Vào khoảng thế kỷ 15-18, thời “Phục Hưng” nhiều nhà tư tưởng chống sự sa đọa của Giáo Quyền La Mã, đồng thời chống luôn Giáo Hội và chống luôn Thiên Chúa. Họ đưa “Quyền Con Người” lên tối thượng.
Cuối thế kỷ 18, Cách Mạng Pháp (1789) ra đời, với lập luận là : “Thượng Đế Đã Chết”. Trào lưu này đã đẻ ra một Jean Paul Sartre và Jean Paul Sartre đẻ ra tác phẩm “Buồn Nôn” (La Nausée, 1938) vì xã hội này “không còn Thượng Đế”.
Mở đầu thế kỷ 19, “Thuyết Tiến Hóa” của Charles Robert Darwin ra đời chối bỏ “Thuyết Sáng Tạo” trong sách Sáng Thế Ký – sách Cựu Ước của Do Thái và Giáo Hội La Mã. Thuyết của Darwin được tóm lại là: “Con Người từ Khỉ mà ra” … đó là trình tự đào thải và tiến hóa tự nhiên không cần Thiên Chúa.
Hồi sau 30/4/1975 bài học chính trị đầu tiên của chế độ CS dành cho các cán bộ hay nhà giáo miền Nam lưu dụng chính là bài học này: “Con Người từ Khỉ mà ra”.
Đầu thế kỷ 20, Thuyết “Big Bang - Vụ Nổ Lớn” ra đời cũng chối bỏ “Thuyết Sáng Tạo” được ghi trong sách Sáng Thế của Kinh Cựu Ước và như vậy cũng chối bỏ quyền năng của Thiên Chúa sáng tạo nên Vũ Trụ và Muôn Loài.
Cũng đầu thế kỷ 20, Cách Mạng Cộng Sản ra đời bắt đầu bằng học thuyết của Marx-Engels và được triệt để khai thác bởi Lenin và Stalin mở ra kỷ nguyên Cộng Sản-Vô Thần-Cực Tả. CS chủ trương cướp chính quyền khắp nơi trên thế giới bằng tuyên truyền lừa bịp và bạo lực giết chóc tràn lan tạo sự hoảng loạn và cướp các chính quyền ngay sau khi Hoa Kỳ và Hội Quốc Liên đề ra cuộc vận động trao trả độc lập cho mọi quốc gia bị đặt trong tình trạng Thuộc Địa. Họ gọi việc cướp chính quyền này là cuộc cách mạng của giới vô sản. Trong các cuộc “cách mạng” đó, CS Liên Xô - Stalin giết hại 30 triệu dân lành, CS Mao giết hại 60 triệu dân lành, CS Hồ giết hại hơn 2 triệu dân lành, CS Khmer giết hại gần 6 triệu dân lành. CS Cuba-CS Bắc Hàn chắc cũng giết dân lành nhiều không kém…
May mắn cho loài người, vào đầu thế kỷ 16, tại Âu Châu đã nổ ra cuộc cách mạng tôn giáo và đã tạo ra luồng gió mới về việc Kitô hữu phải đặt Niềm Tin và Sống Đạo của mình qua sự dìu dắt của Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Linh. Cụ thể là phải học hỏi Lời Chúa trong Thánh Kinh Tân Cựu Ước và sống đạo cho phù hợp.
Khi cuộc Cách Mạng Tôn Giáo dẫn tới giai đoạn đối đầu, nhiều giáo sĩ và tín hữu “Tin Lành” đã chạy thoát khỏi lục địa Châu Âu và đi tìm vùng Đất Mới tại lục địa Bắc Mỹ mà nay là Hoa Kỳ và Canada. Các nhà lãnh đạo các Giáo Hội Tin Lành đã tham khảo Lời Chúa trong Thánh Kinh, và họ đã dựa vào lời của 18 Ngôn Sứ trong Cựu Ước và của Đức Kitô trong Tân Ước để đưa ra những hướng dẫn rất cụ thể để xây dựng nên một Quốc Gia thật tốt đẹp như một “Trời Mới & Đất Mới”.
Như vậy các “Giáo Sĩ Quốc Phụ Hoa Kỳ” đã xây dựng các bản Hiến Pháp cho 13 Tiểu Bang đầu tiên và sau này Washington và các nhà lập pháp Hoa Kỳ cũng đã dựa vào hiến pháp của 13 tiểu bang để hình thành nên Bản Hiến Pháp của Liên Bang Hoa Kỳ năm 1789.
Điều thật kinh ngạc là những khái niệm về nền Cộng Hòa và Quản Trị Công Quyền đã xuất phát từ Môsê. Khái niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho như Quyền Tự Do, Quyền Tìm Kiếm Hạnh Phúc, Quyền Tư Hữu đã được các Ngôn Sứ Isaia, Ngôn Sứ Jêrêmia, Ngôn Sứ Êlia... chỉ dạy rõ ràng.
Như vậy, trong suốt hơn 3,500 năm lịch sử. Dân Tộc Do Thái đã thất bại trong việc xây dựng một “Quốc Gia Hùng Cường Dưới Sự Quan Phòng của Thiên Chúa” ngoại trừ một thời gian rất ngắn dưới triều đại của vua Solomon (thế kỷ 10 BC). Phải mãi đến thế kỷ 16 và sau đó, Hoa Kỳ đã thay thế vai trò của dân tộc Do Thái xây dựng thành công một Quốc Gia Minh Triết dưới sự quan phòng của Thiên Chúa – God Nation – In God We Trust trong nền “Văn Minh Tư Bản Thiên Chúa Giáo”.
Hoa Kỳ đã trở thành Quốc Gia Hùng Cường bậc nhất trong thế kỷ 20-21: có một nền tảng Hiến Pháp và nền Quản Trị Công Quyền mẫu mực cho các quốc gia khác; Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng là nền tảng cho Hiến Chương Nhân Quyền – Các quyền Dân Sự và Chính Trị của LHQ; Cũng chính Hoa Kỳ tác động tập hợp nên LHQ và cùng LHQ giải thể chế độ Thuộc Địa Toàn Cầu và giải phóng cho khoảng 130 quốc gia nhỏ hoặc yếu kém được trao trả Độc Lập.
Nhưng đáng tiếc, Hoa Kỳ Minh Triết & Hùng Cường chưa được bao lâu thì đã bị lao đao bởi chủ nghĩa “Marxism CS Vô Thần Toàn Cầu hóa” .
Marxism Vô Thần đã chui sâu vào Hoa Kỳ trong những vỏ bọc mị dân về “quyền tối thượng của con người” như quyền phá thai, quyền về mầu da sắc tộc, quyền về giới tính, ...
Chủ nghĩa Marxism đã đi vào Hoa Kỳ, mua chuộc truyền thông, mua chuộc lá phiếu, mua chuộc y tế và nhất là đề cao khái niệm đã bị bóp méo: “Tôn Giáo không làm Chính Trị” để đẩy các lời dạy của Chúa qua các Ngôn Sứ và Quốc Phụ Hoa Kỳ ra khỏi học đường, ra khỏi xã hội…
Nhà Nước Marxist xói mòn hiến pháp, xói mòn cấu trúc Tam Quyền Phân Lập. Nhà nước Marxist có quyền tối thượng trên mọi người dân Hoa Kỳ và trở thành “Thượng Đế” ban ơn mưa móc cho mọi người dân. Trong khi các Quốc Phụ Hoa Kỳ đã căn dặn: "Nhà Nước phải nhỏ nhất để Tự Do của Người Dân được lớn nhất".
Điều đáng tiếc, Hoa Kỳ đang cùng với thế giới đi vào trong thời kỳ vô thần hóa, hỗn loạn nhân tính, mơ hồ thiên tính, đề cao các ngẫu tượng vật chất - thú tính trong con người. Và Lời Chúa qua Giao Ước giữa Môsê (Loài Người) và Thiên Chúa lại vang vọng đâu đó: “Ngày nào các ngươi giữ gìn và thực hành Giao Ước của Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở nên một dân tộc vĩ đại - một Quốc Gia Hùng Cường. Ngày nào các ngươi không giữ gìn và xa rời Giao Ước của Ta, Ngày ấy các Ngươi sẽ bị quân thù bao vây và xâu xé…” Hình như Hoa Kỳ đang bị các “thế lực thù địch” xâu xé thật, khi Hoa Kỳ vừa và đang trải qua các “triều đại thiên Tả mị dân vô thần lường gạt” của Bill Clinton, Obama, và Biden-Harris.
Có lẽ Thiên Chúa đã nghe thấu tai những lời cầu nguyện của những người công chính và đã cứu ứng viên TT Trump không phải trong gang tấc mà là 1-2 cm. Không biết Chúa sẽ làm gì tiếp theo với Ông. Nhưng có lẽ những lời phát biểu của Ông trong sự kiện “Ngày Cầu Nguyện Quốc Gia” vào tháng Hai vừa qua cho chúng ta biết lòng Tín Thác vào Chúa của Ông sẽ đem Ông đến gần với Giao Ước giữa Thiên Chúa và Quốc Gia Hoa Kỳ:
Cuộc Cách Mạng MAGA – Make America Great Again – In God We Trust đang chiến đấu để giành lại chiến thắng.
Ký giả Mimmo Muolo của báo Công giáo Ý “Avvenire”, Tương Lai, hỏi Đức Thánh cha về cảm nghĩ của ngài về chiến tranh ở Gaza và có thể có một cuộc trung gian của Tòa Thánh giúp đạt tới một cuộc đình chiến hay không? Đức Thánh cha đáp:
“Tòa Thánh đang hoạt động cho mục tiêu đó. Tôi nói với các bạn về điều này: mọi ngày, tôi đều điện thoại cho Gaza, giáo xứ ở Gaza, trong giáo xứ và trường học tại đó có 600 người, Kitô hữu cũng như Hồi giáo, nhưng họ sống với nhau như anh chị em. Họ kể lại cho tôi những chuyện buồn, những điều khó khăn. Tôi không thể gọi hành động chiến tranh này là “quá khát máu” hay không, khi ta thấy những xác trẻ em bị giết, khi thấy người ta lấy cớ là có vài chiến binh ở một nơi nào đó, để dội bom vào một trường học: đó thật là xấu xa, quá xấu xa. Thỉnh thoảng, người ta bảo đây là một cuộc chiến tự vệ, nhưng nhiều lần tôi nghĩ rằng đây là một cuộc chiến tranh thái quá, và tôi thấy không có những bước được thực hiện để xây dựng hòa bình. Ví dụ, tại Verona, [trong cuộc gặp gỡ hòa bình ngày 18 tháng Năm năm 2024), tôi đã có một kinh nghiệm rất đẹp: một người Do thái có vợ bị thiệt mạng trong một vụ đánh bom, và một người Palestine ở Gaza, nơi con gái ông bị mất mạng. Cả hai đã nói về hòa bình, và họ đã ôm nhau để làm chứng về tình huynh đệ. Tôi muốn nói điều này: tình huynh đệ quan trọng hơn việc giết hại người anh em. Tình huynh đệ bắt tay nhau. Xét cho cùng, người thắng trận sẽ bị một thất bại lớn. Chiến tranh luôn luôn là một thất bại, không có luật trừ. Và chúng ta không được quên điều này. Vì thế, tất cả những gì chúng ta làm cho hòa bình đều là quan trọng. Và tôi cũng muốn nói điều này, có phần xen mình vào chính trị, nhưng tôi phải nói: “Tôi rất cám ơn những gì Quốc vương Giordani đang làm. Nhà vua là một người hòa bình và đang tìm cách thực hiện hòa bình. Vua Abdullah thực là một người tài giỏi và tốt lành”.
Nữ ký giả Anna Matranga của đài CBS News, ở Mỹ hỏi Đức Thánh cha về cuộc bầu cử tổng thống sắp tới ở Mỹ, giữa hai ứng cử viên: một người ủng hộ phá thai và một người muốn trục xuất 11 triệu người nhập cư bất hợp pháp, các cử tri Công giáo nên bỏ phiếu cho ai? Đức Thánh cha đáp:
“Cả hai đều chống lại sự sống, người trục xuất di dân và người giết hại các trẻ em. Cả hai đều chống sự sống. Tôi không thể nói phải bỏ phiếu cho ai, tôi không phải là người Mỹ. Nhưng điều thật rõ ràng là: trục xuất những người nhập cư, không cho họ được làm việc, không tiếp đón di dân, đó là tội, tội nặng. Trong Cựu ước, có một điệp khúc là cô nhi, quả phụ và khách ngụ cư, tức là di dân. Đó là ba nhóm người mà dân Israel phải gìn giữ. Ai không gìn giữ di dân thì thiếu sót, là một tội chống lại sự sống của những người ấy. Tôi đã cử hành thánh lễ ở biên giới, gần Giáo phận El Paso, có bao nhiêu giầy dép của những người di dân từ Trung Mỹ, bao nhiêu lần những người ấy bị đối xử như nô lệ, vì người ta lợi dụng họ. Di cư là một quyền, như trong Cựu ước đã nói tới. Đó là điều tôi nghĩ về những người di cư.”
Sang đến phá thai. Khoa học nói rằng trong tháng sau khi được thụ thai, bào thai đã có tất cả những cơ phận của một người. Phá thai là giết người. Dù muốn dù không về từ này, hành động đó vẫn là giết người. Giáo hội không khép kín vì không cho phép phá thai: Giáo hội không cho phép phá thai, vì việc làm đó là sát nhân. Về điều này chúng ta phải rõ ràng...
“Về việc bỏ phiếu: trong luân lý chính trị, người ta thường nói không bỏ phiếu là điều xấu: phải đi bầu. Và ta phải chọn sự ác nhỏ hơn: ai là người xấu hơn: phụ nữ phá thai hay người trục xuất di dân? Tôi không biết, mỗi người hãy suy nghĩ và thi hành theo lương tâm mình”.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh cha còn ca ngợi và ngưỡng mộ Trung Quốc, đồng thời tái khẳng định ước muốn viếng thăm nước này. Ngài bày tỏ hài lòng về hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, về việc bổ nhiệm giám mục, và nói rằng: “Trung Quốc là một lời hứa và là một hy vọng đối với Giáo hội”.
Ngoài ra, Đức Thánh cha cho biết chưa quyết định gì về việc trở về thăm quê hương Argentina, đồng thời bác bỏ tin đồn là ngài sẽ đến Paris để ngày 07 và 08 tháng Mười Hai sắp tới, khánh thành Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Paris, được tu bổ sau hỏa hoạn.
Sau khi về đến Roma lúc 6 giờ 46 phút chiều, như thói quen, Đức Thánh cha đã đến Đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện, cảm tạ Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma đã phù hộ ngài trong chuyến viếng thăm mười hai ngày tại bốn quốc gia: Indonesia, Papua New Guinea, Đông Timor và Singapore.
Đức Hồng y Mario Grech, người Malta, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục cho biết như trên, trong cuộc họp báo, sáng ngày 16 tháng Chín vừa qua, tại Vatican, để trình bày về diễn tiến Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới.
Trong buổi canh thức đặc biệt đó, sẽ có ba chứng từ được trình bày, về những tội lỗi của những người nam nữ trong Giáo hội: nhiều thứ tội được liệt kê ra. Đức Hồng y Grech nói: “Đây không phải là kể tội những người khác, nhưng là nhìn nhận mình cũng là thành phần của những người phạm các tội ấy bằng hành động hoặc do sự thiếu sót, gây ra đau khổ. Và Đức Thánh cha sẽ nhân danh toàn thể Giáo hội xin Chúa ban ơn tha thứ. Kiểu mẫu của nghi thức thống hối này là buổi cử hành thống hối do thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thực hiện, hồi Năm Thánh 2000.
Trước khi Thượng Hội đồng Giám mục bắt đầu, sẽ có những biến cố tinh thần quan trọng, dẫn đến khóa họp mới. Từ ngày 30 tháng Chín đến ngày 01 tháng Mười, các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục sẽ tham dự cuộc tĩnh tâm, tại Hội trường mới của Thượng Hội đồng Giám mục, ở nội thành Vatican, thay vì tại Domus Fraterna, Nhà Huynh đệ, ngoại ô Roma như hồi năm ngoái. Hướng dẫn hai ngày tĩnh tâm này vẫn là linh mục Timothy Radcliffe, người Anh, cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, tiếp đến là Mẹ Ignazia Angelini, Dòng Biển Đức, người Ý, và sau cùng là cha Mattero Ferraro, Dòng Biển Đức Camaldolese. Tiếp nối với sinh hoạt này là buổi cử hành nghi thức thống hối, tại Đền thờ thánh Phêrô. Cuối buổi cử hành đó, các tham dự viên có thể lãnh nhận bí tích xá giải.
