháng Bảy vừa qua, cho biết: tính đến tháng Mười Hai năm ngoái (2023), có 703 đan viện chiêm niệm tại Tây Ban Nha, trong số này có 666 nữ đan viện và 37 nam đan viện, tức là giảm mất 162 đan viện, và trong năm nay (2024), có thêm bốn đan viện bị đóng cửa. Tổng số nữ đan sĩ chiêm niệm nay chỉ còn gần 3.700 chị.
Nguyên do sự giảm sút này là trào lưu tục hóa gia tăng, tỷ lệ sinh sản thấp tại Tây Ban Nha, xã hội ngày càng già nua hơn và tỷ lệ tuổi của các nữ tu cũng lên rất cao, trung bình là 80 tuổi.
Để tránh bị đóng cửa, nhiều nữ đan viện đón nhận các nữ tu đến từ Phi, Á châu và Mỹ Latinh. Ví dụ, đan viện ở Castrojeriz, gần thành phố Burgos có 19 nữ tu, trong đó có bảy chị đến từ nước ngoài, như Congo, Kenya, Tanzania và Nam Mỹ. Trong số các nữ tu Tây Ban Nha bản xứ, có bốn chị trên 90 tuổi, sáu chị trên 80 tuổi. Chị trẻ nhất 61 tuổi, đang làm bề trên đan viện.
Từ nhiều năm nay, tiến trình gộp các đan viện đang tiến hành để bảo trì các đan viện và chăm sóc các nữ tu già yếu. Một thách đố lớn khác, đó là bảo trì các đan viện và nhà thờ lịch sử.
Đức cha Gonzalo Alonso Calzada Guerrero, Giám mục Giáo phận Tehuacán
Thông cáo ngày 24 tháng Bảy vừa qua, của Tòa giám mục sở tại cho biết vụ tấn công và cướp bóc Đức cha Calzada, xảy ra sáng ngày 23 tháng Bảy vừa qua: Đức cha bị tấn công trên đường đi tới một cộng đoàn trong giáo phận để cử hành thánh lễ, nhân ngày lễ bổn mạng.
Kênh tin tức N+ cho biết trên đường đi, Đức cha Calzada bị những người võ trang chặn lại, trói tay và chân và bỏ ngài trên một ngọn đồi, sau khi đã cướp điện thoại di động và tiền bạc ngài có trong người. Đức cha đã tự giải thoát mình và nhờ mọi người trên đường trợ giúp.
Thông cáo của Tòa giám mục cho biết: “Đức cha không bị thương tích và đã đệ đơn kiện với nhà chức trách. Giáo phận bày tỏ lòng tri ân Chúa và Đức Mẹ vì đã luôn đồng hành, chăm sóc và bảo vệ Đức cha. Đồng thời, Tòa giám mục xin các tín hữu tiếp tục cầu nguyện cho hòa bình tại Mêhicô, đặc biệt cho những anh chị em hằng ngày phải đương đầu với những tình trạng như vậy, cầu cho các gia đình bị tổn thương và bị cướp bóc, để họ tìm được an ủi và sức mạnh. Giáo phận cũng xin cầu nguyện cho những kẻ tấn công, cho những anh em làm thương tổn các gia đình. Xin Chúa đánh động và hoán cải tâm hồn họ”.
Theo thống kê của Bộ công an Mêhicô, trong sáu tháng đầu năm nay, có gầm 3.680 xe bốn bánh bị ăn trộm tại bang Puebla, trong đó 1.652 xe bị đánh cướp.
Ngày 03 tháng Tư năm nay, Đức cha Eduardo Carvantes Merino, Giám mục Giáo phận Orizaba, bang Veracruz, giáp giới với Giáo phận Tehuacán, và ba linh mục cùng đi, đã bị cướp trên một đường cao tốc.
Phúc trình tựa đề: “Các vụ tấn công Kitô hữu tại Israel và khu vực Đông Jerusalem năm 2023”, do Trung tâm Rossing ở Jerusalem thực hiện. Trong cuộc trao đổi với tổ chức bác ái “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, bà Hana Bendcowsky, thuộc Trung tâm vừa nói, phân biệt hai vấn đề lớn các Kitô hữu ở Thánh địa thường phải chịu:
Trước hết là những vụ gọi là “smash”, như cuộc tấn công nhà thờ Chúa Chịu đánh đòn. Tại đây, một tượng đã bị phá hủy bằng búa. Những vụ này thường do các thanh niên Do thái siêu bảo thủ, với những ý tưởng quốc gia chủ nghĩa quá khích. Tuy nhiên, đó không phải là quy luật chung, vì phần lớn những người thuộc nhóm này không vào một nhà thờ và không đập phá tượng Chúa Giêsu.
Tiếp đến là những vụ khạc nhổ vào các linh mục, hoặc các nữ tu bị người ta yêu cầu tháo gỡ thánh giá, khi đi vào nhà thương. Việc làm này gọi là “Squeeze”. Ông Benscowsky giải thích thêm rằng: khác với những hành động bạo hành về thể lý, những vụ khạc nhổ hoặc lăng mạ thường do những “thành viên cộng đoàn Do thái siêu bảo thủ, nam cũng như nữ, già cũng như trẻ”. Đan viện phụ Nikodemus Schannel, người Đức, thuộc Đan viện Biển Đức “An nghỉ”, ở khu vực Đông Jerusalem, kể rằng những vụ khạc nhổ xảy ra hằng ngày: Dĩ nhiên, có nhiều người Do thái thật là tốt lành (...), nhưng điều thật đau buồn là chúng ta có nạn khạc nhổ như thế và đó không phải là điều họa hiếm. Đan viện chúng tôi đã chịu những vụ tấn công đốt phá, vẽ bẩn, với những câu oán ghét, đập phá cửa sổ”. Hiện tượng này ngày càng thường xuyên”.
Bà Bendcowsky cho biết có 30 vụ được ghi nhận trong năm ngoái, nhưng con số này chỉ là một mảnh của băng sơn.
Phúc trình cho biết khi cảnh sát can thiệp thì thật hữu ích. Sự hiện diện của cảnh sát tỏ ra hiệu quả. Ví dụ, để chấm dứt một vụ tụ tập chiếm đóng Đan viện Cát Minh “Đức Mẹ Sao biển”, ở thành phố cảng Haifa, do những thành viên phe đảng của Rabbi Eliezer Berland. Phúc trình của Trung tâm Rossing cho biết sau những vụ tấn công khạc nhổ vào các tín hữu hành hương, hồi tháng Mười năm ngoái, Rabbi trưởng Yitzhak Yosef của phái Sefardi đã nhấn mạnh rằng những hành động nói trên không thuộc về Do thái giáo. Còn Rabbi trưởng của phái Ashkenazy, David Lau, thì tuyên bố rằng khạc nhổ vào tín hữu Kitô là điều trái ngược với luật Do thái giáo.
Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa ở Jerusalem ca ngợi trung tâm Rossing đã lập hồ sơ với bằng chứng về những vụ ấy và nói rằng: “Chúng ta cần biết điều gì đang xảy ra, con số những vụ tấn công và ai thực hiện để báo nhà chức trách. Cả khi họ không làm gì cả, thì họ không thể nói những vụ ấy không xảy ra”.
Từ hơn mười năm nay, tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” vẫn hỗ trợ trung tâm Rossing trong các dự án khác nhau, trong đó có dự án “Phát triển tha thứ, vượt thắng oán ghét”, liên kết những thanh niên Do thái, Kitô và Hồi giáo, giúp họ sống hòa bình với nhau.
Thông cáo nói rằng: “Tòa Thánh đau buồn vì một số hoạt cảnh trong lễ khai mạc Thế vận hội Olympic và hợp tiếng với những tiếng nói đã được gióng lên trong những ngày qua để lên án sự xúc phạm đối với nhiều Kitô hữu và tín hữu các tôn giáo khác.
“Trong một biến cố quan trọng, cả thế giới hiệp nhau quanh những giá trị chung không thể có những ám chỉ chế nhạo xác tín tôn giáo của nhiều người. “Dĩ nhiên, tự do ngôn luận ở đây không bị đặt lại, nhưng nó có giới hạn trong sự tôn trọng những người khác”.
Trong hơn mười ngày qua, rất nhiều người, bắt đầu từ Hội đồng Giám mục Pháp, đến các vị lãnh đạo tôn giáo Kitô, Hồi giáo và cả Do thái giáo, cũng như các nhân vật chính trị, trong đó có cả Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, đã lên tiếng phê bình một số cảnh trong buổi khai mạc Thế vận hội nói trên. Hoạt cảnh bị lên án nhiều nhất là mô phỏng bức tranh Bữa Tiệc ly của Leonardo da Vinci ở Milano, với khoảng mười người hóa trang trần trụi như trong một cuộc truy hoan. Diễn viên chính thủ vai Chúa Giêsu, có hào quang, ngồi ở giữa là một bà Barbara Butch, vốn tự xưng mình là người đồng tính luyến ái (lesbian) và nổi tiếng về những hoạt động tranh đấu cho tự do tính dục.
Hai ngày sau buổi khai mạc, ban tổ chức lễ khai mạc thế vận hội “xin lỗi” các tôn giáo đã cảm thấy bị xúc phạm vì một số màn trình diễn trong lễ nghi khai mạc. Bà Anne Descamp, giám đốc truyền thông của Thế vận hội Olympic 2024 biện minh rằng “chúng tôi không hề có ý thiếu tôn trọng đối với một nhóm tôn giáo nào”.
Trong một thư ngỏ, công bố hôm mùng 02 tháng Tám vừa qua, 24 hồng y và giám mục trên thế giới kêu gọi Ủy ban thế vận hội hãy bác bỏ những hoạt cảnh đó và xin lỗi vì những cố tình chế nhạo Bữa tiệc ly, trong lễ nghi khai mạc thế vận hội. Thư có đoạn viết: “Trong bàng hoàng, thế giới đã theo dõi Thế vận hội mùa hè ở Paris được khai mạc bằng một bức tranh thô lỗ và phạm thượng diễn tả Bữa tiệc ly... Thật là khó hiểu khi thấy niềm tin của hơn hai tỷ người lại có thể bị xúc phạm một cách tùy tiện và cố ý như vậy”.
Mười lăm trong số hai mươi bốn hồng y, giám mục ký tên vào lá thư là người Mỹ. Các vị còn lại người Argentina, Pháp, Ghana, Liban, Nigeria, Peru, Anh quốc.
Thư của các giám mục cũng cảnh giác rằng hành động phạm thượng, qua cuộc trình diễn như thế “đe dọa những người có tín ngưỡng hoặc không tín ngưỡng, vì nó mở cửa cho những người có quyền lực làm bất kỳ điều gì họ muốn đối với những người mà họ không thích”.
Ban tổ chức lá thư cũng cung cấp một địa chỉ điện thư để các giám mục khác có thể ký tên vào.
“Tòa Thánh buồn lòng vì một số cảnh tượng tại lễ khai mạc Thế vận hội Olympic Paris và không thể không góp vào tiếng nói mà nhiều người đã cất lên trong những ngày gần đây để lên án sự xúc phạm đối với nhiều Kitô hữu và tín đồ của các tôn giáo khác,” Tòa Thánh nói trong một thông cáo báo chí bằng văn bản bất thường vào một tối cuối tuần viết bằng tiếng Pháp.
Một phân đoạn trong buổi lễ ngày 26 tháng 7 có những cảnh giống cảnh trong Kinh thánh với Chúa Giêsu Kitô và các tông đồ của ông cùng nhau dùng bữa ăn cuối cùng trước khi bị đóng đinh. Hoạt cảnh có sự góp mặt của những người nam mặc đồ phụ nữ, một người mẫu chuyển giới, và một ca sĩ khỏa thân đóng vai thần rượu Hy Lạp Dionysus.
Ban tổ chức Paris 2024 đã lên tiếng xin lỗi hai ngày sau đó, nói rằng họ không hề có ý định bất kính với bất cứ nhóm tôn giáo nào.
Giám đốc nghệ thuật đằng sau hậu trường nói phân đoạn không lấy cảm hứng từ bữa tiệc ly trong Cơ đốc giáo mà là một bữa tiệc ngoại giáo gắn liền với Thế vận hội trong lịch sử.
“Trong một sự kiện danh giá nơi cả thế giới đến với nhau quanh những giá trị chung, không nên có những ám chỉ chế giễu niềm tin tôn giáo của nhiều người,” Vatican nói thêm.
“Quyền tự do ngôn luận rõ ràng không có gì bàn cãi, nhưng phải được giới hạn bằng sự tôn trọng người khác.”
Vatican không cho biết lý do tại sao lại đưa ra tuyên bố của mình hơn một tuần sau lễ khai mạc.
Đức Giáo hoàng Phanxicô có cuộc điện đàm vào ngày 1 tháng 8 với Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Tayyip Erdogan. Ông Erdogan nói hai người đã nói về sự kiện ở Paris.
Dù Vatican sau đó xác nhận với Reuters rằng cuộc gọi đã diễn ra nhưng không bình luận về nội dung cuộc trò chuyện của hai nhà lãnh đạo.
Trong thư gửi các giáo xứ toàn giáo phận, Đức Tổng giám mục Tomash Peta và Đức cha Phụ tá Athanasius Schneider kêu gọi các giáo xứ, sau thánh lễ Chúa nhật, ngày 11 tháng Tám sắp tới, hãy chầu Mình Thánh Chúa và đọc kinh đền tạ: Jesus dulcissime, lạy Chúa Giêsu rất dịu dàng.
Thư của hai Đức giám mục bản quyền đã được đọc trong các giáo xứ, vào Chúa nhật, mùng 04 tháng Tám vừa qua, và Chúa nhật, ngày 11 tháng Tám sắp tới.
Trong số 19 triệu dân Kazachstan, khoảng 70% dân số là tín hữu Hồi giáo, Kitô giáo chiếm 26%, trong đó đa số thuộc Chính thống Nga. Ngoài ra, có 3% không thuộc tôn giáo nào. Riêng về Công giáo tại đây, có 125.000 tín hữu Tổng giáo phận Astana và hai giáo phận thuộc hạt là Almaty và Karaganda, cũng như miền Giám quản Tông tòa Atyrau. Tổng cộng có 81 giáo xứ, 146 trung tâm mục vụ. Nhân sự của Giáo hội gồm sáu giám mục, 78 linh mục giáo phận và 26 linh mục dòng, năm tu huynh và 133 nữ tu. Cũng có 18 thừa sai giáo dân và 50 giáo lý viên.
Số tín hữu Công giáo tại Kazachstan quá một nửa là người gốc Ba Lan, phần còn lại là người gốc Ý, Đức, Tây Ban Nha, v.v.
Đức Thánh cha đã đến thăm Kazakhstan hồi tháng Chín năm 2022.
Trước sáng kiến trên đây của Giáo phận Astana, một số giáo phận ở Pháp cũng đã mời gọi các tín hữu hãy họp nhau đọc kinh Mân côi trên đường phố, lúc 16 giờ, ngày 02 tháng Tám, trước một cây thánh giá, hoặc tại một nhà nguyện để làm việc đền tạ, vì sự xúc phạm trong lễ khai mạc Thế vận hội Paris. Đó là trường hợp tại Giáo phận Aire-et-Dax thuộc vùng Aquitaine, miền tây nam nước Pháp, trong khi nhà thờ tại Linxe được chọn làm nơi đọc kinh đền tạ.
- Biểu tượng mang màu xanh lá, diễn tả cánh đồng loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô trên quê hương Việt Nam;
- Tâm điểm của biểu tượng hình ảnh gậy mục tử nối kết với thập giá gợi nhớ sứ mạng mục tử khởi nguồn từ và dẫn Dân Chúa đến với tình yêu cứu độ;
- Vòng tròn kết nối tên tiếng Việt và Latinh của Hội đồng Giám mục diễn tả sự đồng tâm và hợp nhất của mọi thành phần Dân Chúa cũng như của Hội Thánh địa phương và Giáo Hội hoàn vũ;
- Họa tiết tre nhắc nhớ lòng kiên trì và bền bỉ trong đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam qua dòng lịch sử.
Lưu ý của Bộ Loan báo Tin Mừng nhấn mạnh rằng dù có những động lực mục vụ và sùng kính với lòng khát vọng đáng khen ngợi, tuy nhiên cần lưu ý tuân theo những chỉ dẫn cụ thể được Đức Thánh Cha thiết định trong Sắc chỉ Spes non confundit công bố Năm Thánh 2025 về việc thiết lập và mở Cửa Thánh.
Trong Sắc chỉ, Cửa Thánh là Cửa được Đức Thánh Cha thiết lập cụ thể thuộc những đền thờ được chỉ định, trước hết là Vương cung thánh đường Thánh Phêrô và ba Vương cung thánh đường khác của Giáo hoàng là Gioan Laterano, Đức Bà Cả, và Phaolô Ngoại Thành (x. số 6). Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng muốn đích thân mở Cửa Thánh trong một nhà tù “để trao cho các tù nhân một dấu hiệu gần gũi cụ thể” (x. số 10).
Bên cạnh đó, một dấu hiệu đặc trưng và nhận biết của Năm Thánh, được truyền lại từ Năm Thánh đầu tiên năm 1300, là ơn toàn xá với “mục đích diễn tả ơn tha thứ trọn vẹn của Thiên Chúa” (x. 23), qua Bí tích Sám Hối và các cử chỉ bác ái và hy vọng (xem các số 7-15).
Vì vậy, để sống trọn vẹn thời gian ân sủng này với ơn toàn xá, Bộ Loan báo Tin Mừng khuyến khích các tín hữu thực hành đạo đức tại những địa điểm cụ thể và những phương thức khác nhau được nêu ra trong Sắc lệnh của Tòa Ân Giải ngày 13 tháng 5 năm 2024.
Kamala Harris sẽ là Tổng thống chống Công giáo nhất trong lịch sử Hoa Kỳ
Trong những tháng gần đây, các nhà hoạt động chính trị và các nhóm lợi ích ở cả hai đảng phái đã âm thầm làm việc ở hậu trường để giành được một trong những nhóm cử tri quan trọng nhất—nhưng cũng là một trong những nhóm bị đánh giá thấp nhất—về nhân khẩu học sẽ là chìa khóa để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 11 này: Người Công giáo Mỹ. Nhưng sự thăng tiến rõ ràng của Kamala Harris lên vị trí dẫn đầu trong đảng của cô ấy khiến cho việc Đảng Dân chủ có thể xâm nhập vào nhóm vốn nghiêng về cánh hữu này càng khó có khả năng xảy ra trong các chu kỳ gần đây.
Giống như những gì đã làm trong suốt sự nghiệp chính trị của mình, Joe Biden chủ yếu dựa vào đức tin Công giáo sùng đạo mà ông tự xưng trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020. Tuy nhiên, Biden đã xóa tan mọi nghi ngờ về thái độ thù địch của chính quyền ông đối với các tín đồ và các nguyên lý cốt lõi của đức tin Công giáo trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của ông - đáng chú ý nhất là thông qua việc thẳng thắn ủng hộ việc phá thai, việc ông công khai ca ngợi hệ tư tưởng chuyển giới cực đoan và Bộ Tư pháp của ông liên tục nhắm mục tiêu vào người Công giáo như “những kẻ cực đoan bạo lực.”
Sự cố chấp chống Công giáo của chính quyền Biden-Harris cũng được thể hiện qua việc đề cử và bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Xavier Becerra, người khét tiếng lãnh đạo những nỗ lực lâu dài của những người tiến bộ nhằm buộc các Tiểu Muội Người Nghèo, một dòng tu Công giáo, vi phạm giới luật tôn giáo của họ và trả tiền cho việc kiểm soát sinh sản.
Harris, với tư cách là phó tổng thống của Biden, cũng sở hữu thành tích này - và có lịch sử đáng lo ngại về thành kiến chống Công giáo. Khi người Công giáo chuẩn bị tham gia các cuộc bỏ phiếu vào Ngày bầu cử này, họ nên nhận thức chính xác nhiệm kỳ tổng thống của Harris sẽ nguy hiểm như thế nào đối với đức tin, các giá trị và quyền tự do thờ phượng của họ.
Một trong những ví dụ điển hình nhất về sự cố chấp chống Công giáo của Harris là trong phiên điều trần của Ủy ban Tư pháp Thượng viện năm 2018, khi Thượng nghị sĩ Harris khi đó nhấn mạnh mạnh mẽ rằng người Công giáo Mỹ không phù hợp để làm thẩm phán liên bang. Khi thẩm vấn Brian Buescher, người được đề cử làm thẩm phán cho Tòa án Quận Hoa Kỳ cho Quận Nebraska, Harris chỉ ra tư cách thành viên của ông trong Hiệp sĩ Columbus, một tổ chức từ thiện và huynh đệ Công giáo, là có vấn đề, lên án tổ chức này (của Giáo hội) quan điểm chính thống của Cơ đốc giáo là cực đoan.
Harris nói rõ ràng: “Kể từ năm 1993, bạn đã là thành viên của Hiệp sĩ Columbus, một tổ chức toàn nam giới bao gồm chủ yếu là nam giới Công giáo.” Vào năm 2016, Carl Anderson, lãnh đạo Hiệp sĩ Columbus, đã mô tả việc phá thai là 'một chế độ pháp lý đã khiến hơn 40 triệu người tử vong.' Ông Anderson tiếp tục nói rằng 'phá thai là việc giết hại người vô tội trên quy mô lớn'. “Bạn có biết rằng Hiệp sĩ Columbus phản đối quyền lựa chọn của phụ nữ khi bạn gia nhập tổ chức không?”
Harris sau đó tiếp tục lên án quan điểm của Giáo hội về hôn nhân. Nhiều người coi bình luận của cô về cơ bản giống như một cuộc kiểm tra tôn giáo công khai và bất hợp pháp đối với một ứng cử viên tư pháp.
Cách đặt câu hỏi chống Công giáo một cách trắng trợn của Harris đã gây ra phản ứng dữ dội không chỉ từ những người Công giáo, mà còn từ những người Mỹ có đức tin khác và các đồng nghiệp của Harris tại Thượng viện Hoa Kỳ. Ví dụ, cựu Thượng nghị sĩ Orrin Hatch (R-UT) lưu ý tính chất “đáng báo động” của cuộc thẩm vấn, điều này cho thấy các đảng viên Đảng Dân chủ “ngày càng thoải mái hơn với việc áp đặt các bài kiểm tra tôn giáo đối với các ứng cử viên tư pháp Liên bang”.
Nhưng thành tích chống Công giáo rõ ràng của Harris không dừng lại ở đó. Vào năm 2015, khi còn giữ chức Bộ trưởng Tư pháp của California, Harris đã tài trợ cho cái gọi là “Đạo luật FACT”, về mặt pháp lý yêu cầu các trung tâm chăm sóc thai sản phải quảng cáo về các cơ sở phá thai miễn phí hoặc chi phí thấp trong phòng chờ của họ. (May mắn thay, luật này đã bị Tòa án Tối cao Hoa Kỳ bác bỏ vào năm 2018).
Vào năm 2016, khi một người tố cáo tiết lộ rằng Planned Parenthood đang buôn bán trái phép nội tạng và mô từ những đứa trẻ bị phá thai, Harris đã phẫn nộ ra lệnh đột kích vào nhà của người tố giác để thu giữ bằng chứng của anh ta.
Với tư cách là Thượng nghị sĩ, Harris cũng đưa ra cái gọi là “Đạo luật không gây hại”, đạo luật này sẽ buộc các bác sĩ Công giáo vi phạm niềm tin tôn giáo chân thành của họ và thực hiện phá thai cũng như phẫu thuật chuyển giới cho bệnh nhân. Đạo luật này cũng sẽ ngăn cản các nhóm tôn giáo như Little Sisters of the Poor, cũng như các bệnh viện, trường học và tổ chức từ thiện Công giáo, hoạt động cho đến khi họ từ bỏ niềm tin tôn giáo của mình.
Harris cũng là người ủng hộ nhiệt thành cái gọi là “Đạo luật Bình đẳng”, cho phép nam giới thi đấu trong các môn thể thao dành cho nữ, buộc các nhà thờ Công giáo phải tổ chức tiệc cưới đồng giới, buộc đóng cửa các chương trình nhận con nuôi và chăm sóc nuôi dưỡng của Công giáo, đồng thời đình công. một đòn chí mạng vào quyền tự do tôn giáo trên toàn quốc.
Như hồ sơ theo dõi của cô cho thấy rõ ràng, Kamala Harris là một trong những nhân vật chống Công giáo tích cực nhất trong chính phủ Hoa Kỳ, và nhiệm kỳ tổng thống của Harris sẽ gây ra những mối nguy hiểm hiện hữu cho tương lai của Công giáo ở Hoa Kỳ. Đối với cả người Công giáo và mọi người Mỹ quan tâm đến tự do tôn giáo, nguy cơ trong cuộc bầu cử này không thể cao hơn.
Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống, Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, tái khẳng định Giáo hội hoàn toàn phản đối trợ tử và an tử, bảo vệ quyền sống của mọi người, đặc biệt những người dễ bị tổn thương nhất, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác với chính trị về các vấn đề cuối đời.
Ngày 02/7/2024, Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống đã xuất bản “từ điển” thuật ngữ về các vấn đề cuối đời, nhắm làm rõ các thuật ngữ chính để cổ võ cuộc thảo luận có hiểu biết.
Sáng ngày 08/8, Đức Tổng Giám Mục đã trình cho Đức Thánh Cha tài liệu tại buổi tiếp kiến riêng. Trong cuộc phỏng vấn sau đó, Vatican News đã đề cập đến tài liệu này, đặc biệt nhận xét của một số cơ quan truyền thông cho rằng trong tài liệu này có “sự cởi mở”. Chủ tịch Hàn lâm viện Tòa Thánh về Sự sống nói: “Vấn đề cuối đời rất phức tạp và Giáo hội có một Huấn quyền phong phú về điều này từ năm 1957 thời Đức Giáo Hoàng Piô XII cho đến nay. Sự sống phải được bảo vệ toàn diện, không chỉ trong những thời điểm cụ thể. Quyền sống phải được bảo vệ đặc biệt, nhất là đối với những người yếu đuối, để chống lại ‘nền văn hóa vứt bỏ’ ẩn sau đòi hỏi về quyền tự chủ của con người thời nay”.
Một số ý kiến cho rằng với “từ điển” này, Toà Thánh có sự thay đổi hướng tới việc cho phép ngưng cung cấp dinh dưỡng và nước. Chủ tịch Hàn lâm viện Toà Thánh về Sự sống nhắc lại, vào năm 1956, Đức Giáo Hoàng Piô XII - như đã được đề cập trong tài liệu - đã khẳng định cho phép ngừng sử dụng máy thở trong một số tình trạng nghiêm trọng. Và vào năm 2007, Bộ Giáo lý Đức tin đã công nhận rằng các cách thức điều trị như vậy có thể được phép khi chúng gây ra “gánh nặng quá mức hoặc khó chịu đáng kể về mặt thể lý”. Đây là hai tiêu chí nằm trong định nghĩa về các phương pháp điều trị không cân xứng, cần phải ngưng. Đây là một đánh giá luôn đòi hỏi sự tham gia của bệnh nhân, ở mức độ cao nhất có thể. Cần phải đọc toàn bộ “từ điển”.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Tổng Giám Mục tái khẳng định việc phản đối tuyệt đối của Giáo hội đối với bất kỳ hình thức an tử và trợ tử. Đây cũng là niềm tin của ngài, ngay cả khi một số người muốn ngài nói khác đi.
Tuy nhiên, Giáo hội cũng mời gọi suy tư về sự “bướng bỉnh trong điều trị” - biết không thể điều trị được nữa nhưng vẫn cương quyết - không lấy bệnh nhân làm trung tâm trong giải pháp y học và chăm sóc. Chắc chắn, chúng ta không bao giờ được rút ngắn thời gian sống, nhưng chúng ta cũng không nên cố tình cản trở quá trình sự sống theo mọi cách có thể. Chúng ta rất mong manh. Và đây là lý do tại sao chúng ta phải chăm sóc lẫn nhau.
Về vấn đề “hòa giải lập pháp”, Đức Tổng Giám mục nói rõ rằng không có “sự hòa giải có thể chấp nhận được”. Liên quan đến các vấn đề cơ bản và tế nhị về cuối đời, điều mong muốn là đạt được sự đồng thuận chung cao nhất có thể, tôn trọng xem xét các điểm nhạy cảm và tôn giáo khác nhau. Đây là nhiệm vụ của chính trị.
Giáo hội có thể hợp tác vì lợi ích chung của xã hội. Vai trò của Giáo hội là hình thành lương tâm hơn là soạn thảo luật lệ.
Theo danh sách mới nhất, có 121 đền đài dinh thự có tầm quan trọng quốc gia và 892 dinh thự đền đài nhà thờ ở tầm mức địa phương, bị thiệt hại vì chiến tranh.
Bộ văn hóa và thông tin Ucraina cho biết nhiều đền đài và di tích bị phá hủy nằm trong những khu vực bị Nga chiếm đóng tạm thời hoặc tại các lãnh thổ đang xảy ra các cuộc đụng độ. Tính đến cuối tháng Bảy vừa qua, hầu như toàn tỉnh Luhansk và phần lớn tỉnh Zaporizhia, cùng với Kherson còn ở dưới sự chiếm đóng của Nga, vì thế không thể xác định chính xác con số các đền đài và di tích văn hóa bị phá hủy hoặc hư hại vì chiến tranh.
Trong số ba nghi phạm khủng bố bị bắt, có một phần tử được biết đến với cái tên “Hok”, học sinh trung học được xác định là “người thực hiện” vụ tấn công liều chết. Trong cuộc thẩm vấn, người này thừa nhận sau khi bị những kẻ cực đoan Daulah Islamiyah thuyết phục trong khoảng sáu tháng, muốn đánh bom tự sát tại một trong những Nhà thờ ở Malang. Theo Densus 88 Polri, mạng xã hội của nhóm khủng bố đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm lý của người trẻ này, đến mức đã dùng một phần số tiền nhận được từ gia đình để mua chất nổ.
Indonesia là quốc gia có số dân theo Hồi giáo lớn nhất trên thế giới, trong quá khứ đã ghi nhận nhiều vụ tấn công vào các Nhà thờ hoặc các hành động bất khoan dung đối với người thiểu số, trong đó có các Kitô hữu, tín đồ Hồi giáo Ahmadi hay của các tôn giáo khác. Tại tỉnh Aceh - tỉnh duy nhất trong Quần đảo - luật Hồi giáo (sharia) được áp dụng, sau thỏa thuận hòa bình giữa chính quyền trung ương và Phong trào Giải phóng Aceh (Gam); ở nhiều khu vực khác, tầm nhìn về Hồi giáo trong người dân đã bị cực đoan hóa, ngay cả khi chính quyền Jakarta đã cố gắng chống lại chủ nghĩa tại căn. Hơn nữa, một số quy định như giấy phép xây dựng đã bị lợi dụng để ngăn chặn việc xây dựng hoặc niêm phong các nơi thờ phượng, như đã xảy ra ở Tây Java chống lại Nhà thờ Yasmin.
Giám đốc ơn gọi của giáo phận, cha Séamus McEntee gọi đây là một dấu chỉ khủng hoảng đức tin.
Theo tờ Thời Báo (Times), số ra Chúa nhật, ngày 04 tháng Tám vừa qua, cha McEntee đã tuyên bố rằng: “Tôi thường nghĩ thật là một cuộc khủng hoảng nếu giáo phận có dưới 100 chủng sinh!”. Cha cho biết vào tháng Chín tới đây, giáo phận sẽ có thêm một chủng sinh nữa. “Tôi mong muốn có nhiều hơn”.