Danh sách các thứ tội sẽ được nêu lên trong buổi cử hành nghi thức thống hối, chiều ngày 01 tháng Mười, là:
- Tội chống lại hòa bình
- Tội chống lại thiên nhiên, hay công trình tạo dựng, tội chống lại các thổ dân bản địa, chống lại người di dân
- Những tội lạm dụng
- Tội chống lại các phụ nữ, gia đình, giới trẻ
- Tội lạm dụng đạo lý như hòn đá vấp phạm
- Tội chống lại nghèo đói
- Tội chống lại tính hiệp hành hoặc đồng hành, thiếu lắng nghe
Cùng đứng ra tổ chức sự kiện này, có Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục, cùng với Hiệp hội các Bề trên Tổng quyền các dòng nam và dòng nữ.
Thượng Hội đồng Giám mục bắt đầu với một buổi cầu nguyện đại kết: cạnh Đức Thánh cha còn có nhiều vị lãnh đạo và đại diện các Giáo hội Kitô khác. Buổi cầu nguyện này nói lên sự liên kết và ước muốn hòa giải giữa các tín hữu Kitô.
Từ ngày 02 đến ngày 27 tháng Mười, giống như năm ngoái, Thượng Hội đồng Giám mục diễn ra tại Đại thính đường Phaolô VI: khía cạnh được nhấn mạnh ở đây không phải là một hội nghị, nhưng là một thời điểm cầu nguyện và lắng nghe.
Trong thời điểm tiến hành Thượng Hội đồng Giám mục, sẽ có bốn diễn đàn về thần học mục vụ, trong đó các chuyên gia và thần học gia thảo luận về các đề tài quan trọng của Giáo hội. Các diễn đàn này có mục đích đào sâu căn bản thần học của Thượng Hội đồng Giám mục và ý nghĩa sự hiệp hành hay đồng hành trong các khía cạnh khác nhau của đời sống Giáo hội.
Tổng số tham dự viên của Thượng Hội đồng Giám mục là 368 người, trong đó có 272 giám mục và 96 người không phải là giám mục, gồm 30 linh mục và 25 nữ tu, 28 nữ giáo dân và một số người khác.
Trong số các nghị phụ, do chức vụ đương nhiên tham dự, có 15 vị thủ lãnh các Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương, 20 vị đứng đầu các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Có 185 nghị phụ được bầu, trong số này có 168 đại biểu của các Hội đồng Giám mục, 5 vị từ các Giáo hội Công giáo Đông phương, 10 vị Bề trên Tổng quyền các dòng.
Ngoài ra, có 57 tham dự viên do Đức Thánh cha bổ nhiệm. Con số các tham dự viên khác là 155 vị, trong đó có 16 đại biểu các Giáo hội Kitô Anh em: tăng thêm 4 vị so với trước đây, vì có thêm các Giáo hội Kitô khác quan tâm đến Thượng Hội đồng Giám mục này.
Những người lãnh đạo Thượng hội đồng trình bày chi tiết về Thương Hội đồng tháng 10
Các Hồng Y Grech và Hollerich, cùng với Cha Costa và Đức ông Battocchio, phác thảo chi tiết về Thượng hội đồng, nhóm họp vào tháng 10, với một cuộc họp báo tại Vatican do Chủ tịch Thánh Bộ Truyền thông điều phối. Đức Giáo Hoàng sẽ chủ trì một buổi lễ sám hối với lời chứng từ của các nạn nhân bị lạm dụng, chiến tranh và thờ ơ trước vấn nạn di cư. Những điểm mới đáng chú ý bao gồm bốn điểm diễn đàn công khai, có hai giám mục từ Trung Quốc sẽ tham dự.
(Tin Vatican - Tiziana Campisi và Salvatore Cernuzio)
Thượng hội đồng là thời gian cầu nguyện, "không phải là một hội nghị", mà là "một hội đồng Giáo hội cầu nguyện", là thời gian để lắng nghe Lời Chúa và Chúa Thánh Thần, và là cơ hội để cầu xin Chúa tha thứ lỗi lầm của Giáo hội. Đức Hồng Y Mario Grech, Tổng thư ký của Thượng hội đồng, đã trình bày phiên họp thứ hai của Đại hội đồng thường kỳ XVI của Thượng hội đồng giám mục, sẽ được tổ chức tại Rome từ ngày 2 đến ngày 27 tháng 10, trong một cuộc họp báo vào thứ Hai, ngày 16 tháng 9. Ngài nhắc nhớ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tại lễ khai mạc con đường công nghị vào ngày 9 tháng 10 năm 2021, đã nhấn mạnh "nhân vật chính của Thượng hội đồng là Chúa Thánh Thần".
ĐHY Paolo Ruffini, Chủ tịch Thánh Bộ Truyền thông và Ủy ban Thông tin của Thượng hội đồng, đã giới thiệu những đóng góp minh họa cho Thượng hội đồng tại Văn phòng Báo chí Tòa thánh.
Tĩnh tâm và Canh thức sám hối
Đức Hồng Y Grech giải thích rằng, giống như phiên họp đầu tiên, phiên họp thứ hai và cũng là phiên họp cuối cùng của Thượng hội đồng về tính công nghị này sẽ được tiến hành bằng hai ngày tĩnh tâm vào ngày 30 tháng 9 và ngày 1 tháng 10 tại Vatican, dưới sự hướng dẫn của Cha Timothy Radcliffe, Dòng Đaminh và Mẹ Ignazia Angelini, Dòng Biển Đức. Các ngài sẽ hướng dẫn các buổi cầu nguyện cho Thượng Hội đồng, cùng với Cha Matteo Ferrari của dòng Camaldolese, người sẽ chịu trách nhiệm về các nghi lễ; và các tu sĩ của Camaldoli.
Điểm mới trong năm nay sẽ là một buổi canh thức sám hối sau kỳ tĩnh tâm, được tổ chức vào tối thứ Ba, ngày 1 tháng 10, tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, và do Đức Giáo Hoàng Phanxicô chủ trì. Buổi lễ được tổ chức bởi Tổng thư ký của Thượng Hội đồng và Giáo phận Rome phối hợp với Liên hiệp các Bề trên Cao cấp (USG) và Liên hiệp các Bề trên Cao cấp Quốc tế (UISG), sự kiện này sẽ được đài Vatican phát sóng và mở cửa cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ, "vì sứ điệp của Giáo hội được giao phó cho họ", Đức Hồng Y Hollerich cho biết. Ngài nhấn mạnh rằng "những người trẻ phải chịu đau khổ vì tội lỗi của chúng ta và tội lỗi trong Giáo hội". Lễ hội sẽ có các chứng từ của ba cá nhân đã bị lạm dụng, chiến tranh và trước sự thờ ơ của cuộc khủng hoảng di cư đang gia tăng. Sau đó sẽ có những lời thú tội về những tội lỗi cụ thể để “nhận ra mình là một phần của những người, thông qua hành động hoặc sự thiếu sót, phải chịu trách nhiệm trước nỗi đau triền miên mà những người vô tội và không có khả năng tự vệ phải chịu đựng”, ĐHY Grech nhấn mạnh.
Cụ thể, những tội lỗi chống lại hòa bình, công trình sáng tạo, người bản địa, người di cư, phụ nữ, gia đình, thanh thiếu niên; tội xử dụng giáo lý như một hòn đá chống lại người khác, tội chống lại sự nghèo đói và tính công đồng (chẳng hạn như không lắng nghe, hoặc tội làm tổn hại đến sự hiệp thông hoặc sự tham gia của tất cả mọi người) sẽ được thú nhận. Đức Giáo Hoàng sẽ kết thúc bằng lời cầu xin tha thứ từ Thiên Chúa và toàn thể nhân loại thay mặt cho tất cả các tín hữu.
Lời cầu nguyện chung
Một buổi lễ cầu nguyện chung cũng sẽ được tổ chức vào tối ngày 11 tháng 10 tại Vatican tại Quảng trường Protomartyrs, nơi truyền thống cho rằng Thánh Phêrô đã bị tử đạo. Ngày này đánh dấu kỷ niệm 62 năm ngày khai mạc Công đồng Vatican II. Cuối cùng, vào ngày 21 tháng 10, sẽ có một ngày tĩnh tâm khác để chuẩn bị cho việc phân định dự thảo văn kiện cuối cùng. Như Đức Hồng Y Grech đã thông báo, sẽ có "sự luân phiên giữa cầu nguyện cá nhân, đối thoại và hiệp thông huynh đệ trong việc lắng nghe và trao đổi lẫn nhau".
Bốn diễn đàn mở cho tất cả
Một tính năng mới khác sẽ là bốn diễn đàn thần học-mục vụ, mở cho tất cả mọi người, bao gồm cả các nhà báo. Hai diễn đàn sẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 10, một diễn đàn về "dân Chúa, Chủ thể của Sứ mệnh" tại Hội trường Đại học Dòng Tên, và diễn đàn còn lại về "Vai trò và Quyền hạn của Giám mục trong Giáo hội Công đồng" tại Augustinianum. Hai diễn đàn còn lại sẽ được tổ chức vào ngày 16 tháng 10. Các chủ đề sẽ là "Mối quan hệ hỗ tương giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ" tại Hội trường Đại học Dòng Tên và "Việc thực hiện Quyền tối thượng và Thượng hội đồng Giám mục" tại Augustinianum. Các diễn đàn này sẽ có sự tham gia của các nhà thần học, chuyên gia giáo luật, giám mục và nhiều người khác, với cơ hội đối thoại. Các diễn đàn cũng sẽ có trực tuyến theo yêu cầu.
Số lượng người tham dự Thượng hội đồng
Đức Hồng Y Hollerich giải thích số lượng người tham gia phiên họp thứ hai này tương tự như phiên họp đầu tiên, với 368 thành viên bỏ phiếu, bao gồm 272 giám mục và 96 thành viên không phải giám mục. Đã có 26 lần thay đổi, chủ yếu là thay thế. Có 8 người được mời đặc biệt, trong khi số lượng đại biểu đã tăng từ 12 lên 16, phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của các Giáo hội anh em trong hành trình Thượng hội đồng. Ngài cũng xác nhận sự hiện diện của hai giám mục từ Trung Quốc sẽ tham dự Thượng Hội đồng kỳ này.
Đức cha Álvarez năm nay 57 tuổi, được Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Matagalpa, hồi năm 2011. Ngài mạnh mẽ bênh vực nhân quyền chống lại những vụ lạm dụng và đàn áp Giáo hội của nhà độc tài Daniel Ortega, đặc biệt trong cuộc biểu tình của dân chúng hồi năm 2018.
Cuộc bách hại Đức cha bắt đầu hồi tháng Tám năm 2022: ngài bị quản thúc tại Tòa giám mục cùng với các linh mục, chủng sinh và một giáo dân. Hai tuần sau đó, khi Tòa giám mục cạn lương thực, cảnh sát đột nhập Tòa giám mục và bắt Đức cha Álvarez, đưa về thủ đô Managua. Ngày 10 tháng Hai năm ngoái, 2023, Đức cha bị tòa kết án 26 năm 4 tháng tù, về tội gọi là “phản quốc”. Đức cha bị giam tại nhà tù La Modelo, nơi các tù nhân chính trị bị cầm giữ.
Một ngày trước khi bị kết án, Đức cha Álvarez từ chối bước lên máy bay chở hơn 200 tù nhân chính trị bị chế độ trục xuất sang Mỹ.
Sau cùng, Đức cha lưu vong sang Vatican, ngày 14 tháng Giêng năm nay, cùng với Đức cha Isidoro Mora, Giám mục Giáo phận Siuna, và các linh mục và chủng sinh, do sự trung gian của Tòa Thánh.
Trong tám tháng qua ở Roma, Đức cha Álvarez sống âm thầm, và sự kiện ngài sẽ tham dự Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc sống ẩn dật, từ khi đến Vatican. Ngày 15 tháng Giêng, những hình ảnh đầu tiên của ngài được phổ biến, khi ngài chụp hình cùng với các linh mục lưu vong, khi cử hành một thánh lễ ở Roma.
Hồi tháng Sáu năm nay, Đức cha đã viếng thăm tại thành phố Sevilla, miền nam Tây Ban Nha cũng như đền thánh Covadonga ở miền Asturias của nước này.
Hai giám mục Trung Quốc tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Kỳ XVI
Vị thứ hai vẫn tiếp tục tham dự như năm ngoái, đó là Đức cha Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), Giám mục Giáo phận Chu Thôn (Zhouchun), Tỉnh Sơn Đông.
Đức cha Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu) năm nay 63 tuổi, thuộc danh sách 8 giám mục thụ phong bất hợp pháp, được Đức Thánh cha giải vạ tuyệt thông và hợp thức hóa hồi năm 2018, nhân dịp ký kết hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, về việc bổ nhiệm các giám mục. Đức cha thụ phong giám mục ngày 06 tháng Giêng năm 2000 trước đó, tại Bắc Kinh mà không có phép của Đức Giáo hoàng.
Giáo phận Mân Đông ở Phúc Kiến là tỉnh có đông tín hữu Công giáo nhất tại Trung Quốc.
Trong cuộc họp báo hôm 16 tháng Chín, về việc tổ chức Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới, ký giả đã hỏi lý do về sự thay đổi giám mục Trung Quốc trên đây, Đức Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, nói rằng: “Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh thông báo cho chúng tôi tên của các vị, nhưng chúng tôi không có thông tin về lý do sự thay đổi đó”.
Hãng tin Asia News nhận định rằng việc chỉ định Đức cha Chiêm Tư Lộc thay thế Đức cha Diệu Thuận là do các cơ quan chính thức của cộng đoàn Công giáo Trung Quốc do nhà nước kiểm soát.
Cùng với hai vị trên đây, giống như năm ngoái có hai nghị phụ khác người Hoa tại Khóa họp thứ II của Thượng Hội đồng Giám mục, là Đức Hồng y Stephano Chu Thủ Nhân (Chow Sau-yan), Giám mục Hong Kong, và Đức cha Norberto Phổ Anh Hùng (Pu Yingxiong), Giám mục Giáo phận Gia Nghĩa (Kiayi), đại biểu của Hội đồng Giám mục Đài Loan. Đức cha Phổ Anh Hùng là giám mục đầu tiên người dân tộc tại lãnh thổ này.
Hai đại biểu của Hội đồng Giám mục Việt Nam tham dự công nghị này, là Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam và Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Giáo phận Hà Tĩnh, Phó Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Trong buổi họp báo, Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng, cùng với Cha Costa và Đức ông Riccardo Battocchio, thành viên của Ủy ban Thư ký đặc biệt của Thượng Hội đồng, đã phác thảo chi tiết Phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng.
Đức Hồng y Grech nhắc lại rằng Thượng Hội đồng là thời gian cầu nguyện, “không phải là một hội nghị”, nhưng là một “một cộng đoàn Giáo hội cầu nguyện”, là thời gian để lắng nghe Lời Chúa và Chúa Thánh Thần, và là cơ hội để cầu xin Chúa tha thứ cho tội lỗi của Giáo hội.
Tĩnh tâm và canh thức cầu nguyện
Đức Hồng y giải thích, giống như Phiên họp thứ nhất vào tháng 10/2023, trước Phiên họp thứ hai và cũng là cuối cùng của Thượng Hội đồng Giám mục thứ 16, sẽ có hai ngày tĩnh tâm, vào ngày 30/9 và 1/10/2024, tại Vatican, được hướng dẫn bởi các bài suy niệm của Cha Timothy Radcliffe, nguyên Bề trên Tổng quyền dòng Đaminh, và Mẹ Ignazia Angelini dòng Biển Đức.
Một điểm mới trong phiên họp năm nay là, Đức Hồng y Grech cho biết, sẽ có giờ canh thức sám hối do Đức Thánh Cha chủ sự vào chiều thứ Ba ngày 1/10/2024, tại Đền thờ Thánh Phêrô. Giờ canh thức được tổ chức bởi Ủy ban Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng và giáo phận Roma, với sự cộng tác của Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền dòng nam và Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền dòng nữ.
Trong cử hành canh thức, sẽ có phần trình bày chứng từ của ba cá nhân nạn nhân của các tội lạm dụng, chiến tranh và sự thờ ơ đối với khủng hoảng di dân. Sau đó sẽ có những lời thú tội về những tội lỗi cụ thể để “nhận ra chúng ta là một phần của những người, thông qua sự thiếu sót hoặc hành động, trở thành người chịu trách nhiệm cho nỗi đau khổ và tổn hại mà những người vô tội và không có khả năng tự vệ phải gánh chịu”.