Tổng giáo phận Dublin có 1,6 triệu dân cư, trong đó một triệu là tín hữu Công giáo. Số linh mục của giáo phận cũng giảm sút mau lẹ. Cách đây hai năm qua, một phúc trình cho thấy đã có một phần năm các linh mục qua đời trong vòng ba năm. Nhiều giáo xứ nay bị gộp lại vì thiếu linh mục coi sóc.
Hãng tin Công giáo CNA, truyền đi ngày 10 tháng Tám vừa qua, kể lại rằng Jimena đã làm tuần cửu nhật kính Đức Mẹ Xuống Tuyết, hay còn gọi là Đức Mẹ là Phần rỗi của dân Roma (Salus Romani Populi), được lưu giữ tại Đền thờ Đức Bà Cả, ở Roma và bản sao được rước đi trong các Ngày Quốc tế Giới trẻ, cùng với thánh giá giới trẻ. Đến ngày thứ chín trong tuần cửu nhật, Jimena tham dự thánh lễ, và sau khi rước lễ, cô cầu xin ơn được lành bệnh. Cô cảm thấy tâm hồn rất an bình, và khi mở mắt ra, cô có thể nhìn thấy rõ ràng như thường.
Jimena kể lại với trang mạng của hãng CNA Tây Ban Nha, hồi tháng Năm vừa qua, rằng: “Tôi cảm thấy rất bình an trong tâm hồn, như thể tôi đã biết điều gì đã xảy ra mà không mở mắt ra. Và khi tôi mở mắt, dụi mắt, tôi có thể nhìn thấy bàn thờ và nhà tạm rất rõ ràng”.
Cô Jimena đã bị mất thị giác 95% năm lên 14 tuổi. Các bác sĩ coi bệnh trạng của cô là không thể chữa trị được. Cô đã trải qua nhiều biện pháp trị liệu khiến cho cô bị buồn nôn và nhức đầu. Sau cùng, cô xin ngưng trị liệu, mặc dù vẫn hy vọng được chữa lành.
Đền thờ Đức Bà Cả nổi tiếng với lễ Đức Mẹ Xuống Tuyết, mừng vào ngày 05 tháng Tám mỗi năm, ghi nhớ sự tích đồi Esquilino phủ tuyết trắng, sáng ngày 05 tháng Tám năm 351, như bằng chứng lời Đức Mẹ báo mộng cho ông bà phú hộ Giovanni và Đức Giáo hoàng Liberio, truyền dạy hãy xây một đền thờ kính Mẹ. Chiều ngày 05 tháng Tám vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã đến dự Kinh Chiều tại đây, và ngài đã từng đến đây 115 lần để cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là phần rỗi của dân Roma, trước và sau những hoạt động quan trọng.
Sau khi từ Lisboa trở về nhà, Jimena đi gặp bác sĩ, ông xác nhận tình trạng của cô không thể tự nhiên mà được cải tiến.
Sau vụ này, Jimena và gia đình đã gặp Đức Thánh cha Phanxicô hồi tháng Mười Hai năm ngoái (2023). Đức Thánh cha đã gợi ý gia đình hãy viếng thăm Đền thờ Đức Bà Cả để tham gia lòng sùng kính Đức Mẹ. Jimena và gia đình viếng thăm Đền thờ hồi năm ngoái, và lần thứ hai, ngày 05 tháng Tám vừa qua, lễ Đức Mẹ Xuống Tuyết, kỷ niệm một năm cô được lành bệnh.
Đức Tổng giám mục Rolandas Makrickas, Phó Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả, nói với trang mạng “Rome Reports” rằng: “Gia đình này thực sự được một ơn đặc biệt, và họ cũng muốn cảm tạ Đức Mẹ tại chính Đền thờ này”.
Theo báo Goteborgs Posten, sự gia tăng vừa nói là do số người nhập cư và có một trăm người lớn trở lại. Trong những thập niên trước đây, những người trở lại thường từ Tin lành Luther, xin nhập Giáo hội Công giáo, nhưng nay những người trẻ xin trở thành Công giáo thường là những người không có tôn giáo.
Số người trở lại trên đây cũng gia tăng thu nhập của Giáo hội, tương đương với 1% tiền thuế, và cũng cần cho các nhà thờ mới.
Nhiều báo chí Thụy Điển đặc biệt để ý tới Giáo hội Công giáo, do một bài đăng trên báo Le Figaro ở Pháp, cách đây vài tháng. Báo này liệt kê Đức Hồng y Anders Arborius, Dòng Cát Minh, hiện là Giám mục Giáo phận Stockholm, như một trong những hồng y có thể được bầu làm Giáo hoàng. Ngài nổi tiếng nơi những người bảo thủ cũng như cấp tiến. (Ekai.pl 9-8-2024)
Tại Thụy Điển, cũng có hơn một ngàn tín hữu Công giáo người Việt sống tại các cộng đoàn ở mười hai tỉnh khác nhau, và hiện có một linh mục quản nhiệm toàn quốc, là cha Tadeo Trần Chánh Thành, ở thành phố Goteborg.
Các nhóm tôn giáo thiểu số ở Bangladesh đã bị tấn công kể từ cuộc nổi dậy lật đổ Thủ tướng Sheikh Hasina vào ngày 5 tháng 8. Những nhóm tôn giáo thiểu số này ở một quốc gia mà 90% dân số là người Hồi giáo bao gồm người Hindu, Phật tử và các Kitô hữu, chiếm 0,6% dân số, theo tổ chức phi chính phủ truyền giáo Open Doors. Trong bối cảnh biến động chính trị này, tình hình của các Kitô hữu đang gây ra mối quan ngại trong cả các tổ chức tôn giáo địa phương lẫn quốc tế.
Giáo hội Công giáo chưa chính thức bình luận về tình hình này. Tuy nhiên, một Linh mục người Bangladesh đã nói với La Croix rằng ngài đã nhận được báo cáo về “các vụ tấn công nhắm vào các nhà thờ nhỏ và các ngôi làng Kitô giáo”. Một báo cáo như vậy đề cập đến “các vụ tấn công và phóng hỏa” tại một ngôi làng ở vùng Dhamirahat phía tây bắc đất nước.
Không có trường hợp thương vong nào được báo cáo?
Một nguồn tin Giáo hội nói với Fides rằng “Các Kitô cũng phải chịu đựng bạo lực, mặc dù ở mức độ thấp hơn so với nhóm thiểu số theo đạo Hindu, nhưng may mắn thay, không có trường hợp tử vong hoặc thương tích nghiêm trọng nào được ghi nhận”. Nguồn tin này cũng đưa tin về vụ phóng hỏa một tòa nhà Giáo phận ở thủ đô Dhaka.
Trong một bức thư ngỏ gửi đến chính quyền lâm thời, hai hiệp hội đại diện cho các nhóm tôn giáo thiểu số của đất nước đã ghi nhận 205 vụ việc kể từ khi các cuộc biểu tình bắt đầu. “Tôi chưa bao giờ chứng kiến những vụ việc như vậy trong đời. Chúng tôi kêu gọi chính phủ khôi phục sự hòa hợp cộng đồng trong nước”, một trong những Chủ tịch Hội đồng Thống nhất Ấn Độ giáo, Phật giáo và Kitô giáo Bangladesh, người đã ký vào bức thư ngỏ, cho biết.
Người đứng đầu chính phủ mới, Muhammad Yunus, đã lên án tình trạng bạo lực. Vào ngày 10 tháng 8, hàng ngàn người biểu tình đã tuần hành phản đối các vụ tấn công này, với sự dẫn đầu của sinh viên – một dấu hiệu ủng hộ từ những người đi đầu trong cuộc cách mạng chính trị này.
EU và Hoa Kỳ quan ngại về các vụ tấn công
Các tổ chức quốc tế cũng lo ngại về các vụ tấn công nhắm vào các nhóm tôn giáo thiểu số ở Bangladesh. “Các Trưởng phái bộ EU tại Dhaka rất quan ngại trước các báo cáo về nhiều vụ tấn công nhắm vào các địa điểm thờ phượng và các thành viên của các nhóm tôn giáo, sắc tộc và các nhóm thiểu số khác ở Bangladesh”, Văn phòng Liên minh châu Âu tại Bangladesh đã viết như vậy trong một tuyên bố được đăng trên X vào ngày 6 tháng 8.
Trên cùng một diễn đàn, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Dhaka cũng đã bày tỏ quan ngại về “các báo cáo về các vụ tấn công vào các nhóm tôn giáo thiểu số và các địa điểm tôn giáo ở Bangladesh”.
“Thật khó để xác định mức độ nào đây là hành vi phá hoại và phản đối chính trị, hoặc mức độ nào chúng có động cơ tôn giáo”, Maria Lozano, Cán bộ truyền thông quốc tế của ACN, tổ chức cứu trợ mục vụ Công giáo quốc tế, giải thích. Hiện tại, mức độ và động cơ đầy đủ đằng sau bạo lực chống lại các Kitô hữu và các nhóm tôn giáo thiểu số khác vẫn chưa rõ ràng.
Làm sao để tóm gọn đường hướng mục vụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô? Đây là câu hỏi rất lớn, khi Giáo hoàng Phanxicô luôn cố gắng “tìm thấy Chúa trong mọi sự”. Theo đó, Đức Giáo hoàng đã đưa ra rất nhiều chương trình nghị sự dành cho Roma, và sau đó là cho toàn Giáo hội. Tuy nhiên, để dễ hiểu hơn về những chương trình này, chúng ta có thể nhìn thấy nơi khẩu hiệu của ngài.
Sau khi được chọn làm giáo hoàng, Jorge Mario Bergoglio đã chọn khẩu hiệu này: “miserando atque eligendo”.
Như vậy ta có thể tạm dịch thành ngữ này: “thương xót và tuyển chọn”. Nghĩa là gì?
Nguồn gốc của khẩu hiệu này đến từ bài giảng[1] của Thánh Bêđa (trong lễ Thánh Matthêu). Thánh Bêđa, còn được biết đến là Beda đáng kính (Bede the Venerable). Ngài là tu sĩ linh mục người Anh sống vào thế kỷ thứ 7 và 8. Thánh nhân được biết đến với tư cách là một học giả, sử gia và nhà thần học có ảnh hưởng lớn trong lịch sử Kitô giáo. Hơn nữa, ngài còn được gọi là “Cha đẻ của ngành sử học Anh quốc”!
Khi được chọn làm giáo hoàng, đức Phanxicô đã chọn câu này làm kim chỉ nam cho triều đại giáo hoàng của ngài. Khẩu hiệu này phản ánh đời sống tâm linh sâu sắc và trải nghiệm về tình yêu thương xót Thiên Chúa. Thực vậy, khi còn là một chàng trai 17 tuổi[2], đức giáo hoàng đã trải nghiệm cái nhìn yêu thương và lời kêu gọi dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa trong ngày lễ Thánh Matthêu (1953) Chúa Giêsu đã mời gọi thánh Matthêu: “hãy theo thầy-Sequere me’. Với lời này, chàng trai trẻ Bergoglio đã vào nhà tập Dòng Tên. Từ đó, chàng thanh niên đã hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa và Giáo hội. Dù cảm thấy mình không xứng đáng, nhưng Thiên Chúa đã yêu thương chọn gọi và ban cho ngài lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thực ra lòng thương xót Chúa là cốt lõi của đời sống và sứ vụ Kitô giáo. Nói như thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Lòng thương xót Chúa là biểu hiện tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa đối với mọi người. Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ và đón nhận những người tội lỗi trở về với Ngài.”[3] Giáo hội được kêu gọi trở thành dấu chỉ của tình yêu thương xót của Thiên Chúa, chào đón tất cả những người tội lỗi và đồng hành với họ bằng những trợ giúp tinh thần để thực hiện ý muốn của Thiên Chúa[4]. Thuật ngữ thần học thiêng liêng này đã được phân tích rất nhiều. Chẳng hạn độc giả có thể đọc thêm: Thông Điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót – Dives In Misericordia[5] của thánh giáo hoàng Gioan Phaolo II. Vì khẩu hiệu này, sau 2 năm làm giáo hoàng, ngài đã mở ra Năm Thánh Ngoại thường về Lòng Thương Xót (2015). Trong năm này, ngài mời gọi các linh mục hãy trở nên những thừa tác viên của lòng thương xót Chúa.
Một trong những tài liệu về lòng thương xót Chúa được giáo hoàng giảng tĩnh tâm cho các linh mục trong Năm Thánh Ngoại thường[6]. Trong đó có thể tóm gọn như sau: Tầm quan trọng của các công việc lòng thương xót Chúa và cách chúng thể hiện qua “hương thơm của Đức Kitô-the good odour of Christ”. Giáo lý của Giáo hội Công giáo, khi thảo luận về các công việc của lòng thương xót, nói với chúng ta rằng: “khi mẹ của Thánh Rose of Lima trách mắng bà vì chăm sóc người nghèo và người bệnh tại nhà, Thánh Rose đã nói với mẹ của mình: “Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, chúng ta là hương thơm của Đức Kitô” (số 2449, bản Latin). Có lẽ với những lời này, đức giáo hoàng luôn hướng dẫn Giáo hội hãy nhạy cảm và sẵn sàng phục vụ người nghèo và người đau khổ. Đây là nét độc đáo trong triều đại giáo hoàng này!
Ngoài ra, Đức Giáo hoàng cũng khẳng định rằng lòng thương xót là dấu chỉ giúp mọi người nhận ra và tôn vinh Thiên Chúa. Do đó, ngài mời chúng ta hãy gặp gỡ Chúa Kitô, kể cả khi mình còn là tội nhân. Ngài viết: “Nếu chúng ta nhìn vào các công việc của lòng thương xót như một tổng thể, chúng ta sẽ thấy rằng đối tượng của lòng thương xót chính là cuộc sống con người và tất cả những gì nó bao hàm.”[7] Do đó, ngài cho rằng đạo đức Kitô giáo không phải là về sự hoàn hảo, mà là về việc luôn đứng dậy với sự giúp đỡ của Thiên Chúa sau khi vấp ngã, nhờ bàn tay thương xót của Ngài. Hoặc nói như lời của Đức Giáo hoàng tiền nhiệm, Bênedictô XVI: “Khởi đầu cho cuộc sống Kitô hữu không phải là một quyết định đạo đức hay một tư tưởng vĩ đại, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố với một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và từ đó một định hướng dứt khoát.” (Deus Caritas Est 1).
Tóm lại, khẩu hiệu “miserando atque eligendo” bao trùm linh đạo mục vụ và tầm nhìn của Giáo hoàng về Giáo hội. Ngài muốn Giáo hội trở thành dấu chỉ của tình yêu thương xót Chúa. Trong suốt những năm này, ngài luôn mời gọi các mục tử, kể cả các chính trị gia: “hãy vươn đến tất cả mọi người, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương và bị gạt ra ngoài lề xã hội, và đồng hành với họ bằng lòng trắc ẩn trên hành trình đức tin của họ.” (Evangelii Gaudium số 193). Đây cũng là lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương!” (Mt 5,7).
Cùng với giáo hoàng Phanxicô, với Giáo hội, chúng ta xác tín điều này: “Lòng thương xót Chúa là nguồn mạch của hy vọng và niềm tin cho nhân loại, đặc biệt trong những thời điểm đầy thử thách và tội ác.”[8] Chúng ta được kêu gọi loan báo và làm chứng cho lòng thương xót Chúa trong thế giới ngày nay (Lc 6,36-38).
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
…………………………
[1] Nguyên văn: Vidit ergo Jesus publicanum, et quia miserando atque eligendo vidit, ait illi, ‘Sequere me’. [Jesus therefore sees the tax collector, and since he sees by having mercy and by choosing, he says to him, ‘follow me’.]
[2] https://www.vatican.va/content/francesco/en/elezione/stemma-papa-francesco.html
[3] https://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/homilies/2000/documents/hf_jp-ii_hom_20000430_faustina.html
[4]https://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/encyclicals/documents/hf_jp-ii_enc_30111980_dives-in-misericordia.html
[5]https://dongnuvuonghoabinh.org/huan-du/thong-diep-thien-chua-giau-long-thuong-xot—dives-in-misericordia-27006.html
[6]Bản văn đầy đủ: https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2016/june/documents/papa-francesco_20160602_giubileo-sacerdoti-terza-meditazione.html
[7] https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2016/june/documents/papa-francesco_20160602_giubileo-sacerdoti-terza-meditazione.html
[8] https://www.vatican.va/content/john-paul-ii/en/homilies/2000/documents/hf_jp-ii_hom_20000430_faustina.html
Thánh An-na theo truyền thống được biết đến là mẹ của Đức Trinh Nữ Maria và bà của Chúa Giêsu. Mặc dù không có chi tiết nào về cuộc đời của ngài trong Kinh thánh, ngài là một phần của truyền thống và được tôn vinh vì vai trò trong Thánh Gia và vì đức tin và sự tận tụy của mình.
Tại sao ngài là người hướng dẫn hoàn hảo: Thánh An-na là biểu tượng của vai trò yêu thương và nuôi dưỡng của người ông người bà trong gia đình. Cuộc đời của thánh nhân nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của gia đình, đức tin và việc truyền đạt sự khôn ngoan cho các thế hệ trẻ hơn. Thánh nhân là hình mẫu đầy an ủi cho những người đang già đi khi làm nổi bật phẩm giá và ân sủng trong các vai trò thường gắn liền với tuổi già.
Vị linh mục Công giáo người Bồ Đào Nha và là tu sĩ của dòng Phanxicô này nổi tiếng với khả năng thuyết giảng hùng hồn và kiến thức chuyên sâu về kinh thánh. Ngài nổi tiếng là vị thánh giúp tìm kiếm những đồ vật bị mất, thánh bảo trợ những người nghèo và khách du lịch.
Tại sao ngài là người hướng dẫn hoàn hảo: Cuộc đời của thánh An-tôn nhấn mạnh giá trị của sự khôn ngoan và kiến thức, những điều thường đến theo tuổi tác. Lòng tận tụy giúp đỡ người khác và tìm kiếm những thứ bị mất của ngài có thể đóng vai trò như một ẩn dụ cho việc khám phá lại mục đích và niềm vui trong những năm cuối đời.
Thánh Elizabeth là một công chúa nổi tiếng với lòng trắc ẩn sâu sắc đối với người nghèo và người bệnh. Bà đã sử dụng địa vị của mình để thành lập bệnh viện và chăm sóc người nghèo, sống một cuộc đời khiêm nhường và phục vụ bất chấp địa vị hoàng gia của mình.
Tại sao ngài là người hướng dẫn hoàn hảo: Sự tận tụy trong việc phục vụ và làm từ thiện của thánh Elizabeth nhắc nhở chúng ta về sự viên mãn đến từ việc giúp đỡ người khác. Cuộc đời của ngài minh họa rằng bất chấp tuổi tác hay địa vị, mọi người đều có thể làm nên ảnh hưởng có ý nghĩa.
Thánh Monica là mẹ của thánh Augustinô thành Hippo. Bà được nhớ đến vì lòng sùng đạo Kitô giáo, sự kiên nhẫn phi thường và việc kiên trì cầu nguyện, đặc biệt là vì sự hoán cải của đứa con trai hư hỏng của mình. Lòng đạo đức của bà đã được đền đáp khi thánh Augustinô không những quay về với Chúa mà còn trở thành một triết gia và là nhà thần học nổi bật đến mức được phong làm Giáo phụ, có ảnh hưởng rất lớn đến Kitô giáo phương Tây.
Tại sao ngài là người hướng dẫn hoàn hảo: Câu chuyện của thánh Monica là câu chuyện về sự hy vọng bền bỉ và sức mạnh của lời cầu nguyện. Sự kiên nhẫn và đức tin của ngài qua nhiều năm đấu tranh và lo lắng về con đường sai lầm của đứa con trai có thể giúp an ủi cách đặc biệt và truyền cảm hứng cho những người đang phải đối mặt với những thách thức trong gia đình hoặc thử thách cá nhân khi họ già đi.
Thánh Phanxicô de Sales là Giám mục và Tiến sĩ Hội thánh, nổi tiếng với các tác phẩm về việc linh hướng và sự nhấn mạnh về tình yêu Chúa. Cách tiếp cận nhẹ nhàng và sự khôn ngoan thực tế của ngài đã giúp các tác phẩm của ngài luôn được ưa chuộng.
Tại sao ngài là người hướng dẫn hoàn hảo: Vị thánh người Pháp này đưa ra nhiều lời khuyên thực tế để sống một cuộc sống đạo hạnh. Sự tập trung của ngài vào việc tìm kiếm tình yêu Chúa trong các hoạt động hàng ngày và việc duy trì tinh thần bình an và kiên nhẫn đặc biệt có ý nghĩa khi người ta đối diện những thay đổi và thách thức của tuổi già.
Vị thánh người Ý này là một góa phụ và nữ tu dòng Augustinô, thường được gọi là “Vị thánh của điều không thể” vì ngài đã vượt qua nhiều hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, bao gồm cả cuộc hôn nhân bất hạnh và cái chết của những đứa con.
Tại sao ngài là người hướng dẫn hoàn hảo: Cuộc đời của thánh Rita là minh chứng cho sự kiên trì, lòng vị tha và sức mạnh của lời cầu nguyện. Khả năng có thể tìm thấy sự bình yên và mục đích bất chấp vô vàn khó khăn của thánh nhân có thể tiếp thêm sức mạnh và khả năng phục hồi cho những ai khi đối mặt với những thử thách có thể xảy ra khi về già.
Nguồn: aleteia.org
Tác giả: Cerith Gardiner
Chương 6 của Tin Mừng Gioan có một kết thúc không vui lắm. Bài Tin Mừng hôm nay (cc. 60-69) đi theo ngay sau các câu 35-50, vì các câu 51-59 có lẽ được viết muộn hơn và thêm vào sau này.
Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn gây sốc cho con người mọi thời. Lời Chúa vẫn luôn là điều khó hiểu, khó chịu và khó sống. Những Kitô hữu đã tin theo Đức Giêsu trong nhiều năm vẫn bị đặt mình trước lời Chúa và được mời gọi chọn lại. Tin vào Đức Giêsu là một chọn lựa lớn và căn bản. Chọn lựa này cần được làm mới lại mỗi ngày xuyên qua những chọn lựa nhỏ. Có những Kitô hữu mất đức tin vì đã không dám sống niềm tin của mình. Có những người rút lui và bỏ đi, dù tên vẫn còn trong sổ Rửa tội. Có những người xầm xì vì những đòi hỏi gai góc của Lời Chúa.
“Chẳng lẽ anh em cũng muốn bỏ đi sao?” Đức Giêsu buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai như thế.
Simon đại diện anh em đã xin được tiếp tục ở với Thầy, đi với Thầy. “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai ?”
Lời của Thầy tuy khó nghe, nhưng con tin đó là lời ban sự sống đời đời (c. 68).
Lời của Thầy tuy chướng tai, nhưng lại là thần khí và là sự sống (c. 63).
Simon tin Thầy Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 69).
Đấng Thánh là Đấng từ trời xuống và cũng là Đấng sẽ lên trời nơi đã ở trước kia (c. 62).
Có thể điều làm con người hôm nay bỏ đạo, bỏ Chúa Giêsu, lại không phải là những lời khó nghe của Ngài, mà là đời sống của các Kitô hữu, những người không dám sống các lời ấy.
Nhiều người thấy chướng khi nhìn vào cuộc sống của họ. Xin Chúa Cha ban cho chúng ta ơn đến với Giêsu, và kiên trì ở lại với Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hôm 18 tháng Tám vừa qua, cha Juan Carlos Garzón, Tổng thư ký Đại hội, nhắc nhở rằng đây là một cơ hội để “đặt Chúa Kitô Thánh Thể ở trọng tâm đời sống Giáo hội và thế giới”.
Tuyên bố với Đài Truyền hình Lời Vĩnh Cửu (EWTN) ở Mỹ, cha Garzón nói rằng: Đại hội Thánh Thể 2024 sẽ giống như “trở về với nòng cốt đức tin của chúng ta”. Ecuador đã được thánh hiến cho Trái Tim Chúa Giêsu cách đây 150 năm. Vì thế, Đại hội Thánh Thể tại đây sẽ là một cơ hội rất thuận tiện để đất nước tưởng niệm biến cố ấy và đào sâu lịch sử đức tin của mình.
Cha Garzón cho biết có 51 phái đoàn từ các nước trên thế giới đã ghi danh tham dự Đại hội. Như thường lệ, sẽ có một Hội nghị Quốc tế về thần học tại Giáo hoàng Đại học Công giáo Ecuador, từ ngày 07 đến ngày 09 tháng Chín, với sự tham dự của khoảng 450 người, trong đó có nhiều nhà thần học từ các nơi trên thế giới, để đào sâu hơn tương quan giữa tình Huynh đệ và Thánh Thể, cụ thể là đọc lại tình Huynh đệ dưới những khía cạnh khác nhau, như: chính trị, kinh tế, triết học, nhân học và thổ dân.
Sau hội nghị, khi Đại hội Thánh Thể chính thức bắt đầu vào ngày 08 tháng Chín, sẽ có 1.600 em bé được rước lễ lần đầu. Sự kiện này muốn nhắc nhở về sự tinh tuyền chúng ta cần có khi rước Mình Thánh Chúa, cũng như trong tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
Tham dự Đại hội Thánh Thể, sẽ có khoảng năm ngàn người, gồm các giám mục, các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Họ sẽ nêu những chứng tá về tình huynh đệ. Đây cũng là dịp để tìm hiểu về những vết thương đang làm thương tổn thế giới, đồng thời góp phần để chữa lành chúng.
Cha Garzón cũng nói rằng trong ngày đầu tiên, “chúng tôi xin các giám mục từ các nơi trên thế giới đi tới các giáo xứ ở thủ đô Quito để gặp gỡ các tín hữu địa phương. Ngày thứ Năm, 13 tháng Chín, các thánh lễ sẽ được cử hành tại trung tâm lịch sử thành phố Quito bằng các ngôn ngữ khác nhau, và thứ Bảy, ngày 14 tháng Chín sẽ có cuộc rước kiệu Thánh Thể trọng thể.
Thánh lễ bế mạc sẽ được cử hành vào Chúa nhật, ngày 15 tháng Chín do Đức Hồng y Kevin Farell, Bộ trưởng Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống, chủ sự, trong tư cách là Đặc sứ của Đức Thánh cha Phanxicô.
Trong cuộc họp báo hồi tháng Năm vừa rồi, cha Corrado Maggiori, Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về các Đại hội Thánh Thể Quốc tế, đã định nghĩa Đại hội tới đây ở Quito, là “Một lời kêu gọi quyết liệt về tình huynh đệ, hồng ân của Trời và là sự dấn thân của con người, nhắm hoán cải những mối tương quan thù địch thành những tương quan huynh đệ, giữa những chao đảo của lịch sự hiện nay”.
Đại hội Thánh Thể Quốc tế Lần thứ 52 trước đây đã diễn ra hồi tháng Chín năm 2021, và Đức Thánh cha Phanxicô đã tới đây để chủ sự thánh lễ bế mạc, hôm Chúa nhật, ngày 10 tháng Chín năm đó.
Bác sĩ French cho biết các tiêu đề bài viết tuyên bố rằng “đa số người Mỹ ủng hộ trợ tử hợp pháp” có thể là sự phóng đại dựa trên các câu hỏi khảo sát gây hiểu lầm. “Ngay cả Gallup cũng đã nói rằng ‘sự ủng hộ của người Mỹ đối với trợ tử phụ thuộc vào cách nó được mô tả, nhưng giả định rằng mọi người phải chọn giữa cái chết với đau đớn và cái chết không đau đớn là một biến lưỡng phân sai” bác sĩ French cho biết.
Khảo sát của Gallup nói lên điều gì?
Được công bố vào ngày 08 tháng 8, khảo sát của Gallup cho biết sự ủng hộ của người Mỹ đối với việc hợp pháp hóa trợ tử vẫn duy trì ổn định kể từ năm 1996, với 71% người Mỹ ủng hộ thực hành này vào năm 2024.
Gallup đã đặt câu hỏi: “Khi một người mắc bệnh không thể chữa khỏi, bạn có nghĩ rằng bác sĩ nên được phép kết thúc cuộc sống của bệnh nhân, một cách hợp pháp, theo cách không đau đớn nếu bệnh nhân và gia đình họ yêu cầu không?”
Mặc dù khoảng 7/10 người được hỏi trả lời “có” cho câu hỏi này, Gallup nhận thấy có sự ủng hộ ít hơn một chút đối với việc hợp pháp hóa việc hỗ trợ tự tử của bác sĩ.
Mặc dù thường được sử dụng thay thế cho nhau, trợ tử và giúp tự tử là khác nhau. Trợ tử đề cập đến việc một chuyên gia y tế hoặc người khác hành động trực tiếp để chấm dứt sự sống của bệnh nhân. Giúp tự tử là hành động cung cấp phương tiện tự tử – chẳng hạn như một liều thuốc gây chết người – cho bệnh nhân, người sau đó tự thực hiện.
Theo nghiên cứu, 66% số người được hỏi cho biết họ nghĩ rằng bác sĩ nên “được pháp luật cho phép hỗ trợ bệnh nhân tự tử nếu bệnh nhân yêu cầu điều đó”.
Nghiên cứu cho thấy hơn một nửa – 53% – số người trưởng thành ở Mỹ cho rằng hành động giúp tự tử của bác sĩ là chấp nhận được về mặt đạo đức, trong khi chỉ 40% cho rằng điều này là sai trái.
Gallup cũng phát hiện rằng quan điểm đạo đức về giúp tự tử của bác sĩ liên quan chặt chẽ đến sự tham gia và bản sắc các tôn giáo. Đa số người vô thần – 77% – và 67% những người ít hoặc không bao giờ tham dự các nghi lễ tôn giáo cho rằng việc hỗ trợ tự tử của bác sĩ là chấp nhận được.
Trong khi đó, 66% những người tham dự các nghi lễ tôn giáo hàng tuần cho rằng điều này là sai trái về mặt đạo đức.
Sự ủng hộ trong cộng đồng Công giáo gần như chia đều, với 49% cho rằng hỗ trợ tự tử của bác sĩ là sai trái về mặt đạo đức và 44% cho rằng điều đó là chấp nhận được.
Sự ủng hộ cho việc trợ tử hợp pháp đã tăng gấp đôi kể từ khi Gallup lần đầu tiên đặt câu hỏi này vào năm 1947, khi đó 37% người được hỏi ủng hộ trợ tử hợp pháp thông qua phương pháp không đau đớn.
Biến lưỡng phân sai lầm
Bác sĩ French, người nằm trong ban cố vấn của tổ chức khoa học Công giáo Magis Center, cho biết rằng dựa trên cách các câu hỏi được đặt ra, “không có gì ngạc nhiên khi nhiều người chấp thuận trợ tử. Như chúng ta thấy từ cách hai câu hỏi được định khung, có một giả định sai lầm rằng mọi người đang trải qua cái chết rất đau đớn,” ông French tin rằng ý nghĩ cho rằng nhiều bệnh nhân phải lựa chọn giữa cái chết đau đớn và trợ tử không đau đớn đây là một lưỡng phân sai lầm.
Ông khẳng định: “Là một bác sĩ cấp cứu, tôi đã chứng kiến tận mắt sự cải thiện lớn lao trong việc điều trị những nỗi đau cuối đời cũng như đau mãn tính và các hội chứng đau hiếm gặp”. Theo ông French, đã có những “tiến bộ lớn” trong chăm sóc giảm nhẹ và một “sự gia tăng đáng kể” trong các loại thuốc giảm đau an toàn và hiệu quả. Chính vì lý do này, ông cho biết rằng rất hiếm khi bệnh nhân nhận được sự điều trị đau đớn một cách không thỏa đáng vào cuối đời mình.
Mặc dù có những tiến bộ về công nghệ và thuốc men, xu hướng ở Mỹ vẫn là mở rộng tính hợp pháp của việc giúp tự tử.
Luật liên bang cấm trợ tử ép buộc nhưng không có lập trường đối với hỗ trợ tự tử. Chín tiểu bang – California, Colorado, Hawaii, Maine, New Jersey, New Mexico, Oregon, Vermont, và Washington – và Đặc khu Columbia đã có luật “Trợ tử Y tế” (MAID) cho phép giúp tự tử. Một số tiểu bang khác, chẳng hạn như Minnesota và Virginia, cũng đang xem xét thông qua các luật MAID tương tự.
Bác sĩ French giải thích rằng kết quả của những luật này là một “con dốc trơn trượt,” trong đó bệnh nhân ở mọi lứa tuổi phải trải qua trầm cảm, khuyết tật, hoặc các vấn đề khác bị hướng đến cái chết như một “giải pháp ưu tiên”.
Các Giám mục Hoa Kỳ đã lên án mạnh mẽ việc thực hành hỗ trợ tự tử. Vào tháng 01, Giám mục Robert Barron của Winona-Rochester, Minnesota, đã viết trong một bài viết trên Word On Fire rằng hỗ trợ tự tử là một hành vi “xấu xa nội tại” và “không thể chấp nhận được về mặt đạo đức, dù cho hoàn cảnh có cấp bách hay hậu quả có lợi như thế nào đi chăng nữa”. Đức Cha Barron viết: “Mặc dù văn hóa của chúng ta coi trọng quyền tự chủ, tôi không cho rằng nó là giá trị cao nhất. Tự do đích thực không phải là tự quyết một cách triệt để; thay vào đó, nó hướng đến những điều tốt đẹp nhất định mà tâm trí đã biện phân. Ngay cả khi một người đang hấp hối và gặp nhiều đau đớn, việc chủ động tự sát cũng không thể biện minh về mặt đạo đức”
Nguồn: Catholic News Agency
Tại Hàn Quốc, trong 70 năm qua, số tín hữu Công giáo đã tăng từ khoảng 200.000 lên hơn bốn triệu người như hiện nay. Quốc gia này là nơi diễn ra Ngày Quốc tế Giới trẻ năm 2027, và được coi là một trong những thành công lớn của Giáo hội Công giáo tại Á châu. Tại đại lục này, cứ chín người thì có một tín hữu Công giáo. Tổng cộng họ chiếm 3% trên tổng số gần năm tỉ người.
Những nước đông người ở Á châu có tỉ lệ Công giáo rất ít: 1.5% tại Ấn Độ, 0,5% tại Trung Quốc, gần 3% tại Indonesia, 0,2% tại Bangladesh, 0,7% tại Pakistan và gần 1% tại Nhật Bản.
Giáo hội Công giáo chiếm đa số dân tại Philippines, với 80%, hơn 90% tại Đông Timor, quốc gia sắp được Đức Thánh cha thăm viếng, từ ngày 10 tháng Chín tới đây.
Đời sống Công giáo tại Á châu phải đương đầu với nhiều khó khăn về chính trị, tôn giáo, thần học và văn hóa rất khác nhau. Những vấn đề chính mà các tín hữu Công giáo gặp phải, là sự gia tăng trào lưu Hồi giáo cực đoan tại những nước, như Malaysia, Indonesia hoặc Pakistan, cũng như sự đàn áp của nhà nước. Tại Ấn Độ, cũng có sự đàn áp từ phía nhà nước, do đảng quốc gia Ấn giáo đang cầm quyền, và trong nhiều quốc gia độc tài khác tại Á châu, khó khăn đến từ phía nhà nước hơn là dân chúng.
Mặc dù Kitô giáo được khai sinh ở Đông phương và có mặt tại Ấn từ thế kỷ thứ IV, đạo này vẫn bị coi là một tôn giáo ngoại lai.
Những khó khăn vừa nói cũng như những khó khăn khác không cản trở Á châu có tỷ lệ tín hữu tăng trưởng cao nhất thế giới. Theo thống kê của Tòa Thánh, tại Á châu hiện nay có 153,3 triệu tín hữu Công giáo. Mỗi năm, bình quân tăng khoảng một triệu 490.000 tín hữu.
Đó là cha Leonel Belmaceta, cha sở giáo xứ Chúa Giêsu tình thương Chúa Ba Ngôi, thuộc Giáo phận Estelí, và cha Denis Martínez, thuộc ban giảng huấn ở Đại chủng viện Đức Mẹ Fatima, ở thủ đô Managua, nhưng thuộc Giáo phận Matagalpa.
Tổng cộng, trong sáu năm qua, từ 2018, đã có 245 linh mục và tu sĩ nam nữ Nicaragua bị nhà nước trục xuất ra nước ngoài. Trong số các nạn nhân, cũng có cả Đức Tổng giám mục Sứ thần Tòa Thánh Waldemar Sommertag, người Ba Lan, ba giám mục, 136 linh mục thuộc các giáo phận khác nhau, ba phó tế, 11 chủng sinh và 91 tu sĩ nam nữ. Trong số các vị, có 19 người, đặc biệt là Đức cha Álvarez, Giám mục Giáo phận Matagalpa và Đức cha Silvio Báez, cùng với 14 linh mục khác bị nhà nước gán vào tội phản quốc và tước bỏ quốc tịch.
Theo những người bênh vực nhân quyền và các trang mạng, như La Prensa và 100% Noticias, cả linh mục Danny García, cha sở nhà thờ thánh Gioan Baotixita ở Matagalpa, bị bắt rồi được “trả tự do” vào ngày 15 tháng Tám vừa qua, nhưng rồi cũng đã phải rời bỏ Nicaragua.
Trong đại hội nhóm tại thủ đô Tallinn, hôm 20 tháng Tám vừa qua, Giáo hội Chính thống Estonia đã thông qua quy chế mới, khẳng định sự độc lập về hành chính, kinh tế và giáo dục. Trước đây, tên đầy đủ là “Giáo hội Chính thống Estonia thuộc Tòa Thượng phụ Masơva”, nhưng nay được đổi lại là “Giáo hội Chính thống Estoni”.
Trước đó, chính phủ Estonia đã tạo sức ép đòi Giáo hội tại đây phải hoàn toàn tách rời khỏi Tòa Thượng phụ Moscow, vì sự tấn công của Nga chống Ucraina.
Thủ lãnh Giáo hội Chính thống Estonia là Đức Tổng giám mục Eugeni (Reschetnikow), quốc tịch Nga, đã bị buộc phải rời khỏi Estonia hồi tháng Hai năm nay, vì chính phủ Estonia không gia hạn giấy phép cư trú. Nhưng theo các cơ quan truyền thông, Đức Tổng giám mục Eugeni vẫn điều hành đại hội của Giáo hội qua Video.
Nhân vật chính của Chính thống Estonia hiện nay là Đức cha Daniel (Lepisk) mới thụ phong giám mục hồi tháng Hai năm nay, và là người Estonia. Ngày 30 tháng Bảy vừa qua, chính phủ ép vị giám mục này phải gặp một đại diện của Bộ Nội vụ, để hai bên thỏa thuận làm sao giảm bớt và loại bỏ ảnh hưởng của Tòa Thượng phụ Chính thống Moscow trên Giáo hội Chính thống Estonia.
Tại Estonia, cũng có một Giáo hội Chính thống Tông truyền, thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Constantinople, bên Thổ Nhĩ Kỳ, và do Đức Tổng giám mục Stefanus lãnh đạo. Giáo hội này tuyên bố sẵn sàng đối thoại với Giáo hội Chính thống Estonia để tìm một giải pháp có thể được mọi phía chấp nhận.
Cộng hòa Estonia, rộng hơn 45.000 cây số vuông, với một triệu 360.000 dân cư, trong đó 54% không theo tôn giáo nào, 11% là tín hữu Tin lành Luther, gần 4% theo Chính thống giáo. Công giáo có 6.700 tín hữu, họp thành một miền Giám quản Tông tòa.
Theo báo cáo thường niên mới nhất của Trung tâm quan sát về sự không khoan dung và phân biệt đối xử chống lại các Kitô hữu ở Châu Âu (Oidac Europe), tội ác chống Kitô giáo vì thù hận đã tăng 44% ở châu Âu.
Thông tin được tổ chức đưa ra trong tuyên bố nhân Ngày Quốc tế Tưởng niệm Nạn nhân của các Hành vi Bạo lực vì lý do Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng, do Liên Hợp Quốc thành lập vào năm 2019, được tổ chức vào ngày 22/8.
Oidac Europe cảnh báo về tình trạng bạo lực chống Kitô giáo, thật đáng tiếc là cũng đang hiện diện ở châu Âu, “như những ví dụ gần đây đã chứng minh”.
Tấn công nhà thờ, nghĩa trang và Kitô hữu
Anja Hoffmann, giám đốc điều hành của Oidac Europe, giải thích: “Hầu hết các cuộc tấn công chống Kitô giáo ở châu Âu đều nhằm vào các nhà thờ và nghĩa trang, nhưng thật không may, chúng ta cũng tiếp tục chứng kiến các cuộc tấn công bạo lực chống lại các cá nhân Kitô hữu”.
Báo cáo đưa ra ví dụ là Bộ Nội vụ Pháp đã ghi nhận gần 1.000 tội ác căm thù chống Kitô giáo vào năm 2023. Trong khi 90% các vụ việc này nhắm vào các nhà thờ và nghĩa trang, các cơ quan thống kê của Bộ cũng ghi nhận 84 vụ tấn công cá nhân với động cơ chống tôn giáo chống lại các Kitô hữu.
Theo Oidac Europe, các cuộc tấn công bạo lực vẫn chưa dừng lại vào năm 2024. Kể từ đầu năm, Trung tâm quan sát này đã ghi nhận 25 trường hợp bạo lực thể lý, đe dọa và âm mưu giết hại các Kitô hữu ở Vương quốc Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, Áo, Ba Lan và Serbia. Trong một số trường hợp, toàn bộ cộng đoàn đã trở thành mục tiêu. Ví dụ, vào tháng 6, Giáo hội Phục Lâm ở Dijon đã bị tấn công bằng hơi cay trong một cử hành tôn giáo tại nhà thờ, gây hoảng loạn và làm 9 người bị thương.
Kitô hữu gốc Hồi giáo là đối tượng dễ bị tấn công
Bà Hoffmann lưu ý: “Một nhóm đặc biệt dễ bị bạo lực là những người Hồi giáo theo Kitô giáo”. Vào tháng 5, một tòa án ở Anh đã kết án tù một người đàn ông vì âm mưu giết Javed Nouri, một Kitô hữu gốc Hồi giáo, vì anh ta coi Nouri là kẻ bội giáo “đáng phải chết”. Vào tháng 4, một tòa án Ý đã ra phán quyết về một vụ án tương tự liên quan đến một người Hồi giáo Tunisia theo Kitô giáo, đã bị đồng bào của mình đánh đập vì “đi nhà thờ Kitô giáo”.
Theo Oidac Europe, cả hai trường hợp đều rất ít được giới truyền thông đưa tin. Bà Hoffmann kết luận: “Quyền cải đạo là một yếu tố thiết yếu của tự do tôn giáo. Do đó, các chính phủ châu Âu phải làm mọi thứ có thể để bảo vệ, đặc biệt là những người gốc Hồi giáo theo Kitô giáo, những người có nguy cơ bạo lực cao”.
Trong thông cáo, công bố hôm 20 tháng Tám vừa qua, nhân ngày Tưởng niệm các nạn nhân những hành vi bạo lực vì lý do tôn giáo hoặc niềm tin, do Liên Hiệp Quốc đề xướng và cử hành, ngày 22 tháng Tám này, Đức cha Bertram Meier, Giám mục Giáo phận Augsburg, Chủ tịch Ủy ban Giám mục Đức về Giáo hội hoàn vũ, viết: “Chúng ta phải nhận xét rằng sự bất bao dung và kỳ thị về tôn giáo đang đưa tới các cuộc tấn công những người suy nghĩ khác... Không những các Kitô hữu mới phải chịu nạn loại trừ và bách hại tại nhiều miền trên thế giới, những cả những người có vũ trụ quan và tín ngưỡng khác cũng bị nạn bạo lực tôn giáo như vậy... Trong tư cách là Kitô hữu, chúng ta không thể dửng dưng đối với đau khổ của các nạn nhân, vì những vụ tấn công ấy chống lại phẩm giá con người, là nền tảng các quyền con người, và đối với chúng ta, phẩm giá con người dựa trên hình ảnh Thiên Chúa, phẩm giá của tất cả mọi người”.
Đức cha Chủ tịch Meier nhấn mạnh rằng các quốc gia là những người đầu tiên có trách nhiệm bảo vệ quyền tự do tôn giáo như nhân quyền. Ngài nói: “Khi không bảo vệ như thế hoặc chính nhà nước vi phạm quyền đó, thì sự kỳ thị và bạo lực, nhất là bạo lực chống các tôn giáo thiểu số, là điều gần kề. Nhưng các tôn giáo và cộng đồng tôn giáo cũng có nghĩa vụ quyết liệt chống lại sự lạm dụng tín ngưỡng của mình và nạn kỳ thị đối với những người thuộc tín ngưỡng khác. Vì thế, cuộc đối thoại giữa các tôn giáo có tầm quan trọng lớn đối với sự sống chung hòa bình. Nơi nào chúng ta bắt đầu hiểu nhau và tôn trọng nhau, thì chúng ta có thể loại trừ những môi trường thuận tiện cho oán ghét và bạo lực”.
Tổ chức Open Doors thiết lập chỉ số mới 2024 về các vụ bách hại tôn giáo và tố giác xu hướng đáng lo âu: trong một năm trời, có tới 14.766 nhà thờ bị đóng cửa hoặc phá hủy, tăng gấp bảy lần so với năm 2022. Thật là một con số kỷ lục! Cả tỷ lệ bạo lực tại 50 nước đứng hàng đầu trong danh sách, cũng gia tăng, với con số các vụ bách hại tôn giáo tăng 7,7%.
Tổ chức nhân quyền này đặc biệt tố giác sự gia tăng bạo lực chống các tín hữu Kitô: từ những vụ tấn công thể lý, cho tới những vụ dọa giết: trong năm 2023, xảy ra 42.849 vụ so với 30.000 vụ trong năm trước đó. Tổng cộng, có hơn 365 triệu Kitô hữu nam nữ hiện sống tại 78 quốc gia, trong đó có bách hại và kỳ thị chống các tín hữu Kitô.
Trong năm ngoái (2023), có gần 5.000 Kitô hữu (4.998) bị giết vì là Kitô hữu, trong số này có 4.118 tín hữu tại Nigeria, quốc gia đông dân nhất tại Phi châu. Cả tại những nước bé nhỏ như nước Lào, Kitô hữu, đặc biệt là các mục tử, cũng trở thành nạn nhân. Ví dụ, ngày 23 tháng Bảy vừa rồi, hai người đeo mặt nạ đã đột nhập nhà của mục sư Thongkham Philavanh, 42 tuổi ở miền đông bắc Lào và bắn chết mục sư bằng sáu phát đạn, trước mắt những người thân trong gia đình. Đó là một lời cảnh cáo.
Ngày 07 tháng Tám vừa qua, có nhiều nhà thờ và tư gia của các tín hữu Kitô đã bị đốt phá tại miền bắc nước Bangladesh. Từ khi bà Thủ tướng Sheik Harisa từ chức và rời khỏi nước, sau nhiều tuần lễ bị dân biểu tình phản đối, các cuộc tấn công các cộng đoàn thiểu số gia tăng tại nước này.
Ông Kurt Igler, Tổng giám đốc tổ chức Open Doors ở Áo mô tả tự do tôn giáo như một “dấu chỉ tình trạng sức khỏe của một nước”. Nếu quyền tự do này bị vi phạm trong một nước, thì điều này thường dẫn tới sự đe dọa các quyền tự do khác của con người, cá nhân cũng như tập thể. Vì thế, điều rất quan trọng là tranh đấu để tự do tôn giáo được tôn trọng nghiêm túc hơn trên thế giới.
Tổ chức Open Doors kêu gọi các vị lãnh đạo chính trị và hành chánh tại Áo hãy có một lập trường tích cực, không nhân nhượng, trong việc chống lại bạo lực bài Kitô hữu và các tôn giáo thiểu số khác.
Từ đầu triều, Đức Phanxicô đã nổi bật với những câu nói, những ẩn dụ, những lời hài hước tạo hiệu quả bất ngờ trên giáo dân, làm cho giới truyền thông hào hứng. Ngài nói các câu này trong các thánh lễ buổi sáng, các buổi tiếp kiến chung, các bài phỏng vấn trên các chuyến bay, các cuộc họp khác nhau tại Vatican.
“Tôi sẽ ban phép lành, nhưng trước khi Giám mục của anh chị em ban phép lành, tôi xin anh chị em cầu nguyện để Chúa chúc lành cho Giám mục của anh chị em”, Đức Phanxicô lần đầu tiên trước giáo dân tối 13 tháng 3-2013.
“Chúng ta có thể xây dựng nhiều thứ, nhưng nếu chúng ta không tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô, chúng ta đã sai lầm. Chúng ta sẽ là một tổ chức phi chính phủ làm việc thiện nhưng không phải là Giáo hội, là hiền thê của Chúa.” Trong thánh lễ đầu tiên ngày 14-3-2013 tại Nhà nguyện Sixtine.
“Tôi mong có một Giáo hội nghèo và cho người nghèo”, với các nhà báo ngày 16-3-2013.
“Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta thống hối quay về với Ngài”, Kinh Truyền Tin đầu tiên ngày 17-3-2013.
“Chúng ta đừng bao giờ quên quyền lực thực sự là phục vụ và để thực thi quyền lực, Giáo hoàng phải tham dự nhiều hơn vào việc phục vụ Thập giá, là đỉnh cao của mọi phục vụ”, thánh lễ khai mạc Triều giáo hoàng ngày 19-3-2013.
“Gỗ Thánh Giá là ngai Chúa Giêsu”, Lễ Lá ngày 24-3-2013.
“Linh mục là mục tử thấm ‘mùi chiên’, không phải là mục tử giữa đàn chiên”, với các linh mục trong Thánh lễ Truyền Dầu 28-3-2013.
“Giáo hội không thể là người giữ trẻ để đứa trẻ ngủ quên. Nếu như vậy thì Giáo hội không hoạt động”, thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày 17-4-2013.
“Tòa giải tội không phải là tiệm tẩy nhuộm để tẩy sạch vết nhơ tội lỗi, cũng không phải là nơi tra tấn nhưng là nơi gặp Chúa Giêsu, để ở đó chúng ta chạm vào tấm lòng dịu dàng của Ngài”, thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày 19 tháng 3-2013.
“Chúng ta đừng sợ những cam kết có tính cách quyết định, những cam kết liên quan đến toàn bộ cuộc sống”, Kinh Mân Côi tại đền thờ Đức Bà Cả ngày 4-5-2013
“Niềm vui là ơn của Chúa. Chúng ta không nên có bộ mặt u sầu như ớt ngâm giấm, nhưng có khuôn mặt vui vẻ của người có cuộc sống tốt đẹp,” Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày 10-5-2013.
“Có quá nhiều tín hữu kitô phòng khách, với họ mọi chuyện đều tốt đẹp nhưng không có nhiệt huyết tông đồ”, Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày 16-5-2013.
“Trong tinh thần anh em, tôi muốn trách anh chị em một chút. Anh chị em đã hô to ở Quảng trường Thánh Phêrô “Phanxicô, Phanxicô, giáo hoàng Phanxicô!” Nhưng Chúa Giêsu ở đâu? Tôi muốn anh chị em hô to: “Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Chúa, và Ngài ở giữa chúng ta.” Đêm canh thức cầu nguyện với các phong trào trong Giáo hội ngày 18 tháng 5-2013.
“Chúng ta không thể là người tín hữu kitô cứng cỏi, uống trà bàn chuyện thần học. Chúng ta phải đi tìm người anh em nghèo của chúng ta, họ là thân xác Chúa Kitô”, Đêm canh thức cầu nguyện với các phong trào trong Giáo hội ngày 18-5-2013.
“Thiên Chúa của chúng ta không phải là Thiên Chúa ‘bình xịt’, Ngài cụ thể, Ngài không trừu tượng, Ngài có một danh xưng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’, giờ Kinh Truyền Tin ngày 26-5-2013
“Giáo hội là một gia đình trong đó chúng ta yêu thương và được yêu thương”, trong Buổi tiếp kiến chung ngày 29-5-2013.
“Với gương mặt đám tang, chúng ta không thể công bố Chúa Giêsu”, Thánh lễ ngày 31-5-2013 kỷ niệm 50 năm ngày Chân phước Gioan XXIII qua đời.
“Đừng xấu hổ khi sống với Thập giá”, Thánh lễ ngày 1-6-2013 tại Nhà nguyện Thánh Marta.
“Khi chúng ta vứt bỏ thức ăn là chúng ta đang trộm thức ăn trên bàn ăn của người nghèo!” Trong buổi tiếp kiến chung ngày 5-6-2013.
“Tín hữu kitô là người có đời sống thiêng liêng, không phải là người sống ‘trên mây’, nhưng là người suy nghĩ và hành động trong cuộc sống hằng ngày theo ý Chúa”, ngày Evangelium Vitae 16-6-2013.
“Chúa muốn chúng ta làm mục tử, Chúa không muốn chúng ta là người chải lông cừu! Một cộng đoàn khép kín là cộng đoàn không mang lại sự sống, đó là cộng đoàn vô sinh”, tại Đại hội Giáo hội Rôma ngày 17-6-2013.
“Cầu nguyện không phải là phép lạ, chúng ta không làm phép lạ bằng lời cầu nguyện”, Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày 20-6-2013.
“Chiến tranh là điên rồ. Đó là sự tự sát của nhân loại”, Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày 20-6-2013.
“Một văn hóa chủ trương hạnh phúc làm cho chúng ta chỉ nghĩ về mình, sống trong bong bóng xà phòng, tuy đẹp nhưng chẳng ích gì, chúng ta trở nên vô cảm trước tiếng than khóc của người khác, thờ ơ với tất cả, dửng dưng hóa toàn cầu”, thánh lễ tại đảo Lampedusa nước Ý ngày 8 tháng 7-2013.
“Trẻ em và người già xây dựng tương lai cho nhân loại, vì trẻ em sẽ đưa lịch sử tiến về phía trước, vì người già truyền lại kinh nghiệm và khôn ngoan của họ. Giờ Kinh Truyền Tin ngày 26 tháng 7 tại Rio de Janeiro.
“Các bạn trẻ thân mến, xin các con đừng nhìn cuộc sống từ ban công, hãy đặt mình vào cuộc sống, Chúa Giêsu không ở trên ban công, Ngài đắm mình trong cuộc sống, chúng ta cũng đắm mình vào cuộc sống như Chúa Giêsu đã làm”, Đêm canh thức cầu nguyện cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới, Rio de Janeiro, 27-7-2013.
“Cha xin các con hãy là nhà cách mạng, can đảm đi ngược lại xu hướng. Và cũng hãy can đảm nhận hạnh phúc”, Đức Phanxicô nói với các thiện nguyện viên Ngày Thế Giới Trẻ Rio de Janeiro 28 tháng 7-2013.
“Đừng để hy vọng của anh chị em bị lấy đi vì hy vọng là ơn của Chúa để chúng ta tiến về phía trước và nhìn lên bầu trời”, ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời 15 tháng 8-2013 tại Castel Gandolfo, Rôma.
“Ai trong cộng đoàn nói xấu người anh em thì người đó giết hại anh em mình”, thánh lễ ngày 2 tháng 9 tại Nhà nguyện Thánh Marta.
“Thiên Chúa không muốn thần tượng ở trọng tâm thế giới, Ngài muốn con người ở trọng tâm thế giới, qua việc làm, con người đưa thế giới tiến lên. Nhưng bây giờ trọng tâm của thế giới phi đạo đức lại ở “thần tài”. Gặp giới lao động ngày 22 tháng 9-2013 tại Cagliari, Sardinia, nước Ý.
“Anh chị em đừng nản lòng, đừng bao giờ bỏ cuộc, đừng bao giờ đi mua an ủi của thần chết, đừng bao giờ! Anh chị em hãy tiến về phía trước với Chúa Giêsu! Chúa Giêsu không bao giờ làm anh chị em thất vọng, Ngài luôn trung thành”. Gặp các bạn trẻ ở Cagliari ngày 22 tháng 9-2013.
“60 năm trên đường đến với Chúa! Tôi chưa bao giờ hối tiếc. Tôi thấy mình như Tarzan mạnh mẽ tiến về phía trước ư? Không, vì luôn luôn, dù trong những giây phút đen tối nhất, tôi nhìn Chúa Giêsu, tôi tin tưởng Ngài, Ngài không bao giờ để tôi cô đơn”, Gặp các bạn trẻ ở Cagliari ngày 22 tháng 9-2013.
“Anh chị em sẽ không gặp Chúa Giêsu ở ‘khoang hạng nhất trên máy bay, trong bình an, cũng không ở trong thư viện. Chúng ta chỉ gặp Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày”, Thánh lễ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày 26 – 9 – 2013.
“Tôi thà có một Giáo hội bị lâm nạn hơn là một Giáo hội bệnh hoạn! Một Giáo hội, một giáo lý viên can đảm chấp nhận rủi ro để đi ra ngoài, tôi không muốn một giáo lý viên nghiên cứu, biết tất cả nhưng luôn khép kín: người đó bị bệnh”, tại Đại hội Quốc tế các giáo lý viên ngày 27 tháng 9-2013.
“Nếu chúng ta xây dựng một kitô giáo nhân bản hơn, không thập giá, không Chúa Giêsu, không từ bỏ chính mình, chúng ta sẽ là người tín hữu kitô làm bánh ngọt, chúng ta giống những chiếc bánh xinh đẹp, những viên kẹo xinh đẹp!” Trong lần gặp người nghèo, người thất nghiệp và người nhập cư tại Assisi ngày 4 tháng 10-2013.
“Tôi luôn có lời khuyên này cho các cặp vợ chồng mới cưới: Các con cãi nhau bao nhiêu tùy ý, chén đĩa bay cứ mặc chén đĩa bay. Nhưng đừng bao giờ để một ngày qua đi mà không làm hòa!” Trong buổi gặp các thành viên mục vụ tại Assisi ngày 4 tháng 10-2013.
“Bổn phận đầu tiên của cuộc sống là cầu nguyện, không phải cầu nguyện như con vẹt, nhưng cầu nguyện bằng trái tim”, trong thánh lễ ngày 8 tháng 10 tại Nhà nguyện Thánh Marta.
“Tôi có phải là người tín hữu kitô cơ hội hay tôi luôn là người tín hữu kitô trung thành? Văn hóa tạm thời thấm nhập vào đời sống đức tin. Thiên Chúa xin chúng ta trung thành với Ngài”, Ngày lễ Đức Mẹ Fatima 13 tháng 10-2013.
Thiên Chúa không chỉ cứu chúng ta bằng các điều răn nhưng Ngài còn cứu chúng ta bằng tấm lòng dịu dàng, ân cần, bằng chính mạng sống của Ngài”, thánh lễ ngày 22 tháng 10-2013 tại Nhà nguyện Thánh Marta.
“Chúng ta giữ đức tin cho riêng mình như giữ tài khoản ngân hàng hay chúng ta biết cách chia sẻ đức tin qua việc làm chứng, tiếp nhận và cởi mở với người khác?” Trong thánh lễ hành hương gia đình ngày 27 tháng 10-2013.
Đức Phan-xi-cô là vị giáo hoàng đã phong thánh cho nhiều người nhất: 912 người. Một số người trong số họ đã được công nhận là thánh thông qua quy trình đặc biệt: phong thánh “tương đương”, hay còn gọi là phong thánh theo lòng sùng kính cộng đồng.
Vài tháng sau khi được bầu chọn làm giáo hoàng, vào ngày 9/10/2013, Đức Phanxicô đã tuyên bố nhà huyền bí người Ý, Angela xứ Foligno (1248–1309) là thánh, mà không cần chần chừ thêm nữa. Không có ngày lễ phong thánh, không có công thức bằng tiếng Latin; nữ tu dòng Phan-xi-cô chính thức gia nhập hàng ngũ các thánh chỉ bằng sắc lệnh đơn giản.
Công nhận lòng sùng kính cộng đồng
Trong Giáo hội Công giáo, phải mất một thời gian dài để được đưa vào sổ bộ các thánh. Vô số trường hợp đã bị sa lầy trong quá trình này. Tuy nhiên, hình thức phong thánh ngoại thường áp dụng cho trường hợp của thánh Angela thực sự tồn tại. Các vị giáo hoàng sử dụng hình thức đặc biệt này để xác nhận sự thánh thiện của những người đã có tiếng tăm về sự thánh thiện và là đối tượng của lòng sùng kính có từ thời xa xưa – qua nhiều thế kỷ.
Nói cách khác, họ từ lâu đã được vox populi (tiếng nói giáo dân) coi là “thánh”, nhưng hồ sơ phong thánh của họ đã bị thất lạc trong những bước ngoặt của lịch sử. Đây là quá trình đặc biệt của hình thức gọi là phong thánh “tương đương” (equipollent canonization).
Phương cách nhanh chóng này bỏ qua việc công nhận phép lạ được cho là do sự chuyển cầu của vị đó. Vì họ đã có được lòng sùng kính không ngừng và danh tiếng về những phép lạ, nên giáo hoàng ngay lập tức công nhận lòng sùng kính có từ trước đối với vị thánh và bỏ qua nghi lễ trang trọng.
Một số ví dụ
Trong những năm qua, vị giáo hoàng người Argentina đã thực hiện các cuộc phong thánh tương đương khác. Vào ngày 17/12/2013, ngài đã đưa vào sổ bộ các thánh vị linh mục Dòng Tên người Pháp Pierre Favre (1506-1546). Thánh nhân là bạn đồng hành của thánh Inhaxiô Loyola, và cũng là đồng sáng lập Dòng Tên. Quyết định này, được công bố vào ngày sinh nhật của Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô, được hiểu là dấu chỉ cho thấy lòng sùng kính cách riêng của giáo hoàng đối với vị thánh – mà bản thân giáo hoàng cũng là một tu sĩ Dòng Tên.
Tháng 4/2014, Đức Phan-xi-cô đã tuyên bố ba trường hợp phong thánh tương đương cùng lúc, đó là Joseph de Anchieta (1534-1597), linh mục Dòng Tên người Tây Ban Nha truyền giáo tại Brazil; François de Laval (1623-1708), nhà truyền giáo người Pháp là giám mục đầu tiên của Quebec ở Canada, và Marie Chúa Nhập thể (1599-1672), nữ tu dòng Ursuline người Pháp, cũng là nhà truyền giáo ở Bắc Mỹ.