Đặc biệt, những tội lỗi chống lại hòa bình, thụ tạo, người bản địa, người di cư, phụ nữ, gia đình, người trẻ; tội sử dụng giáo lý như một hòn đá chống lại người khác, tội lỗi chống lại đói nghèo và hiệp hành (ví dụ như không lắng nghe, hoặc tội lỗi làm tổn hại đến sự hiệp thông hoặc sự tham gia của tất cả mọi người) sẽ được thú nhận.
Đức Thánh Cha sẽ kết thúc giờ canh thức bằng cách thay mặt cho tất cả các tín hữu cầu xin sự tha thứ từ Thiên Chúa và toàn thể nhân loại.
Cầu nguyện đại kết
Đức Hồng y Grech cho biết thêm, một buổi cầu nguyện đại kết cũng sẽ được tổ chức vào tối ngày 11/10/2024 tại Quảng trường các vị Tử đạo tiên khởi ở Vatican, nơi truyền thống cho rằng Thánh Phêrô đã chịu tử đạo. Ngày này đánh dấu kỷ niệm 62 năm ngày khai mạc Công đồng Vatican II.
Vào ngày 21/10/2024, sẽ có một ngày tĩnh tâm khác. Theo Cha Costa, cuộc tĩnh tâm này sẽ cho phép các thành viên chuẩn bị về mặt thiêng liêng cho việc trình bày bản dự thảo tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng, mà họ sẽ được kêu gọi đưa ra phản hồi trước khi bỏ phiếu về nội dung cuối cùng của tài liệu.
Đức Hồng y Grech lưu ý rằng sẽ có “một sự luân phiên giữa các giờ cầu nguyện cá nhân, đối thoại và hiệp thông huynh đệ trong sự lắng nghe và yêu thương lẫn nhau”.
Bốn diễn đàn thần học-mục vụ
Một điểm mới khác trong Phiên thứ hai của Thượng Hội đồng Giám mục thứ 16 sẽ là bốn diễn đàn thần học-mục vụ, dành cho tất cả mọi người, bao gồm cả các nhà báo đã đăng ký.
Hai diễn đàn sẽ diễn ra vào ngày 9/10/2024, một diễn đàn về “Dân Chúa, Chủ thể của việc Truyền giáo” tại Hội trường Nhà Tổng quyền dòng Tên, và diễn đàn còn lại về “Vai trò và Quyền hạn của Giám mục trong Giáo hội Hiệp hành” tại Học viện Augustinianum.
Hai diễn đàn còn lại sẽ được tổ chức vào ngày 16/10/2024. Các chủ đề sẽ là “Mối quan hệ hỗ tương giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ” tại Hội trường Nhà Tổng quyền dòng Tên và “Việc thực hiện Quyền tối thượng và Thượng hội đồng Giám mục” tại Học viện Augustinianum. Các diễn đàn này sẽ có sự tham gia của các nhà thần học, chuyên gia giáo luật, giám mục và những người khác, với cơ hội đối thoại. Các diễn đàn cũng sẽ được chiếu trực tuyến theo yêu cầu.
Các tham dự viên
Về số tham dự viên của Thượng hội đồng, Đức Hồng y Hollerich giải thích rằng số người tham gia phiên họp thứ hai này tương tự như phiên họp đầu tiên, với 368 thành viên bỏ phiếu, bao gồm 272 giám mục và 96 người không phải giám mục. Có 26 thay đổi, chủ yếu là thay thế. Có 8 vị khách mời đặc biệt, trong khi số các đại biểu anh em đã tăng từ 12 lên 16, phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của các Giáo hội anh em trong tiến trình hiệp hành. Ngài cũng xác nhận sự hiện diện của hai giám mục từ Trung Quốc, đó là Đức Cha Giuse Dương Vĩnh Cường của giáo phận Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang, và Đức Cha Vinh Sơn Chiêm Tử Lộc của giáo phận Phúc Ninh thuộc tỉnh Phúc Kiến.
Trong số các thành viên của nhóm nghiên cứu có Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng, Đức Tổng Giám mục Luciano Russo, Đức Tổng giám mục Salvatore Pennacchio, Giám đốc Học viện đào tạo các nhân vật ngoại giao của Tòa Thánh. Nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra những đề nghị nhắm cải thiện vai trò của các Sứ thần, để họ có thêm tinh thần truyền giáo và tính hiệp hành. Nhóm đã bắt đầu công việc với các cuộc họp với các viên chức của Phủ Quốc vụ khanh và các Chủ tịch các Hội đồng Giám mục ở các châu lục.
Sau phiên họp thứ nhất của Thượng Hội đồng về Hiệp hành, Đức Thánh Cha đã xác định một số vấn đề cần được nghiên cứu đặc biệt, trong đó có vai trò của các Sứ thần. Ngài muốn chuyển trọng tâm của các Sứ thần Tòa Thánh.
Vai trò của các Sứ thần: giúp đỡ các giám mục địa phương
Theo Đức Hồng y Gracias, có lo ngại rằng các Sứ thần có thể trở nên quá quan liêu nếu họ chủ yếu hoạt động như các đại sứ của Tòa Thánh. Do đó, Đức Thánh Cha đang cố gắng chuyển trọng tâm này trở lại và giúp họ thấy vai trò của họ là giúp đỡ các giám mục địa phương. Cuối cùng, họ không nên hoàn toàn tách khỏi vấn đề hiệp hành.
Đức Hồng y giải thích rằng Đức Thánh Cha nhấn mạnh vào vai trò kép của Sứ thần Tòa Thánh là đại sứ của Tòa Thánh tại chính quyền tương ứng và đồng thời là đại diện của Đức Thánh Cha tại các giáo hội địa phương. Ngài nói: “Đức Thánh Cha hiện nhấn mạnh rằng làm việc với giáo hội địa phương và các giám mục là quan trọng hơn”.
Hồng y Tổng Giám mục Bombay giải thích rằng các Sứ thần có tinh thần truyền giáo có thể theo nghĩa là họ khuyến khích các giám mục, giúp đỡ họ và nhìn thấy sứ vụ của Giáo hội có thể được phát triển thế nào.
Ngài cũng cho biết: “Tại một số cuộc họp và cũng với Đức Thánh Cha, tôi đã nói rằng cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn nhiều với các Sứ thần và Hội đồng Giám mục địa phương. Điều này sẽ giúp ích cho giáo hội địa phương bởi vì các Sứ thần thường đến từ một quốc gia và nền văn hóa khác. Do đó các Sứ thần cần có cái nhìn hiệp hành với Giáo hội địa phương
Theo Cha Zdzisław Banaś, Tuyên úy toàn quốc của Những Người bị lưu đày ở Siberia, nhiều linh mục đã hy sinh vì đạo ở đó. Những người sống sót đã duy trì đức tin giữa những người bị lưu đày, và một số người vẫn tự nguyện ở lại đó để ở bên những người bị lưu đày. Cha Banaś nhấn mạnh: “Họ là những anh hùng không chỉ cứu rỗi linh hồn mà còn cứu sống rất nhiều người”.
“Những Người bị lưu đày ở Siberia” bao gồm những người bị đày đến nơi này trong thời Nga hoàng cũng như trong thời Liên Xô. Giáo sĩ đầu tiên được nhớ đến là Giám mục Kajetan Sołtyk, bị người Nga trục xuất đến Kaluga. Sau đó, hàng loạt các linh mục tiếp tục bị trục xuất trong thời nữ hoàng Catarina II.
Cha Banas giải thích: “Các giáo sĩ là những người yêu nước, và Giáo hội Công giáo gắn liền với lịch sử của quốc gia, đó là lý do tại sao sự căm ghét chủ yếu nhắm vào các linh mục”.
Các linh mục bị lưu đày, dù là tù nhân, vẫn thi hành sứ vụ mục vụ. Các ngài hỗ trợ những tù nhân phải lao động nặng nhọc và bị bách hại. Giáo sư Jan Żaryn cho biết, vào cuối năm 1881, đã có 270 linh mục bị lưu đày ở Siberia hay những nơi khác ở Nga. Điều này cho thấy mức độ bách hại chống giáo sĩ.
Các linh mục không thể tưởng tượng được việc để lại các tín hữu một mình, đó là lý do tại sao nhiều vị sẵn sàng chịu cảnh lưu đày. Các ngài ban các bí tích, nghi thức cuối cùng và chôn cất. Theo giáo sư Jan Żaryn, ngôi nhà gulag bằng gỗ, “nhà của linh mục”, nơi các linh mục sống trong một trong những ngôi làng ở Siberia là một bằng chứng sống động có thể được coi là di tích tử đạo của các linh mục đã chịu đựng những điều kiện này trong nhiều năm.
Theo thông cáo của Vatican, "Phủ Thống đốc Thành Vatican sẽ phát hành một con tem do Dịch vụ Bưu chính và Tem thư của Tổng cục Viễn thông và Hệ thống Thông tin phát hành”.
Bà Laura Hochla, Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh, sẽ cùng Đức Hồng Y Phủ Thống đốc Thành Vatican giới thiệu con tem.
Hiện diện trong buổi giới thiệu tem còn có Sơ Raffaella Petrini, Tổng Thư ký Phủ Thống đốc Thành Vatican và kỹ sư Antonino Intersimone, Giám đốc Tổng cục Viễn thông và Hệ thống Thông tin, và Cha Felice Bruno thuộc dòng Don Orione, tân Chánh Văn phòng của Dịch vụ Bưu chính và Tem thư của Vatican.
Thông cáo của Vatican cho biết, "Con tem mô tả huy hiệu của Tòa Thánh và Hoa Kỳ, được thống nhất một cách lý tưởng bởi các dải ruy băng gợi lên lá cờ của Vatican và Hoa kỳ. Nhân dịp này, Dịch vụ Bưu chính và Tem thư của Vatican cũng chuẩn bị một tem thư có đóng dấu ngày phát hành. Con tem mang quốc huy của Tòa Thánh và Hoa Kỳ, có các dòng chữ “kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ”, “Bưu điện Vatican” và “ngày phát hành 16/09/2024”.
Đề xuất này được đưa ra sau khi các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt các tín đồ Ấn giáo, phải đối diện với một loạt các cuộc tấn công sau cuộc nổi dậy đẫm máu do sinh viên lãnh đạo lật đổ Thủ tướng Sheikh Hasina và đảng Liên đoàn Awami của bà khỏi quyền lực vào ngày 05/8 vừa qua.
Hơn 800 người đã thiệt mạng và khoảng 18.000 người bị thương khi yêu cầu cải cách chính sách của sinh viên biến thành cuộc nổi loạn chống chính phủ trên toàn quốc. Chế độ của thủ tướng Hasina đã sử dụng vũ lực để dập tắt các cuộc biểu tình, gây ra hầu hết các trường hợp tử vong.
Sau khi bà Hasina chạy trốn, nhà cửa và tài sản của các nhóm tôn giáo thiểu số, chủ yếu của các tín đồ Ấn giáo, những người ủng hộ truyền thống của đảng bà Hasina, đã bị tấn công. Chỉ tính từ ngày 05 đến 20/8, ít nhất 1.068 ngôi nhà và doanh nghiệp của người thiểu số đã bị tấn công, trong khi 22 nơi thờ phượng cũng bị tấn công.
Cố vấn đối ngoại Bangladesh Touhid Hossain cho biết hầu hết các cuộc tấn công đều có động cơ chính trị chứ không phải vì lý do tôn giáo.
Trước tình hình này, Đức Tổng Giám Mục Kevin S. Randall, Sứ thần Tòa Thánh tại Bangladesh cho biết, Bộ Đối thoại Liên tôn lên kế hoạch cử một phái đoàn đến Bangladesh, gặp gỡ các học giả Hồi giáo và đối thoại về hành trình đức tin của họ, cụ thể nhấn mạnh sự hòa hợp tôn giáo tại quốc gia Nam Á này.
Ngày 09/9, Đức Tổng Giám Mục Randall đã gặp ông Muhammad Yunus, người đứng đầu chính phủ lâm thời Bangladesh, và truyền đạt thông điệp này.
Một quan chức Bộ ngoại giao Bangladesh tham dự cuộc gặp gỡ nói rằng chính phủ sẽ tiến hành làm việc với Vatican sau khi nhận được đề xuất và lịch trình cụ thể.
Sứ thần Toà Thánh nhận xét, ở Bangladesh trong nhiều thập kỷ, các tín đồ của các tôn giáo đã chung sống hòa thuận nhưng “vẫn còn một số nhầm lẫn” nơi người dân và trong các cơ quan chính phủ về ý tưởng tự do tôn giáo. Mọi người đều thiếu hiểu biết rằng các nhóm tôn giáo thiểu số có thể thực hành đức tin ở mà không bị đe dọa. Vì vậy, đối thoại ở cấp độ học giả là để nhắc nhở rằng Bangladesh không phải là quốc gia tôn giáo. Hồi giáo là tôn giáo chính thức, nhưng điều đó không ngăn cản người Ấn giáo thực hành đức tin.
Thực tế, trong nền chính trị “dân tộc-tôn giáo” được thực hành ở tiểu lục địa Ấn Độ, các tôn giáo đã bị sử dụng để đạt được mục đích chính trị. Vì thế các học giả tôn giáo phải lên tiếng phản đối việc sử dụng tôn giáo như một công cụ chính trị, và cần hiểu rõ hơn về cách tôn giáo có thể mang lại hòa bình cho mọi người và sự hiểu biết đó cần phải đến được với mọi người.
Quốc gia này có dân số khoảng 170 triệu người, 91% Hồi giáo và gần 8% theo Ấn giáo. Tất cả các tôn giáo khác, bao gồm cả Kitô giáo, chiếm 1% phần còn lại. Người Công giáo chưa tới 500.000 người.
Hồi cuối tháng Bảy năm nay, người ta phát hiện một nữ cộng tác viên của Caritas Luxembourg đã biển thủ 61 triệu Euro của Caritas và chuyển khoản vào một ngân hàng ở Tây Ban Nha. Caritas và viện công tố xác nhận vụ này. Cuộc điều tra về tội giả mạo, gian lận, lường gạt, bất trung và rửa tiền đã được khởi sự. Một người ban đầu bị bắt giam, nhưng sau đó được trả tự do tạm sau khi đóng tiền thế chân.
Caritas Luxembourg cũng thông báo rằng một Ủy ban về cuộc khủng hoảng này đã được thành lập, dưới sự hướng dẫn của ông Cristian Billon, Cố vấn kinh tế. Mục đích là đưa ra tất cả những biện pháp cần thiết để đảm bảo hoạt động của tổ chức bác ái này và tái tạo sự tín nhiệm nơi tất cả những người liên hệ. Trong một cuộc họp, Ủy ban về khủng hoảng đã tường trình cho Đức Hồng y Hollerich, Tổng giám mục Luxemburg, và các vị hữu trách khác của Tổng giáo phận, về tình hình hiện nay cũng như những biện pháp đã được đề ra trong thời gian trước đó. Đức Hồng y đã yêu cầu làm sáng tỏ hoàn toàn vụ biển thủ này và khuyến khích Ủy ban đối phó khủng hoảng, được thành lập trong tuần lễ trước đây, hãy cộng tác chặt chẽ với nhà chức trách tư pháp trong cuộc điều tra.
Nay thông cáo của Caritas Luxembourg cho biết phải sa thải 30 trong tổng số 500 nhân viên. Thêm vào đó, 70 hoạt động của Caritas này tại Nam Sudan và tại Lào cũng bị loại bỏ, và hơn 60 dự án bị ngưng lại.
Tổng giáo phận Luxemburg cho biết như trên và không cung cấp thêm chi tiết, nhưng nhấn mạnh rằng nhờ thiết lập cơ cấu mới, Caritas của Giáo hội địa phương có thể tiếp tục các hoạt động bác ái ở Luxembourg, các nhân viên có thể tiếp tục công việc trên bình diện quốc gia. Thông cáo nói: “Vụ biển thủ và các hoạt động gian trá không được làm giảm bớt công trạng của các nhân viên tốt và không được làm cho những người thiện chí hỗ trợ các cơ cấu mới của Caritas”.
Khi vụ xì căng đan mới được phát hiện hồi tháng Bảy và gây xôn xao lớn tại Luxembourg, Thủ tướng Luc Frieden tuyên bố rằng tổ chức bác ái này, vốn cung cấp các dịch vụ cho những người vô gia cư và người tị nạn với sự hỗ trợ của nhà nước, nay sẽ “không nhận được một đồng Euro nào nữa”.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Áo, truyền đi hôm 17 tháng Chín vừa qua, Đức Hồng y Hollerich nói rằng: rất tiếc Giáo hội Luxemburg không có tiền để cứu Caritas. Bây giờ, nhà nước đang can thiệp, sẽ có một tổ chức kế tiếp được gọi là “Hut - Hellef um Terrain”, nhưng cơ quan này không còn là Công giáo nữa”. Caritas đã làm một công việc tốt.
Đức Hồng y Hollerich nhìn nhận rằng tuy vụ này không tạo một bóng đen trên cuộc viếng thăm sắp tới của Đức Giáo hoàng tại Luxemburg, nhưng đôi khi Giáo hội cũng bị mang tiếng trước dư luận, vì sự thật về vụ này không được biết đến. Người ta luôn có xu hướng quên rằng chính Caritas là nạn nhân chứ không phải là thủ phạm”.
Vì sự an toàn, vị linh mục không nêu tên cho biết, cuộc chiến giữa quân đội và dân quân chỉ mang lại sự tàn phá và chết chóc. Chứng kiến nhà cửa bị tàn phá, người thân bị tàn sát hoặc bắn chết, mọi người đang chạy trốn khỏi Sudan đến Nam Sudan, Chad và Ai Cập.
Người Công giáo cũng phải chạy trốn. Chỉ là thành phần thiểu số rất nhỏ, trước xung đột bùng nổ, Giáo hội có một triệu tín hữu, nhưng ngày nay chỉ còn một nửa.
Theo linh mục, những thảm kịch xảy ra ở Sudan không được thế giới chú ý, mặc dù hậu quả nặng nề. Như vào tháng 8 vừa qua, ở El Obeid, hàng chục trẻ em chết dưới đống đổ nát của một ngôi trường bị tên lửa phá huỷ, thủ đô Khartoum bị tàn phá liên tục bởi bom đạn, các ngôi làng ở Durfur, bị đốt cháy và cướp bóc hoàn toàn.
Trong cảnh đau thương và tuyệt vọng này, linh mục mô tả tình hình Giáo hội địa phương: Các tu sĩ nước ngoài, linh mục, giáo dân đều chạy trốn. Hầu như không còn ai. Tại Tổng Giáo Phận Khartoum và Giáo Phận El Obeid mỗi nơi chỉ còn lại ba linh mục cố gắng duy trì đời sống bí tích bao nhiêu có thể, ngay cả khi phải trả giá bằng việc phải đến những khu vực xa xôi và khó tiếp cận nhất. Giáo hội với sự cộng tác của các giáo lý viên nỗ lực trao ban lương thực thiêng liêng và cung cấp những nhu cầu vật chất tối thiểu cho dân chúng, không phân biệt tôn giáo.
Khi được hỏi liệu Giáo hội có thể trở thành một phần tích cực trong quá trình bình định các phe phái tham chiến hay không, linh mục không ngần ngại trả lời dựa trên một thực tế: “Chúng tôi không có sức mạnh. Chúng tôi không có các kênh ngoại giao trực tiếp, như Sứ thần để chúng tôi có thể tương tác về mặt chính trị và thể chế. Điều Giáo hội có thể làm là thu hút sự chú ý của giới truyền thông lưu tâm đến những gì chúng tôi đang trải qua. Nhưng dường như không có sự chú ý nào, Sudan đã bị lãng quên. Đó là sự thật. Nhưng Giáo hội vẫn tiếp tục lên tiếng, ngay cả khi chúng tôi cảm thấy hoàn toàn bị cộng đồng quốc tế bỏ rơi. Tất nhiên, đang có chiến tranh ở Ucraina và Thánh địa nhưng ở đây có 10 triệu người phải di dời, hàng chục ngàn người chết trong khi một triệu người có nguy cơ chết đói”.
Và ngài than phiền: “Còn điều gì nữa phải xảy ra với đất nước bất hạnh này để tiếng kêu tuyệt vọng được lắng nghe?”
Đức ông Julien Kaboré, 56 tuổi, tân Sứ thần Tòa thánh tại Ghana, được hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin phong giám mục tại Đền thờ Thánh Phêrô, một dấu hiệu mới cho thấy sự trỗi dậy của Châu Phi trong bộ máy ngoại giao Tòa Thánh.
Sau thánh lễ, Hồng y Philippe Ouedraogo, Tổng Giám mục Danh dự của Ouagadougou nói với I.Media: “Đây là vinh dự cho toàn thể người dân Burkina Faso, chứ không chỉ riêng cho Giáo hội.” Thánh lễ cử hành với sự có mặt của một số giáo dân, người thân của tân giám mục, đặc biệt là thân phụ của Giám mục từ Burkina Faso và Ghana về. Trong bài giảng, Hồng y Parolin giải thích: “Chức vụ Sứ thần Tòa Thánh phải hướng tới việc rao giảng hòa bình và công lý, đặc biệt là giữa các nhà lãnh đạo Quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo đã không bảo đảm cho công dân của họ sự thanh thản và an ninh này.”
Chức vụ sứ thần phải hướng tới “việc rao giảng hòa bình và công lý”
Đức ông Julien Kaboré sinh ngày 18 tháng 6 năm 1968 tại Zorgho, miền trung Burkina Faso, làm Sứ thần Tòa thánh tại Ghana sau 20 năm phục vụ trong cơ quan ngoại giao của Vatican. Chịu chức ngày 8 tháng 7 năm 1995 tại Tổng giáo phận Koupéla, ngài bắt đầu làm việc trong ngành ngoại giao Tòa thánh ngày 1 tháng 7 năm 2004. Ngài đã làm sứ thần ở Kenya, Papua Tân Ghinê, Costa Rica, Hàn Quốc, Croatia, Trinidad và Tobago, Phi Luật Tân và Ireland. Một số phái đoàn từ các quốc gia này đã về Rôma dự lễ nói lên kỷ niệm tốt đẹp và tình cảm của họ với ngài, ngài phát triển tình bạn lâu dài ở các quốc gia nơi ngài làm việc. Ngoài tiếng Pháp, ngài còn nói được tiếng Anh, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha. Trong bối cảnh đau thương của các cuộc chiến đau thương giữa các lực lượng dân quân thánh chiến kể từ năm 2015, và đặc biệt là vụ thảm sát Barsalogho làm cho hàng trăm người thiệt mạng ngày 24 tháng 8, Giám mục Kaboré nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các sáng kiến hòa bình do Giáo hội địa phương lãnh đạo. Ngài đề cập đến Tam Nhật được Hội đồng Giám mục Burkina-Niger tổ chức từ ngày 12 đến ngày 14 để cầu nguyện cho hòa bình và sự sống ở các làng mạc và đất nước.
Ngày càng có nhiều sứ thần Châu Phi
Lễ tấn phong này đánh dấu một giai đoạn mới về đại diện của Châu Phi trong ngành ngoại giao của Vatican. Phản ánh sự tiến triển của người Châu Phi trong nhiều giáo phận phương Tây, ngày càng có nhiều giáo phận Châu Phi gởi sinh viên về Rôma học ở Giáo hoàng Học viện Giáo hội, có biệt danh là “trường của các Sứ thần”.
Chỉ đến năm 1998, “sứ thần giáo hoàng” đầu tiên của một quốc gia Châu Phi mới được phong: Đức ông Augustin Kasujja, quốc tịch Uganda, ngài làm việc tại Tunisia và Algeria từ năm 1998 đến năm 2004, tại Madagascar từ năm 2004 đến năm 2010, tại Nigeria từ năm 2010 đến năm 2016, và cuối cùng là ở Châu Âu, Bỉ và Luxembourg, từ năm 2016 đến năm 2021. Sứ thần đầu tiên đến từ một quốc gia châu Phi nói tiếng Pháp là Đức ông Léon Léon Kalenga Badikebele (1956-2019), quốc tịch Congo. Ngài là Sứ thần Tòa Thánh tại Ghana từ năm 2008 đến 2013, sau đó ở El Salvador và Belize từ năm 2013 đến 2018, và cuối cùng ở Argentina từ năm 2018 cho đến khi ngài qua đời tại Rôma ngày 12 tháng 6 năm 2019 bên lề cuộc họp ba năm một lần của các Sứ thần. Đặc biệt, Đức Phanxicô đã đích thân cử hành tang lễ cho “đại sứ” quê hương ngài tại Đền thờ Thánh Phêrô, với sự hiện diện của tất cả sứ thần ở Rôma.
Các sứ thần Châu Phi nói tiếng Pháp
Ngoài Đức ông Kaboré, hai sứ thần khác đến từ Châu Phi nói tiếng Pháp hiện đang hoạt động trong mạng lưới ngoại giao của Tòa thánh. Đức ông Dieudonné Datonou, người Bénin giữ chức vụ Sứ thần Tòa Thánh tại Burundi từ năm 2021. Trước đây ngài là người điều phối các chuyến tông du của Đức Phanxicô trong vài tháng, đặc biệt là chuyến đi khó khăn của Đức Phanxicô tới Iraq tháng 3 năm 2021. Đức ông Jean-Sylvain Émien Mambé ở Biển Ngà đã giữ chức vụ Sứ thần Tòa Thánh tại Mali và Guinea từ năm 2022, ngài đã được Hồng y Parolin phong giám mục tại Abidjan ngày 7 tháng 5 năm 2022.
Vị trí chiến lược các sứ thần châu Phi khác đến từ khu vực nói tiếng Anh
Đức ông Fortunatus Nwachukwu, quốc tịch Nigeria, là nhân vật nổi bật dưới triều Đức Bênêđíctô XVI, đứng đầu Bộ Ngoại giao từ năm 2007 đến năm 2012. Sau đó, ngài giữ chức vụ Sứ thần Tòa thánh tại Nicaragua, Caribê trước khi đảm nhận vị trí chiến lược là quan sát viên thường trực của Tòa thánh tại Liên Hiệp Quốc ở Geneva. Năm 2023, ngài được Đức Phanxicô đưa về Vatican làm thư ký cho Bộ Truyền giáo. Đức ông Jude Thaddeus Okolo, người Nigeria đã là Sứ thần Tòa thánh tại Cộng hòa Séc từ năm 2022. Trước đây, ngài từng là Sứ thần tại Ai-len, quốc gia ngài chào đón Đức Phanxicô trong chuyến tông du khó khăn năm 2018. Đức ông Novatus Rugambwa, quốc tịch Tanzania, là sứ thần tòa thánh ở Angola, Honduras, sau đó ở New Zealand, nhưng ngài về Rôma năm 2024 vì bị suy yếu sau cơn đau tim. Đức Giám mục Brian Udaigwe, gốc Cameroon, đã giữ chức vụ Sứ thần Tòa thánh tại Sri Lanka từ năm 2020 sau khi phục vụ ở Benin và Togo.
Các Giám mục Trung Quốc cảnh báo các tín hữu tránh xa các giáo phái và giáo lý có vẻ tương tự với Giáo hội nhưng thực tế đi ngược với giáo huấn Thánh Kinh và Truyền thống, khẳng định nhiệm vụ giải nghĩa Lời Chúa chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Giáo hội, đồng thời cầu nguyện cho những ai đã bị “lừa dối” để biết phân định và ngay lập tức trở lại với Giáo hội.
Trong một thư mục vụ, Đức cha Francesco Saverio Jin Yangke, Giám mục Ninh Ba ở tỉnh Chiết Giang viết: “Những người Công giáo phải tránh xa các giáo phái và học thuyết của họ, phải dứt khoát không tham gia các cuộc gặp gỡ của các giáo phái. Những người đã được rửa tội phải kiên trì trong đức tin và tuân theo chân lý được mạc khải trong Thánh Kinh và Huấn quyền Giáo hội”.
“Với tình mục tử” Đức cha yêu cầu các linh mục ngay lập tức báo cho các cộng đoàn tín hữu những nguy hiểm của giáo lý và những thực hành được truyền bá bởi các giáo phái đang tìm cách chiêu mộ tín đồ, ngay cả trong các giáo xứ Công giáo, sử dụng ngôn ngữ và công thức khải huyền Kitô giáo.
Giám mục Ninh Ba đề cập cụ thể đến các nhóm được gọi là “Giáo hội của Thiên Chúa Toàn Năng” và “Trời Mới Đất Mới”, đồng thời kêu gọi tất cả cảnh giác trước hoạt động chiêu mộ tín đồ của các giáo phái này.
Với những ai đã bị “lừa dối”, Đức cha bảo đảm “cầu nguyện cùng Chúa cho anh chị em, để Người ban cho anh chị em ơn phân định. Tôi khuyên anh chị em hãy nhận ra những sự thật sai lầm của giáo lý đó, thống hối, và lập tức trở lại với đàn chiên mà Chúa Kitô đã tập hợp và thiết lập”.
Trong thư, Đức cha Jin trích khoản 1 điều 750 Bộ Giáo luật, và số 85 của Sách Giáo lý Công giáo, nói rõ rằng: “Từ giáo dân và điều tra của giáo phận, chúng tôi phát hiện ra gần đây có các giáo phái đang hoạt động. Các bài giảng của họ có vẻ tương tự với Giáo hội, nhưng thực tế giáo lý đi ngược với giáo huấn Thánh Kinh và Truyền thống, làm cho đời sống chúng ta xa rời Tin Mừng Chúa Kitô”. Ngài khẳng định, số 85 của Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng “nhiệm vụ giải nghĩa cách chân chính Lời Thiên Chúa đã được viết ra hay lưu truyền, chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Giáo hội, và Giáo hội thi hành quyền đó nhân danh Đức Giêsu Kitô”, và nghĩa là các Giám mục trong sự hiệp thông với Người kế vị Thánh Phêrô, Giám mục Roma.
Đây không phải là lần đầu tiên các Giám mục Trung Quốc buộc phải cảnh báo các linh mục, nữ tu và giáo dân trước nguy cơ bị quyến rũ bởi các phương pháp tuyển mộ của các giáo phái mà trong quá trình tuyên truyền họ liên tục đề cập đến các sách Kinh Thánh, gieo rắc sự nhầm lẫn ngay cả trong người Công giáo. Một số giám mục và linh mục cho biết họ đã phải chịu sự tống tiền, đe dọa và uy hiếp sau khi yêu cầu các thành viên trong cộng đoàn không kết giao với các thành viên của các giáo phái, vốn ngày càng hung hãn và ngoan cố trong nỗ lực tìm kiếm tín đồ mới trong số những người đã được rửa tội.
Stephan Lipke S.J
Đức cha Lipke năm nay 49 tuổi (1975), sinh tại thành phố Essen, bên Đức và thụ phong linh mục năm 2002, thuộc Tổng giáo phận Koeln. Bốn năm sau, 2006, cha gia nhập Dòng Tên và khấn trọng năm 2019. Sau khi làm mục vụ tại Đức, cha được gửi sang hoạt động mục vụ tại Novosibirsk, từ năm 2011. Trong khi làm cha sở ở thành phố Tomsk, cha đã lấy Tiến sĩ văn chương Nga, tại Đại học Tomsk năm 2017. Về sau, cha làm Giám đốc Học viện thánh Tôma Aquinô, ở Matxcơva, và năm 2020, cha làm Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Nga.
Nay trong nhiệm vụ Giám mục Phụ tá, tại Novosibirsk, Đức cha Lipke phụ giúp Đức cha Joseph Werk, 72 tuổi, Giám mục sở tại, cũng thuộc Dòng Tên và coi sóc giáo phận này từ 33 năm nay (1991), sau khi chế độ Xô Viết chấm dứt. Đức cha Werk sinh trưởng ở Kazakhstan trong một gia đình Đức bị lưu đày sang Nga, dưới thời Stalin.
Giáo phận Chúa Hiển Dung là một trong bốn giáo phận của Giáo hội Công giáo tại Nga, rộng mênh mông với hai triệu cây số vuông và có nửa triệu tín hữu Công giáo thuộc 70 giáo xứ.
Các giáo phận Công giáo tại Nga không lấy tên theo địa danh, để tránh đụng với Giáo hội Chính thống Nga ở địa phương, nhưng được đặt tên khác đi. Ví dụ, Tổng giáo phận Mẹ Thiên Chúa ở Moscow.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy các linh mục trẻ ở Đức chủ yếu là các linh mục bảo thủ, họ chống lại các cải cách trong Giáo hội. Giải thích của nhà xã hội học Nikita Katsuba.
Giáo sư Nikita Katsuba, nhà khoa học xã hội và cộng tác viên khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Mục vụ Ứng dụng tại Đại học Ruhr ở Bochum. Theo yêu cầu của Hội đồng Giám mục Đức, cùng với nhà thần học và nhà khoa học xã hội Matthias Sellmann, Giáo sư Nikita Katsuba viết quyển sách Các Tân Linh mục mới là ai? (Wer wird Priester? nhà xuất bản Echter, Würzburg phát hành tháng 5-2024). Quyển sách nghiên cứu về xã hội học và động lực của các chủng sinh.