Vào ngày 05/7/2019, đến lượt vị giám mục Bồ Đào Nha thế kỷ 16, Bartôlômêô Tử đạo (1514-1590), Tổng Giám mục của Braga, được đưa vào hàng ngũ các thánh qua một sắc lệnh.
Vào ngày 24/4/2021, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công nhận sự thánh thiện của một nữ tu người Ý dòng Đaminh từ thời Trung cổ, Margaret xứ Castello (1287-1320), theo cách tương đương.
Tiếp theo: một nhóm nữ tu?
Theo thông lệ, những cuộc phong thánh cụ thể này được yêu cầu trực tiếp bởi một đại diện tối cao của Giáo hội – một cộng đồng, một giáo phận, v.v.
Một nhóm nữ tu người Pháp cũng là một phần của tiến trình phong thánh tương đương sắp tới: 16 nữ tu dòng Cát Minh Compiègne, bị chém đầu vào ngày 17/7/1794, trong cuộc Cách mạng Pháp. Họ được biết đến trên toàn thế giới nhờ những cuộc đối thoại nổi tiếng mà Bernanos đã viết về họ. Trên thực tế, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã ủy quyền trao hồ sơ này lên Bộ Phong thánh vào ngày 20/01/2022.
Việc phong thánh tương đương là hình thức vinh danh các vị thánh được thực hiện bằng một sắc lệnh đơn giản của giáo hoàng mà không cần theo tiến trình thông thường, bao gồm việc xác minh phép lạ. Những vị thánh này “phải có lòng sùng kính lâu dài và không bị gián đoạn, cũng như danh tiếng về những dấu chỉ và ân sủng”. Việc phong thánh của họ được yêu cầu bởi một đại diện của Giáo hội, trực tiếp đến giáo hoàng.
Đức Biển Đức XIV đã chính thức hóa quá trình này vào những năm 1700. Thông qua đó, một giáo hoàng mời gọi Giáo hội hoàn vũ công nhận ngày lễ của vị thánh, với Thánh lễ và Kinh Phụng vụ.
Điều này công nhận rằng phán quyết của Giáo hội đã được đưa ra về sự thánh thiện của một người, mặc dù không tuân theo cách thức phong thánh thông thường. Việc phong thánh tương đương vẫn rất hiếm và chỉ xảy ra với một tỷ lệ rất nhỏ các vị thánh.
Nữ Tu Sugawara
Năm 1946, một năm sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt, một phụ nữ trẻ trở thành người định cư ở Yuzawadai, một đỉnh đồi chưa được khai thác cách trung tâm thành phố Akita 7 cây số. Tên của thiếu nữ ấy là Sumako Sugawara và sau này cô trở thành người đầu tiên tìm đến Seitai Hoshikai.
Sinh ra tại Akita, Sumako Sugawara phụ giúp cha và gia đình buôn bán quần áo. Để bù lại sự giúp đỡ, cô được phép rửa tội trở thành người Công giáo, một giấc mơ cô đã theo đuổi từ thời thơ ấu. Biến cố này là một biến cố rất vui, là một sự chúc lành mà cô đã chờ đợi gần 10 năm qua. Sau khi rửa tội, cô bị thu hút bởi ý định theo đuổi một đời sống cầu nguyện chiêm niệm và cô đã quyết định xin vào tu viện Trappistine ở Hakodate, tỉnh Hokkaido, dù phải hy sinh công việc giúp đỡ gia đình buôn bán. Thế nhưng nhà dòng trả lời đơn xin của Sumako rằng: với dáng người nhu mì như cô thì cô không thể chịu đựng nổi đời sống khó khăn làm việc nặng nhọc và cầu nguyện ở đây. Đơn xin nhập tu viện bị từ chối.
Khi biết được việc xin vào nhà dòng của Sumako, cha mẹ cô hết sức bực tức và cô liền bị đuổi ra khỏi gia đình. Mất nơi nương tựa gia đình, cô tiến hành công việc trồng cấy với dự tính trở thành thầy dạy cho những nữ học sinh nông nghiệp đang làm việc ở Nông trường thời chiến ở Shogun No, Akita. Trong thời gian này, Sumako trải qua một kinh nghiệm không quên được. Cô chứng kiến cuộc tấn công cuối cùng vào Nhật bản trong thời chiến tranh, sau này được biết đến đó là cuộc không tập Tsuchizaki rạng sáng ngày Nhật bản đầu hàng quân đội đồng minh. Kinh nghiệm khắc nghiệt này có ảnh hưởng mạnh mẽ trên đời sống đức tin của cô hơn nữa.
Đời Sống ở Yuzawa Dai
Sau khi chiến tranh chấm dứt, Sumako tiếp tục ước muốn một đời sống cầu nguyện chiêm niệm, và lợi dụng cơ hội đang có dự án phát triển đất đai của chính phủ địa phương để định cư tại Yuzawa Dai. Yuzawa Dai là một trong những khu vực đang có chiến dịch thái thiết định cư với mục đích gia đăng sản xuất thực phẩm trong vùng. Cùng với gia đình người bạn gái Aiko Wada, Sumako dựng một chòi nhỏ và bắt đầu một đời sống cầu nguyện cộng đồng vào năm 1948, khi Sumako được 28 tuổi.
Việc định cư thật đơn giản và vùng ấy không có đường xá hay giếng nước, cũng như điện hay nước vòi. Nước được xách mang về từ dòng suối dưới thung lũng, và một đèn dầu nhỏ dùng cung cấp ánh sáng vào các đêm tối. Đã vậy, nhiều người cười chê họ với cái nhìn lạnh lẽo, một số thanh niên có chút tử tế giúp họ một bàn tay để cày xới và khai thác đất đai. Thỉnh thoảng họ được hướng dẫn tâm linh từ linh mục Puhl và linh mục Klein dòng Ngôi Lời của giáo xứ Akita, giúp họ kiên trì bền đỗ trong cầu nguyện và làm việc. Thật vậy, đời sống đầy khó khăn như thế nên việc mời gọi bất cứ người bạn nào tham gia với họ chẳng thể nào xảy ra được.
Năm 1948, Wada rời bỏ Yuzawadai để vào tu viện chiêm niệm thánh Đaminh ở Morioka. Sumako học được rằng một cộng đồng chiêm niệm không thể thành hình trừ khi có mức sống căn bản tối thiểu, thực phẩm và quần áo được bảo đảm với sự trợ giúp tài chánh cần thiết. Năm 1950 khi cuộc sống bắt đầu kiệt quệ vì thiếu ngân sách, dâng cúng hay thiếu chương trình vay mượn, Sumako thình lình được báo cho biết đơn xin việc trước đây của cô nộp cho văn phòng quận trưởng được chấp thuận. Trong những ngày đó, Nhật bản thi hành việc cải cách nông nghiệp khuyến khích làm chủ nông trường với luật mới về đất đai nông nghiệp và cải thiện đời sống cho nông dân. Nhờ kết quả này, Sumako có thể kiếm được tiền và với sự trợ giúp của các tình nguyện viên do các người lãnh đạo các nhóm thanh thiếu niên, tình trạng đời sống của cô bắt đầu được ổn định.
Năm 1951, một phụ nữ trẻ, cô “S” đến sống tại Yuzawadai với chức vụ một người giữ nhà. Cô ở đó giúp Sumako công việc nội trợ và các việc lặt vặt khác. Năm 1953, cô “S”, một người thợ mộc trẻ và một người thợ khác góp sức cùng nhau dựng một căn nhà bằng gạch. Vào thời gian đó, không ai nghĩ rằng một tượng Đức Mẹ Maria lại có thể khóc ở trong căn nhà này. Năm 1954, cô “M” được thu hút bởi đời sống ở Yuzawadai đã đến gõ cửa và tham gia vào cộng đoàn. Thế nhưng một năm sau vào 1956, cô “M” được gọi để gia nhập một tu viện ở Tokyo và kết quả là Sumako và cô “S” sống trong một cộng đoàn chỉ có 2 người. Vào thời gian này, điện đã bắt đầu có và cái máy bơm tay cũ kỹ đã được thay thế bởi một máy bơm điện. Đời sống ở Yuzawa Dai từ từ trở nên sáng sủa và tiện nghi hơn.
Dâng Hiến Tu Hội Seitai Hoshikai
Ba Nữ Tu
Năm 1961, Sumako Sugawara được Saki Kotake, một giáo lý viên ở giáo xứ Akita viếng thăm và hỏi rằng: “Cô có thể làm việc với tôi để bắt đầu một ngôi nhà cho người già không? Saki giải thích rằng cô đã bàn với bà Chie Ikeda, một người sống với cô và một ngôi nhà cho người già có thể hoạt động với sự trợ giúp của bà con bà Ikeda”. Thế nhưng, Sumako từ chối đề nghị này nói rằng, mục đích cô định cư ở Yuzawa Dai là để chuẩn bị một chỗ cho mục đích lâu dài của cô về một đời sống cầu nguyện chiêm niệm, thay vì hoạt động điều hành ngôi nhà cho các người già.
Nhờ biến cố này dẫn đến sự bàn luận xa hơn về những viễn tượng mà Sumako đã ấp ủ bao năm qua được giải bày với hai người phụ nữ kia. Kinh nghiệm của cô sống vùng đồng quê, những khó khăn cô đã trải qua để biến đổi nông dân thành người Công Giáo, tất cả được chia sẻ và bàn luận. Khi Sugawara, Kotake và Ikeda tiếp tục bàn luận, sự nhất trí gia tăng giữa họ rằng họ cần làm việc với nhau cho việc chuẩn bị thành lập một tu hội cầu nguyện chiêm niệm đáp ứng truyền thống của Nhật.
Khi linh mục Shojiro trở thành Giám mục đầu tiên của Giáo phận Niigata vào năm 1962, ba người phụ nữ thỉnh cầu ước nguyện của họ được trở thành một cộng đồng chiêm niệm. Giám mục Ito, sau khi hoàn tất các chương trình ở Akita đã viếng thăm Yuzawa Dai lần đầu tiên, để xem xét địa hình. Giám mục Ito đã luôn hy vọng có thể thành lập một nhà dòng tận hiến cho việc tôn sùng Thánh Thể. Thế nhưng, ngài trước hết phải tham dự đầy đủ bốn năm công đồng Vatican II bắt đầu khai mạc vào năm ấy, và bắt đầu công việc chuẩn bị về việc thành lập một tu hội đúng với những nguyên tắc của công đồng.
Khởi Sự Khắc Tượng Đức Mẹ
Vào năm 1963, ba nữ tu, Kotake, Ikeda và Sugawara quyết định tận hiến cộng đồng cho Mẹ Maria và khởi sự đặt tượng Đức Mẹ ở Yuzawa Dai. Một tấm hình Đức Mẹ Các Dân Tộc mà Kotake và Ikeda vẫn có lòng sùng kính được đưa cho ông Saburo Wakasa, một thợ điêu khắc gỗ sống ở Hodono, thành phố Akita, để khắc một tượng gỗ giống như trong hình ấy. Đức Mẹ Các Dân Tộc là danh xưng của Đức Mẹ khi hiện ra với bà Ida Peerdeman, ở Amsterdam, Hòa lan vào khoảng giữa 1945 – 1959. Đức Mẹ mặc chiếc áo dài trắng và đứng trên quả địa cầu với một thánh giá phía sau và Mẹ đang xoải tay xuống với bàn tay xòe ra. Ông Wakasa nói rằng ông “chú ý đến việc làm nổi bật sự dịu dàng của Đức Mẹ và làm cho khuôn mặt Mẹ có nét người Nhật bản. Bức tượng này, được trạm trổ ra với một con dao duy nhất từ một khúc gỗ cây Judas, và được đặt ở phòng giải trí của Yuzawa Dai Aiji-en.
Năm 1966, đăng ký trở thành hội viên ở Yuzawadai từ từ tăng dần và Giám mục Ito đồng ý với ba nữ tu gọi cộng đồng là “Seitai Hoshikai”. Căn nhà được tu sửa lại để có một nhà nguyện nhỏ. Đây là lần đầu tiên Thánh Thể Chúa được lưu giữ ở Yuzawa Dai. Năm 1967 tiếp theo đó, Giám mục Ito đến thăm linh mục Hikaru Mochizuki, người đang dạy thần học ở Đại học Chủng viện ở Tokyo, trở thành cha linh hướng của các tu sĩ Seitai Hoshikai. Cha Mochizuki đến Yuzawadai vào tháng Mười Một vào một ngày mưa lạnh buốt. Ngài là một thần học gia với 20 năm theo học ở Âu châu và giảng cho các sơ hằng ngày về Thánh Kinh, Giáo lý, thần học và tiếng Latinh. Ngài cũng dạy ở Trường Đại học dành cho nữ sinh viên ở Akita. Cha thích cảnh núi đồi và người ta thường thấy cha leo các núi ở địa phương.
Chấp Thuận Là Một Tu Hội
Giám mục Ito áp dụng chỉ thị mới của công đồng Vatican II về “Tu hội đời” và gia tăng con số nữ tu hoạt động mạnh mẽ sống đời sống tận hiến trong khi vẫn sống giữa lòng người giáo dân. Ngày 12/5/1969, cộng đồng Seitai Hoshikai được hợp thức hóa là một tổ chức tôn giáo hợp pháp do văn phòng Quận trưởng Akita công nhận. Trong cùng năm ấy, các nữ tu Ikeda, Kotake, và Sugawara dâng lời khấn đầu tiên “Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng phục” trước sự hiện diện của Giám mục Ito.
Ngày 8/9/1970, tu viện được hoàn tất và trong cùng một ngày cộng đồng Seitai Hoshikai nhận được sự chấp thuận của Giám mục điạ phận Niigata là một cộng đồng đạo đức liên kết (một thứ tự trong tiến trình thành hình) và cộng đồng Seitai Hoshikai chính thức được thành hình. Con số nữ tu tiếp tục gia tăng, và đến tháng 8 năm 1972 có tất cả 16 nữ tu, trong đó 6 nữ tu sống ở nhà mẹ tại Yuzawadai và 10 nữ tu kia sống giữa lòng đời.
Biến Cố Dấu Thánh Giá Máu Nơi Bàn Tay Đức Mẹ
Vào năm 1969 khi cộng đồng Seitai Hoshikai đang ở trong bước tiến cuối cùng để hình thành, phần đông các nữ tu sống ở nhà chi nhánh tại Senshu Nakajima thành phố Akita thay vì ở nhà mẹ tại Yuzawa Dai. Dĩ nhiên lý do một phần là vì các nữ tu làm việc là các giáo lý viên và là các cô giáo ở trong thành phố, thế nhưng lý do thật sự là vì đời sống khó khăn ở Yuzawakai. Tuy nhiên, cám ơn Giám mục Ito tích cực kêu gọi các phụ nữ làm việc ở các nhà thờ địa phương tại Niigata, chúng tôi có thể tụ tập đủ thành viên để đạt chỉ tiêu thành lập làm một tu hội đời. Vì thế, nữ tu Ikeda, Kotake và một vài nữ tu khác thường sống trong thành phố nay về sống tại Yuzawa Dai. Con số nữ tu sống ở nhà mẹ nhờ đó lên đến 7 người.
Một ngày nọ vào tháng 3,1973, một trong các nữ tu đời của chúng tôi làm việc tại giáo xứ Myoko, chị “S” tự nhiên không nghe được. Bác sĩ ở nhà thương Niigata Rosai khám bệnh cho chị và thấy là bị “tê liệt thần kinh thính giác vì quá kiệt sức” và chị được gọi về sống ở nhà mẹ. Chị “S” thường làm ngạc nhiên các nữ tu khác bằng cách nói với họ trong bữa ăn về kinh nghiệm thiêng liêng của chị từ thời thơ ấu. Sau khi chị ấy về đến Yuzawadai những kinh nghiệm huyền bí tiếp tục xảy đến với chị.
Tháng 6 năm 1973, chị nói rằng chị chứng nghiệm thấy một luồng ánh sáng từ Nhà Tạm và chị cũng nghe một giọng nói tuyệt vời từ tượng Đức Mẹ nói với chị. Vì linh mục Mochizuki đã từ nhiệm làm tuyên uý và trở về Tokyo năm 1973, sự kiện này được tường trình trực tiếp cho Giám mục Ito. Giám mục chỉ thị cho chị “đừng nghĩ rằng mình đặc biệt bằng bất cứ cách nào”, và quyết định theo dõi tình hình một thời gian lâu hơn. Và vào tháng 7,1973 một vết thương hình Thánh giá xuất hiện trong lòng hai bàn tay của chị “S” và trong bàn tay của tượng Đức Mẹ. Một chị đã nhìn thấy vết thương trên tượng Đức Mẹ tường thuật lại sự kiện như sau:
“Vào 6 giờ tối thứ Sáu đầu tháng (đây là ngày sùng kính Trái Tim Chúa Giêsu vào mỗi tháng), tôi vừa trở về từ trường học nơi tôi làm việc, khi chị Kotake nói với tôi về vết thương xuất hiện trên lòng bàn tay của tượng Đức Mẹ. Tôi đến gần bức tượng và thấy một vết thương cắt rõ nét có hình thánh giá dài khoảng 1.5 đến 2 centimeters, ở giữa lòng bàn tay phải, nét cắt giống như một con dao sắc vậy. Tôi khẳng định là không có hình thánh giá ở tay Đức Mẹ trước đây. Tôi có trách nhiệm phục vụ nơi phòng áo lễ đã 5 năm, và thường lau chùi tượng với khăn vải, vì thế tôi biết chắc chắn như thế. Đêm ấy, lần nữa trong nhà nguyện, tôi được cho thấy vết thương nơi lòng bàn tay của chị “S”. Những đường nét màu đỏ tạo thành hình một cây thánh giá và trông thật đau đớn lắm”.
Một nữ tu khác làm chứng như sau:
“Có một biến cố là một vết thương hình một cây thánh giá thình lình xuất hiện trong lòng bàn tay của tượng Đức Mẹ và kéo dài ba tháng. Vết thương được chứng kiến bởi Giám mục Ito và tất cả các nữ tu đang sống ở đó. Thế nhưng, bên cạnh vết thương, tôi thấy những bong bóng máu chảy ra từ bàn tay phải của tượng Đức Mẹ. Tôi quệt vết máu với ngón tay trỏ của tôi và đưa lên ngửi. Nó có mùi giống như máu người ta”.
Biến Cố Đức Mẹ Khóc
Trong thời gian ấy, buổi sáng ngày 4/1/1975, xảy ra một biến cố mới khác là nước mắt bắt đầu chảy xuống từ tượng Đức Mẹ. Những dòng nước mắt bắt đầu từ ngày này và tiếp tục mỗi ngày, có khi cách vài ngày, tất cả 101 lần cho đến ngày 15/9/1981, Lễ Đức Mẹ Sầu Bi. Một nữ tu chứng kiến đầu tiên những giọt nước mắt của Đức Mẹ tường thuật như sau:
“Tôi lần đầu tiên thấy tượng Đức Mẹ đang khóc. Tôi thấy cả hai mắt Đức Mẹ sũng ướt nước mắt khi tôi đi từ phòng áo đến bàn thờ để sắp đặt mọi sự cho trật tự sau thánh lễ buổi sáng. Tôi rất ngạc nhiên một giây lát, và liền sau đó tràn ngập cảm giác một sự hiện diện Linh Thiêng. Tôi cũng cảm thấy như Đức Mẹ hiểu sự đau đớn lớn lao của tôi, và vì thế Mẹ đã khóc cho tôi. Con số thánh giá mà tôi phải mang trên vai càng gia tăng từ khi tôi chịu phép rửa và gia nhập tu hội, và tôi chưa nói với ai về điều này…”
Theo thông lệ mỗi khi Đức Mẹ khóc, các nữ tu ngưng làm việc và tụ họp trước tượng Đức Mẹ để lần hạt, và sau đó thì linh mục lau những giọt nước mắt. Miếng bông gòn dùng lau nước mắt Đức Mẹ được gởi tới phòng thí nghiệm tại đại học Akita và Gifu để thử nghiệm và kết quả được xác nhận là có chứa “chất nước từ con người”.
Các Thông Ðiệp Ðức Mẹ Akita
1) Thông điệp thứ nhất của Đức Mẹ ngày 6/7/1973
“Con yêu dấu, tập sinh của Mẹ, con đã ngoan ngoãn vâng lời Mẹ từ bỏ mọi sự để theo Mẹ. Thương tật nơi của đôi tai có làm cho con đau đớn lắm không? Hãy tin chắc là con sẽ được chữa lành bệnh điếc tai. Vết thương nơi bàn tay có làm cho con đau đớn không? Hãy cầu nguyện để đền tội cho loài người. Mỗi người trong tu viện này đều là những người con bất khả thi của Mẹ. Con có sốt sắng đọc kinh “các Nữ Tỳ Của Thánh Thể” không? Vậy Mẹ con ta cùng đọc nhé.”
“Lạy Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, thật sự hiện diện trong Thánh Thể, con xin hiến dâng linh hồn và xác con, để hoàn toàn hiệp nhất cùng Thánh Tâm Chúa, đang hiến dâng từng phút giây trên các bàn thờ khắp thế giới, để cảm tạ cùng Chúa Cha, và cầu cho Triều Đại Cha trị đến. Xin Chúa đoái nhận lễ hèn mọn chính thân xác con. Xin Chúa dùng con theo Thánh ý Chúa để tôn vinh Chúa Cha, và cho sự cứu rỗi các linh hồn.
Lạy rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời, xin Mẹ đừng bao giờ để con phải xa lìa Con của Mẹ. Xin Mẹ che chở và bảo vệ con như con riêng Mẹ vậy. Amen.”
Khi đọc xong bài kinh thì có giọng nói Thiên đàng tiếp:
“Hãy cầu nguyện nhiều cho Đức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục và các Linh Mục. Từ khi được chịu phép Rửa Tội, con vẫn trung thành cầu nguyện cho các ngài. Hãy tiếp tục cầu nguyện thật nhiều… thật nhiều. Hãy nói lại với bề trên của con tất cả những gì đã xảy ra hôm nay và hãy vâng lời ngài trong mọi sự ngài sẽ nói cho con. Bề trên của con đã yêu cầu con hãy sốt sắng cầu nguyện”.
2) Thông điệp thứ hai của Đức Maria ngày 3/8/1973
“Con yêu dấu, tập sinh của Mẹ, con có yêu mến Thiên Chúa không? Nếu con yêu mến Thiên Chúa, hãy lắng nghe lời Mẹ nói với con. Điều này rất quan trọng… Con hãy nói lại với bề trên của con.
Rất nhiều người đang gây buồn phiền cho Chúa. Mẹ muốn nhiều linh hồn an ủi Ngài để làm dịu cơn thịnh nộ của Chúa Cha. Cùng với Con của Mẹ, Mẹ muốn nhiều linh hồn dâng những đau khổ và khó nghèo của mình, để đền tạ cho kẻ tội lỗi và những kẻ vô ơn bội nghĩa.
Để thế gian biết cơn thịnh nộ của Ngài, Thiên Chúa Cha đang chuẩn bị giáng xuống toàn thể nhân loại một sự trừng phạt ghê gớm. Mẹ đã nhiều lần cùng với Con Mẹ, can thiệp để làm nguôi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha. Mẹ đã ngăn cản được tai họa đổ xuống nhờ dâng những đau khổ và hy sinh của Chúa Con đã chịu trên Thánh Giá, Máu Châu Báu của Người đã đổ ra, và những linh hồn yêu dấu an ủi Thiên Chúa tạo thành đội quân những linh hồn tội nhân cầu khẩn Chúa. Cầu nguyện, ăn năn thống hối và những can đảm hy sinh có thể làm giảm cơn thịnh nộ của Thiên Chúa Cha. Mẹ muốn cộng đoàn các con cũng làm điều này như vậy… đó là yêu mến đức khó nghèo để tự thánh hoá và cầu nguyện đền tạ những sự xúc phạm và vô ơn bội nghĩa của rất nhiều người.
Hãy đọc kinh các Nữ Tỳ Của Thánh Thể với sự ý thức ý nghĩa của nó, và đem ra thực hành; hãy phó dâng (tất cả những gì Thiên Chúa gửi đến), để đền tạ tội lỗi. Mỗi người hãy cố gắng tùy theo khả năng và địa vị của mình, dâng hiến toàn thân mình cho Chúa.
“Ngay cả trong một Tu hội đời, việc cầu nguyện rất cần thiết. Những linh hồn sẵn sàng cầu nguyện thì đang trên đường được quy tụ lại. Ðừng ràng buộc chú ý nhiều đến hình thức, hãy trung thành và sốt sắng cầu nguyện để yên ủi Chúa.
Ngừng một lát Đức Mẹ nói tiếp:
“Điều gì con nghĩ trong lòng có thật không? Con có thực sự quyết định trở nên viên đá bị thợ xây loại bỏ không? Hỡi tập sinh của Mẹ, con là người không do dự, mong ước được hoàn toàn thuộc về Chúa, muốn được trở nên hiền thê xứng đáng của Đấng Phu Quân, thì con hãy tuyên hứa với sự hiểu biết rằng con phải chịu đóng đanh vào Thánh Giá bằng ba cái đinh nhọn: Đó là ba cái đinh của khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời. Trong ba điều này, đức vâng lời là nền tảng. Để hoàn toàn từ bỏ bản thân, hãy để bề trên hướng dẫn con. Ngài sẽ biết thế nào để hiểu con và hướng dẫn con.’
3) Thông điệp thứ ba của Đức Trinh Nữ ngày 13/10/1973
“Con gái cưng của Mẹ, hãy lắng nghe những lời Mẹ phải nói với con. Và con hãy nói lại với bề trên của con.’
Ngừng một lát:
“Như Mẹ đã nói với con, nếu loài người không ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, Thiên Chúa Cha sẽ giáng xuống một hình phạt khủng khiếp. Hình phạt này còn khủng khiếp hơn nạn đại hồng thuỷ, một hình phạt mà loài người chưa từng thấy bao giờ. Lửa sẽ từ trời rơi xuống tiêu diệt một phần lớn nhân loại, người lành cũng như kẻ dữ, không chừa các linh mục lẫn người giáo dân. Những kẻ sống sót sẽ cảm thấy cô quạnh đến nỗi thèm khát số phận của người chết. Niềm an ủi duy nhất còn lại cho các con là Chuỗi Mân côi và Dấu Chỉ mà Con Ta để lại. Hãy đọc kinh Mân côi mỗi ngày. Với chuỗi Mân côi, hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, cho các Giám mục và các linh mục”.
“Thế lực ma quỷ sẽ xâm nhập vào trong Giáo Hội, đến nỗi người ta sẽ thấy Hồng y chống đối Hồng y, Giám mục chống đối Giám mục. Những linh mục có lòng sùng kính Mẹ sẽ bị chính đồng bạn của họ khinh miệt và chống đối… Thánh đường và bàn thờ bị cướp phá; Giáo Hội thì đầy dẫy những người chấp nhận thương lượng thỏa hiệp, và ma quỷ sẽ ép buộc nhiều linh mục và những linh hồn thánh hiến từ bỏ việc phụng sự Thiên Chúa”.
“Ma quỷ đặc biệt sẽ không buông tha chống lại những linh hồn đã dâng hiến cho Chúa. Nghĩ đến sự mất mát quá nhiều linh hồn như thế là nguyên nhân làm cho Mẹ đau buồn. Nếu tội lỗi gia tăng cả số lượng và cường độ thì sẽ không còn tha thứ cho họ được nữa.”
“Với can đảm hãy nói lại với bề trên của con. Ngài sẽ biết cách nào để khuyến khích mỗi người các con cầu nguyện và hoàn thành những công việc đền tạ tội lỗi.”
Khi Tiếng Nói đã ngừng, tôi lấy hết can đảm để ngước đầu lên, thì thấy bức tượng vẫn còn sáng láng, nhưng nét mặt Mẹ đượm một vẻ buồn. Rồi tôi định bụng hỏi, ‘Ai là bề trên của con?’ Bỗng nhiên tôi cảm thấy Thiên thần hiện ra bên cạnh tôi, tôi không nghe được tiếng nói nhưng chỉ cảm thấy Thiên thần nói với tôi, ‘Trong những dịp như vậy đúng ra con có thể hỏi những câu hỏi quan trọng hơn.’ Nhưng ngoài Đức Giám Mục, tôi còn có ba bề trên nữa, nên nghĩ đây là cơ hội để hỏi.
Tức thì Tiếng Nói trả lời:
“Đó là Đức Giám Mục Ito, người hướng dẫn tu hội của con.”
Đức Mẹ mỉm cười và nói tiếp:
“Con còn điều gì muốn hỏi nữa không? Hôm nay là lần cuối cùng Mẹ nói với con bằng tiếng nói sống thực. Từ nay trở đi con sẽ vâng lời đấng được gửi đến với con và bề trên của con”.
“Hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi. Chỉ một mình Mẹ còn có thể cứu các con khỏi những thảm họa sắp xảy ra. Những ai tin tưởng nơi Mẹ thì sẽ được cứu thoát.”
Lá Thư Của Địa Phận
Đức Giám mục Ito ra chỉ thị nghiêm ngặt cho các nữ tu rằng: “Những biến cố xảy ra ở đây rất huyền nhiệm, vì thế nên hành xử một cách thận trọng. Tôi yêu cầu mỗi chị em giữ im lặng về việc này”. Thế nhưng chẳng bao lâu biến cố này được tiết lộ qua những khách hành hương đã chứng kiến các biến cố và rồi bài viết được đăng trên nguyệt san Công Giáo. Bài viết ấy cho biết số người chứng kiến Đức Mẹ khóc lên đến 500 người. Không những người ta thấy nước mắt mà còn cảm nghiệm một mùi thơm dễ chịu lúc ấy nữa.
Vào ngày 22/4/1984 trước khi về hưu theo luật của Giáo phận Niigata, Giám mục Ito phổ biến “Thư Giáo phận liên quan đến tượng Đức Mẹ Akita” như sau:
– Theo cuộc điều tra của tôi, không có điều gì từ chối những chuỗi biến cố siêu nhiên chung quanh tượng Đức Mẹ ở Seitai Hoshikai, Yuzawadai, thành phố Akita. Và tôi cũng không tìm thấy điều gì trái ngược với đức tin và luân lý.
– Vì thế, tôi không ngăn cấm việc tôn kính Đức Mẹ Akita trong giáo phận cho tới ngày chúng ta có được trả lời chắc chắn từ Tòa thánh Rôma.
Tháng 6 năm 1988 Đức Hồng Y Ratzinger, Trưởng Bộ Tín lý đức tin, đưa ra phán quyết về biến cố ở Akita và những thông điệp là đáng tin cậy và có giá trị đức tin.
Hành trình của mọi kỷ lục
Từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 9, Đức Phanxicô có chuyến tông du thứ 45, dài 12 ngày, chuyến dài nhất triều. Ngài sẽ đến bốn quốc gia: Indonesia, Đông Timor, Singapore và Papua Tân Ghinê. Với Papua Tân Ghinê, Đức Phanxicô lần đầu đến Châu Đại Dương, cách Rôma hơn 14.000 cây số, một kỷ lục của ngài.
Sau chuyến đi Canada năm 2022, ngài giữ chức vô địch giáo hoàng lớn tuổi nhất đi nước ngoài. Sức khỏe của ngài có vẻ tốt hơn so với mùa đông vừa qua, nhưng lịch đi của ngài sẽ uyển chuyển để ngài có thì giờ nghỉ ngơi.