Nghiên cứu của giáo sư có đưa đến kết luận đáng ngạc nhiên nào không?
Giáo sư Nikita Katsuba: Nghịch lý thay, điều làm tôi ngạc nhiên là các kết quả không có gì ngạc nhiên, trong chừng mực chúng xác nhận hình ảnh rập khuôn chúng ta đã có về các linh mục.
Ngày nay đa số các linh mục ngày càng ít đại diện trên bình diện xã hội.
Họ xuất thân từ các gia đình công giáo, nhận được giáo dục tôn giáo của Giáo hội, có những suy nghĩ quan trọng về Giáo hội trong giai đoạn quyết định của quá trình xã hội hóa; họ duy trì những ý tưởng bảo thủ – không muốn nói là lỗi thời – về nghề nghiệp và chức vụ linh mục. Họ ủng hộ quan niệm bảo thủ của xã hội và của Giáo hội. Các trường hợp ngoại lệ là thiểu số.
Theo tài liệu cho biết, giáo sư đã nghiên cứu về các linh mục từ năm 2010 đến năm 2021.
Đó là các linh mục trẻ với trung bình tuổi là 37. Thói quen và lối sống của họ rõ ràng khác biệt với người cùng tuổi trong xã hội.
Các linh mục đã phát triển như thế nào trong 30 năm qua?
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ với các linh mục chịu chức từ năm 2010 đến 2021 nên chúng tôi không so sánh được với các thời kỳ trước. Tuy nhiên, nếu so sánh với Nghiên cứu của linh mục giáo sư thần học gia Paul Zulehner năm 2000 thì chúng tôi thấy có nhiều điểm tương đồng.
Dù không có linh mục nào trong nghiên cứu của chúng tôi tại chức năm 2000, nhưng những người chúng tôi hỏi đều có một động lực tương tự trong chức vụ của họ. Chúng tôi thấy có ba động lực: giáo xứ, phụng vụ và nhà thờ bình dân. Vì thế các linh mục ngày nay giống với các linh mục thời giáo sư Paul Zulehner trình bày ở thời kỳ trước, dù xã hội đã thay đổi nhiều từ đó.
Với thói quen truyền thống công giáo, phần lớn các linh mục ngày càng ít đại diện ở bình diện xã hội như trường hợp của các linh mục cách đây vài thập kỷ. Họ tạo thành nhóm bảo thủ ngày càng già đi và mất dần vị thế.
Giáo sư có thấy ở đây là tác động gián tiếp của việc thế tục hóa không?
Tầm quan trọng của tôn giáo và Giáo hội tiếp tục giảm sút từ gia đình gốc. Chúng ta đang chứng kiến một tình thế tiến thoái lưỡng nan về mặt thần học ơn gọi: phần lớn các linh mục xuất thân từ các gia đình công giáo giữ đạo, nhưng lòng đạo của họ ngày càng giảm sút. Với sự suy giảm này, khả năng có ơn gọi ngày càng ít.
Các linh mục của ngày mai sẽ như thế nào?
Trong các đề nghị chiến lược chúng tôi đưa ra dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi có hai kịch bản. Trong kịch bản được gọi là “tập trung”, mục vụ ơn gọi sẽ tiếp tục ở môi trường công giáo và sẽ cố gắng giải quyết cho các thanh niên trong môi trường này.
Trong kịch bản thứ hai được gọi là “sự đa dạng hóa”, Giáo hội có thể cố gắng khắc phục hạn chế này, cởi mở với người khác và cuối cùng là người chủ động, là nơi dấn thân hấp dẫn cho thế hệ trẻ từ những môi trường trung dung – như trong quá khứ – và từ đó khuyến khích ơn gọi mới cho nam giới trong các tầng lớp xã hội khác nhau. Chỉ có kịch bản thứ hai này mới có thể chống lại sự sụt giảm nghiêm trọng về số lượng.
Điều gì sẽ xảy ra cho việc này?
Những việc này đòi hỏi phải định hướng lại cách tiếp cận có hệ thống với mọi khía cạnh của Giáo hội – từ các vấn đề đạo đức đến các hoạt động hành chính của Giáo hội. Câu trả lời cho câu hỏi Giáo hội chọn con đường nào trong số này định hình cho tương lai của chức linh mục, phản ánh qua mục vụ ơn gọi, con đường đào tạo, cũng như chính sách tuyển dụng. Liệu nó sẽ tiếp tục đi theo con đường bảo thủ và tuyển những người phù hợp với con đường này hay nó sẽ mở ra theo sự đa dạng của xã hội hiện đại? Vì các linh mục là gương mặt và nhân vật lãnh đạo, cuối cùng họ sẽ là người định hình cho Giáo hội.
Như thế có ý nghĩa gì với tương lai của Giáo hội khi các linh mục trẻ hầu hết xuất thân từ các cấu trúc gia đình bình dân, phần lớn là người bảo thủ và chống lại cải cách, như nghiên cứu của giáo sư cho thấy?
Điểm này cho thấy ý kiến của các đại diện quan trọng trong Giáo hội và xã hội – kể cả người công giáo – ngày càng khác nhau trong nhiều vấn đề liên quan đến chính trị, đạo đức và Giáo hội. Một cuộc khảo sát của Giáo hội Tin lành Đức thực hiện cho thấy người công giáo Đức đã không hài lòng với Giáo hội của họ như thế nào. Thậm chí nghiên cứu còn cho thấy một thực tế đánh kinh ngạc: người công giáo Đức tin vào Giáo hội tin lành nhiều hơn Giáo hội công giáo.
“Chỉ có một trong bốn linh mục sẽ bỏ phiếu cho việc phong chức phụ nữ”
Sự mất niềm tin thể hiện qua việc giáo dân rời bỏ thể chế. Tuy nhiên, hầu hết các linh mục trẻ khá hài lòng với Giáo hội của họ, chắc chắn họ cần các hình thức thiêng liêng hơn, nhưng lại lưỡng lự trước những cải cách cơ bản. Thật khó hình dung Giáo hội phải đối diện với tình huống phức tạp này nếu không có các linh mục của thế hệ mới.
Điều gì sẽ xảy ra nếu hiện nay Giáo hội có thể có những chủng sinh như vậy cho chức linh mục?
Người đầu tiên trong số họ sẽ chưa là linh mục trong 8 năm tới. Để có một tác động đáng kể đến chức linh mục, số lượng của họ cần tăng lên trong ít nhất 10 năm nữa. Như thế có nghĩa những thay đổi về ơn gọi phải được bắt đầu từ bây giờ và kết quả chỉ có thể thấy được trong 20 năm nữa. Nhưng số lượng người bỏ đi, hoặc qua đời quá đông nên Giáo hội khó có thể bù đắp được với thời gian này.
Còn khả năng của các linh mục trẻ hiện tại trong việc thực hiện các tiến trình và cải cách đồng nghị thì sao?
Chúng tôi có thể nói, chung chung những chủ đề này ít được các linh mục trẻ quan tâm. Khi được hỏi Giáo hội nên được cải cách như thế nào, hơn 3/4 các linh mục trẻ nói đến việc đào sâu chiều kích thiêng liêng, định hướng rõ ràng hơn về việc truyền tải nội dung đức tin. Chỉ có 37% ủng hộ việc tăng thêm giáo dân tham gia vào Giáo hội. Các chủ đề phi dân chủ hóa trong Giáo hội hay việc bãi bỏ nghĩa vụ độc thân chỉ được khoảng 30% ủng hộ. Và chỉ có một trong bốn linh mục sẽ bỏ phiếu cho việc phong chức cho phụ nữ.
Vì thế các tiến trình đồng nghị không phải là trung tâm chú ý của họ.
Nghiên cứu cho thấy một nhóm tương đối nhỏ các linh mục trẻ (khoảng 18%) ủng hộ tất cả các chủ đề này và nhìn chung, họ hầu như không phù hợp với hình ảnh bảo thủ về nguồn gốc và tầm nhìn của họ về thế giới linh mục. Nếu các tiến trình đồng nghị thành công, nhóm này có thể là nguồn hy vọng.
Các giáo phận đã mắc phải những sai lầm nào trong việc tìm kiếm và đào tạo các tân linh mục?
Nghiên cứu cho thấy chìa khóa của giải pháp không chủ yếu nằm trong tay các giáo phận. Sự thiếu hụt linh mục không liên quan đến việc đào tạo hay thăng tiến nghề nghiệp của họ, mà liên quan đến sự mất niềm tin nói chung vào Giáo hội. Một số linh mục được phỏng vấn cho biết họ gặp sự chống đối của gia đình, bạn bè khi họ cho biết họ sẽ đi tu. Đặc biệt vì các trường hợp lạm dụng cũng như hình ảnh kém cỏi của Giáo hội, Giáo hội không còn được kính trọng như trước. Để thay đổi điều này, chúng ta cần một thay đổi mang tính hệ thống mà các giáo phận rõ ràng không thể tự mình thực hiện được.
Làm thế nào việc đào tạo linh mục có thể được cải thiện?
Cuộc nghiên cứu cho thấy các linh mục trẻ có ý hướng sống linh đạo riêng của họ và muốn trở thành mục tử hơn. Nhưng hình ảnh này không còn phù hợp với thực tế vì ngày nay số linh mục ngày càng ít, họ thường phải quản lý các giáo xứ khổng lồ gọp lại. Vì thế việc đào tạo linh mục sẽ tốt hơn nếu họ được chuẩn bị để đảm nhận các chức vụ lãnh đạo, phát triển kỹ năng làm việc nhóm và giao tiếp.
Các dữ liệu thu thập có thể áp dụng ở Thụy Sĩ hoặc cung cấp thông tin cho các linh mục ở đây không?
Chúng tôi chỉ phỏng vấn các linh mục trẻ người Đức. Nhưng dữ liệu của Mỹ cho thấy một xu hướng bảo thủ nào đó trong số các linh mục công giáo so với toàn xã hội. Vì thế hiện tượng này có lẽ mang tính quốc tế. Tôi không thể đoán trước được bước ngoặt bảo thủ nào cho toàn Giáo hội. Nhưng chúng ta có thể đưa ra giả thuyết, chức linh mục ở các nước công nghiệp đang trải qua những biến đổi tương đương với những biến đổi của thế tục hóa. Dù sao chúng ta cũng chỉ dự đoán.
Thông tư của Bộ Giáo lý đức tin được Đức Thánh cha phê chuẩn, ngày 28 tháng Tám vừa qua, và được Đức Hồng y Tổng trưởng Victor Manuel Fernandez, cùng với Đức Tổng giám mục Tổng thư ký của Bộ, trình bày trong cuộc họp báo tại Phòng Báo chí Tòa Thánh. Thông tư minh định rằng “những kết luận trong văn kiện này không bao hàm phán đoán về đời sống luân lý của những người nói là mình được Đức Mẹ hiện ra, và trong mọi trường hợp, những hồng ân thiêng liêng không nhất thiết đòi sự hoàn hảo của những người liên hệ để có thể tác động”.
Những địa điểm liên hệ tới hiện tượng Mễ Du được các tín hữu từ các nơi trên thế giới đến hành hương. Những thành quả tích cực được biểu lộ, nhất là qua sự thăng tiến một đời sống đạo lành mạnh, phù hợp với truyền thống của Giáo hội: các cuộc hoán cải dồi dào của những người khám phá hoặc tái khám phá đức tin; trở lại với việc xưng tội và rước lễ, đông đảo ơn gọi, nhiều cuộc hòa giải giữa các đôi vợ chồng và đời sống gia đình. Người ta cũng nói đến rất nhiều cuộc khỏi bệnh. Giáo xứ này trở thành nơi chầu Mình Thánh Chúa, cầu nguyện, các buổi hội học, tĩnh tâm, đại hội giới trẻ. Nhiều công việc bác ái nảy sinh, chăm sóc cô nhi, người nghiện ngập, khuyết tật. Người ta ghi nhận sự hiện diện của các tín hữu Chính thống và Hồi giáo.
Văn kiện phân tích nội dung các sứ điệp của Đức Mẹ, nổi bật với những lời Đức Mẹ kêu gọi tín thác nơi Thiên Chúa là Tình Thương, lời mời gọi hoán cải. Bộ Giáo lý đức tin cũng nhìn nhận, là vấn đề những sứ điệp gán cho Đức Mẹ những thành ngữ như “kế hoạch của Mẹ”, “dự án của Mẹ” là những thành ngữ có thể gây ra sự lẫn lộn. Trong thực tế, tất cả những gì Đức Mẹ thực hiện, luôn luôn là để phục vụ dự án của Chúa và kế hoạch cứu độ của Chúa.
Bộ Giáo lý đức tin khẳng định rằng mặc dù văn kiện không phải là một tuyên bố về tính chất siêu nhiên của hiện tượng Mễ Du, nhưng cho phép được làm việc phụng tự, tôn kính công cộng. Phán quyết về sự “không ngăn trở” (Nihil Obstat) ở đây cũng có nghĩa là không ai bắt buộc phải tin. Phán quyết này sẽ được Đức giám mục Giáo phận Mostar-Duvno sở tại, ban hành với sự thỏa thuận của Tòa Thánh, có nghĩa là các tín hữu có thể nhận được một sự kích thích tích cực cho đời sống Kitô của họ, qua đề nghị thiêng liêng này và cho phép làm việc phụng tự công khai”.
Hiện tượng Mễ Du bắt đầu từ ngày 24 và 25 tháng Sáu năm 1981, khi sáu thiếu niên Công giáo Croat ở làng này nói là đã được Đức Mẹ hiện ra và trao các sứ điệp. Trong 43 năm qua, đã có hơn 40 triệu tín hữu từ các nơi trên thế giới đến hành hương tại Mễ Du.
Vậy giữa cái xấu của Trump là không chấp nhận những di dân bất hợp phápvà cái ác của Harris là ủng hộ việc giết hại hàng triệu thai nhi vô tội,Người có lương tri tất nhiên là biết mình phải chọn ai :"the lesser of the two evils"
NGƯỜI CÔNG GIÁO BẦU CHO AI TRONG KỲ BẦU CỬ NÀY
Nguyễn Tiến Cảnh
Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì người Công Giáo (CG) nên bầu cho ai trong cuộc bầu cử vào tháng 11 sắp tới?
Người CG ở Hoa Kỳ không bầu theo đảng phái, họ có những suy nghĩ chính xác về những đường lối và chương trình quan trọng của các ứng viên để có thể quyết định bầu cho ai. Hãy chọn giữa Donald J. Trump và Kamala Harris xem ai là người có “ít điều xấu nhất, ít tính tệ hại ác quỉ nhất.”
Giáo Hội CG là thành phần của quốc gia đã từng tham dự tích cực vào đời sống công cộng hầu mưu cầu công ích cho đất nước và xã hội, giúp cho dân giàu nước mạnh.
Giáo Hội không buộc giáo dân phải bầu cho ai hay chương trình hoặc thể chế nào. Tuy nhiên người CG phải giữ đúng những nguyên tắc chỉ dẫn để quyết định lá phiếu của mình.
NHỮNG NGUYÊN TẮC CHÍNH
Giáo Hội dạy những gì? Giáo lý của GH nói người giáo dân có “bổn phận công dân là phải cộng tác với chính quyền để thực thi công ích xã hội trong tinh thần sự thật, công bằng công lý, đoàn kết và tự do.”
1- Những nguyên tắc hướng dẫn về dục tính sinh học (biological sex).
Ngày 12- 9- 2024 Gm Kevin Rhoades của giáo phận Fort Wayne-South Bend, Indiana đã buộc các trường đại học kể cả trung học thuộc giáo phận phải thực thi giáo huấn của GH về dục tính (sexuality) và giống (gender) trong thời gian đang có tranh cãi về hiện trạng gọi là mập mờ không biết rõ mình là nam hay nữ (gender dysphoria). Theo chủ trương của giáo phận thì các trường học và đại học hay cơ quan giáo dục của giáo phận phải dùng một đại danh từ để trước tên của sinh viên theo sinh học (biological sex), không được phép dùng đại danh từ chỉ tên mà sinh viên ưa thích trong bất cứ trường hợp nào.
Nếu có những đòi hỏi sau này mà sinh viên/ học sinh phải mặc đồng phục hay dùng nhà tắm và cầu tiêu thì cũng phải phù hợp đúng với “nhân dạng dục tính sinh học mà Thiên Chúa đã sinh ra” cũng như trong các cuộc tranh đua thể thao phải phù hợp với giới tính tự nhiên về sinh học.