Nhưng uyển chuyển này sẽ không quá lớn vì chương trình đã được ấn định: 44 giờ bay, trong đó có 4 giờ bay trực thăng đi Papua Tân Ghinê, với 32.000 cây số trong 7 chuyến bay, đọc 16 bài phát biểu và bài giảng. Một nhà ngoại giao ở Rôma tự hỏi: “Ngay cả với người 50 tuổi, họ phải có sức khỏe mới đi được, tôi không biết ngài lấy đâu ra sức lực khi đã 87 tuổi?”
Một công nghị phong tân hồng y
Tại Rôma, nhiều nhà quan sát đang chờ công nghị phong tân hồng y sắp tới. Hiện tại có 124 hồng y là ứng viên bỏ phiếu nếu có mật nghị. Cuối năm nay sẽ có 4 hồng y 80 tuổi nên sẽ không được bầu mật nghị. Đức Phaolô VI ấn định con số 120 hồng y cho mật nghị, rất có thể Đức Phanxicô không chờ con số này giảm để bổ sung. Gần đây trong một phỏng vấn, nhà báo Gerard O’Connell thân cận với Đức Phanxicô cho biết ngài sẽ tổ chức công nghị trước cuối năm nay.
Rôma lúc nào cũng có những dự đoán nhưng Đức Phanxicô là người đua ra quyết định cuối cùng và ngài thường có những quyết định bất ngờ. Phần nào ngài đã phá vỡ truyền thống “ghế hồng y” thường giao cho giám mục của các giáo phận rất lớn như Milan, Venice, Naples, Turin, Krakow, Paris, Dublin, Berlin và Los Angeles, nhưng truyền thống này bây giờ không còn.
Và ngài đưa ra những lựa chọn rất cá nhân, được thấy rõ trong trường hợp giám mục trẻ người Ý Giorgio Marengo được phong hồng y năm 2022. Là nhà truyền giáo ở Mông Cổ từ đầu những năm 2000, giám mục đứng đầu một Giáo hội chỉ có 1.400 tín hữu.
Một chuyến đi gay go đến Bỉ và Luxembourg
Sau chuyến tông du Châu Á-Châu Đại Dương đầu tháng 9, Đức Phanxicô sẽ đi Luxembourg và Bỉ từ ngày 26 đến 29 tháng 9. Tại hai quốc gia ở trung tâm châu Âu trước đây Giáo hội công giáo đóng vai trò trung tâm, nhưng trong nhiều thập kỷ qua, hai quốc gia này đã phải đối diện với làn sóng thế tục hóa rất mạnh.
Trong chuyến đi nhân kỷ niệm 600 năm thành lập Đại học Công giáo Louvain, ngài sẽ nói đến tình trạng người công giáo trong một xã hội thế tục hóa, về việc kết thúc cuộc sống vì chế độ an tử đã được hợp pháp hóa ở hai nước này. Vấn đề lạm dụng tình dục cũng sẽ là một chủ đề của chuyến đi, ngài đã lên kế hoạch để gặp riêng các nạn nhân.
Và khi dừng chân ở Luxembourg, ngài muốn vinh danh giáo phận của hồng y Jean-Claude Hollerich, tổng tường trình của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, người trung thành với ngài. Ở Bỉ, ngài cũng sẽ đề cập đến vấn đề nhạy cảm như vấn đề chức phó tế nữ hay phong chức cho các ông đã lập gia đình, nhưng tại Bỉ vấn đề ít trực diện hơn so với cách tiếp cận của người Đức đang rơi vào bế tắc với Rôma.
Một Thượng Hội đồng Thế giới sắp kết thúc
Tháng 10 sắp tới, hơn 450 người tham gia (hồng y, giám mục, linh mục, giáo dân nam nữ) sẽ về Rôma để tiếp tục họp. Sau nhiều tháng tham vấn địa phương và lục địa, kể từ tháng 10 năm 2023, Giáo hội đã suy ngẫm ở cấp độ toàn cầu về việc đón nhận và tham gia nhiều hơn cũng như bớt giáo sĩ hơn. Đặc biệt của Thượng hội đồng này là có sự hiện diện của giáo dân, họ được quyền bỏ phiếu mà bình thường chỉ các giám mục mới được quyền bỏ phiếu.
Vào cuối tháng 10, trong phiên họp cuối cùng ở Rôma, các thành viên của Thượng hội đồng sẽ đề xuất những phương hướng cải cách cho giáo hoàng. Các vấn đề được bàn đến gồm việc thành lập mục vụ cho giáo dân đặc biệt mục vụ “lắng nghe và đồng hành”, giáo dân giảng lễ, sự minh bạch trong quá trình ra quyết định và quản lý, cả ở cấp độ mục vụ lẫn về mặt lạm dụng tình dục hoặc tài chính. Vấn đề chức phó tế nữ tuy không được bàn đến trong lần này, nhưng có một ủy ban tiếp tục đào sâu vấn đề này. Tháng 3 năm ngoái, Đức Phanxicô đã giao phó cho mười nhóm làm việc một số lượng lớn các chủ đề bao gồm các chủ đề nhạy cảm như chức phó tế nữ, luật độc thân linh mục, sự bao gồm người đồng tính, tiến trình bổ nhiệm giám mục..v..v.. Năm 2025 các nhóm này sẽ phải đưa ra kết luận của họ.
Năm Thánh sắp đến
Năm Thánh 2025 đang được chuẩn bị tại Rôma để đón nhận 30 triệu du khách trong dịp này, các công trường xây dựng đã làm việc trong nhiều tuần qua. Đầu tháng 6 khi Đức Phanxicô đến tòa thị chính Rôma, ngài trấn an: “Dòng người hành hương, khách du lịch và người dân về Rôma trong dịp này sẽ là một gánh nặng cho Rôma, nhưng đây cũng là một khía cạnh vĩ đại của Rôma, Rôma có cơ hội phát triển về mặt dân sự, xã hội, kinh tế và văn hóa.”
Ngày 24 tháng 12, Đức Phanxicô sẽ mở Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô, trong Sắc lệnh Năm Thánh, ngài mời gọi giáo dân lên đường tìm ý nghĩa cuộc sống. Tổng cộng sẽ có 35 sự kiện quan trọng được tổ chức tại Rôma trong Năm Thánh: các lễ kỷ niệm dành cho gia đình, giới trẻ, linh mục, người bệnh, chính trị gia, vận động viên, tù nhân, v.v. Đây là cuộc chạy marathon của ngài, ngài còn dự định đến Thổ Nhĩ Kỳ để kỷ niệm 1700 năm thành lập Hội đồng Đại kết Nicaea.
Từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 9-2024 Đức Phanxicô sẽ đi chuyến đi dài nhất và xa nhất trong triều của ngài đến Châu Á và lần đầu tiên ngài đến Châu Đại Dương. 87 tuổi, ngài là giáo hoàng lớn tuổi nhất đi tông du.
Dù chuyến đi này là chuyến đi dài nhất từ trước đến nay của ngài nhưng ngài cũng không vượt kỷ lục của Đức Gioan-Phaolô II, năm 1986 ngài đã đến Châu Á và Châu Đại Dương trong 14 ngày. Nhưng lúc đó Đức Gioan-Phaolô II trẻ hơn do thái gần 25 tuổi! Đức Gioan-Phaolô II là người thích đi du lịch, năm 1987 ngài có chuyến đi 14 ngày đến các nước Nam Mỹ Chi-lê, Uruguay và Argentina.
Từ năm 1978 đến năm 2005, Đức Gioan-Phaolô II đã đi 25 chuyến tông du dài hơn 10 ngày. Đức Phaolô VI và Đức Bênêđíctô XVI chỉ đi 10 ngày một lần, còn Đức Phanxicô thì đó là lần thứ hai ngài đi hơn 10 ngày, sau chuyến đi Cuba và Mỹ năm 2015.
Kể từ chuyến đi Canada năm 2022, ngài là giáo hoàng lớn tuổi nhất đi tông du, một kỷ lục trước đây của Đức Bênêđíctô XVI khi ngài đi Lebanon năm 2012, sáu tháng trước khi ngài từ chức. Khó khăn trong các chuyến tông du đã là một trong những yếu tố làm Đức Bênêđíctô XVI quyết định từ chức.
Sau 11 năm rưỡi làm giáo hoàng, Đức Phanxicô sẽ đi chuyến tông du lần thứ 45, nhiều hơn đáng kể so với Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phaolô VI nhưng sau Đức Gioan-Phaolô II với 104 chuyến đi trong 28 năm. Tương ứng với thời gian làm giáo hoàng thì Đức Phanxicô cũng đi nhiều như Đức Gioan-Phaolô II.
Tháng 9 sắp tới, Đức Phanxicô sẽ đi Châu Đại Dương, lục địa cuối cùng ngài chưa đi. Ngài sẽ đến Papua Tân Ghinê như Đức Gioan Phaolô II đã đi năm 1985 và 1996. Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phaolô VI đã đi lục địa rộng lớn này, tới Úc và Samoa.
Indonesia sẽ là quốc gia thứ 62, Papua Tân Ghinê thứ 63, Đông Timor thứ 64 và Singapore thứ 65 của chuyến đi này.
4 quốc gia ở 2 châu lục, tổng cộng gần 40 nghìn km. Chuyến bay Giáo hoàng sẽ cất cánh từ sân bay Fiumicino vào ngày 2 tháng 9 và Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ bắt đầu chuyến Tông du dài nhất và đòi hỏi nhiều thử thách nhất của mình đến Châu Á và Châu Đại Dương.
Tuy nhiên, theo Đức Hồng y Luis Antonio Gokim Tagle, vị Giám mục Rôma rời Giáo phận của mình không phải để phá vỡ kỷ lục mà là “một hành động khiêm nhường trước mặt Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta” và trong sự “vâng phục sứ vụ”.
Khi chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô tới Indonesia, Papua New Guinea, Đông Timor và Singapore đang đến gần, Quyền Tổng Trưởng Bộ Loan Báo Tin Mừng (Phân bộ thứ II phụ trách việc Loan báo Tin Mừng đầu tiên và các Giáo Hội địa phương mới) đã phát biểu với Hãng thông tấn Fides của Vatican.
Đức Hồng y Tagle đã khám phá những lý do tại sao cuộc hành trình của Đấng kế vị Thánh Phêrô giữa các Giáo hội gồm “những đàn chiên nhỏ bé hơn” lại quan trọng đối với Giáo hội hoàn vũ, và đồng thời cho biết nó có thể ảnh hưởng đến tất cả những ai quan tâm đến vấn đề hòa bình trên thế giới.
Ở tuổi gần 88, Đức Thánh Cha Phanxicô sắp thực hiện chuyến Tông du kéo dài nhất và mệt mỏi nhất trong Triều đại Giáo hoàng của mình. Điều gì thúc đẩy ngài thực hiện “thành tựu” này?
Tôi nhớ rằng chuyến viếng thăm Châu Á và Châu Đại Dương này thực ra đã được lên kế hoạch từ năm 2020. Tôi vừa mới đến Rôma, tại Thánh Bộ Truyền giảng Phúc Âm cho các Dân tộc, và tôi nhớ rằng dự án này đã tồn tại. Sau đó, đại dịch Covid-19 đã ngăn chặn tất cả mọi thứ. Và tôi rất ngạc nhiên khi Đức Thánh Cha một lần nữa lại tiếp tục dự án. Đó là dấu chỉ cho thấy sự gần gũi của người cha đối với những gì ngài gọi là ‘các vùng ngoại vi hiện sinh’.
Thật vậy, tôi trẻ hơn Đức Thánh Cha, và những chuyến đi kéo dài này thậm chí còn nặng nề đối với tôi. Đối với ngài, việc chấp nhận nỗ lực này cũng là một hành động khiêm nhường. Đây không phải là một màn trình diễn để miêu tả những gì người ta vẫn có khả năng làm. Với tư cách là một nhân chứng, tôi gọi đó là một hành động khiêm nhường trước mặt Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta: một hành động khiêm nhường và vâng phục sứ vụ.
Một số người cho rằng chuyến Tông du này là một sự xác nhận nữa cho thấy Đức Thánh Cha Phanxicô thích phương Đông và hờ hững với phương Tây.
Ý tưởng coi các chuyến Tông du là dấu chỉ cho thấy Đức Thánh Cha Phanxicô “ưa thích” một châu lục hoặc một phần nào đó của thế giới, hoặc hờ hững với các khu vực khác là một cách diễn giải sai lầm về các chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha. Sau chuyến viếng thăm này, vào cuối tháng 9, Đức Thánh Cha có kế hoạch viếng thăm Luxembourg và Bỉ. Ngài cũng đã viếng thăm nhiều quốc gia ở nhiều vùng của châu Âu.
Với tôi, dường như với những chuyến viếng thăm này, Đức Thánh Cha muốn khích lệ các tín hữu Công giáo trong mọi bối cảnh mà họ đang sống. Chúng ta cũng nên nhớ rằng hầu hết nhân loại sống ở những khu vực này trên thế giới. Châu Á là nơi sinh sống của hai phần ba dân số thế giới. Phần lớn những người này đều nghèo khổ. Có nhiều người được rửa tội trong số những người nghèo.
Đức Thánh Cha Phanxicô biết rằng có nhiều người nghèo ở những khu vực đó, và trong số những người nghèo, có một sự cuốn hút đối với hình ảnh Chúa Giêsu và Tin Mừng, thậm chí ngay cả trong bối cảnh chiến tranh, đàn áp và xung đột.
Những người khác chỉ ra rằng số lượng các Kitô hữu ở nhiều quốc gia mà Đức Thánh Cha Phanxicô đến thăm chỉ chiếm số lượng nhỏ so với dân số.
Trước khi thực hiện các chuyến viếng thăm, Đức Thánh Cha đã nhận được lời mời không chỉ từ các Giáo hội địa phương mà còn từ các nhà chức trách dân sự và các nhà lãnh đạo chính trị, những người đã chính thức yêu cầu sự hiện diện của vị Giám mục Rôma tại quốc gia của họ.
Họ muốn sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô không chỉ vì lý do đức tin, mà còn vì lý do liên quan đến chính quyền dân sự. Đối với họ, Đức Giáo Hoàng vẫn là biểu tượng mạnh mẽ của sự chung sống của con người trong tinh thần huynh đệ và vì sự chăm sóc công trình sáng tạo.
Với tư cách là một Mục tử đến từ Giáo hội Philippines và là Hồng y thuộc Thánh bộ truyền giáo Bộ Loan Báo Tin Mừng, ngài đã có những trải nghiệm và cuộc gặp gỡ nào với các quốc gia và Giáo hội mà Đức Thánh Cha sẽ đến thăm trong vài ngày tới?
Tại Papua New Guinea, tôi đã thực hiện chuyến viếng thăm đến các Chủng viện theo yêu cầu của Đức Hồng y Ivan Dias, lúc đó là Tổng Trưởng Bộ Truyền giáo.
Trong hai tháng, tôi đã thực hiện hai chuyến đi, đến thăm các Chủng viện tại Papua New Guinea và Quần đảo Solomon. Tôi cũng đã đến thăm Indonesia và Singapore, nhưng tôi chưa bao giờ đến Timor-Leste, mặc dù tôi đã gặp gỡ nhiều Giám mục, Linh mục và giáo dân từ quốc gia đó.
Đối với tôi, Châu Á là “một thế giới bao gồm nhiều thế giới khác nhau”, và với tư cách là một người Châu Á, tôi nhận thấy những chuyến đi đến Châu Á mở mang tâm trí và trái tim tôi đến với những chân trời rộng lớn của nhân loại và của trải nghiệm con người. Kitô giáo cũng thấm nhuần vào Châu Á theo những cách khiến tôi ngạc nhiên. Tôi học được rất nhiều từ sự khôn ngoan và sáng tạo của Chúa Thánh Thần. Tôi luôn ngạc nhiên về những cách thức mà qua đó Tin Mừng được diễn đạt và hiện thân trong các bối cảnh khác nhau của con người.
Hy vọng của tôi là Đức Thánh Cha, và tất cả chúng tôi trong đoàn tùy tùng của ngài, cũng như các nhà báo, có thể có được trải nghiệm mới này, trải nghiệm về sự sáng tạo của Chúa Thánh Thần.
Những món quà và niềm an ủi nào mà các cộng đồng được Đức Thánh Cha Phanxicô ghé thăm trong chuyến Tông du sắp tới có thể mang lại cho toàn thể Giáo hội?
Ở những quốc gia đó, cộng đồng Kitô giáo hầu như chỉ là một nhóm thiểu số, một “đàn chiên nhỏ bé”. Ở những nơi như Châu Âu, Giáo hội vẫn được hưởng một “địa vị” tôn trọng nhất định về mặt văn hóa, xã hội và thậm chí là dân sự.
Tuy nhiên, ở nhiều nước phương Tây, chúng ta đang quay trở lại với kinh nghiệm này của Giáo hội như một đàn chiên nhỏ bé. Có thể sẽ hữu ích khi nhìn vào các Giáo hội ở nhiều quóc gia phương Đông để xem người ta nên cư xử như thế nào khi ở trong một hoàn cảnh, một trạng thái khiêm nhường.
Kinh nghiệm của các Tông đồ tiên khởi, của những người môn đệ của Chúa Giêsu, được lặp đi lặp lại ở những quốc gia này. Một Cha xứ ở Nepal đã nói với tôi rằng lãnh thổ Giáo xứ của ngài rộng bằng một phần ba nước Ý; ngài chỉ có 5 giáo dân rải rác trên một lãnh thổ rộng lớn như vậy. Hiện tại là năm 2024, nhưng bối cảnh và kinh nghiệm có vẻ giống với thời Công vụ Tông đồ. Và các Giáo hội nhỏ bé sống ở phương Đông có thể dạy chúng ta.
Điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến đi của Đức Thánh Cha Phanxicô là Indonesia, quốc gia có dân số Hồi giáo lớn nhất thế giới.
Indonesia là một quốc đảo, và có sự đa dạng đáng kể về tình hình văn hóa, ngôn ngữ, kinh tế và xã hội. Đây cũng là quốc gia có số lượng cư dân theo Hồi giáo lớn nhất thế giới.
Món quà lớn lao của Chúa Thánh Thần dành cho cộng đồng Công giáo Indonesia là sự chung sống không phủ nhận sự đa dạng. Hy vọng chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ mang lại luồng sinh khí mới cho tình huynh đệ giữa những tín đồ của các tôn giáo khác nhau.
Đức Hồng y có thể trải nghiệm những dấu chỉ cụ thể của sự chung sống huynh đệ này trong các chuyến viếng thăm của mình không?
Họ nói với tôi rằng mảnh đất nơi trường Đại học Công giáo tọa lạc là do vị Tổng thống tiên khởi tặng. Đây là một thông điệp quan trọng, cho thấy rằng trong số những người dân Indonesia, tất cả mọi người đều được đón nhận như anh chị em với nhau.
Tôi cũng nhớ khi tôi tham gia Đại hội Giới trẻ ở Châu Á. Với số lượng các Kitô hữu ít ỏi, nhiều bạn trẻ Hồi giáo cũng nằm trong số những người tình nguyện tham gia công việc tổ chức. Hội đồng Giám mục đã trao cho tôi hai trợ lý, cả hai đều là người Hồi giáo, những người mà tôi nhận thấy họ thực hiện nhiệm vụ của họ với sự tôn trọng sâu sắc đối với Giáo hội.
Còn chặng thứ hai ở Papua New Guinea thì sao?
Giáo hội tại Papua New Guinea là một Giáo hội non trẻ hơn, nhưng đã mang đến cho Giáo hội hoàn vũ một vị tử đạo, đó là Chân Phước Phêrô To Rot, người cũng là một giáo lý viên.
Papua New Guinea cũng là một quốc gia đa văn hóa, với nhiều bộ lạc thỉnh thoảng xung đột với nhau. Nhưng đây là một quốc gia mà sự đa dạng có thể là một nguồn tài nguyên. Nếu chúng ta gác lại những định kiến của mình, ngay cả trong các nền văn hóa bộ lạc, chúng ta có thể tìm thấy các giá trị nhân văn gần với các lý tưởng của Kitô giáo.
Ở Papua New Guinea, có những nơi thiên nhiên còn nguyên sơ. Cách đây 2 năm trước, tôi đã đến đó để tham dự lễ khánh thành một nhà thờ mới. Tôi đã xin vị Giám mục nước uống, và ngài nói với tôi: “Chúng ta có thể uống nước sông, nước đó có thể uống được”.
Nhờ vào trí tuệ bộ lạc của mình, họ đã có thể duy trì sự hòa hợp với thiên nhiên và có thể uống trực tiếp từ dòng sông. Điều mà chúng ta, ở cái gọi là các nước phát triển, không còn nữa.
Và chặng thứ ba ở Timor-Leste?
Điều quan trọng là Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến Indonesia và sau đó là Timor-Leste. Hai quốc gia này có lịch sử đấu tranh và hiện đang hòa bình. Đây là một nền hòa bình mong manh, nhưng nhờ cả hai quốc gia, nó có vẻ bền vững.
Mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và chính quyền ở đó rất tốt đẹp. Chính quyền địa phương cũng hỗ trợ các dịch vụ giáo dục liên quan đến Giáo hội. Đối với tôi, có vẻ như chính Giáo hội là một trong những ngọn hải đăng cho người dân trong cuộc chiến giành độc lập. Người dân Timor-Leste tuyên bố rằng đức tin của họ vào Chúa Kitô đã nâng đỡ họ trong những năm tháng đấu tranh giành độc lập.
Cuối cùng là quốc gia thứ tư, Singapore?
Đây là một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới, và thật tuyệt vời khi thấy một dân tộc đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp và tiên phong về công nghệ như vậy chỉ trong vài năm, với nguồn lực hạn chế, cũng nhờ vào tinh thần kỷ luật.
Chính phủ Singapore đảm bảo quyền tự do cho tất cả các cộng đồng tín hữu và bảo vệ họ khỏi các cuộc tấn công và những hành vi thiếu tôn trọng. Những hành vi vi phạm tôn giáo sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Người dân được sống trong sự an toàn, và khách du lịch cũng vậy. Nhưng cần phải có sự cân bằng. Lịch sử dạy chúng ta phải cẩn thận để việc thực thi pháp luật không đi ngược lại với chính những giá trị mà luật pháp được cho là bảo vệ.
Ngay cả ở những quốc gia đó, đặc biệt là Papua New Guinea, công tác Tông đồ được tô điểm bằng những câu chuyện về các vị Thừa sai tử đạo. Nhưng đôi khi chúng ta vẫn tiếp tục trình bày công việc của các nhà truyền giáo chỉ như một biểu hiện của chủ nghĩa thực dân văn hóa và niềm tin chính trị.
Hiện nay có một xu hướng và cám dỗ là diễn giải lịch sử, đặc biệt là lịch sử truyền giáo, bằng quan điểm văn hóa ngày nay và áp đặt tầm nhìn của chúng ta lên các nhà truyền giáo sống cách đây nhiều thế kỷ.
Thay vào đó, chúng ta phải giải thích lịch sử một cách cẩn thận. Các vị Thừa sai là một món quà cho Giáo hội. Họ vâng theo Chúa Kitô, Đấng đã truyền dạy dân của Ngài đi đến tận cùng trái đất để rao giảng Tin Mừng, hứa rằng Ngài sẽ luôn hiện diện cùng với họ.
Thỉnh thoảng, các nhà lãnh đạo quốc gia của các quốc gia đã đưa các vị Thừa sai đến những nơi khác nhau trong quá trình thực dân hóa. Tuy nhiên, các vị Thừa sai đó đã đi truyền giáo, không phải để bị những kẻ thực dân thao túng và lợi dụng. Nhiều Linh mục, nhiều nhà truyền giáo và những người không có chức thánh đã hành động trái ngược với các chiến lược của chính phủ của họ và đã chịu phúc tử đạo.
Mối dây liên kết huyền nhiệm nào luôn gắn kết sự tử đạo với sứ mạng truyền giáo?
Cách đây 2 năm trước, một nghiên cứu về tự do tôn giáo đã được công bố. Một thực tế hiển nhiên là: ở những quốc gia có sự đe dọa và đàn áp, số lượng những người được rửa tội lại gia tăng.
Nơi nào có thể có sự tử đạo thực sự, nơi đó đức tin sẽ lan tỏa. Thậm chí ngay cả những người không phải là người có đức tin cũng tự hỏi: ‘Sức mạnh này – điều khiến họ hiến dâng cả mạng sống của mình – đến từ đâu?’. Chính Tin Mừng đang hành động.
Và mục đích của chúng tôi, cũng như của Bộ Loan báo Tin Mừng, là giúp đỡ các Giáo hội địa phương, chứ không phải áp đặt một tư duy hay một nền văn hóa khác với họ.
Các lãnh đạo Hồi giáo ở Indonesia cho rằng cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha vào tháng 9 tới, sẽ là cột mốc trong việc xây dựng lòng tin lẫn nhau giữa các tín đồ Hồi giáo và Kitô hữu, và sẽ làm cho quốc gia có đông người Hồi giáo nhất thế giới trở thành một quốc gia tốt đẹp hơn.
Học giả Hồi giáo Budhy Munawar Rachman nói ông tin vào điều này vì các thông điệp của Đức Thánh Cha có liên quan đến toàn thể nhân loại, bao gồm cả người Hồi giáo. Ông đặc biệt có ấn tượng với hai văn kiện của Đức Thánh Cha: Laudato si’, thông điệp về môi trường được công bố trong năm 2015, và Fratelli tutti, thông điệp công bố trong năm 2020, về tính nhân văn và mối quan hệ giữa con người. Theo học giả Hồi giáo, hai văn kiện này cần phải được nghiên cứu để hiểu sâu hơn về khủng hoảng môi trường và quan hệ giữa con người.
Là người thúc đẩy đối thoại liên tôn, ông Rachman nói: "Tôi đang tham gia các lớp học đặc biệt để nghiên cứu sâu hơn về hai thông điệp này, như các lớp học do Phong trào Laudato si’ khởi xướng. Laudato si’ không chỉ nói về cuộc khủng hoảng sinh thái mà còn nói về một khía cạnh cơ bản hơn, cụ thể là cuộc khủng hoảng xã hội mà thế giới ngày nay phải quan tâm".
Ông nói thêm, mặt khác, Fratelli tutti có ý nghĩa quan trọng đối với người Hồi giáo vì văn kiện xuất hiện sau cuộc gặp lịch sử năm 2019 giữa Đức Thánh Cha Phanxicô với Đại Iman Đền thờ Hồi giáo Al Azhar ở Cairo. Cuộc gặp gỡ đã đưa ra "Tuyên ngôn về tình huynh đệ nhân loại vì hòa bình thế giới và sự sống chung", nhấn mạnh "một nền văn hóa tôn trọng lẫn nhau" cho phép các tôn giáo chung sống hòa bình. Điều này mang tính biểu tượng cao, có nghĩa là đang có nỗ lực thực hiện một phong trào chung để khắc phục các vấn đề trong đời sống tôn giáo, điều cũng có ở Indonesia.
Như thế, cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha có ý nghĩa thần học quan trọng đối với quan hệ Hồi giáo-Công giáo, vì Đức Thánh Cha đang đến thăm quốc gia có đông người Hồi giáo nhất thế giới. Chuyến thăm này sẽ giúp người Hồi giáo chú ý hơn đến các vấn đề mà Đức Thánh Cha ưu tiên.
Điểm nhấn của cuộc viếng thăm là cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với các nhà lãnh đạo tôn giáo vào ngày 05/9 tại đền thờ Hồi giáo Istiqlal – đền thờ Hồi giáo lớn nhất Đông Nam Á – đối diện với nhà thờ Công giáo ở Jakarta .
Bộ trưởng Bộ Tôn giáo Yaqut Cholil Qoumas, người đã gặp Đức Thánh Cha tại Vatican vào tháng 6/2022 cho biết, chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ làm nổi bật mối quan hệ hòa bình và hài hòa giữa các tôn giáo tại Indonesia.
Trong một tuyên bố gần đây, ông Qoumas, người chính thức mời Đức Thánh Cha viếng thăm Indonesia, cho biết: "Cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể truyền cảm hứng cho tất cả các bên rằng mọi tôn giáo đều dạy về lòng trắc ẩn".
Ông khẳng định Đức Thánh Cha "là biểu tượng của tình hữu nghị và đối thoại liên tôn". Bộ trưởng cũng nhìn nhận sự gia tăng thái độ bất khoan dung ở nhiều vùng của đất nước và cho rằng điều này thách đố sự hòa hợp giữa các tôn giáo. Do đó, trong những năm gần đây, ông đã ủng hộ các chính sách hỗ trợ các nhóm thiểu số, một điều trước đây bị bỏ qua.
Grand Imam of the Istiqlal Mosque Nasaruddin Umar
Hãng Công giáo Ucan, truyền đi ngày 28 tháng Tám vừa rồi, đưa tin trong một cuộc thảo luận được tổ chức tại Bộ truyền thông, hôm 26 tháng Tám trước đó, Đại Imam của Đền thờ Hồi giáo Istiqlal ở thủ đô Jakarta là ông Nasaruddin Umar, cho biết Văn kiện sẽ nói về các vấn đề “nhân đạo, tinh thần bao dung và môi trường”. Việc soạn văn kiện này sẽ được hoàn tất trong vài ngày tới đây và Đức Thánh cha sẽ ký với Đại Imam trong cuộc viếng thăm Đền thờ Hồi giáo lớn nhất tại Đông nam Á, vào ngày 05 tháng Chín sắp tới.
Ông Umar nói: “Đền thờ Istiqlal sẽ chứng kiến biến cố lịch sử này, khi thế giới có thể thấy sự bao dung và hòa hợp được duy trì tại Indonesia”.
Đền thờ Hồi giáo này tọa lạc đối diện với Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời. Hai nơi thờ phượng được nối với nhau bằng một hành lang thân hữu.
Cha Thomas Ulun Ismoyo, Phát ngôn viên của Ủy ban chuẩn bị cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha, thuộc Hội đồng Giám mục Indonesia, cho biết khoảng 150 vị lãnh đạo tôn giáo đã tham dự cuộc gặp gỡ tại Bộ truyền thông. Vì văn kiện được đề nghị có liên hệ tới “tín ngưỡng và nhân loại” nên chúng tôi ủng hộ kết hoạch ký kết. Khi các vị lãnh đạo tôn giáo có ảnh hưởng đoàn kết, thì sẽ có lợi cho công ích của xã hội.
Indonesia có khoảng 270 triệu dân cư, và là nước đông nhất về số tín hữu Hồi giáo. Nước này có khoảng 24 triệu tín hữu Kitô, trong đó có 7 triệu là tín hữu Công giáo. Quốc gia này có 17.508 hải đảo và có hơn 360 bộ tộc. Mặc dù chỉ số hồi năm 2023 của chính phủ cho thấy mức độ hòa hợp liên tôn ở mức độ cao với 76,12% nhưng các nhóm bênh vực nhân quyền nói rằng sự bất bao dung về tôn giáo vẫn tiếp tục là điều được quan tâm.
Quyết định của chính phủ Úc là một phần của hiệp ước quốc phòng được Úc và Papua New Guinea ký kết vào cuối năm ngoái. Một phần của hiệp ước nhằm hiện đại hóa năng lực của Papua New Guinea trong khi Lực lượng Phòng vệ của Úc cũng chịu trách nhiệm cung cấp viện trợ sau một trận lở đất gây chết người tại Papua New Guinea hồi tháng 5.
Viếng thăm vùng ngoại vi
Thị trấn Vanimo nằm ở tỉnh Sepik cực tây bắc của Papua New Guinea. Trong chương trình viếng thăm nước này, vào trưa ngày 8/9, Đức Thánh Cha sẽ đến thăm giáo phận Vanimo. Tại đó ngài sẽ gặp các tín hữu của giáo phận Vanimo và gặp gỡ các nhà truyền giáo địa phương. Sau đó ngài sẽ trở về Port Moresby trong cùng ngày.
Chuyến thăm Vanimo quan trọng bởi vì Đức Thánh Cha mong muốn bao gồm các vùng ngoại vi của Giáo hội.
Đức Cha Francis Meli, Giám mục của Vanimo lưu ý rằng “vùng ngoại vi là vùng xa nhất” và nói thêm rằng nó xa đến mức không có khả năng một giáo hoàng sẽ đến thăm khu vực này một lần nữa.
Vào năm 2019 Đức Thánh Cha đã gặp một nhóm giáo dân từ Vanimo và họ đã hát thánh ca Papua New Guinea cho ngài nghe, và từ đó dẫn đến lời mời ngài đến thăm Vanimo như một phần trong sự dấn thân của ngài đối với các vùng ngoại vi. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 đã khiến chuyến đi bị hoãn lại.
Cha Martin Prado, một nhà truyền giáo Dòng Ngôi Lời Nhập thể ở Argentina, đã dẫn đầu phái đoàn và đã kết bạn với Đức Thánh Cha kể từ đó. Cha kể: “Lúc đó ngài nói với tôi rằng, ‘Tôi có thể đến thăm cha’... Bây giờ, mặc dù đã lớn tuổi, ngài vẫn muốn đến Papua New Guinea và truyền tải thông điệp về tình yêu và đức tin đến người dân của chúng tôi”
Timor-Leste President José Ramos Horta (left) is seen with Pope Francis at the Vatican in January this year.
Tổng thống Horta nói: “Nói chung, người Timor chúng tôi làm việc tốt dưới sức ép. Khi không có áp lực, khi còn một hay hai năm, thì dân Timor đợi, chứ không bắt đầu ngay”. Ông thú nhận là có những khó khăn trong việc bảo đảm những điều kiện cơ bản cho khoảng 700.000 người Đông Timor và những người từ nước khác đến thủ đô Dili để gặp Đức Giáo hoàng. “Chính phủ đang chuẩn bị, trang bị, để cung cấp nước cho dân chúng. Hệ thống vệ sinh và lương thực cũng là vấn đề. Chính phủ không từ nan cố gắng và tiền bạc để chuẩn bị. Và người ta thấy các cơ cấu hạ tầng được chuẩn bị tốt. Toán chuyên gia của Vatican có ấn tượng mạnh vì sự động viên của người Đông Timor”.
Toán chuyên gia kỹ thuật của Vatican đã đến thủ đô Dili hôm 24 tháng Tám vừa qua để thẩm định việc chuẩn bị đã được thực hiện.
Cha Marco Sprizzi, thuộc Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Đông Timor nói với hãng tin Lusa, hôm 25 tháng Tám vừa qua rằng: “Tôi có thể xác nhận Đông Timor là một trong những nước được chuẩn bị tốt nhất để chào đón Đức Thánh cha. Tuy vẫn còn một số chi tiết nhỏ còn thiếu, nhưng nói chung công việc của chính phủ và Giáo hội tiến hành tốt. Đức Giáo hoàng đến vì dân Đông Timor và chúng tôi hy vọng cũng như chắc chắn rằng người Đông Timor sẽ đáp lại”.
Cha Sprizzi cũng bày tỏ hy vọng dân Timor sẽ vui mừng, hăng hái và đầy năng động đến Tasi-Tolu để gặp Đức Thánh cha.
Tasi-Tolu, có nghĩa là “ba mặt nước”. Đây là một khu vực được bảo vệ ở miền duyên hải phía đông của Đông Timor, cách thủ đô Dili tám cây số. Vùng này có ba hồ muối, một cánh đồng rộng lớn, một bãi biển. Các tín hữu từ các nơi dự kiến sẽ đến Dili vào ngày 08 và 09 tháng Chín, những người ở Dili được khuyến khích đi bộ đến Tasi-Dolu để tránh bị kẹt xe. Theo ban tổ chức, có khoảng 700.000 người tham dự thánh lễ tại khu vực này, tức là quá một nửa dân số Đông Timor.
Đông Timor nguyên là thuộc địa của Bồ Đào Nha và được độc lập năm 2002, sau những thập niên tranh đấu đẫm máu, chống lại việc Indonesia chiếm lãnh thổ này từ năm 1975 và biến thành tỉnh thứ 27 của mình, sau khi Bồ Đào Nha rút khỏi nơi đây.
Dân số Đông Timor hiện có một triệu 300.000 người, trong đó khoảng 42% sống dưới mức nghèo đói và bất an về lương thực, theo Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP), mặc dù nước này hiện có nhiều tài nguyên, chẳng hạn như là dầu khí. Các tổ chức từ thiện nói rằng nạn mù chữ, và thiếu thốn về săn sóc sức khỏe, thiếu công ăn việc làm là những thách đố lớn của đất nước Timor.
Chính phủ Đông Timor đã dành 12 triệu Mỹ kim để tài trợ cho cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha, trong đó có một triệu Mỹ kim được dành cho việc thiết lập bàn thờ, nơi ngài cử hành thánh lễ.
Khi Đức Gioan-Phaolô II đến Đông Timor năm 1989, đó là lúc Đông Timor nổi dậy đòi độc lập. Đức Gioan-Phaolô II thường có thói quen hôn đất khi xuống máy bay, nhưng lần này hôn đất có nghĩa chấp nhận sự chiếm đóng của Indonesia. Ngài vẫn đứng, và đất được đưa lên gần môi để ngài hôn.
Thái độ của ngài cho thấy lập trường của Giáo hội trước những đòi hỏi độc lập của Đông Timor, một đất nước có khoảng 1,4 triệu dân và nằm ở khu vực phía đông nam của quần đảo Indonesia, trong số này 98% là người Công giáo.
Đạo công giáo đã theo các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đến Đông Timor thế kỷ 16 vì Đông Timor là thuộc địa của Bồ Đào Nha trong bốn thế kỷ, ngoại trừ một thời gian ngắn trong Thế chiến thứ hai Đông Timor bị Nhật chiếm đóng. Tiếng Bồ Đào Nha là ngôn ngữ chính của đất nước, cùng với tiếng Tetum, ngôn ngữ ở Nam Bán Đảo.
Ngày 28 tháng 11 năm 1975, Đông Timor độc lập. Chín ngày sau khi tuyên bố độc lập, Đông Timor bị Indonesia xâm chiếm và xung đột kéo dài hàng thập kỷ giữa những người theo chủ nghĩa độc lập và quân đội Indonesia. Một cuộc xung đột đã tạo những mất mát và nhiều người dân bị mất tích, cuộc tàn sát vẫn còn là một phần ký ức chung.
Khi cuộc nội chiến bắt đầu, chỉ có 20% dân theo đạo công giáo. Nhưng Giáo hội nhanh chóng trở thành điểm tham chiếu vì Giáo hội viện trợ và hỗ trợ tinh thần, các giáo sĩ công giáo tố cáo các vi phạm nhân quyền, trong một số trường hợp Giáo hội còn giúp những người đấu tranh giành độc lập.
Vì vậy năm 1989 Đức Gioan-Phaolô II đến thăm trong bầu khí căng thẳng, thánh lễ ngài cử hành cũng không thoát bạo lực, nhiều người biểu tình ném ghế và cảnh sát Indonesia cầm gậy can thiệp.
Năm 1991 mọi chuyện còn xấu hơn, khoảng 250 thường dân không có vũ khí đã bị lực lượng an ninh Indonesia giết chết trong một đám tang tại nghĩa trang Santa Cruz ở Dili. Tất cả vẫn không thay đổi sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1999 do Liên Hiệp Quốc giám sát, người dân bỏ phiếu đòi độc lập, những người phản đối bị đàn áp, 1.400 người bị giết gồm cả các linh mục và nữ tu.
Khoảng hai phần ba dân số sống ở những ngôi làng nhỏ, biệt lập về mặt địa lý. Một nửa đất nước sống trong tình trạng nghèo cùng cực (dưới 1,90 đôla một ngày) và một nửa trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng.
Dù gặp khó khăn, người dân vẫn giữ vững đức tin. Không giống các quốc gia khác, chủng viện bị đóng cửa vì không có chủng sinh, Đông Timor có hàng trăm chủng sinh có thể bị từ chối vì thiếu cơ sở vật chất.
Giáo hội Công giáo Singapore trước cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha
Vài nét về Singapore
Singapore có diện tích chỉ 683 km2, với dân số khoảng 6 triệu, gồm các sắc tộc chính là Trung Hoa, Malaysia và Ấn Độ, sử dụng các ngôn ngữ Anh, Malaysia, Trung Quốc và Tamil. Khoảng 33% dân số Singapore theo Phật giáo, 18% theo Kitô giáo, trong đó có 3,5% là Công giáo, 15% theo Hồi giáo, 11% theo Đạo giáo, 5% theo Ấn giáo và các tôn giáo khác chiếm 17% dân số.
Singapore được Quốc vương Johor nhượng lại cho Công ty Đông Ấn của Anh vào năm 1819. Năm 1942, Singapore rơi vào tay người Nhật cho đến năm 1945. Năm 1959 Singapore giành được quyền tự trị trong Khối thịnh vượng chung và trở thành một phần của Liên bang Malaysia. Nhưng đến năm 1965 Singapore đã rời Liên bang và được thành lập như là một nước Cộng hòa liên kết với Khối thịnh vượng chung.
Singapore có nền kinh tế hiện đại phát triển. Các ngành công nghiệp được phát triển chủ yếu trong các lĩnh vực cơ khí (nhà máy đóng tàu), hóa chất, hóa dầu, điện tử, dược phẩm và công nghệ sinh học. Ngoài thương mại, hoạt động tài chính ngân hàng cũng có tầm quan trọng rất lớn. Singapore cũng là một địa điểm du lịch quan trọng và là trung tâm hội nghị chính của châu Á.
Khởi đầu của Giáo hội Singapore
Công cuộc loan báo Tin Mừng tại Singapore bắt đầu từ thế kỷ XVI, khi một số nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, được tiếp nối bởi thánh Phanxicô Xaviê, đến quần đảo Mã Lai, nhưng bị gián đoạn sau khi người Hà Lan theo Tin Lành Calvin đến Singapore. Họ đã cấm việc thờ phượng Công giáo, các hoạt động truyền giáo bị hạn chế, trong khi các giám mục của giáo phận Malacca khi đó bị buộc phải cư trú bên ngoài lãnh thổ. Năm 1819, sau khi Công ty Đông Ấn của Anh mua đảo Singapore, Giáo hội quay trở lại Singapore, nhờ hoạt động của Hội Thừa sai Paris và đặc biệt là của thánh Laurent Marie Joseph Imbert (1796-1839), một linh mục người Pháp, thành viên của Hội Thừa sai Paris, người được xem là linh mục Công giáo đã cử hành Thánh lễ đầu tiên tại đảo quốc này sau khi đặt chân lên bờ biển Singapore vào ngày 11/12/1821.
Được ủy thác cho Hội Thừa sai Paris, vào năm 1841 Singapore được Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI nâng thành giáo phận Đại diện Tông tòa Malacca-Singapore, và trở thành một tổng giáo phận tách khỏi Malacca vào năm 1972. Đến năm 1977, Đức Cha Gregory Yong trở thành Tổng giám mục tiên khởi của Singapore. Trong hai thế kỷ qua, dân số Công giáo đã gia tăng đáng kể. Hiện nay Đức Hồng y William Goh là Giám mục của Tổng giáo phận.
Vào ngày 24/6/1981, quan hệ ngoại giao được thiết lập giữa Cộng hòa Singapore và Tòa Thánh. Vào ngày 20/11/1986 Đức Gioan Phaolô II viếng thăm Singapore, trong chuyến tông du quốc tế lần thứ 32, khi ngài cùng thăm các quốc gia khác là Bangladesh, Fiji và New Zealand.
Một Giáo hội năng động và tăng trưởng
Giáo hội Singapore có 1 Hồng y và 2 Giám mục, 156 linh mục, 33 nam tu sĩ và 156 nữ tu. Với khoảng 176.000 tín hữu thuộc 32 giáo xứ, Giáo hội Công giáo ở Singapore là một trong những Giáo hội năng động và quan trọng nhất ở Đông Nam Á, bất chấp một xã hội ngày càng bị lôi cuốn bởi lối sống vật chất. Trên thực tế, dữ liệu gần đây nhất từ Văn phòng Thống kê Singapore cho thấy rằng Ki-tô giáo, đặc biệt là Công giáo, là tôn giáo duy nhất đang phát triển ở quốc đảo này. Một sức sống được khẳng định qua sự hiện diện tích cực của Giáo hội trong lĩnh vực xã hội cũng như bởi đông đảo tín hữu tham dự các cử hành phụng vụ. Tương quan giữa Giáo hội với Nhà nước rất tốt cũng nhờ vào đặc tính đa tôn giáo của xã hội Singapore.
Tín hữu Công giáo ở Singapore đã có những đóng góp và xây dựng cho Singapore. Giáo hội điều hành 57 cơ sở giáo dục với hơn 65 ngàn sinh viên học sinh, 33 trung tâm bác ái và xã hội.
Trong dịp Giáo hội Singapore kỷ niệm 200 năm đón nhận Phúc Âm, Thủ tướng Lý Hiển Long, một Phật tử, đã đánh giá cao về đóng góp của Giáo hội Công giáo cho Singapore trong hơn hai thế kỷ, thông qua giáo dục, chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội. Ông nói thêm: “Trong xã hội đa tôn giáo của chúng ta, người Công giáo phát triển mạnh và cùng tồn tại hài hòa với các tôn giáo khác”.
Phát triển "nội bộ"
Giáo hội Singapore đã phát triển “nội bộ”, với các văn phòng tổng giáo phận và các phong trào mới. Một số văn phòng mới đã được thêm vào và một số được mở rộng, ví dụ như Văn phòng thu hút sự tham gia của những người trẻ, đặc biệt là những người trong các trường cao đẳng, đại học và người lớn đang đi làm. Ủy ban Gia đình với 11 chi nhánh đã được tái thiết, và hiện phục vụ những người đã đính hôn, kết hôn, mục vụ cho những người ly hôn và những người có vợ hay chồng đã qua đời.
Với việc thành lập Hội đồng mới của các Hiệu trưởng trong các trường Công giáo, Ủy ban Tổng giáo phận về các trường Công giáo (ACCS) đã hoạt động rất tích cực. Tổng giáo phận cũng đã tăng cường phương tiện truyền thông kỹ thuật số, Đài phát thanh Công giáo và Tin tức Công giáo. Các phong trào mới đã bắt đầu như Trung tâm Lãnh đạo Công giáo, Hiệp hội Kiến trúc Công giáo, Hiệp hội Công nhân Xã hội Công giáo và những tổ chức khác.
Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha đến Singapore sẽ diễn ra trùng với dịp kết thúc 10 năm kế hoạch mục vụ được Đức Hồng y Goh vạch ra cho Giáo hội Công giáo ở Singapore.
Để giúp người Công giáo Singapore chuẩn bị về phần thiêng liêng để “gặp gỡ Chúa Giêsu qua chuyến viếng thăm mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô”, Tổng Giáo phận Singapore đã ra mắt một trang web gồm các kinh nguyện, các nguồn tài liệu trực tuyến và các cập nhật khác về cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha vào tháng 9.
Đức cha Jan Hendriks, Giám mục Giáo phận Haarlem-Amsterdam
Đức cha Hendriks năm nay 70 tuổi (1954), vốn là một chuyên gia giáo luật, Giám đốc Đại chủng viện Giáo phận Haarlem-Amsterdam, và từ 13 năm nay làm giám mục giáo phận này. Từ hai năm nay, ngài cũng là cố vấn Bộ Giáo sĩ.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Công giáo Die Tagespost, xuất bản ngày 23 tháng Tám vừa qua, ở thành phố Wuerzburg bên Đức, ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây và trình bày tình hình cũng như kinh nghiệm của Giáo hội tại Hòa Lan, nhất là Công đồng Mục vụ của Giáo hội này, tiến hành từ năm 1966 đến 1970, ít lâu sau Công đồng chung Vatican II. Đức cha nói:
“Công đồng Mục vụ cũng có cùng những ý tưởng như Con đường Công nghị của Công giáo Đức hiện nay. Ví dụ, tranh đấu cho linh mục kết hôn và chấp nhận các hoạt động tính dục ngoài hôn nhân. Công đồng tại Hòa Lan đã đưa tới nhiều chia rẽ và tục hóa.
Hiện nay, sáu mươi nhà thờ Công giáo trong Giáo phận Haarlem-Amsterdam phải đóng cửa vì lý do tài chánh, không còn giáo dân đóng góp bảo trì, và chính phủ Hòa Lan không tài trợ việc này, trừ khi nhà thờ đó là một di tích hoặc đền đài lịch sử. 60% dân Hòa Lan hiện nay không theo một tôn giáo nào.
Đức cha Hendricks cũng nhắc lại rằng câu trả lời của các giám mục Hòa Lan đối với trào lưu tục hóa trong xã hội là tục hóa chính Giáo hội, với Công đồng Mục vụ. Họ đã từ bỏ một số ý tưởng đức tin Công giáo để gọi là khỏi mất tiếp xúc với xã hội đời. Đó là một câu trả lời sai lầm và nó càng đẩy mạnh tiến trình tục hóa Giáo hội. Đức cha nhấn mạnh rằng: “Chúng ta không thể phát minh một đức tin mới. Giáo hội không thể thay đổi những gì mình đã tuyên dạy và tuyên tín, chẳng hạn, niềm tin theo đó, hôn nhân là khuôn khổ thích hợp cho tính dục.”
Tuy nhiên, Đức cha Hendriks cũng ghi nhận một dấu chỉ hy vọng đó là tại Hòa Lan, đang sa mạc về phương diện tôn giáo, ngày càng xuất hiện những người trẻ tìm đến đức tin. Đức cha nói: “Năm nay, chúng tôi có 250 người trẻ tìm đến đức tin Công giáo, trong đó cũng có một số người trẻ Hồi giáo. Và khuynh hướng này đang gia tăng”. Người trẻ đang trở về với căn cội đức tin. Còn những người già thì đang lấy lại những đề tài của Công đồng Mục vụ cách đây 60 năm. Có những người trẻ dấn thân cho tình thân hữu, những người trẻ dấn thân giúp đỡ người nghèo, những người quan tâm đến phụng vụ, thường là những phụng vụ theo hình thức cổ điển. Đức cha cũng kể rằng:
“Mới đây, tôi đã nói chuyện với một bà cụ trong giáo xứ chúng tôi. Bà ấy nói với tôi không thích thánh lễ được cử hành theo cách thức truyền thống trong tuần, nhưng cháu nội của bà thì nghĩ rằng phụng vụ thánh lễ này thật là tuyệt vời!”
Trong cuộc phỏng vấn, Đức cha Hendricks cho biết mở Tivi mỗi tối, chỉ cần lướt qua các đài, người ta thấy các đề tài thường được nói tới là các Drag queen, những người nam hóa trang thành nữ, những người nữ đồng tính luyến ái, hoặc đồng tính nam, lưỡng tính, đổi giống, LGBT+. Các lá cờ cầu vồng ngũ sắc nhan nhản trong thành phố. Có nhiều sức ép về vấn đề này, nhưng trong các cuộc bầu cử chính trị gần đây, đảng chống lại LGBT+ mạnh hơn các đảng khác.
Sau cùng, Đức cha Hendricks nhận định rằng trong Giáo hội, vấn đề đồng tính luyến ái đôi khi cũng giữ một vai trò nào đó, tuy là ở bên lề. Thỉnh thoảng có những vụ được nói tới. Ví dụ, mới đây một người dấn thân tích cực trong phong trào đồng tính luyến ái muốn trở thành linh mục.
Trong thư đề ngày 22 tháng Tám vừa qua, với sự phê chuẩn của Đức Thánh cha Phanxicô và gửi đến Đức cha José Rodríguez Carballo, Tổng giám mục sở tại, Đức Hồng y Victor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin đề cao những khía cạnh tích cực trong lòng sùng mộ tốt đẹp, kể cả những cuộc hoán cải, lành bệnh, và những dấu chỉ hữu hình khác về hoạt động của Chúa Thánh Linh nơi các tín hữu đến hành hương tại Đền thánh này. Thư nêu nhận xét rằng Đền thánh có thể tiếp tục cống hiến cho các tín hữu muốn đến đây, một chỗ an bình nội tâm, sự an ủi và hoán cải.
Lòng sùng kính Đức Mẹ Sầu bi ở Chandavila bắt nguồn từ nhiều cuộc gọi là hiện ra của Đức Mẹ với hai trẻ nữ người Tây Ban Nha, tên là Marcelina Barroso Exposito 10 tuổi và Afra Brígido Blanco, 17 tuổi, ít lâu trước khi kết thúc Thế chiến thứ hai, hồi năm 1945.
Thư của Bộ Giáo lý đức tin nhận xét rằng sau những cuộc hiện ra ấy, hai trẻ nữ sống một cuộc sống kín đáo và không phô trương. Cả hai hiến thân hoạt động bác ái, đặc biệt săn sóc người bệnh, người già và cô nhi, qua đó thông truyền cho những người sầu khổ ơn an ủi dịu dàng, do tình thương của Đức Trinh Nữ mà chính họ đã cảm nghiệm. Vì thế, không có gì có thể ngăn cản lòng sùng mộ tốt đẹp này.
Theo qui luật, ban hành ngày 17 tháng Năm vừa rồi, về việc thẩm định các cuộc hiện ra và mạc khải tư, phán quyết “nihil obstat”, nghĩa là “không có gì ngăn trở”, không bày tỏ sự xác quyết chắc chắn về sự xác thực siêu nhiên của chính hiện tượng, nhưng có nhiều dấu hiệu chứng tỏ hoạt động của Chúa Thánh Linh, được nhìn nhận trong kinh nghiệm thiêng liêng nào đó và không có khía cạnh nào nguy hiểm hoặc rủi ro được phát hiện.
Đức Tổng giám mục José Carballo, nguyên là Bề trên Tổng quyền Dòng Phanxicô, trước khi được Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ các dòng tu trong 10 năm qua, rồi được thuyên chuyển về coi sóc Tổng giáo phận Badajoz, ở mạn tây nam Tây Ban Nha, gần biên giới Bồ Đào Nha.
Đức cha Thạch Hồng Trinh sinh năm 1929, thụ phong linh mục ngày 04/7/1954 và được tấn phong Giám mục phó Giáo phận Thiên Tân vào ngày 15/6/1982. Vào tháng 6/2019, ngài kế nhiệm Đức cha Stêphanô Lý Tư Đức (Li Side), Giám mục Thiên tân.
Giáo phận Thiên Tân có khoảng 56.000 tín hữu, phân bố ở 21 giáo xứ, được phục vụ bởi 62 linh mục và một số nữ tu.
Ngày 27/8, Phòng báo chí Toà Thánh đưa thông cáo bày tỏ sự hài lòng khi biết Đức cha Mêchiô Thạch Hồng Trinh, 95 tuổi, chính thức được công nhận theo dân luật là Giám mục Giáo phận Thiên Tân.
Thông cáo viết: “Biện pháp này tạo thành một thành quả tích cực của cuộc đối thoại được thiết lập trong nhiều năm qua giữa Toà Thánh và chính phủ Trung Quốc”.
Theo ý muốn của Đức cha Mêchiô, buổi lễ “nhậm chức” diễn ra tại một khách sạn. Ngài muốn nhấn mạnh tính chất dân sự của buổi lễ, vì theo giáo luật, ngài đã là Giám mục của Thiên Tân. Hơn nữa, Đức cha bày tỏ ý định tiếp tục sống tại nhà thờ Zhongxin Qao nơi ngài hiện đang cư trú. Tất cả các dấu hiệu không phải là bước ngoặt, mà là sự tiếp nối những gì ngài đã đại diện trong suốt những năm qua cho cộng đoàn Công giáo Thiên Tân.
NIcaragua, folla a una cerimonia religiosa a León
Thực vậy, nhà nước Nicaragua vừa bãi bỏ khoản luật bảo đảm sự bảo vệ thuế khóa đối với các tổ chức tôn giáo: cụ thể là từ nay, tất cả các Giáo hội, bất luận thuộc hệ phái nào, đều phải chịu chế độ thuế khóa giống như các tổ chức kinh tế của tư nhân, hoạt động nhằm kiếm lợi nhuận. Như vậy, từ nay số tiền tín hữu làm phúc, dâng cúng cho Giáo hội đều phải chịu thuế, với tỷ lệ từ 10 tới 30%. Sự bãi bỏ chế độ miễn thuế này có thể có ảnh hưởng lớn trên khả năng tài trợ các sáng kiến và biến đổi các cơ cấu quản trị, vì phải kiếm và thu nhận thêm nhiều nhân viên trong việc tổ chức và điều hành, như các nhân viên kế toán có bằng cấp.
Các biện pháp trên đây của nhà nước Nicaragua kiểm soát chặt chẽ các hoạt động hiệp hội, kinh tế, gây quan tâm cho cộng đồng quốc tế. Đặc biệt, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về các quyền con người đã bày tỏ quan ngại về việc nhà nước Nicaragua đóng cửa hơn 1.500 tổ chức phi chính phủ, trong đó có ít nhất 700 tổ chức tôn giáo.
Đề cập đến các cuộc biểu tình gần đây của giới trẻ chống lại chính sách kinh tế của tổng thống Bola Tinubu, Đức cha Ugorji cho rằng sẽ có các cuộc biểu tình tiếp theo nếu chính phủ không có hành động đáp ứng kêu cầu của họ. Ngài nói: “Nếu đất nước vẫn còn nghèo đói, đau khổ và tham nhũng, và nếu tương lai của những người trẻ ở đất nước chúng ta vẫn còn ảm đạm, thì vẫn còn những cuộc biểu tình”.
Chủ tịch Hội đồng Giám mục phê bình phản ứng của chính phủ liên bang, và đặc biệt “một số quan chức chính phủ, những người thay vì đối phó với cái ác lại bận rộn với việc chối bỏ trách nhiệm và tìm kiếm ‘vật tế thần’”.
Ngài mạnh mẽ nói: “Thực vậy, chúng ta đang ngồi trên một quả bom hẹn giờ trong khi các nhân viên an ninh cố gắng đàn áp những người tham gia biểu tình và những người ủng hộ họ bằng những cáo buộc bịa đặt. Điều này làm dấy lên mối lo ngại rằng họ đang cố gắng tước bỏ các quyền dân chủ và tự do biểu tình của công dân hoặc tạo ấn tượng rằng mọi thứ trong nước đều ổn và thực sự không cần thiết phải biểu tình. Điều này là ảo tưởng và đáng lên án”.
Đức cha Ugorji kêu gọi tổng thống Tinubu xem xét lại các chính sách kinh tế của ông, đồng thời nhấn mạnh rằng hậu quả là người dân Nigeria đang phải gánh chịu hậu quả.
Phong trào phản kháng chính phủ đã tuyên bố kéo dài 10 ngày biểu tình và đình công trên khắp Nigeria từ ngày 01 đến ngày 10/8. Các cuộc biểu tình đã biến thành bạo lực do các phần tử côn đồ xâm nhập vào những người biểu tình ôn hòa và phản ứng tàn bạo của cảnh sát khiến ít nhất 20 người thiệt mạng, hơn một ngàn người bị bắt giữ. Bạo lực lớn nhất xảy ra ở các bang phía Bắc. Tại Kano, có khoảng 873 nghi phạm bị cảnh sát bắt giữ, những kẻ côn đồ cải trang thành người biểu tình đã tấn công và phá hoại các văn phòng chính phủ cũng như cướp bóc tài sản cá nhân.
Theo báo chí Nigeria, các cuộc biểu tình mới được lên kế hoạch vào tháng 10. Yêu cầu của các nhà lãnh đạo phong trào phản đối chính phủ không chỉ giới hạn ở việc kêu gọi khôi phục trợ cấp nhiên liệu, mà còn giải quyết tình trạng giá các nhu yếu phẩm cơ bản tăng theo cấp số nhân. Trong số các yêu cầu có việc tăng mức lương tối thiểu cho người lao động, cải cách lực lượng cảnh sát vốn bị coi là tham nhũng và bạo lực, và hệ thống tư pháp vốn bị coi là bất công và tham nhũng.
Báo L’Orient-Le-Jour, số ra ngày 28 tháng Tám vừa qua ở Beirut, đưa tin, trong bài giảng cuối tuần vừa qua, Đức Hồng y Rai nói rằng: Các tín hữu Maronite đã bị đẩy ra ngoài lề. Đất nước đã trải qua thời kỳ hoàng kim khi quyền bính nằm trong tay những người Maronit. Với việc gạt các tín hữu Moronit ra ngoài lề, thì sự đoàn kết đất nước bắt đầu lung lay.
Trong tư cách là Thượng phụ Giáo chủ Công giáo Maronite, Đức Hồng y là một tiếng nói chính trị quan trọng ở Liban. Theo hệ thống phân quyền ở Liban, từ khi nước này độc lập hồi năm 1943, giữa các khối tôn giáo tại nước này thì tổng thống Liban là một tín hữu Công giáo Maronite, thủ tướng là một tín hữu Hồi giáo Sunnit và chủ tịch Quốc hội là người Hồi giáo Shiite.
Hiệp định ký kết năm 1989 ở Taif, bên Syria chấm dứt cuộc nội chiến tại Liban, cũng xác nhận hệ thống phân quyền vừa nói, nhưng chuyển giao phần lớn quyền hành pháp từ tổng thống cho chính phủ, và điều này bị nhiều Kitô hữu coi là điều làm suy yếu vai trò của họ. Từ khi Tổng thống Michel Aoun về hưu hồi cuối tháng Mười năm 2022, cho đến nay Quốc hội Liban vẫn không bầu được vị tổng thống mới. Đức Hồng y Rai đã liên tục thúc giục các đảng phái chính trị tại Liban giải quyết tình trạng bế tắc này.
Các quan sát viên cho rằng những lời tuyên bố mới đây của Đức Hồng y Rai cũng là một lời phê bình lực lượng Hezbollah, và bày tỏ bất mãn vì chính sách thân Hồi giáo Shiite. Từ khi xảy ra các cuộc xung đột giữa các lực lượng Hezbollah với Israel, ngày 07 tháng Mười năm ngoái, Đức Hồng y Rai vẫn yêu cầu áp dụng nghị quyết số 1559 của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc về việc giải giáp các nhóm võ trang ở Liban.
Giáo sư William Marx, trường Collège de France nói trên báo Le Monde ngày 4 tháng 8: “Thư của Giáo hoàng về vai trò văn học trong việc đào tạo là sự kiện đáng kể với tất cả những ai yêu thích văn học.”
William Marx, giáo sư tại Collège de France, bày tỏ trong một chuyên mục trên tờ “Le Monde”. Các chuyên gia “đọc” như ông ông Bernard Pivot người Pháp hay bà Oprah Winfrey, người Mỹ thường nói: “Trong những ngày hè nhàm chán, trong cái nóng và trong cô độc của khu phố vắng vẻ, việc tìm một quyển sách hay để đọc giúp chúng ta tránh những lựa chọn vô bổ.” Nhưng “Thư bất thường của Đức Phanxicô về vai trò của văn học trong đào tạo” công bố trong mùa Thế vận gần như được ít người chú ý.