Tài liệu gồm 11 trang đã được Gm Rhoades phê chuẩn hồi tháng trước cũng cấm “quảng bá, cổ động dân chúng hay chúc mừng các hành vi dục tính hoặc các chủ thuyết trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội CG.”
“Bất cần hay coi thường một cách tích cực có tính thù nghịch và công khai những giáo huấn của GH cũng bị cấm chỉ vì nó làm tổn thương đến căn tính và sứ mệnh của cơ chế Công Giáo.” -Gm Rhoades viết như vậy.
Về câu hỏi liên quan đến việc điều trị những người đang phân vân về giới tính của mình, Gm Rhoades đã trả lời với đầy lòng thương cảm là đừng can dự vào việc thay đổi đời sống con người bằng giải phẫu hay trị liệu nội khoa bằng thuốc.
Các cơ chế tổ chức của giáo phận -theo như hướng dẫn- thì không thể hợp tác để sửa đổi con người bằng giải phẫu hay trị liệu hóa học để ngăn cản tuổi dậy thì hay làm phẫu thuật tại những cơ sở thuộc giáo phận.
“Trong khi chúng tôi hết sức cố gắng để giảm thiểu những đau khổ của những ai đang phải phấn đấu với việc khó khăn để nhận diện ra giới tính của mình, chúng tôi không thể yểm trợ cho những chương trình can thiệp vào đó mà cuối cùng mọi người ai cũng đều tin là nó làm hủy hoại cuộc sống của chúng.” -Gm Rhoades nói vậy. “Chúng tôi yểm trợ những công tác mục vụ và cố vấn khuyên giải để làm giảm thiểu những đau khổ của họ đồng thời giúp họ chấp nhận tặng phẩm trời ban cho họ là cái “diện mạo giới tính của họ - their sexual identity.”
Gm Rhoades đã làm nổi bật sự quan trọng của trinh tiết đối với tất cả mọi người. Người độc thân thì phải sống trung trinh bằng cách kiềm chế nhục dục. Người có cuộc sống hôn nhân thì phải sống trong sạch đúng nghĩa “vợ chồng.” Ngài viết: “Một trong những thách đố lớn nhất hiện nay là phê bình và chối bỏ của nhiều nhà nhân chủng học Kitô giáo và Công Giáo, đặc biệt qua những sự thật liên quan đến diện mạo giới tính, dục tính và hôn nhân hiện đang bị đại đa số dân chúng chẳng ưa thích gì đã gia tăng sau nhiều thập niên văn hóa đã đi xa lìa khỏi những đồng thuận chung của mọi người về những vấn đề này.”
Trong những năm gần đây, giáo phận của Gm Rhoades cũng gặp nhiều thách đố về vấn đề này. Gm đã lên tiếng chống đối trường đại học nữ của giáo phận đã chấp những sinh viên “tự nhận mình là nữ giới”. Từ đó qui chế của trường đã đổi ngược.
Theo hướng dẫn của giáo phận, Gm Rhoades đã coi lòng cảm thương và nỗi nhạy cảm là quan trọng đối với những người đang phải vật lộn phân vân không biết mình là nam hay nữ (dysphoria) và dục tính cùng loại (same sex attraction).
Giáo phận kỳ vọng mọi người giúp đỡ cho giới trẻ gìn giữ giáo huấn của GH là xác định “nhân cách và giá trị mà Trời đã ban cho chúng, và đối xử với họ với tất cả tình thương yêu và cảm thông của chúa Kito.”
Các mục tử phải có trách nhiệm giúp những người “đang đau khổ vì phải vật lộn phân vân không biết mình là nam hay nữ và có dục tính cùng loại.” -Gm Rhoades viết. Gm Rhoades đã đưa ra những hướng dẫn mục vụ về cuộc phấn đấu không biết mình là nam hay nữ hoặc ưa thích tính dục cùng phái.
“Đây là vấn khá đề quan trọng -như Gm Rhoades nói- là phải lắng nghe và nắm bắt cho được những nhu cầu và những khó khăn trở ngại của giới trẻ liên quan đến việc nhận ra mình thực sự là nam hay nữ cũng như những hấp dẫn dục tính đồng phái. Những thực tế khá phức tạp.”
Gm Rhoades cũng nhấn mạnh là khi nói truyện với những thanh thiếu niên nam/nữ đang bị bối rối lo lắng về vấn đề này thì việc quan trọng là phải “để ý đến nỗi đau khổ của chúng, lắng nghe tiếng than van đau thương ấy của chúng với lòng cảm thông, để an ủi chúng cho chúng hiểu là chúng không cô đơn đâu.”
“Việc đối thoại cũng cần phải được tiến hành tùy theo nhu cầu của mỗi người trẻ qua những thắc mắc và dày vò của từng cá nhân. Đồng thời đôi khi cũng đừng quên là phải chuyển cho chuyên viên về tâm thần như bác sĩ tâm lý hay thần kinh tâm trí là những vị có hiểu biết và trung thành với lý thuyết về nhân chủng học Kitô giáo/Công giáo đích thực để họ tùy nghi giải quyết” -Gm Rhoades viết.
“Cũng cần nói với chúng là nên đem những nhu cầu ấy đến với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện để xin an ủi yêu thương nhờ hồng ân Thiên Chúa qua các bí tích hòa giải, chữa lành và mình thánh Chúa. Dạy dỗ và hướng dẫn giới trẻ làm theo những giáo huấn của Giáo Hội về sắc dục và đức trong sạch -Gm Rhoades nói- là là một thách đố đặc biệt đối với chúng ta. Nó rất quan trọng vì những giáo huấn này chính là ‘đường tình yêu, đại lộ’ đưa con người đến thăng hoa hạnh phúc, thánh thiện và tự do thực sự.”
2- Phá thai và Niềm Tin
Niềm tin nào cho phép bạn phá thai? Đây là câu trả lời của ông Tomy Dungy, huấn luyện viên nổi tiếng của NFL đã đưa ra trên truyền thông xã hội của những người ủng hộ phá thai của Kamala Harris trong đó bà Harris nói là: “Người ta không cần phải từ bỏ đức tin của mình hay vẫn giữ những tin tưởng của mình để đồng ý về một vấn đề nào đó: Chính phủ và chắc chắn Donald Trump cũng không nói với người phụ nữ là phải làm gì với thân xác họ.”
Ông Dungy nói: Tôi thường nghe nói là bạn vẫn giữ, không từ bỏ đức tin của bạn mà vẫn yểm trợ phá thai. Vậy thì bạn đang nói về loại đức tin nào vậy?
-“Có phải bạn đang nói về niềm tin Kitô Giáo không, tức là tin rằng mọi hài nhi/con trẻ đều được tạo dựng nên giống như hình ảnh của Thiên Chúa không? (St 1:26), là Thiên Chúa đặt họ trong bụng người mẹ (Gr 1:5) và chúng ta không được phá hủy mạng sống con người một cách bất chính không? (Lc 18:20).”
- “Có phải bạn đang nói về niềm tin đó hay niềm tin theo nghĩa tổng quát hoặc mơ hồ nào đó là chúng ta có đủ sáng suốt và tỉnh táo để quyết định? Niềm tin nào vậy?
*Florida có thể phá thai để cứu mạng sống người mẹ. Bộ y tế Florida nhắc lại là luật bảo vệ hài nhi ở thai kỳ tuần lễ thứ 6, các bác sĩ được phép phá thai để cứu mạng sống của người mẹ. Đây là luật bảo vệ mạng sống của phụ nữ khi bị đe dọa.
Bộ Y Tế Florida ngày 19 tháng 9 loan báo: Phá thai được phép ở bất cứ thai kỳ nào để cứu sống và bảo vệ sức khỏe của người mẹ, ngoại trừ khi thai nhi đã tới tuần lễ 15 trong những trường hợp như bị hãm hiếp, loạn luân hay buôn bán tình dục.
Luật trừ của Florida cho phép chữa trị -kể cả phá thai- những phụ nữ có thai ngoài tử cung hay là thai trứng (molar pregnancy) hoặc bể màng chắn sớm làm chảy máu (premature rupture of membrane). Đây là hư thai không phải phá thai.
Không làm đúng “nguyên tắc trị liệu để cứu mạng sống” có thể gọi là hành nghề y khoa bất chính (Medical malpractice). -Phá thai coi là bất hợp pháp ở Florida nếu thai kỳ bước qua tuần lễ thứ 6. Một tổ hợp các bác sĩ tại đây đã lên tiếng phản đối chống lại phá thai và yêu cầu cử tri ủng hộ chống phá thai bừa bãi.
Thụ thai nhân tạo (IVF-In Vitri Fertility) bị phản đối: Các nghị sĩ CH hôm thứ ba đã ngăn cản dự luật buộc các công ty bảo hiểm phải yểm trợ việc thụ thai nhân tạo IVF và những phương pháp thực hiện để phát động chương trình IVF.
Theo đề nghị này thì các chủ nhân -kể cả những chủ nhân là tôn giáo- sẽ buộc phải cung cấp bảo hiểm sức khỏe cho những người áp dụng chương trình IVF. Dự luật có thể ngăn cản không để cho các luật giới hạn việc hủy bỏ sự sống của thai phôi con người đã được tạo ra do phương pháp IVF. Nó cũng có thể đề phòng việc giới hạn cách dùng IVF nơi những cặp vợ chồng hiếm muộn.
Dự luật cũng có thể cấm không cho giới hạn số trứng mà bác sĩ chọn lựa nơi người đàn bà để phòng ngừa có đa thai hoặc giới hạn số phôi người còn sống đem đông lạnh để dùng về sau.
*HĐGMHK đã ra chỉ thị cấm ngặt phương pháp này cho là cách thức thụ thai kiểu này “không theo các tiến trình y học để can dự vào việc tạo thành vô số kể các con trẻ chưa được sinh ra rồi đem đa số chúng để đông lạnh hay hay phân loại và hủy bỏ.”
Giáo Hội CG dạy rằng dù cho nhiều cặp vợ chồng đang phải phấn đấu để có con mà dùng phương pháp thụ thai IVF thì cũng không thể chấp nhận được vì đó là thụ thai nhân tạo ngoài dục tính. Vì trong quá trình IVF nó sẽ tạo ra quá nhiều phôi thai con người đã bị hủy diệt một cách đều đặn hoặc đóng băng vô định.
*Tiểu bang Illinois chống lại phương pháp thụ thai IVF.
Cử tri Illinois -nhóm phò sự sống- đang hô hào mọi người bầu chống lại phương pháp thụ thai IVF vào tháng 11 sắp tới. Một vấn nại về tư vấn đã nêu ra “luật trưng cầu dân ý về trợ vấn sức khỏe trong việc sinh sản/Assisted Reproductive Health Referendum Act” đã được đưa ra để bầu vào tháng 5 yêu cầu dân Illinois có nên chấp nhận “chữa bệnh hiếm muộn bằng mọi cách, mà không chỉ giới hạn trong phương thế IVF, phải được yểm trợ bởi tất cả các loại bảo hiểm y tế tại Illinois không cần giới hạn trị liệu không?”
Những thắc mắc tư vấn này tại Illinois thì không bắt buộc và được viết ra để thăm dò ý kiến dân chúng và thúc đẩy cử tri đi bầu. Những câu hỏi được chấp nhận cho vào kỳ bầu cử này là phe dân chủ muốn “tăng số cử tri đi bầu cho phía mình” -theo như báo Chicago Tribune.
*Theo nghiên cứu về đời sống ở Hoa Kỳ của một nhóm sinh viên (SFLA) thì có cả chục đại học CG trong đó có các cơ sở CG đã liên hệ tới việc phá thai, gồm có kế hoạch hóa gia đình (abortion Planned Parenthood).
Viện Demetres phò sự sống ở Hoa Kỳ của nhóm sinh viên (SFLA) trong một báo cáo năm 2024 đã cho biết là có 17 cơ sở CG có liên hệ với kế hoạch hóa gia đình hoặc yểm trợ quảng bá phá thai hay những tài liệu phá thai cũng như cơ sở phá thai. Đó là Boston college, Santa Clara University ở CA và St. Elizabeth University ở New Jersey.
Mối liên hệ của các đại học này là để có “cơ hội thực tập (internship), giới thiệu hay có tín chỉ làm việc tại kế hoạch hóa gia đình hay làm người quảng bá phá thai cùng bảo hiểm sức khỏe hay công tác tự nguyện ...”
-Trong số 732 trường hợp Kitô giáo bị điều tra thì hơn 80 trường có liên hệ với kế hoạch hóa gia đình hoặc các cơ sở phá thai khác.
*Kế hoạch ủng hộ Harris-Walz
Trong một chương trình online của một số tín hữu CG được tổ chức tối thứ tư 18-9-24 đã có một số ý kiến ủng hộ phá thai được nêu ra.
Harris ủng hộ vụ Roe v. Wade tức là ngăn ngừa không để các tiểu bang thông qua luật bảo vệ sự sống của thai nhi. Trong cuộc tranh luận ngày 12-9-24 với Donald J. Trump, thì Harris lại từ chối không biết là mình có nói yểm trợ phá thai muộn ở những thai kỳ tháng 7, 8 và 9 không.
Nữ tu Simone Campbell là thành viên của Nữ Tu Phục Vụ Xã Hội đã đưa ra các thống kê cho biết đa số người CG ủng hộ phá thai hợp pháp. Và “đức tin của chúng ta không buộc phải phá thai ngoài pháp luật”. Campbell đã xác nhận rõ ràng một nghịch lý về điều mà Giáo lý của GHCG đã dạy.
*Luật phò sự sống không giết người ở Georgia
Kamala Harris vào hôm thứ ba đã lớn tiếng tuyên bố là một người đàn bà đã chết vì luật bảo vệ sự sống. Nhưng các bác sĩ nói là người đàn bà ở Georgia tên Amber Thurman đã chết vì thuốc phá thai và hành nghề y khoa bất hợp pháp
Báo cáo của ProPublica nói rằng phá thai giới hạn của Georgia làm chậm lại việc săn sóc sức khỏe đã gây ra cái chết của bà Amber Nicole Thurman ở tuổi 28 vào năm 2022 -theo như báo cáo- sau được khi nhập viện vì nhiễm trùng do uống thuốc phá thai.
Một số tin tức cho là giới hạn phò sự sống trong việc phá thai có trách nhiệm về cái chết của bà Thurman, nhưng luật tại Georgia minh thị cho phép phá thai khi mạng sống hoặc sức khỏe của người mẹ bị nguy hiểm.
Bác sĩ Christina Francis, Chủ Tịch Hội Bác Sĩ Hoa Kỳ Sản Phụ Khoa và Đỡ Đẻ Phò Sự Sống (AAPLOG) đã hành nghề 20 năm tuyên bố là cái chết của bà Thurman là do “thuốc phá thai hợp pháp” cũng như bất cẩn y khoa.
“Thảm kịch về cái chết mới đây của bà Amber Thurman vừa được nhiều tin tức cho biết là do phản ứng phụ của thuốc phá thai hợp pháp và bất cẩn y khoa, không phải vì luật phò sự sống,” – Bs Francis tuyên bố hôm thứ ba.
*Yêu nước và phục vụ quốc gia:
Mọi người phải làm việc này là vì bổn phận phải biết ơn và lòng bác ái. Chấp nhận chính quyền hợp pháp và phục vụ công ích đòi hỏi người công dân phải hoàn thành nghĩa vụ của mình trong đời sống nơi cộng đồng chính trị. Nó cũng xác quyết là “vâng phục chính quyền và đồng trách nhiệm về công ích là phải đóng thuế, thi hành quyền bầu cử và bảo vệ tổ quốc của mọi người.
Năm 2007, HĐGMHK đã đưa ra một đề tài gọi là “Lương tâm của công dân có niềm tin – Forming Consciences for Faithful Citizenships,” để hướng dẫn người dân tham dự vào đời sống công cộng nằm trong mục bầu phiếu. Các giám mục vẫn cập nhật hóa nó thường xuyên và bản gần đây nhất là vào cuối năm 2023.
Trong tài liệu này các ngài đã nêu ra: “Trách nhiệm công dân là một đức tính, và tham dự vào đời sống chính trị là một nghĩa vụ luân lý bắt buộc.” Các Gm cũng ghi chú là khi tìm kiếm công ích thì phục vụ công cộng là một “ơn gọi cao cả.”- Trích lời của GH Francis trong thông điệp Tin Mừng Phúc Âm/Evangeli Gaudium.
Các Gm kỳ vọng nơi cử tri là những người được hướng dẫn bởi một luân lý đích thực không phải là cứ bám sát vào lợi ích của một đảng hay phe phái nào. Người CG tham gia vào chính trị phải “uốn theo niềm tin luân lý chắc chắn do lương tâm ngay thẳng và nhắm vào nhân phẩm của từng người, theo đuổi công ích và bảo vệ những người yếu đuối khốn cùng.”