Nhưng tài liệu này là sự kiện đáng kể với những ai yêu thích văn học. Tài liệu được dùng để giải quyết vấn đề ơn gọi, nhưng phạm vi của nó vượt xa mục tiêu nan đầu là đào tạo linh mục. Các nhà lãnh đạo giáo dục, kể cả những người trong lĩnh vực giáo dục thế tục sẽ thấy có điều gì hữu ích ở đây để suy nghĩ. Tôi khuyên quý vị nên đọc thư này cho Bộ trưởng Bộ Giáo dục tương lai.
Việc Giáo hội quan tâm đến văn học không phải là chuyện mới. Chúng ta còn nhớ “Danh sách các sách cấm” được công bố sau Công đồng Trent (1545-1563) và chỉ bị bãi bỏ vào năm 1966: Stendhal, Victor Hugo, George Sand, Gustave Flaubert cùng làm việc này.
Đảo ngược quan điểm
Đức Phanxicô, trong một cử chỉ mà ngài thường làm, đã đảo ngược quan điểm truyền thống. Ngài cho rằng, viết, đọc những bài thơ hay và lãng mạn là nền tảng của mọi nền giáo dục. Văn học buộc chúng ta phải lắng nghe tiếng nói của người khác, giúp chúng ta khám phá các văn hóa khác, bước vào đời sống khác với văn hóa của mình, mời gọi “giải tập trung” và đồng cảm, sửa chữa những bất lực cảm xúc mà thế giới hiện đại phải chịu đựng, những giam cầm mà mỗi cá nhân sống trong bong bóng của họ.
Phim ảnh và các phương tiện nghe nhìn khác cũng giúp chúng ta thoát ra ngoài, nhưng văn học hoạt động với hiệu quả không thể so sánh được. Chúng ta có thể đọc bất cứ lúc nào không cần đến công nghệ. Đó là nghệ thuật dễ tiếp cận cho tất cả mọi người, vì đó là một nghệ thuật “nghèo nàn”, một thuật ngữ Đức Phanxicô không e dè dùng vì ngài quen… sống nghèo như Thánh Phanxicô Assisi.
Tác phẩm văn học được tạo nên từ ngôn từ, văn phong và biểu tượng, đòi hỏi người đọc phải đặt trí tưởng tượng, vận dụng khả năng sáng tạo và diễn tả của riêng mình vào. Việc rút tỉa những điều hay trong sách buộc tâm trí chúng ta phải phát triển sức mạnh của nó. Các phương tiện truyền thông khác thụ động hơn, nhưng đọc buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải tích cực.
Đây là những lập luận không có gì mới, chúng ta đã thấy ở Aristotle, Hegel, Valéry, Rilke, Cassirer và Eliot. Điều mới ở đây là được Giáo hoàng nhắc đến.
Năm 1999, trong Thư gởi các nghệ sĩ, Đức Gioan Phaolô II đã xin các nhà sáng tạo tìm sáng kiến của họ từ kitô giáo. Ngài nói phải tách lúa mì ra khỏi cỏ trấu, ngài phản đối loại vatican học phi tôn giáo.
Ca ngợi sự phức tạp về mặt đạo đức
Không có gì giống như vậy với Đức Phanxicô. Không phải ngài khuyên nên đọc những tác phẩm lớn, nhưng tất cả các tác phẩm văn học, không ngoại lệ, ngay cả khi nó có thể gây sốc và làm cho người tín hữu kinh ngạc. Là người thừa kế Thánh I-Nhã, Đức Phanxicô xem tiểu thuyết như “bài tập linh thao” đánh thức ý thức đạo đức của người đọc. Cảm xúc tiêu cực cũng là dấu hiệu cho thấy đầu óc đang hành động.
Văn học là “phòng tập thể dục của phân định”. Tốt hơn triết học và các bài phân tích, văn học dạy chúng ta nhận biết “sự vô ích và việc không thể giảm thiểu bí ẩn của thế giới và của con người thành cực đối nghịch đúng-sai, công bằng hay không công bằng”.
Dưới ngòi bút của ngài, những lời này rất mạnh, thậm chí mang tính cách mạng, đi ngược với truyền thống kiểm duyệt của Giáo hội, nhưng còn đáng ngạc nhiên hơn là chống lại hệ thống thẩm tra hiện đại trong khuôn viên nhà trường dưới danh nghĩa chính trị và hệ tư tưởng. Tuy nhiên, lời khen ngợi về sự phức tạp về mặt đạo đức của văn học chỉ là quay trở lại với nguồn gốc của thần học công giáo: với Basile de Césarée, người khuyến khích giáo dân đọc văn học ngoại giáo, với Thánh Tôma Aquinô, người thấy trong ẩn dụ thơ ca cách duy nhất để diễn tả sự vô hạn của thần thánh.
Ngược với mọi mong chờ, ngài không trích dẫn những tác giả ưu tú của văn học công giáo như Dante, Hopkins hay Bernanos, nhưng ngài trích dẫn Proust, Celan và Borges, các tác giả ngài đã biết ở Argentina. Một kinh ngạc thực sự khi ngài chỉ trích văn sĩ Pháp Cocteau đã bôi nhọ nghệ thuật văn học nhân danh đức tin. Như thể tôn giáo của văn học đã đi về Rôma! Chúng ta có thể tin hơn ở Đức Phanxicô về sức mạnh của văn chương, trong đó ngài thừa nhận “nhiệm vụ hàng đầu được Thiên Chúa giao phó cho con người là “đặt tên” cho các sinh vật và sự vật đó sao?
Khi bức thư gởi đi, các giám mục đã phản đối một đoạn về lễ khai mạc Thế vận hội Olympic bị hiểu sai là một đoạn nhái lại Bữa Tiệc Ly. Họ khó có thể đi xa hơn đỉnh cao tinh thần và trí tuệ mà Đức Phanxicô đã vươn tới. Chúng tôi mơ các nhà lãnh đạo tôn giáo khác sẽ có thể tìm được nguồn cảm hứng từ món quà đặc biệt về trí thông minh và sự cởi mở với mọi thụ tạo. Thi sĩ Apollinaire đã nói điều này năm 1913: “Người châu Âu hiện đại nhất là Đức Piô X.” Chỉ có một cái tên cần thay đổi.
William Marx là giáo sư tại Collège de France, chủ tịch môn Văn học so sánh. Quyển sách mới nhất của ông: “Mùa hè với Don Quixote”, nxb. Ecuador
Đây là một sự giúp đỡ bé nhỏ dành cho những ai đang cảm thấy không thoải mái khi đến bãi biển.
Một trong những điều tuyệt vời mỗi khi hè về là sự hấp dẫn của hồ bơi hay bãi biển. Mặc dù đây là cơ hội tuyệt vời để tận hưởng niềm vui cùng gia đình, nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng nếu bạn cảm thấy hơi (hoặc rất) tự ti về cơ thể của mình.
Tâm điểm phê bình về cơ thể chắc chắn đã trở nên trầm trọng hơn trong những năm gần đây do những hình ảnh liên tục về cái gọi là “sự hoàn hảo” được chia sẻ trên mạng xã hội. Đối với một số người, nếu họ cảm thấy mình không hoàn hảo trên Instagram, họ sẽ tránh ra ngoài để tận hưởng cuộc sống.
May mắn thay, chúng ta luôn có sự trợ giúp để biết nhìn sự việc theo một cách tích cực hơn. Những câu Kinh Thánh sau đây mang lại sự an tâm và nhắc nhở chúng ta về giá trị và vẻ đẹp vốn có của bản thân khi nhìn bằng con mắt của đức tin, mang lại sự thoải mái và sự khích lệ khi đối diện với những lo lắng về hình ảnh cơ thể.
“Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi” (Thánh vịnh 139-14)
“Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (1 Côrintô 6, 19-20)
Biết rằng cơ thể chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần có thể khuyến khích chúng ta đối xử với bản thân với sự tôn trọng và sự ân cần. Quan điểm này có thể giúp chuyển sự chú ý từ chỉ trích sang lòng biết ơn và coi trọng cơ thể của chúng ta.
“Nhưng ĐỨC CHÚA phán với ông Sa-mu-en: Ðừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” (1 Sa-mu-en 16,7)
Đoạn Kinh Thánh trên dạy chúng ta rằng Thiên Chúa đánh giá cao phẩm chất bên trong của chúng ta hơn vẻ bề ngoài. Lúc cảm thấy tự ti, thật an ủi khi nhớ rằng giá trị thực sự của chúng ta nằm ở trái tim và nhân cách.
“Bạn tình ơi, toàn thân nàng xinh đẹp, nơi nàng chẳng một chút vết nhơ.” ( Diễm ca 4,7)
Câu thơ tình này có thể được xem như là sự phản chiếu cách Chúa nhìn chúng ta. Việc chấp nhận ý tưởng rằng chúng ta được nhìn nhận là chẳng có một chút vết nhơ và xinh đẹp trong mắt Chúa có thể giúp chống lại cảm giác thiếu tự tin về cơ thể của chúng ta.
Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. (Phi-líp-phê 4,8)
Tập trung vào những suy nghĩ tích cực và mang tính nâng đỡ có thể thay đổi tư duy của chúng ta. Khi cảm thấy tự ti, chuyển hướng suy nghĩ sang những điều đáng yêu và đáng khen ngợi có thể giúp chúng ta phát triển một cái nhìn tích cực và trân trọng hơn về bản thân mình.
Nguồn: Aleteia
Tác giả: Cerith Gardiner
Cách thức: Chúa dùng lời nói và hành động: Ngài không chỉ phán một lời, mà còn chạm vào tai và lưỡi anh! Có người thắc mắc: tại sao phải chạm, lời Chúa phán chưa đủ quyền năng và sự chữa lành sao? Hay Chúa có ý dạy ta điều gì qua sự đụng chạm này? Sau đây là một vài suy tư về cái chạm của Chúa, cũng như quá trình mà Ngài đã thực hiện để chữa lành một con người.
Đầu tiên là cái chạm của Chúa. Có ba lý do Chúa chạm vào người câm điếc
Lý do thứ nhất, Chúa chạm vì Ngài muốn như vậy!
Ngài muốn dùng ngôn ngữ thường ngày của anh mà giao tiếp với anh. Đối với những anh chị em khiếm thị, thì một trong những phương cách chính yếu để nhận dạng đồ vật là thông qua xúc giác. Họ chạm vào chữ hay hình nổi để diễn giải thông tin được viết hay vẽ ra và cảm nhận ý nghĩa của những điều ngón tay mình lướt trên đó. Cái chạm của Chúa là cách giao tiếp quen thuộc dành cho anh, điều này giúp Ngài đi vào thế giới của anh một cách bình thường, và không làm anh khó chịu khi bị đụng chạm bởi một người xa lạ.
Lý do thứ hai, chạm để đón nhận và chấp nhận.
Người câm điếc trong bài Tin Mừng hôm nay nhận được hai sự đụng chạm. Một là từ những người tốt bụng đã dẫn anh đến gặp Chúa Giêsu. Những người này không chỉ nắm lấy tay anh giữa tăm tối cuộc đời, nhưng còn nói thay cho anh: Thánh Maccô nói rõ: họ nài xin Chúa đặt tay trên anh! Chúa biết rõ tình trạng của anh. Ngài đi vào vào thế giới nơi anh đang là, đang cảm nhận: câm điếc giữa đám đông thời đó thật kinh khủng và không được nhiều sự trợ giúp như bây giờ. Chúa đã thở dài như thấu hiểu nỗi khổ của anh. Ngài đưa tay chạm vào tai và lưỡi anh. Tuy sự đụng chạm thứ hai này mới đem đến cho anh sự chữa lành hoàn toàn, nhưng có lẽ, sự đụng chạm thứ nhất đã cho anh một kinh nghiệm cá nhân khi cảm nhận được sự ấm áp của tình đồng loại, ngôn ngữ yêu thương tuy anh không được nghe, nhưng đã len lỏi vào tâm hồn anh niềm vui được đón nhận.
Và lý do sau cùng đó là sức mạnh của sự đụng chạm.
Khi được ai đó đụng chạm, ta sẽ cảm nhận được nguồn năng lượng từ nơi họ:
Là an ủi cảm thông, hay tấn công gây hấn.
Là dấu chỉ yêu thương hay chỉ đơn thuần là xã giao
Là nâng lên hay hạ xuống…
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta rất nhiều lần đụng chạm và được đụng chạm vào cuộc đời nhau. Hãy cùng nhìn lại và chú tâm xem xét, rằng những đụng chạm đó đã đem đến cho cuộc đời ta những tác động như thế nào?
Sự vực dậy hay vấp ngã?
Hy vọng hay chán chường?
Niềm tin, tình yêu hay hận thù chất chứa?…
Thứ hai, chữa lành là một quá trình
Chúa quyền năng và Ngài chỉ cần phán một lời thì mọi sự sẽ trở nên tốt lành, hoàn hảo đến từng centimét. Tuy nhiên, Ngài không làm vậy trong trường hợp này. Hãy thử hình dung người bị câm điếc đã trải qua những gì trong quá khứ: bị loại trừ, khinh khi, khó khăn và khốn khổ ra sao trong những sinh hoạt hằng ngày với giới hạn của bản thân. Mọi giao tiếp điều không dễ dàng, cho đến khi Chúa chạm vào cuộc đời anh. Điều này nói lên điều gì? Phải chăng Chúa dạy anh đi vào sự kết nối riêng tư thân thiết với Ngài? Điều này đòi hỏi một quá trình.
Quả vậy, quá trình anh được chữa khỏi bệnh khởi đi từ việc một vài người bên cạnh anh dám cam đảm vượt qua ranh giới giữa một bên là văn hoá và luật tôn giáo và một bên là niềm tin vào quyền năng Chúa và giới luật yêu thương của Ngài. Kế đến là sự cởi mở từ phía anh: khiêm tốn để cho người khác đụng chạm vào giới hạn của mình và chấp nhận sự giúp đỡ. Và sau cùng, chính sự cảm thông và lòng trắc ẩn của Chúa đã đem lại cho anh ánh sáng và thanh âm trong trẻo của ân sủng và tình yêu thương trong thế giới hiện tại.
Tóm lại, qua cái chạm của Đức Giêsu, chúng ta thêm vững tin và xác tín hơn về quyền năng và lòng thương xót của Chúa, giá trị sự phục vụ của chúng ta dành cho anh chị em mình, và nhất là sự gặp gỡ cá vị của mỗi người trong tương quan với Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin Ngài đụng chạm vào những bệnh nhân đang đau khổ vì tật bệnh hôm nay, cho họ được ơn an ủi và can đảm.
Xin cho chúng con biết năng suy gẫm và lắng nghe Lời Chúa, đồng thời biết loan truyền Lời có sức mạnh chữa lành đến anh chị em mình. Lời xây dựng, chữa lành, chớ không huỷ diệt.
Và xin Lời Chúa đụng chạm con, nhất là vào những bệnh tật nơi tâm hồn con, để con được lành sạch! Amen.
Như trước tất cả các chuyến tông du khác, vào sáng Chúa Nhật ngày 1/9/2024, Đức Thánh Cha đã đến viếng đền thờ Đức Bà Cả ở Roma và cầu nguyện trước bức ảnh Đức Mẹ là Phần rỗi dân thành Roma để phó dâng cho Đức Mẹ chuyến viếng thăm của ngài.
Thứ Hai ngày 2/9/2024, vào khoảng 4 giờ chiều, trước khi khởi hành ra sân bay, tại Nhà Thánh Marta, Đức Thánh Cha đẵ gặp khoảng 15 người vô gia cư, được Đức Hồng y Konrad Krajewski đồng hành.
Sau đó, vào lúc quá 4 giờ rưỡi chiều giờ Roma, Đức Thánh Cha đã đi xe từ Nhà Thánh Marta ở nội thành Vatican đến phi trường Fiumicino cách Vatican khoảng 30 km.
Sau khi chào và tạm biệt giới chức chính quyền địa phương cũng như Giám mục giáo phận Porto-Santa Rufina, nơi có phi trường, vào khoảng 17:15, chiếc máy bay A330 của hãng hàng không ITA đã cất cánh, đưa Đức Thánh Cha và đoàn tùy tùng trực chỉ thủ đô Jakarta của Indonesia.
Cùng đồng hành với ngài trên chuyến bay có Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Phụ trách Phân bộ Loan báo Tin Mừng lần đầu và các Giáo hội địa phương mới, một số Hồng y và Giám mục; đặc biệt còn có phái đoàn khoảng 80 nhà báo đăng ký tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, những người sẽ đưa tin về các hoạt động của Đức Thánh Cha trong chuyến tông du.
Chuyến bay của Đức Thánh Cha sẽ bay khoảng 13 tiếng, vượt chặng đường dài 11.354 km, qua các quốc gia: Ý, Croatia, Bosnia và Herzegovina, Serbia/Montenegro- Bulgari, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Pakistan, Ấn Độ, Malaysia và đến Indonesia.
Theo thông lệ, Đức Thánh Cha gửi điện thư chào thăm nguyên thủ các quốc gia mà ngài đi qua.
Dự kiến vào khoảng 11 giờ rưỡi sáng thứ Ba ngày 3/9/2024, chuyến bay của Đức Thánh Cha sẽ đến Jakarta, thủ đô Indonesia, chặng đầu tiên trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha.
Chuyến đi 13 ngày này cũng là chuyến viếng thăm dài nhất của ngài tại nước ngoài và nâng tổng số các quốc gia được ngài viếng thăm là 65 quốc gia.
Ra tới phi trường quốc tế Fiumicino, sau nghi thức tiễn biệt đơn sơ, Đức Thánh cha đã đáp máy bay Airbus 330 của hãng ITA Airways, lúc 5 giờ 15 và tiến về chặng dừng đầu tiên là thủ đô Jakarta của Indonesia.
Indonesia là quần đảo lớn nhất trên thế giới, gồm 17.504 hải đảo, trong đó có hơn 6.000 đảo có dân cư, và nước này được chia thành 33 tỉnh, trong số này 5 tỉnh được quy chế đặc biệt.
Indonesia là một cựu thuộc địa của Hòa Lan, trở thành một Cộng hòa năm 1945, nhưng chỉ đạt được nền độc lập vào năm 1949.
Với hơn 275 triệu dân, Indonesia đứng thứ tư trong các nước trên thế giới về số dân cư, sau Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ. 5 đảo chính của nước này là: Sumatra, Java, Borneo cũng được gọi là Kalimantan ở Indonesia, thứ tư là đảo Sulawesi và sau cùng là New Guinea. Có hai quần đảo chính là Nusa Tenggara và quần đảo Molucche, và hơn 60 quần đảo nhỏ.
Ngôn ngữ chính tại nước này là tiếng Indonesia, hay cũng gọi là bahasa. 3 nhóm dân đông nhất là người Java chiếm 43%, tiếp đến là người Sundanese 15%, sau cùng là người Hoa được 3,5%. Về mặt tôn giáo, 87% dân Indonesia theo Hồi giáo, 7% theo các hệ phái Tin lành, và chỉ có 3% theo Công giáo.
Về mặt chính trị, hiện nay Indonesia theo tổng thống chế. Trong cuộc bầu cử ngày 14 tháng Hai năm nay, cựu tướng Prabowo Subianto đã đắc cử. Ông dấn thân theo đuổi chương trình phát triển kinh tế của vị tiền nhiệm, nhắm đạt được một sự bành trướng mạnh nhất về kinh tế ở vùng Đông nam Á. Dầu vậy, đất nước này cũng phải đương đầu với một số thách đố, như nạn nghèo đói, chênh lệch, thiếu các cơ cấu hạ tầng và thường bị thiên tai.
Kitô giáo được truyền đến Indonesia vào thế kỷ thứ VII, với các thừa sai Nestorio, nhưng mãi đến thế kỷ XVI, nhờ một số thừa sai đi theo những người Bồ Đào Nha, việc loan báo Tin mừng mới được thực sự khởi đầu. Nhưng rồi năm 1605, người Hòa Lan đến lãnh thổ này, trục xuất người Bồ Đào Nha và du nhập Tin lành Calvin. Công giáo bị cấm cho đến năm 1806 và năm sau, các thừa sai Công giáo trở lại đây, Phủ doãn Tông tòa đầu tiên được thành lập năm sau đó, tại Batavia nay là Jakarta. Công Giáo được củng cố với các thừa sai thuộc các dòng tu, trong đó nổi bật là cha Georgius Josephus van Lith, Dòng Tên Hòa Lan (1863-1926), người đã thiết lập nhiều trường học.
Năm 1940, giám mục bản xứ đầu tiên người Indonesia được bổ nhiệm là Albertus Soegijapranata, Dòng Tên.
Năm 1950, tương quan ngoại giao được thiết lập giữa Tòa Thánh và Indonesia, và năm 1961, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo phẩm tại nước này.
Hiện nay, Giáo hội Công giáo tại Indonesia có 8 triệu 300.000 tín hữu thuộc 39 giáo phận, do 50 giám mục coi sóc, với sự cộng tác của gần 2.500 linh mục giáo phận và 3.440 linh mục dòng và 1.800 tu huynh, 9.660 nữ tu, 4.000 đại chủng sinh. Giáo hội tại đây hơn 1.450 giáo xứ, 8.500 giáo điểm mục vụ khác, gần 5.700 học đường các cấp.
Sự hiện diện của các tín hữu Công giáo trên lãnh thổ Indonesia không thuần nhất: một đàng có một số giáo phận, như Ende, Ruteni, Atambua và Larantuka, trong đó hầu như hầu hết dân chúng là tín hữu Công giáo. Trái lại, có ít nhất 8 giáo phận, trong đó số tín hữu Công giáo chưa tới 1% dân số địa phương. Tuy là thiểu số nhưng cộng đồng Công giáo Indonesia là một thực tại sinh động, trong đó các tín hữu giáo dân giữ một vai trò đáng kể trong lãnh vực mục vụ, tham gia tích cực vào việc mục vụ, và cả đời sống xã hội, kinh tế và chính trị của đất nước.
Trở lại chuyến viếng thăm của Đức Thánh cha. Như thường lệ, cùng đi với Đức Thánh cha trong chuyến bay, có đoàn tùy tùng gồm khoảng 30 người, trong đó có ban tham mưu của ngài thuộc Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Đức Hồng y Tagle, người Philippines, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, Đức Hồng y Miguel Angel Ayuso Guixot, người Tây Ban Nha, thuộc Dòng thánh Comboni, Bộ trưởng Bộ Đối thoại Liên tôn. Ngoài ra, có khoảng 70 ký giả quốc tế.
Chuyến bay của Đức Thánh cha từ Roma dài hơn 11.350 cây số và sau 13 giờ 15 phút bay, Đức Thánh cha sẽ đến sân bay quốc tế Soekarno Hatta, ở Jakarta, lúc 11 giờ 30, sáng thứ Ba, ngày 03 tháng Chín, giờ địa phương. Jakarta trong tiếng Java có nghĩa là “Chiến thắng và thịnh vượng”, và hiện có 11 triệu dân cư, trong khi Tổng giáo phận địa phương có 560.000 tín hữu Công giáo.
Sau khi được Bộ trưởng tôn giáo vụ đón tiếp ở phi trường, Đức Thánh cha về Tòa Sứ thần Tòa Thánh để dùng bữa và nghỉ ngơi, cũng như qua đêm. Đức Thánh cha chỉ bắt đầu hoạt động từ sáng thứ Tư, ngày 04 tháng Chín, với cuộc viếng thăm tổng thống, rồi gặp gỡ chính quyền, các đại diện xã hội dân sự và ngoại giao đoàn, vào lúc 10 giờ 30, rồi khi trở về Tòa Sứ thần vào ban trưa, ngài gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên.
Chiều cùng ngày thứ Tư, mùng 04 tháng Chín, lúc 4 giờ 30, Đức Thánh cha sẽ gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên, tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Lên Trời, ở thủ đô Jakarta, rồi đến nhà giới trẻ một tiếng đồng hồ sau đó để gặp gỡ các bạn trẻ thuộc tổ chức liên trường Scholas Occurentes.
Tuy không hiện diện trong đoàn tùy tùng của Đức Thánh cha, do thân mẫu qua đời, hôm 31 tháng Tám năm 2024, nhưng trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, hôm mùng 01 tháng Chín, trước khi Đức Thánh cha lên đường, Đức Hồng y Pietro Parolin Quốc vụ khanh Tòa Thánh, cho biết cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại bốn nước lần này là để thăng tiên những mối tương quan với miền này. Singapore, chặng chót của chuyến tông du, có đa số dân là người Hoa. Vì thế, quốc đảo này là một địa điểm nổi bật để đối thoại với văn hóa và dân tộc Trung Hoa. Trong khi Indonesia là nước có đông tín hữu Hồi giáo nhất trên thế giới. Đức Thánh cha viếng thăm Papua New Guinea và Đông Timor, điều này có nghĩa là tất cả các nước ngài thăm lần này, trừ Papua New Guinea, đều thuộc khối Đông Nam Á.
Nói chung, trước hết và trên hết, chuyến tông du thứ 45 hiện nay của Đức Thánh cha biểu lộ sự gần gũi và gặp gỡ, vốn là một đặc tính của triều đại Giáo hoàng này. Điều quan trọng đối với Đức Thánh cha là gặp gỡ dân của những nước ngài đích thân viếng thăm. Ngài quan tâm lắng nghe, gần gũi và chia sẻ những khó khăn, đau khổ và hy vọng. Sự gần gũi và sứ điệp hòa bình mà Đức Giáo hoàng Phanxicô mang đến trong cuộc viếng thăm này, áp dụng đồng đều cho mọi thực tại. Hễ những nước càng xa xăm về địa lý, thì Đức Thánh cha càng cảm thấy sự cấp thiết cần gần gũi với các dân nước ấy trong tâm hồn”.
Đức Phanxicô sẽ lên đường đi Châu Á và Châu Đại Dương từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 9, ngài sẽ đến Indonesia, Papua Tân Ghinê, Đông Timor và Singapore. Một chuyến đi đặc biệt mang nhiều ý nghĩa.
Ở tuổi gần 88, Đức Phanxicô chuẩn bị chuyến tông du thứ 45 Châu Á và Châu Đại Dương, tổng cộng 44 giờ bay trên chặng đường dài 32.000 cây số. Một thử thách với ngài, vì từ hai năm nay ngài đã phải dùng gậy hoặc ngồi xe lăn để di chuyển.
Các quốc gia ngài đến thăm ở quần đảo Sunda rộng lớn, lãnh thổ trải dài hàng ngàn cây số, từ thành phố đảo Singapore ở cuối Bán đảo Mã Lai đến vô số Quần đảo Sunda, quần đảo lớn nhất thế giới nơi có Indonesia, Papua Tân Ghinê và Đông Timor.
Sự đa dạng về mặt thiêng liêng rất lớn lao
Tại vùng này, sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn, Singapore là nước giàu so với các nước Papua Tân Ghinê và Timor. Các vấn đề cũng rất khác nhau từ chính trị, thiên nhiên đến dân cư. Singapore là nước tân tiến và đông dân cư, Papua còn nguyên sơ và ít dân cư. Vấn đề phát triển kinh tế cũng như vị trí của công nghệ ở Singapore là một trong những chủ đề sẽ được Đức Phanxicô thảo luận.
Sự đa dạng về mặt thiêng liêng cũng rất lớn: Indonesia, quốc gia có tín hữu hồi giáo nhiều nhất thế giới, Đông Timor có giáo dân công giáo nhiều nhất thế giới sau Vatican, Papua Tân Ghinê với đạo tin lành và Singapore với đạo phật chiếm đa số. Các tôn giáo truyền thống như thuyết vật linh hay nho giáo có mặt trong các cộng đồng người Hoa vì thế tôn giáo có một vị trí quan trọng, đối thoại liên tôn sẽ là một trong những chủ đề chính của chuyến đi, với hai cuộc gặp đại diện các tôn giáo ở Indonesia và Singapore.
Bước chân đầu tiên đến Châu Đại Dương
Lần đầu tiên Đức Phanxicô đến Papua Tân Ghinê thuộc Châu Đại Dương, tại đây ngài sẽ gặp đại diện các quốc gia nhỏ trong đại dương lớn nhất thế giới này. Ngài sẽ nói đến các vấn đề quan trọng như hậu quả tai hại của sự nóng lên toàn cầu với hệ sinh thái vừa phong phú vừa mong manh của vùng này.
Đông Timor cũng rất quan trọng, Đức Gioan-Phaolô II đến thăm Đông Timor khi Đông Timor còn bị Indonesia chiếm đóng, đất nước mới được độc lập năm 2002. Chuyến đi sẽ là dịp nhớ lại lịch sử đẫm máu của đất nước nhưng cũng để nhìn về tương lai khi đất nước trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế mới. Đức Phanxicô sẽ khuyến khích người công giáo và các nhà truyền giáo địa phương sống đời sống đức tin sâu đậm hơn, ngài thường nói Giáo hội còn nhiều điều phải học từ phương Đông.
Chuyến tông du nước ngoài thứ 45 của Đức Thánh Cha được nhận định sẽ là chuyến đi vất vả nhất của Đức Thánh Cha khi ngài gần tròn 88 tuổi. Đây sẽ là chuyến viếng thăm kéo dài nhiều ngày nhất cũng như với đoạn đường bay dài nhất trong triều Giáo hoàng của ngài. Đức Thánh Cha sẽ di chuyển qua hai châu lục, với 4 múi giờ khác nhau và bay qua 32.814 km.
Trong chuyến tông du này Đức Thánh Cha sẽ đọc 16 bài diễn văn và bài giảng: 4 bài bằng tiếng Ý ở Indonesia, 5 bài bằng tiếng Ý ở Papua New Guinea, 4 bài bằng tiếng Tây Ban Nha ở Đông Timor, và 3 bài bằng tiếng Ý ở Singapore.
Trả lời một số câu hỏi về sức khỏe của Đức Thánh Cha và những nỗ lực mà cuộc hành trình dài này sẽ đòi hỏi, giữa những thay đổi về thời gian và đỉnh điểm về độ ẩm lên tới 92%, ông Bruni nói: "Không có thêm mối lo ngại nào nữa, các quy trình về sức khỏe đã được áp dụng trong mọi chuyến tông du được coi là đủ”.
Giám đốc Phòng Báo chí Tòa thánh giải thích rằng sẽ có một bác sĩ và hai y tá để theo dõi sức khỏe của Đức Thánh Cha, ngoài người trợ lý chăm sóc sức khỏe cá nhân cho ngài là ông Massimiliano Strappetti.
Về cơ bản, đó sẽ là việc đọc những kinh nghiệm được thực hiện tại chỗ, được soi sáng bởi ý tưởng hiệp thông của Giáo hội: dù nhỏ bé đến đâu, các Giáo hội đó là một phần của kế hoạch và một thực tế vượt biên giới. Đọc lại lịch sử hiện diện của Kitô giáo sẽ có nghĩa là đề cập đến những cách thức thông truyền và loan báo “hạt giống Lời Chúa”, thường là kết quả của những hy sinh to lớn.
Một khía cạnh khác liên quan đến cuộc viếng thăm, theo Tổng Tư vấn Quốc gia Thành Vatican, là về quan hệ với các chính phủ. Đây chắc chắn cũng là việc thể hiện cái nhìn tôn giáo của đa số hoặc ít nhất là liên kết với chúng và do đó việc tìm kiếm không gian cần thiết cho các Kitô hữu, để họ có thể đóng góp xây dựng xã hội và không bị coi là mối nguy hiểm, và không bị áp đặt bởi các học thuyết, tầm nhìn hoặc ý tưởng.
Hơn nữa, ở những quốc gia này, Giáo hội đang dấn thân trong các lĩnh vực như y tế giáo dục, cho thấy một sự hợp tác với chính phủ. Thực tế, công cuộc rao giảng Tin Mừng luôn đi cùng việc thăng tiến con người một cách hiệu quả trong bối cảnh họ đang sống, để phẩm giá con người được thể hiện ở mọi cấp độ, như khả năng thực hiện được những khát vọng, bắt đầu từ chiều kích đức tin.
Ông nói thêm: “Những bình luận về chuyến tông du đến 'vùng ngoại ô' của châu Á và châu Đại Dương có vẻ hạn chế. Chạm vào các quốc gia, tức là các dân tộc và con người, như Indonesia, Papa New Guinea, ĐôngTimor và Singapore có nghĩa là đi vào trung tâm các nền văn hóa, lối sống trong đó việc hội nhập Tin Mừng và biểu lộ đức tin Kitô giáo đã trở thành một thực tế ngày nay".
Do đó, theo ông Buonomo ý tưởng về chuyến tông du là hướng tới một thực tại xã hội, nơi kinh nghiệm của Giáo hội rất năng động, nhưng không dễ dàng được trình bày và thực hiện bởi chiều kích thể chế và sự tham gia trong các quá trình ra quyết định. Đó sẽ là cách để Đức Thánh Cha Phanxicô hỗ trợ và khuyến khích các Kitô hữu hiện diện ở khu vực biên giới giữa hai lục địa, nhưng trên hết mang lại khả năng đọc được những Giáo hội, dù nhỏ bé, nhưng có tác động không phải là thứ yếu: chỉ dữ liệu về ơn gọi sống đời tu sĩ khiến mọi người suy ngẫm và tin tưởng nhìn về tương lai.
Ông Buonomo cũng nhấn mạnh rằng các Kitô hữu là thành phần thiểu số, nhưng có khả năng giải quyết những thách đố mà châu Á và châu Đại Dương, được kêu gọi phải đối diện hàng ngày. Đây là những nhu cầu cần thiết và tuy nhiên có thể thay đổi, nếu chúng ta nghĩ về sự khác biệt từ quan điểm kinh tế xã hội giữa các thực tế như Indonesia và Singapore, với Papua New Guinea hay Đông Timor hoặc câu hỏi sâu sắc về quyền và tự do, hay vấn đề môi trường tự nhiên ngày càng có nguy cơ bị suy thoái và bị khai thác ồ ạt.
Phi cơ của Giáo hoàng Francis đã hạ cánh tại sân bay Soekarno–Hatta, Jakarta, ngày 3-9, cùng đoàn tùy tùng và các phóng viên đi cùng.
Trong 10 ngày tới, sau chuyến thăm Indonesia, Giáo hoàng sẽ thăm Đông Timor, Singapore và Papua New Guinea.
Ngồi trên xe lăn, Giáo hoàng rời khỏi máy bay bằng thang máy và nhận bó hoa từ hai em nhỏ mặc trang phục truyền thống của Indonesia.
Trên thảm đỏ được hộ tống bởi các vệ binh danh dự, Giáo hoàng được đón tiếp bởi bộ trưởng Bộ Tôn giáo Indonesia, đại sứ Indonesia tại Vatican và một số giám mục. Sau đó, Giáo hoàng lên xe chờ sẵn, vẫy tay chào và mỉm cười khi xe rời đi.
Vì tuổi cao (87 tuổi), Giáo hoàng không có kế hoạch tham dự bất kỳ sự kiện công cộng nào trong ngày để dành thời gian nghỉ ngơi sau chuyến bay dài 13 giờ từ Rome.
Sự kiện chính thức đầu tiên của Giáo hoàng được diễn ra vào ngày 4-9, bắt đầu bằng bài phát biểu trước các lãnh đạo chính trị của Indonesia.
Ngày 5-9, Giáo hoàng Francis cùng tham gia một cuộc gặp liên tôn giáo tại nhà thờ Hồi giáo Istiqlal, nhà thờ lớn nhất Đông Nam Á.
Chuyến công du châu Á - Thái Bình Dương kéo dài tổng cộng 12 ngày, là chuyến đi dài nhất từ trước đến nay của Giáo hoàng. Khi trở về Rome vào tối 13-9, Giáo hoàng sẽ hoàn tất hành trình gần 33.000km.
Giáo hoàng, người đã thúc đẩy Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu năm 2015, dự kiến sẽ kêu gọi hành động toàn cầu về biến đổi khí hậu.
Jakarta, thủ đô của Indonesia với ít nhất 10 triệu dân, đang phải đối mặt với những tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm lũ lụt thường xuyên và tình trạng đất lún. Chính phủ Indonesia đang xây dựng thủ đô mới mang tên Nusantara trên đảo Borneo để đối phó với tình trạng này.
Indonesia có 280 triệu dân, là quốc gia có đa số dân theo đạo Hồi lớn nhất thế giới, trong khi chỉ có khoảng 3% theo Công giáo.
Đón Đức Thánh cha tại chân thang máy bay, có Bộ trưởng Tôn giáo vụ Yaqut Cholil Qoumas. Hai em bé trong y phục truyền thống đã tặng hoa chào mừng Đức Thánh cha. Lễ nghi đơn sơ, với cuộc chào thăm hai phái đoàn Indonesia và Vatican, cũng như duyệt qua hàng quân danh dự.
Cùng đi với Đức Thánh cha, có Đức Hồng y Tagle, Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng, Đức Tổng giám mục Phụ tá Quốc vụ khanh Tòa Thánh Peña Parra, và Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Paul Gallagher. Không có Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh, Pietro Parolin, vì Đức Hồng y phải chủ sự lễ an táng cho thân mẫu mới qua đời.
Hiện diện trong buổi chào đón, có Đức Tổng giám mục Sứ thần Tòa Thánh tại địa phương, Đức Hồng y Ignatius Suharyo, Tổng giám mục Jakarta và một số giám mục Indonesia.
Buổi tiếp đón ở phi trường đơn sơ vì lễ tiếp đón chính thức được dành cho sáng thứ Tư, ngày 04 tháng Chín, tại Phủ tổng thống.
Từ phi trường, Đức Thánh cha về Tòa Sứ thần Tòa Thánh, cách đó 27 cây số. Đến nơi lúc 12 giờ 30, Đức Thánh cha đã được các nhân viên Tòa Sứ thần cùng mới một nhóm bệnh nhân, người di cư và tị nạn chào đón. Trong số những người này, có các trẻ em mồ côi và người già cũng như những người Rohingya Hồi giáo, từ Myanmar tị nạn.
Đức Thánh cha ngồi trên xe lăn, tươi cười, có các trẻ em quây chung quanh và cả những người lớn trong y phục truyền thống. Họ tặng hoa và kỷ vật cho ngài. Cơ quan Dòng Tên trợ giúp tị nạn cũng như chi hội Cộng đồng thánh Egidio ở địa phương đã thu xếp cuộc gặp gỡ này. Các em mồ côi thì do các nữ tu dòng Đa Minh chăm sóc.
Trong ngày đầu tiên trên đất Indonesia, Đức Thánh cha nghỉ ngơi sau hơn 13 tiếng bay và đổi 5 múi giờ. Ngài dùng bữa tối và qua đêm để chuẩn bị một ngày hoạt động đầu tiên tại nước này.
Trước đó, sau khi máy bay cất cánh lúc 5 giờ 30, chiều ngày 02 tháng Chín, từ phi trường Fiumicino ở Roma, như thường lệ, Đức Thánh cha đã xuống phần dành riêng cho hơn 80 ký giả quốc tế để chào thăm và cám ơn họ, như thói quen. Đức Thánh cha nói: “Tôi cám ơn anh chị em tham gia hành trình này. Cám ơn anh chị em cùng đi. Tôi nghĩ đây là chuyến đi dài nhất mà tôi thực hiện”.
Rồi ngài tiến qua lối đi của máy bay, bắt tay và chào thăm từng người. Nhân dịp này, không thiếu những người trao thư và tặng quà cho Đức Thánh cha. Trong số này, đặc biệt có món quà mang từ Trung Quốc của nữ ký giả Stefania Falasca, người Ý, bản sao một tấm bia năm 635 ở Tây An, miền bắc Trung Quốc, một bằng chứng về việc loan báo Tin mừng đã được thực hiện nhờ một thừa sai tên là Aluoben, đến từ Ba Tư. Một đoạn ghi trên tấm bia nói về cộng đoàn Giáo hội Siriac đã được thành lập tại Trung Quốc trong thế kỷ thứ VII như vừa nói. Đức Thánh cha nhận món quà và ôm chặt vào người, như một dấu chỉ lòng quý mến đối với Trung Hoa, như ngài nhiều lần bày tỏ.
Đức Thánh cha cũng cảm động đón nhận hai quà tặng của các ký giả nói lên thảm trạng của người di cư: một do ông Clément Melki, phái viên hãng thông tấn Pháp AFP, trong 15 ngày đã theo dõi hoạt động của tổ chức từ thiện Mar Jono trên Địa Trung Hải. Ông tặng Đức Thánh cha một chiếc đèn pin, một trong bao nhiêu chiếc đèn mà người vượt biên dùng để tìm đường hoặc để được nhận diện trong các vụ đắm thuyền. Khi nhận, Đức Thánh cha quà nói: “Tôi rất quan tâm đến thảm trạng này”
Còn nữ ký giả Eva Fernández của Đài Phát thanh Công giáo Cope, ở Tây Ban Nha, vốn nổi tiếng vì những món quà tặng Đức Thánh cha trong các chuyến bay của các cuộc tông du. Lần này, bà làm sứ giả cho gia đình của cậu bé Matteo, 11 tuổi, thuộc một làng nhỏ Morejon, gần thành phố Toledo bên Tây Ban Nha. Mateo bị giết ngày 18 tháng Tám vừa qua, trong một trận bóng đá với các bạn. Thủ phạm là một người trẻ bị bệnh tâm thần ở cùng địa phương.
Vụ này gây xôn xao lớn, sau khi một số đại diện chính trị cáo buộc một số người di dân được đón tiếp trong một khách sạn gần làng Morejon. Gia đình nạn nhân luôn phủ nhận những lời cáo gian như thế, nhưng không ngăn cản được những tranh luận về chí🇻🇦🇮🇩🇻🇦🇮🇩🇻🇦nh sách tiếp đón người nhập cư. Bà Eva Fernández tặng cho Đức Thánh cha chiếc áo màu đỏ, số 11 của cậu bé thuộc đội bóng đó. Đức Thánh cha làm phép chiếc áo và áp lá thư của bà mẹ vào ngực của ngài.
Bộ tem có chủ đề “Đức tin, Tình Huynh đệ, Sự Cảm thông”, là thông điệp chính trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha từ ngày 3 đến 6/9/2024.
Đức Hồng y Ignatius Suharyo Hardjoatmodjo, Tổng giám mục Jakarta nhận xét: “Việc phát hành tem cho chuyến thăm Indonesia của Đức Thánh Cha Phanxicô là một vinh dự lớn” đối với Giáo hội Công giáo tại Indonesia. Ngài hy vọng thông điệp về cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha sẽ đến được với mọi người thông qua những con tem đặc biệt, sẽ được phân phối trên khắp cả nước.
Theo Đức Hồng y, những con tem này thể hiện “sự hiện diện của chính phủ trong sự phát triển của Giáo hội Công giáo tại Indonesia” và cách chính phủ tôn trọng “sự hiện diện của Đức Thánh Cha Phanxicô với tư cách là nhà lãnh đạo của Giáo hội Công giáo”.
Hồng y Tổng Giám mục Jakarta hy vọng rằng chủ đề “đức tin, tình huynh đệ và sự cảm thông” của cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha có thể thúc đẩy sự thống nhất của Giáo hội Công giáo tại Indonesia.
Ngài nói: “Tất cả chúng ta đều hy vọng rằng động lực sẽ dẫn đến sự cảm thông, không phải tình huynh đệ lý thuyết hay khái niệm, mà là tình huynh đệ thực sự thể hiện trong hành động thực tế để lý tưởng độc lập của quốc gia chúng ta gần gũi hơn”.
Bộ Truyền thông và Thông tin Indonesia cho biết Đức Thánh Cha sẽ làm phép những con tem độc đáo này trong Thánh lễ tại Sân vận động chính Gelora Bung Karno vào ngày 5/9/2024.
Ông Ignasius Jonan, người đứng đầu ủy ban về cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Indonesia, cho biết PT Pos Indonesia đã phát hành một loạt tem đặc biệt cho chuyến thăm năm 1970 của Đức Giáo hoàng Phaolô VI và chuyến thăm năm 1989 của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Phanxicô đến Jakarta từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 9, ngài sẽ đi khắp thành phố Jakarta để gặp người dân Indonesia, đó là chuyện không đơn giản ở thành phố đầy xe hơi và xe gắn máy này.
Với 11 triệu dân, Jakarta là thành phố không bao giờ vắng người trên đường. Dù chính quyền đã có những biện pháp đặc biệt như tuyến xe buýt dừng dọc đường cho người đi bộ lên xuống, nhưng cũng không thể giải quyết được nạn kẹt xe, Jakarta kẹt ngày kẹt đêm! Chính phủ đã chính thức chuyển thủ đô đến Nusantara, một thành phố mới được xây trên đảo Borneo. Dù dự án này không được người dân Jakarta ủng hộ, nhưng rừng rậm vẫn được cho là tốt hơn là ở lại Jakarta.
Chính quyền xin người dân Jakarta làm việc “tại nhà” trong thời gian Đức Phanxicô đến đây. Nhưng không phải ai cũng nghe tin tức, đặc biệt người hồi giáo rất đông ở thành phố này, họ gần như không biết có Đức Phanxicô đến và ngay cả không biết ngài là ai. Chiều 4 tháng 9, Đức Phanxicô có cuộc gặp với các tu sĩ ở nhà thờ chính tòa, nhưng dù đã được hộ tống, ngài đến hơi trễ.
Không có gì khác thường nếu Đức Phanxicô không theo sát chương trình từng phút, thậm chí đây còn là thói quen của ngài, ngài người thường nói “thời gian vượt trội hơn không gian”. Tuy nhiên, ở Jakarta, không gian dường như rộng hơn thời gian và khi con đường trước nhà thờ đột nhiên thông xe trở lại, xe gắn máy rồ máy chiếm đường, đoàn xe giáo hoàng mất quyền ưu tiên. Cuối cùng giao thông được giải quyết và xe giáo hoàng đến …đúng giờ!
Khẩu hiệu cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Papua New Guinea là “Cầu nguyện”, lấy cảm hứng từ lời cầu xin của các môn đệ với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11,1). Còn logo có hình một Thánh giá, được mô tả bằng màu sắc nhằm gợi lên cảnh bình minh và hoàng hôn ở Papua New Guinea. Trên Thánh giá có hình Chim thiên đường, tượng trưng cho Papua New Guinea.
ĐTC Phanxicô đã đến Papua New Guinea
Chào đón Đức Thánh Cha tại phi trường, sau 20 phát đại bác chào mừng, Phó Thủ tướng của Papua New Guinea đã chào Đức Thánh Cha và hai trẻ em trong trang phục truyền thống đã tặng hoa cho ngài.
Sau khi Đức Thánh Cha và Phó Thủ tướng Papua New Guinea tham dự nghi lễ chào cờ Vatican và Papua New Guinea và giới thiệu phái đoàn hai bên, Đức Thánh Cha đi xe về Tòa Sứ Thần nằm ở đường Lolorua, khu Korobosea, ngoại ô Port Moresby, cách phi trường 8km.
Ngày mai, thứ Bảy ngày 7/9/2024, bắt đầu cuộc viếng thăm Papua New Guinea, Đức Thánh Cha sẽ thăm hữu nghị Toàn quyền của nước này, và sau đó là cuộc gặp gỡ chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn. Vào ban chiều ngài sẽ thăm các trẻ em của “sứ vụ đường phố” và “callan services”; và cuối cùng, ngài sẽ gặp gỡ các Giám mục của Papua New Guinea và của đảo Salomon, các linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.
Vào ngày phụng vụ kính nhớ các Thiên thần Bản mệnh 02/10, tại Quảng trường thánh Phêrô, vào lúc 9 giờ 30’ Đại hội lần thứ hai của Thượng Hội đồng Giám mục sẽ khai mạc. Công việc sẽ diễn ra trong ba tuần rưỡi và kết thúc vào ngày 27/10 với Thánh lễ tạ ơn tại Đền thờ thánh Phêrô.
Trong phiên họp mùa thu, các suy tư liên quan đến những chủ đề trong Tài liệu làm việc sẽ được chia sẻ và đánh giá thêm với sự phân định chung để trình lên Đức Thánh Cha. Và theo cha Giacomo Costa, Thư ký đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục, từ những suy tư này sẽ xuất hiện những hiểu biết mới để tái định hướng đời sống Giáo hội, theo con đường do Đức Thánh Cha Phanxicô khởi xướng vào năm 2021.
Một sự kiện quan trọng khác của Đức Thánh Cha trong tháng 10 là chủ sự Thánh lễ phong thánh cho cha Manuel Ruiz López và bảy bạn tử đạo dòng Phanxicô, và 3 giáo dân nghi lễ Maronite. Đây là nhóm gồm 11 vị tử đạo Hồi giáo, bị sát hại vì đức tin vào ngày 10/7/1860.
Ngài cũng phong thánh cho nữ tu Marie-Léonie Paradis, Đấng sáng lập dòng Tiểu Muội Thánh Gia; Mẹ Elena Guerra, Đấng sáng lập Dòng “Các nữ tu Thánh Zita”; Cha Giuseppe Allamano, Đấng sáng lập các dòng Truyền giáo Consolata.
“Những gì chế độ độc tài đang làm là ngày càng bóp nghẹt Giáo hội Công giáo”, luật sư và nhà nghiên cứu Martha Patricia Molina cho biết
Luật sư và nhà nghiên cứu Martha Patricia Molina đã báo cáo rằng chế độ độc tài ở Nicaragua của Tổng thống Daniel Ortega và vợ ông, Phó Tổng thống Rosario Murillo, đã trục xuất một nhóm gồm các Linh mục và Nữ tu nước ngoài đang làm việc tại quốc gia Trung Mỹ này.
“Có hai cuộc họp. Có vẻ như họ được triệu tập [để trình diện] từ các Dòng tu khác nhau hoặc từ các vùng khác nhau của đất nước. Tất cả các Linh mục và Tu sĩ tham dự đều là người nước ngoài. Trong thời gian họ ở trong ‘cái bẫy’ đó, họ đã được xem một video tuyên truyền của cặp đôi độc tài”, luật sư Molina giải thích trong một cuộc phỏng vấn với ấn bản tiếng Tây Ban Nha của EWTN News.
Luật sư Martha Patricia Molina là tác giả của báo cáo “Nicaragua: Một Giáo hội bị đàn áp?”, trong phần thứ năm phát hành ngày 15 tháng 8 đã trích dẫn 870 vụ tấn công của chế độ độc tài Nicaragua nhằm vào Giáo hội Công giáo kể từ năm 2018, năm diễn ra các cuộc biểu tình rộng rãi phản đối chế độ độc tài và các đề xuất cải cách không được lòng dân của chế độ này.
Luật sư Molina cũng giải thích rằng các Tu sĩ nam nữ này bị đe dọa sẽ bị bỏ tù hoặc trục xuất nếu họ nói hoặc làm bất cứ điều gì mà chế độ độc tài coi là thù địch.
“Tôi có thông tin rằng một số Tu sĩ đã bị trục xuất khỏi đất nước và cũng bị cấm lên tiếng vì có một số Tu sĩ từ những Dòng tu đó vẫn ở lại đất nước [và cũng không thể nói gì]: Họ liên tục bị chế độ độc tài đe dọa”, luật sư Molina báo cáo.
Quỹ hưu trí dành cho các Linh mục Công giáo bị tịch thu
Luật sư Molina cũng đã nhắc đến động thái của chế độ nhằm hủy bỏ 1.500 tổ chức phi lợi nhuận hoặc phi chính phủ, bao gồm hàng trăm tổ chức Công giáo và Tin lành, thậm chí cả quỹ hưu trí dành cho các Linh mục vốn đã tồn tại trong 24 năm và đã bị chế độ độc tài đóng băng vào năm ngoái.
“Điều này gây tổn hại nghiêm trọng đến các Linh mục đau bệnh và đã nghỉ hưu, đồng thời cướp đi của chúng tôi, những người giáo dân và Giáo hội Công giáo, những người đã liên tục đóng góp vào quỹ này để sau này có thể duy trì sức khỏe của họ cũng như hỗ trợ một phần — mà họ rất xứng đáng — cho các Linh mục đã nghỉ hưu”, nhà nghiên cứu lưu vong giải thích với EWTN News.
“Đó chỉ là cách mà những người thuộc chế độ Sandinista làm mọi thứ: Họ ăn cắp mọi thứ, họ làm mọi thứ biến mất và sử dụng chúng vì lợi ích của đảng, và cũng để tiếp tục sử dụng chúng cho mục đích đàn áp. Đây là điều mà Giáo hội sẽ không lấy lại được”, luật sư Molina nói.
Ngoài các loại thuế đánh vào tài sản và tiền quyên góp từ thiện được cơ quan lập pháp thông qua vào ngày 22 tháng 8, và với việc hủy bỏ quỹ hưu trí dành cho các Linh mục, “những gì chế độ độc tài đang làm là ngày càng bóp nghẹt Giáo hội Công giáo, vì với tất cả các cuộc tấn công mà họ đã thực hiện, họ vẫn chưa thể khiến đức tin và Giáo hội Công giáo biến mất hoàn toàn khỏi Nicaragua, vốn là điều họ mong muốn”, luật sư Molina cho biết.
Các trường học Công giáo bị ảnh hưởng
Trong làn sóng đóng cửa các tổ chức phi lợi nhuận này, “vô số trường học tôn giáo thuộc các giáo phái khác nhau cũng bị ảnh hưởng… Kể từ năm 2020, tài khoản tiết kiệm của những trường này đã bị chế độ độc tài tịch thu và đóng băng” luật sư Molina lên án.
Một ví dụ điển hình là trường Đại học Trung Mỹ (UCA) của Dòng Tên đã bị tịch thu vào năm 2023 và cho đến nay vẫn chưa hoạt động trở lại vì chế độ độc tài Nicaragua không biết “họ sẽ phải làm gì với tất cả những ngôi trường sắp bị tịch thu này, vì họ sẽ không thể quản lý”.
“Hiện tại”, luật sư Molina chỉ ra, “họ có các Nữ tu, các Tu sĩ phụ trách các trường học, nhưng chế độ đã đe dọa họ, nói với họ rằng toàn bộ số tiền họ nhận được từ việc đóng học phí sẽ được xung vào quỹ của Mặt trận Sandinista và họ cũng sẽ có sự giám sát liên tục về mặt giáo dục”.
“Cho đến nay họ vẫn chưa lấy đi các trường học của họ, nhưng trên thực tế, luật pháp quy định rằng tất cả tài sản đó sẽ thuộc về nhà nước”, luật sư Molina cảnh báo.
Quyết định hủy bỏ 1.500 tổ chức đã được công bố thông qua thỏa thuận cấp bộ trưởng 38-2024-OSFL, được công bố vào ngày 19 tháng 8 trên tờ báo chính thức của chính phủ La Gaceta và được ký bởi Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nicaragua, María Amelia Coronel Kinloch.
Văn bản nêu rõ rằng văn phòng Tổng chưởng lý phải chuyển giao tài sản cố định và thanh khoản của tất cả các tổ chức này “sang tên Nhà nước Nicaragua”.
TGPSG/CNA – Giáo phận Avila ở Tây Ban Nha đã báo cáo vào ngày 28/8/2024 rằng thi hài của Thánh Têrêsa Avila, Tiến sĩ Hội thánh, vẫn còn nguyên vẹn sau khi thánh nhân qua đời vào ngày 4/10/1582, cách đây gần 5 thế kỷ.
"Hôm nay, ngôi mộ của Thánh Têrêsa đã được mở và chúng tôi xác nhận rằng nó vẫn trong trạng thái tương tự như khi được mở lần cuối vào năm 1914", cha Marco Chiesa, thỉnh nguyện viên của Dòng Cát Minh Chân Trần, thuộc Tu viện Cát Minh Alba de Tormes, nơi lưu giữ hài cốt của vị thánh Tây Ban Nha đáng kính này, cho biết.
Cha Miguel Ángel González, bề trên Dòng Cát Minh ở Alba de Tormes và Salamanca thuộc Giáo phận Avila, đã giải thích về cách thức tiến hành việc này: “Cộng đoàn các nữ tu Dòng Cát Minh Chân Trần cùng với thỉnh nguyện viên của dòng, các thành viên của tòa án giáo hội và một nhóm nhỏ các tu sĩ đã di chuyển các hòm thánh tích với sự nghiêm ngặt và trang trọng đến nơi được thiết lập để nghiên cứu. Chúng tôi thực hiện điều này trong khi hát bài Te Deum với trái tim đầy xúc động.”
Giáo phận giải thích rằng sự kiện này diễn ra như một phần của sự công nhận chính thức đối với hài cốt của Thánh Têrêsa Avila, được yêu cầu từ Vatican vào ngày 1/7 bởi giám mục của Salamanca, Luis Retana, và được Đức Giáo hoàng Phanxicô phê duyệt thông qua Bộ Phong Thánh.
Quá trình nghiên cứu thi thể, trái tim, một cánh tay và một bàn tay (bàn tay này được bảo quản ở thị trấn Ronda, Tây Ban Nha, và đã được đưa đến Alba de Tormes để nghiên cứu) diễn ra từ ngày 28 đến ngày 31/8/2024.
Giáo phận cho biết, để tiếp cận thi hài của Thánh Têrêsa, trước tiên phải gỡ bỏ phiến đá cẩm thạch của ngôi mộ. Sau đó, trong căn phòng được thiết lập để nghiên cứu và chỉ có sự hiện diện của nhóm y khoa khoa học và các thành viên của tòa án giáo hội, chiếc quan tài bằng bạc đã được mở ra.
Tòa án bao gồm Giám tỉnh Dòng Cát Minh của Tỉnh Dòng Iberia Thánh Têrêsa Chúa Giêsu ở Tây Ban Nha, linh mục Francisco Sánchez Oreja; linh mục González; và bề trên của Dòng Nữ tử Bác ái Alba de Tormes, Sơ Remigia Blázquez Martín.
Chiếc quan tài bằng bạc đã được mở ra với sự giúp đỡ của những người thợ kim hoàn Ignacio Manzano Martín và Constantino Martín Jaén, những người cũng sẽ có mặt vào ngày cuối cùng của công việc.
Giáo phận Avila cũng tiết lộ rằng 10 chiếc chìa khóa đã được sử dụng để mở ngôi mộ: “Ba chiếc được lưu giữ tại Alba de Tormes, ba chiếc được Công tước Alba cho mượn và ba chiếc được cha Bề trên Tổng quyền [một tu sĩ dòng Cát Minh Chân Trần] giữ ở Rôma, cùng với chiếc chìa khóa của nhà vua. Ba trong số những chiếc chìa khóa này dùng để mở lưới sắt bên ngoài, ba chiếc để mở ngôi mộ bằng đá cẩm thạch và bốn chiếc còn lại để mở quan tài bằng bạc”.
Cha Chiesa chỉ ra rằng những hình ảnh được lưu giữ từ cuộc khám nghiệm năm 1914 là đen trắng, vì vậy “rất khó để so sánh”, mặc dù “những phần được hé lộ, bao gồm khuôn mặt và bàn chân, vẫn giống như năm 1914”.
“Không có màu sắc, không có màu da, vì da đã được ướp xác, nhưng bạn có thể nhìn thấy nó, đặc biệt là phần giữa khuôn mặt”, cha lưu ý. “Các bác sĩ chuyên khoa có thể nhìn thấy khuôn mặt của Thánh Têrêsa gần như rõ ràng”.
Ba giai đoạn của quá trình
Giai đoạn đầu tiên, mở và nhận dạng, sẽ diễn ra cho đến ngày 31/8. Trong giai đoạn này, một nhóm do Tiến sĩ José Antonio Ruiz de Alegría từ Madrid dẫn đầu sẽ chụp ảnh và chụp X-quang cũng như làm sạch các thánh tích một cách cẩn thận.
Giai đoạn thứ hai sẽ diễn ra trong các phòng thí nghiệm ở Ý trong vài tháng, sau đó đưa ra kết luận khoa học. Cuối cùng, như giai đoạn thứ ba, một số biện pháp can thiệp sẽ được đề xuất để bảo quản hài cốt tốt hơn.
Trước khi đóng cửa ngôi mộ cuối cùng, sẽ một thời gian thích hợp để các tín hữu có thể kính viếng thánh tích của Thánh Têrêsa.
Mở ngôi mộ năm 1914
Việc mở ngôi mộ Thánh Têrêsa Chúa Giêsu trước đó diễn ra từ ngày 16 đến 23/8/1914. Vào thời điểm đó, Giáo phận Avila tuyên bố rằng thi thể vẫn "hoàn toàn không bị phân hủy", giống như lần mở ngôi mộ năm 1750.
Theo cha Daniel de Pablo Maroto thuộc Dòng Cát Minh, ngôi mộ được mở vào năm 1914 vì Bề trên Tổng quyền của Dòng Cát Minh Chân Trần, cha Clemente de los Santos, muốn tận dụng chuyến thăm Tây Ban Nha của mình để xem thi thể của các vị thánh sáng lập: Thánh Gioan Thánh Giá ở Segovia và Thánh Têrêsa ở Alba de Tormes.
Nghiên cứu hiện đang được tiến hành với hài cốt của Thánh Têrêsa Avila sẽ tương tự như nghiên cứu được thực hiện vào năm 1991 với hài cốt của Thánh Gioan Thánh Giá ở Segovia nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của ngài.
Thánh Têrêsa Avila là ai?
Trang web của Tổng quyền Dòng Cát Minh Chân Trần giải thích rằng họ công nhận Thánh nữ Têrêsa Chúa Giêsu, hay còn gọi là Thánh Têrêsa Avila, là mẹ và người sáng lập của dòng. Thánh nhân cũng là người phụ nữ đầu tiên trở thành Tiến sĩ Hội thánh, người mong muốn "bảo tồn sự liên tục của Dòng Cát Minh" với ước nguyện rằng "một phong cách sống tu trì mới sẽ được khai sinh", luôn "trung thành với Giáo hội".
Sinh ra tại Tây Ban Nha vào năm 1515, Thánh Têrêsa Avila cũng là một nhà thần bí và nhà văn gốc Do Thái, được công nhận vì những đóng góp của thánh nhân cho linh đạo Công giáo và văn học Tây Ban Nha.
Một câu nói nổi tiếng của thánh nữ là: “Ước mong không gì làm bạn nao núng. Ước mong không gì làm bạn khiếp đảm. Mọi sự đều qua đi, Thiên Chúa không bao giờ thay đổi. Sự kiên nhẫn chiến thắng tất cả. Ai có được Thiên Chúa. Không thiếu thốn điều gì. Chỉ một mình Chúa là đủ rồi.”