Người CG nên bầu cho những ứng viên có khuynh hướng sẽ thi hành công ích, có quan niệm được xác định trong giáo lý như là “tổng hợp tất cả những điều kiện xã hội cho phép người dân -hoặc cá nhân hay đoàn thể- hoàn thành nhiệm vụ mình một cách trọn vẹn và dễ dàng hơn.”
“Người CG có một bó buộc quan trọng và suốt đời để tạo dựng lương tâm theo lý luận con người và giảng huấn của Giáo Hội.” -Tài liệu tiếp tục như vậy.
“Lương tâm không phải là cái gì có thể cho phép chúng ta công chính hóa điều chúng ta muốn, cũng không chỉ là ‘một cảm giác đơn thuần’ về điều mà chúng ta có thể làm hay không thể làm. Đúng ra, lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa vang vọng trong tâm khảm con người chúng ta, biểu lộ sự thật cho chúng ta và kêu gọi chúng ta làm lành lánh dữ. Lương tâm luôn luôn đòi hỏi những cố gắng quan trọng hầu làm sáng tỏ những suy luận theo lương tâm dựa trên sự thật của niềm tin chúng ta.”
*Lý do không bầu cho một ứng viên
“Phương cách tạo dựng lương tâm” được đề cập tới ở đoạn 34: Người CG không thể bầu cho ứng viên theo đuổi một chính sách tự nó có tính tội ác, như phá thai, an tử (chết không đau đớn), trợ giúp tự vận, buộc công nhân làm việc hay người nghèo phải sống trong những điều kiện dưới tiêu chuẩn con người, tái định nghĩa hôn nhân với cố ý làm sai lạc ý nghĩa đích thực chính của nó, hoặc kỳ thị chủng tộc, trừ khi chủ đích của cử tri là yểm trợ những việc ấy.”
“Là người CG -các GM chú thích- chúng ta không là những cử tri chỉ để ý đến một chủ đề đơn thuần và vị thế của ứng viên về một chủ đề đơn giản thì không đủ để bảo đảm có lá phiếu của minh”. Đồng thời người CG không nên bầu cho ứng viên nào nếu vị thế của họ (ông hay bà) chỉ cần có một vấn đề đơn thuần tự bản tính đã là yểm trợ cho hành vi có tính tội ác.”
Tuy nhiên -các Gm nói- điều đó nó cũng khả thi có thể bầu cho người nào yểm trợ hành động mà tự nó là vô luân lý, nhưng chỉ với những lý do trầm trọng khác về luân lý.” Trước khi trở nên Giáo Hoàng Benedict XVI, hồng y Joseph Ratzinger gọi cách này là “những lý lẽ cân xứng (proportionate reasons).”
Trong văn thư năm 2004 gửi cho các Gm ở HK, Ratzinger đã viết: “Khi người CG không chia sẻ thế đứng của ứng viên chủ trương phá thai hoặc an tử nhưng bầu cho ứng viên đó vì những lý do khác thì đó được coi như là ám tàng hợp tác cách cụ thể có thể được nằm trong những lý lẽ cân xứng.”
Ý tưởng “lý luận cân sứng” đã nhận ra được những ứng viên bất toàn. Nhiệm vụ của người cử tri CG la đo lường so sánh vị thế của tất cả mọi ứng viên và tránh chọn ứng viên yểm trợ điều vô luân, trừ khi có cái gì tốt vượt trội hơn cái vô luân lý ấy.
*Những vấn đề không thể bàn cãi được
Trong một bài phát biểu trước nghị viện Âu Châu vào năm 2004, GH Benedict XVI đã đưa ra nhiều vấn đề liên quan tới công ích mà đối với người CG là “không thể bàn cãi được.”
Những vấn đề này đã được Đức Benedict XVI trình bày như sau:
-Bảo vệ sự sống ở tất cả mọi thời kỳ, từ lúc mới thụ tinh cho đến khi chết một cách tự nhiên.
-Nhận thức và quảng bá cơ cấu nền tảng tự nhiên của gia đình như là một phối hợp giữa một người nam và một người nữ làm nền tảng cho hôn nhân, và bảo vệ nó không cho nó đứng ngang hàng về pháp luật với những dạng thức căn bản khác nhau mà trong thực tế lại làm hại nó và làm nó mất cân bằng, bôi đen những đặc điểm của nó và thay đổi vị thế của nó trong xã hội không thể phục hồi được.
-Bảo vệ quyền giáo dục con cái của cha mẹ.
-Thực ra là các GM Hoa Kỳ đã nói, phá thai và an tử -chính trong ngôn từ của nó đã là “những đe dọa kinh khủng mạng sống và nhân phẩm con người”- đã là những quả cân nặng quyết định xem nó có thể bầu cho ứng viên đó hay không.
-Năm 2019 các GM đã nói: “Đe dọa phá thai còn nắm mất ưu tiên tuyệt đối của chúng ta vì nó trực tiếp tấn công chính mạng sống, chiếm vị trí trọng yếu linh thiêng của gia đình và vì con số những mạng sống bị hủy diệt.”
-Nhận thức điều quan trọng để bầu chống lại việc phá thai, GH và các vị lãnh đạo không nói rằng phá thai là chủ đề duy nhất nhưng là một chủ đề “ghê gớm kinh khủng” -một cân nhắc nền tảng để chấp nhận một ứng viên về mặt luân lý.
-GH Francis đã đặt câu hỏi trong thông điệp Laudato Si là làm sao chúng ta có thể giảng giải về sự quan trọng của những con người khốn khổ cùng cực có nhiều phiền toái bất ổn, nếu chúng ta không bảo vệ được thai phôi con người khi mà sự hiện diện của nó đã gây khó khăn bực mình cho chúng ta?”
-Trong Christifideles Laici thánh Gioan Phaolô II đã dạy là quyền có sức khỏe, có nhà ở, có việc làm, có văn hóa là sai lầm và là ảo tưởng nếu quyền sống là một quyền nền tảng và căn bản nhất và là điều kiện cho tất cả những quyền cá nhân khác, thì lại không được quyết định bảo vệ tối đa.”
-Năm 2008 Gm (bây giờ là HY) Kevin Farrell đã cho ra một thông điệp chung với Gm Kevin Vann nói rằng theo các ngài thì “không có ‘luân lý nặng thực sự’ hay ‘ cân bằng lý luận’ (truly grave moral hay ‘ proportionate reasons) đơn thuần hay phối hợp có thể vượt quá hàng triệu nhân mạng con người vô tội bị giết trực tiếp do phá thai gây ra hàng năm.”
-Năm 2008 TGM Charles Chaput đã nói người CG mà yểm trợ các ứng viên phá thai “cần phải có những lý luận cân xứng hấp dẫn có tính thuyết phục để biện minh.” Lý luận cân xứng là gì khi nó đi với chủ đề phá thai? Là lý luận cắt nghĩa với một tâm hồn trong sáng cho những nạn nhân của việc phá thai khi chúng ta đối diện với cuộc sống tiếp theo mà chắc chắn đa số chúng ta sẽ có. Nếu chúng ta tin tưởng là những nạn nhân này sẽ chấp nhận những lý do của chúng ta như là một lý cớ ngoại lệ (abili) thì lúc đó chúng ta có thể xúc tiến công việc.” Tgm Chaput nói vậy.
*Vậy... chúng ta phải bầu cho ai?
Các Gm nói là cử tri CG được huấn luyện đầy đủ có thể có những lá phiếu khác nhau. Các Gm cũng không loại bỏ những người không đi bầu hoăc bầu cho ứng viên của đảng thứ ba.
“Khi tất cả các ứng viên đều cổ võ những chủ đề có tính tội ác thì cử tri có lương tâm phải đối diện với tình trạng lưỡng nan khó sử. Họ phải có một quyết định đặc biệt là không bầu cho ai cả, hoặc sau khi đã bàn luận suy nghĩ cẩn thận họ phải bầu cho ứng viên nào có ít xấu hơn hoặc nhiều tốt hơn xấu.” (Xây dựng lương tâm, đoạn 36).
Năm 2016 Gm James Conley đã có một bản tóm lược hướng dẫn cử tri bầu như sau:
“Với lương tâm trong sáng, người CG nên chọn lựa bầu cho ứng viên nào có nhiều điều tốt hơn hoặc ít điều xấu hơn trong những củ đề chính và căn bản về Sự sống, Gia đình, quyền lương tâm, và tự do tôn giáo. Hoặc với một lương tâm trong sáng, họ có thể chọn ứng viên có viễn kiến xã hội về Kitô giáo hoặc chẳng bầu cho ai cả.”
Fleming Island, Florida
Sept 24, 2024
NTC
Papa Francesco presenzia alla consegna e lettura della Bolla di indizione del Giubileo 2025
Trang mạng này bằng nhiều ngôn ngữ và được cập nhật thường xuyên, đồng thời qua đó người ta cũng có thể ghi danh tham dự nhiều sinh hoạt.
Phần “Lịch Năm Thánh” (Calendario Giubileo) đã liệt kê 26 sinh hoạt lớn như:
Trong chương trình cũng có:
Phần còn lại của lịch trình, có các Ngày Năm Thánh cho các Ban nhạc các loại (từ ngày 10 đến ngày 11 tháng Năm) của các đơn vị quân đội, hội đoàn, học đường; Năm Thánh cho các Huynh đoàn (ngày 16 đến ngày 18 tháng Năm), Năm Thánh cho các gia đình, trẻ em, ông bà nội ngoại, người già (ngày 30 tháng Năm đến ngày 01 tháng Sáu); Năm Thánh của các Phong trào, Hiệp hội, các Cộng đoàn mới (ngày 07 đến ngày 08 tháng Sáu.
Sau cùng, cũng có những ngày Năm Thánh của Tòa Thánh (ngày 09 tháng Sáu), giới thể thao, chủng sinh, giám mục (25 tháng Sáu), linh mục (27 tháng Sáu), Năm Thánh An ủi, ngày 15 tháng Chín, dành cho những người đang sống trong thời kỳ đau khổ và sầu muộn, vì bệnh tật, tang tóc, bạo lực và lạm dụng đã chịu; Năm Thánh các viên chức và nhân viên Công lý (20 tháng Chín) dân luật và giáo luật; Năm Thánh các giáo lý viên (26 đến 28 tháng Chín); Năm Thánh người di dân (ngày 04 đến ngày 06 tháng Mười); Năm Thánh Đời sống thánh hiến (ngày 08 đến ngày 09 tháng Mười); Năm Thánh Linh đạo Thánh Mẫu (từ ngày 11 đến ngày 12 tháng Mười), Năm Thánh các ca đoàn (ngày 21 đến ngày 23 tháng Mười Một) và sau cùng là Năm Thánh các tù nhân, ngày 14 tháng Mười Hai.
Trong một thư ngỏ bất thường gởi Hồng y đoàn ngày 20 tháng 9, Đức Phanxicô xin các hồng y ủng hộ việc cải cách kinh tế của Tòa thánh. Ngài nhấn mạnh đến mục đích “không thâm hụt” khi Vatican đang bị áp lực trước sự bất mãn của nhiều nhân viên.
Bức thư bất thường vì thông tin liên lạc của giáo hoàng với hồng y đoàn thường qua công nghị. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên ngài gởi cho các hồng y theo thể thức này: năm 2014 ngài đã gởi một thư soạn sẵn, đó là sứ điệp đòi hỏi mọi hồng y phải giữ tinh thần Phúc Âm về tinh thần khắc khổ, điều độ và khó nghèo.
Thành quả của “nhiệm vụ” của các hồng y
Một thông điệp rõ ràng dành cho hồng y đoàn, một số hồng y đã có lối sống như “các ông hoàng của Giáo hội”. Trong thư, ngài nhấn mạnh mục đích duy nhất của hồng y không phải là bầu giáo hoàng, nhưng phải giúp “giáo hoàng trong việc phục vụ Giáo hội hoàn vũ”.
Năm 2013 ngài đưa ra tinh thần này khi thành lập Hội đồng C9 (chín hồng y) để giúp giáo hoàng trong việc cải cách Giáo triều. Trong thư gởi cho các hồng y ngày thứ năm, được công bố ngày thứ sáu 20 tháng 9, ngài nhắc lại cuộc cải cách này là kết quả ‘nhiệm vụ’ mà các hồng y đã giao cho ngài trong các Buổi họp trước mật nghị năm 2013, vấn đề kinh tế đã được cho là vấn đề hàng đầu.
Không thâm hụt
Sáu 9 năm làm việc, năm 2022 ngài ban hành tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium, trọng tâm nhằm quản lý Giáo hội, đặc biệt tạo một trung tâm kinh tế hoàn toàn mới. Trong thư gởi Hồng y đoàn, ngài nhấn mạnh vấn đề kinh tế của Tòa thánh vẫn chưa được giải quyết: “Các nguồn lực kinh tế phục vụ sứ mạng còn hạn chế và phải được quản lý chặt chẽ và nghiêm túc, để các cố gắng của ân nhân đóng góp cho di sản Tòa thánh không bị phân tán.”
“Các cơ quan thặng dư sẽ giúp bù đắp thâm hụt chung” – Đức Phanxicô
Việc cải cách Giáo triều đã giúp cải thiện hiệu quả kinh tế của di sản hiện có, nhưng hôm nay Đức Phanxicô xin mọi người giúp thêm để đạt mục tiêu đã nêu: “không thâm hụt”. Ngài đặc biệt thông báo, mỗi cơ quan của Tòa thánh sẽ không còn có thể trông cậy vào các khoản trợ cấp thông thường nhưng phải tìm “các nguồn lực bên ngoài cho sứ mệnh của mình”, một số cơ quan đã làm như cơ quan Truyền thông. Hiện tại, vẫn chưa rõ tình trạng tài khoản của Vatican vì từ năm 2022 Ban Thư ký Kinh tế (SpE) không còn công bố báo cáo tài chính.
Tuy nhiên, những năm vừa qua cho thấy tính không bền vững về mặt cấu trúc của tổ chức này, Vatican buộc phải thoái vốn tài sản hàng năm. Trong cuộc phỏng vấn với Vatican News năm 2020, Bộ trưởng Kinh tế Vatican Antonio Guerrero cho biết từ năm 2016 đến năm 2020, doanh thu trung bình là 270 triệu âu kim, mức chi tiêu là 320 triệu âu kim, thâm hụt trung bình 50 triệu âu kim hàng năm.
Thắt lưng buộc bụng và bất mãn ở Vatican
Đại dịch Covid-19 đã làm kinh tế Vatican suy yếu đáng kể, nói chung Đức Phanxicô đã có chính sách thắt lưng buộc bụng, đặc biệt là ngưng tăng lương, ngưng tăng tiền thưởng và ngưng tuyển nhân viên ở một số cơ quan, việc này đã làm nhân viên Vatican lo ngại và không phải không đáng kể khi trong thư, ngài ý thức được sự cống hiến và khó khăn của họ trong tiến trình đổi mới này.
Tiếp xúc với I.Media, một nhân viên của Vatican công nhận vấn đề này. Thư được gởi chỉ năm ngày trước cuộc họp của Hiệp hội Nhân viên Giáo dân Vatican (ADLV), tổ chức duy nhất đại diện cho quyền lợi của họ trong trường hợp không có sự thống nhất về luật pháp. Bối cảnh xã hội đặc biệt căng thẳng và còn có tin đồn về một cuộc đình công (dù quyền này không có ở Rôma): “Ngày nay từ “đình công” không có là từ cấm kỵ ở Vatican.”
Gia đình đoàn kết
Nhưng Giáo hoàng có nói chuyện trực tiếp với nhân viên bình thường hay những người nhận thư không? Năm 2021, ngài đã hạ 10% lương của nhiều thành viên Giáo triều, đặc biệt là lương của hồng y đang làm việc tại Rôma, sau đó tiền lương giảm từ 5.000 âu kim xuống còn 4.500 âu kim mỗi tháng.
Trong thư, một lần nữa ngài xin các hồng y quảng đại hỗ trợ việc giảm chi phí cần thiết. Ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải tránh những thứ “không cần thiết”, xin các hồng y có “trách nhiệm cao” chủ động hỗ trợ để bảo đảm tương lai cho Sứ mệnh, để là tấm gương của các gia đình giàu nhất tặng cho người nghèo nhất.
Ngài nói: “Các cơ quan thặng dư sẽ giúp bù đắp thâm hụt chung” nhưng ngài không chỉ định cơ quan nào. Một nguồn tin cho I.Media biết, bức thư là cách để Đức Phanxicô tạo áp lực lên một số hồng y.
Quỹ Thánh Phêrô
Về bản chất, bức thư giải thích việc lấy lại cân bằng tài chính là giúp khôi phục uy tín Tòa thánh. Việc quản lý mẫu mực và quảng đại di sản sẽ giúp khôi phục các khoản quyên góp, đặc biệt là tiền quyên góp của Quỹ Thánh Phêrô (quỹ quyên góp toàn cầu giúp Vatican hàng năm).
Trong những năm gần đây, quỹ này đã giảm rất nhiều. Giải thích tình trạng này, các cơ quan kinh tế quy trách nhiệm cho các vụ bê bối tài chính – như vụ “tòa nhà ở London” – nhưng cũng quy cho việc quản lý tài sản không minh bạch, rõ ràng, nghiêm ngặt trong hoạt động hàng ngày của Vatican.
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong thư gửi các hồng y ngày 16 tháng Chín vừa qua, và được Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố, ngày 20 tháng Chín. Trong thư, Đức Thánh cha nhắc lại cuộc cải tổ Giáo triều Roma bắt đầu cách đây mười năm, trong tinh thần nguyên tắc “Ecclesia semper reformanda”, Giáo hội luôn luôn cần được cải tổ. Trong thời gian qua, mặc dù có những khó khăn, và đôi khi có cám dỗ bất động và không uyển chuyển trước sự thay đổi, nhiều thành quả đã đạt được”.
Đặc biệt, về cuộc cải tổ kinh tế của Tòa Thánh, “một trong những đề tài được bàn đến nhiều trong các phiên họp toàn thể của Hồng y đoàn trước mật nghị bầu Giáo hoàng, nay cần có sự cố gắng hơn nữa của tất cả mọi người để mục tiêu “không bị thiếu hụt” không phải chỉ là một điều trên lý thuyết, nhưng là một mục đích thực sự có thể đạt được”.
Mục tiêu này dựa trên sự ý thức rằng “tài nguyên kinh tế để phục vụ sứ mạng thì có giới hạn và phải được quản lý đúng quy luật và nghiêm túc để cố gắng của những người đã đóng góp cho gia sản của Tòa Thánh không bị uổng phí”.
Cùng với mục tiêu tránh bị nợ nần, Đức Thánh cha còn nhấn mạnh đến điều cần thiết là “mỗi cơ quan Tòa Thánh cố gắng tìm ra những nguồn tài nguyên bên ngoài cho sứ mạng, nêu gương về sự minh bạch và quản lý trách nhiệm để phục vụ Giáo hội”.
Ngoài ra, Đức Thánh cha cũng kêu gọi nêu gương về sự giảm chi bằng cách tránh dư thừa và chọn lựa kỹ lưỡng các ưu tiên cần thực hiện, tạo điều kiện cho sự cộng tác với nhau và hiệp lực. Ngài viết: “Chúng ta phải ý thức rằng ngày nay chúng ta đang đối diện với những quyết định chiến lược cần đề ra, với tinh thần trách nhiệm tối đa, vì chúng ta được kêu gọi bảo đảm tương lai của sứ vụ”.
Tình liên đới giữa các cơ quan
Về việc quản lý tốt tài chánh, Đức Thánh cha nhận xét rằng các cơ quan Tòa Thánh phải học hỏi nhiều từ tình liên đới của các gia đình tốt, trong việc giúp đỡ nhau. Vì thế, “các cơ quan thặng dư phải giúp bù đắp những thiếu hụt chung. Điều này có nghĩa là chăm sóc đến thiện ích của các cộng đoàn chúng ta, hành động quảng đại trong tinh thần Tin mừng, như một điều kiện tiên quyết để xin lòng quảng đại từ bên ngoài”.
Sau cùng, Đức Thánh cha xin các hồng y chào đón sứ điệp này của ngài với lòng can đảm và tinh thần phục vụ. Đồng thời, ngài kêu gọi các vị hỗ trợ các cuộc cải tổ này “một cách xác tín, lương thiện, trung thành và quảng đại, tích cực góp phần bằng kiến thức và kinh nghiệm của anh em”.
“Mỗi cơ quan Tòa Thánh hiệp với tất cả các cơ quan khác thành một thân mình duy nhất: vì thế sự cộng tác đích thực để tiến tới mục tiêu duy nhất chính là thiện ích của Giáo hội, là một đòi hỏi thiết yếu của công việc phục vụ của chúng ta”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh nhu cầu tiếp tục cải cách kinh tế, và nói rằng việc cải cách này, điều mà nhiều thành viên Hồng y đoàn thúc đẩy trong quá khứ, cũng đã “có tầm nhìn xa”. Việc cải cách giúp chúng ta “có được nhận thức rõ ràng hơn về thực tế rằng các nguồn lực kinh tế cho việc phục vụ sứ mạng bị giới hạn và phải được quản lý một cách chặt chẽ và nghiêm túc để nỗ lực của những người đã đóng góp cho di sản của Tòa thánh không bị lãng phí”.
Mức thâm hụt bằng zero
Vì những lý do này, Đức Thánh Cha chỉ ra “trách nhiệm” trong thời gian này là “nỗ lực hơn nữa từ phía mọi người để ‘mức thâm hụt bằng 0’ không chỉ là mục tiêu lý thuyết mà còn là một mục tiêu thực sự có thể đạt được”.
Tìm kiếm các nguồn lực
“Điều này đi kèm với nhu cầu mỗi tổ chức phải làm việc để tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài cho sứ mạng của mình, tự coi mình là mẫu mực về việc quản lý minh bạch và có trách nhiệm để phục vụ Giáo hội”.
Giảm chi phí
Kêu gọi những thực hành cụ thể để giảm chi phí, Đức Thánh Cha mời gọi Giáo triều thực hiện với tinh thần thiết yếu, tránh những điều thừa thãi và lựa chọn tốt các ưu tiên của mình, khuyến khích sự hợp tác lẫn nhau và sự hiệp lực". "Chúng ta phải ý thức rằng ngày nay chúng ta phải đối mặt với những quyết định chiến lược phải được thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao cả, bởi vì chúng ta được mời gọi bảo đảm tương lai của Sứ vụ.
Liên đới giữa các cơ quan tổ chức
Đức Thánh Cha cũng kêu gọi các cơ quan tổ chức có thu nhập thặng dư nên góp phần bù đắp khoản thâm hụt chung, theo mẫu mực của các gia đình tốt, những người có hoàn cảnh kinh tế tốt sẽ giúp đỡ những thành viên cần giúp đỡ nhất.
Cuối thư, Đức Thánh Cha mời các Hồng y ủng hộ các cuộc cải cách đang diễn ra bằng “lòng can đảm, tinh thần phục vụ và sự quảng đại”. Ngài khuyến khích họ đóng góp xây dựng cho quá trình này bằng cách chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình, đồng thời nhấn mạnh rằng công việc của mỗi tổ chức là một phần của một tổng thể lớn hơn, thống nhất trong sứ mạng chung là phục vụ Giáo hội.
Trước khi rời Nhà trọ thánh Marta, ở Vatican, theo thói quen, Đức Thánh cha còn gặp một nhóm mười người vô gia cư, do Đức Hồng y Konrad Krajewski, Bộ trưởng Bác ái, dẫn đến. Họ là những người trú ngụ dưới các hàng cột quanh Quảng trường thánh Phêrô và những đường lân cận.
Từ sân bay quốc tế Fiumicino của thành Roma, Đức Thánh cha đã đáp máy bay Airbus “A321 neo” của hãng Ita Airways để đi Luxemburg, cách đó 1.170 cây số về hướng bắc. Cùng đi với Đức Thánh cha trong đoàn tùy tùng, có Đức Hồng y Prevost người Mỹ, Tổng trưởng Bộ Giám mục, Đức Tổng giám mục Peña Parra, Phụ tá Quốc vụ khanh và Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Gallagher, cùng với 60 ký giả quốc tế.
Như thường lệ, Đức Thánh cha đã chào các ký giả cùng đi và cám ơn họ vì việc phục vụ. Ngài muốn chào thăm từng người như thông lệ, nhưng vì thời gian hạn hẹp của chuyến bay nên ngài không thực hiện được, và chỉ chào chung. Dầu vậy, nhân dịp này, một ký giả đã trao cho ngài một túi đầy những quà tặng của các ký giả cùng đi, và đặc biệt là nhiều thư của những người di dân kể lại tình trạng đau thương của họ.
Máy bay cất cánh lúc quá 8 giờ sáng và trực chỉ thủ đô Luxemburg.
Chặng dừng đầu tiên lần này của Đức Thánh cha là Luxemburg, quốc gia bé nhỏ chỉ rộng 2.600 cây số vuông, và thuộc hàng nhỏ nhất trong số 27 nước thuộc Liên hiệp Âu châu. Dân số Luxemburg vào khoảng 645.000 người. Đây là một trong những nước có lợi tức bình quân mỗi đầu người cao nhất thế giới và Luxemburg được xếp vào số những thành phố có chất lượng đời sống cao, an ninh cá nhân cao nhất thế giới, sạch sẽ, ngăn nắp và dễ sống nhất.
Về mặt tôn giáo, có 471.000 người là tín hữu Công giáo, tương đương với 70% dân số, hợp thành một Tổng giáo phận với 275 giáo xứ, 120 linh mục giáo phận và 42 linh mục dòng, 60 tu huynh và 240 nữ tu. Tỷ lệ các tín hữu Công giáo hành đạo liên tục giảm sút trong năm mươi năm qua. Cả ảnh hưởng của Giáo hội về mặt xã hội và chính trị cũng suy giảm. Cho đến cuối thế kỷ XX, nhật báo quan trọng nhất nước là báo Công giáo, môn giáo lý Công giáo tại trường học là môn bắt buộc; Nhà nước, Giáo hội và Đảng nhân nhân xã hội Kitô, gọi tắt là CSV, liên kết chặt chẽ với nhau.
Nhưng trong mười năm dưới thời Thủ tướng Xavier Bettel, thuộc đảng cấp tiến, cầm quyền từ năm 2013 đến 2023, tương quan giữa Giáo hội và Nhà nước trở nên lỏng lẻo. Môn tôn giáo bị bãi bỏ ở các trường trung học và các trường công lập; việc tài trợ của Nhà nước về lương bổng cho các linh mục cũng như các cơ sở của Giáo hội cũng bị giảm sút nhiều. Các cộng đoàn tôn giáo khác, trong đó có các cộng đoàn Hồi giáo gia tăng mạnh, cũng được cấp quy chế pháp lý như Giáo hội Công giáo.
Xét về mặt nhân sự của Giáo hội, với số linh mục và tu sĩ vừa nói, Giáo hội Công giáo tại Luxemburg tương đối còn vững mạnh. Khoảng 50.000 người Bồ Đào Nha nhập cư, họp thành một nhóm quan trọng trong Giáo hội tại nước này.
Sau gần hai giờ bay, máy bay chở Đức Thánh cha đã đáp xuống sân bay Luxemburg Findel, lúc 10 giờ sáng. Tại đây, ông bà Đại quận công cùng với Thủ tướng tiếp đón Đức Thánh cha ở chân thang máy bay và hai bạn trẻ tặng hoa cho ngài, trước khi bước vào khu vực khánh tiết, nơi diễn ra cuộc tiếp đón theo nghi thức ngoại giao. Liền đó, Đức Thánh cha đến dinh Đại quận công để hội kiến riêng. Trong khi ngài gặp gỡ vị nguyên thủ quốc gia thì Đức Tổng giám mục Phụ tá quốc vụ khanh và Ngoại trưởng Tòa Thánh gặp thủ tướng.
Đại quận công Enrico của Luxemburg năm nay 69 tuổi và phu nhân, vốn là công chúa của nước Bỉ láng giềng. Ông bà có năm người con. Cả gia đình, với các cháu đã chụp hình lưu niệm chung với Đức Thánh cha.
Sau cuộc gặp gỡ với gia đình Đại quận công, Đức Thánh cha còn gặp Thủ tướng Luxemburg, ông Luc Frieden, 61 tuổi, từng làm Bộ trưởng bốn bộ khác nhau, trước khi được bầu làm thủ tướng, từ hồi tháng Mười Một năm ngoái.
Hiện diện trong cuộc gặp gỡ tại đây, ngoài Đại quận công Luxemburg và Thủ tướng, còn có khoảng 300 người, gồm ngoại giao đoàn, các vị lãnh đạo tôn giáo, doanh nhân, cũng như các đại diện xã hội dân sự và văn hóa.
Lên tiếng sau lời chào mừng của Thủ tướng Frieden, Đức Thánh cha đề cao vai trò mà Luxemburg có thể nắm giữ trong việc phục vụ cộng đồng các dân nước. Đức Thánh cha nói:
“Cơ cấu dân chủ vững chắc của đất nước quý vị, vốn quan tâm đến phẩm giá con người và bảo vệ những tự do cơ bản của con người, chính là tiền đề không thể thiếu được để có một vai trò quan trọng trong bối cảnh đại lục. Thực vậy, không phải lãnh thổ rộng lớn hoặc dân số đông là điều kiện không thể thiếu được để một quốc gia giữ một phần quan trọng trên bình diện quốc tế, hoặc để có thể trở thành một trung tâm chủ yếu trên bình diện kinh tế và tài chánh. Trái lại, điều quan trọng là sự kiên nhẫn xây dựng của các tổ chức và những luật lệ khôn ngoan nhờ kỷ luật hóa đời sống của các công dân theo các tiêu chuẩn công bằng và tôn trọng nhà nước pháp quyền, đặt con người và công ích ở trung tâm, phòng ngừa và chống lại những nguy cơ kỳ thị và loại trừ”.
Đức Thánh cha cũng đề cao vai trò đạo lý xã hội của Hội thánh, đạo lý này chỉ cho thấy những đặc tính của sự tiến bộ đích thực và những con đường để đạt tới. Ngài đặc biệt nhất mạnh hai đề tài lớn trong đạo lý này, đó là chăm sóc thiên nhiên và tình huynh đệ. “Thực vậy, sự phát triển, để có tính chất chân thực và toàn diện, không được phá tán và làm băng hoại căn nhà chung của chúng ta, và không được để cho dân chúng hoặc các nhóm xã hội ở ngoài lề. Sự phong phú, sự giàu sang là một trách nhiệm. Vì thế tôi xin hãy luôn tỉnh thức quan tâm làm sau để khỏi lơ là, bỏ rơi các quốc gia kém may mắn hơn, trái lại cần giúp đỡ để họ có thể trỗi dậy, ra khỏi tình trạng nhèo đói của họ. Đó là con đường tốt nhất để giảm bớt số người buộc lòng phải xuất cư, họ thường ra đi trong những điều kiện không xứng đáng và nguy hiểm. Luxemburg với lịch sử đặc biệt, với vị trí đặc thù như vậy, và với gần một nửa số dâ đến từ các nơi khác ở Âu châu và trên thế giới, hãy trợ giúp và nêu gương, chỉ đường cần theo để đón nhận và hội nhập những người di dân và tị nạn”.
Sau cuộc gặp gỡ với chính quyền và các đại diện xã hội, văn hóa Luxemburg, Đức Thánh cha đã về Tòa Tổng giám mục ở địa phương để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh cha nhận xét rằng cuộc gặp gỡ này trùng với dịp khai mạc năm kỷ niệm 400 năm lòng sùng kính của Giáo hội tại Luxemburg đối với Đức Mẹ an ủi kẻ âu lo, bổn mạng của đất nước này. Tước hiệu trên đây của Đức Mẹ rất phù hợp với chủ đề chuyến viếng thăm của ngài tại đây, là “Để phục vụ”. Thực vậy, an ủi và phục vụ là hai khía cạnh cơ bản của tình yêu thương mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta, Đấng đã ủy thác cho chúng ta như sứ mạng (Xc Ga 13,13-17) và chỉ cho chúng ta như con đường duy nhất dẫn đến niềm vui trọn vẹn (Cv 20,35). Vì thế, trong kinh nguyện khai mạc Năm Thánh Mẫu này, chúng ta cầu xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta trở thành “những thừa sai, sẵn sàng làm chứng về niềm vui Tin mừng”, làm cho con tim chúng ta trở nên giống tâm hồn của Mẹ, để “đặt mình phục vụ anh chị em chúng ta”.
Đi vào cụ thể, Đức Thánh cha đặc biệt khích lệ các tín hữu Luxemburg sống tinh thần tiếp đón, phù hợp với truyền thống ngàn đời của đất nước này, cởi mở đối với mọi người, không loại trừ một ai.
Tiếp đến là thực thi sứ mạng truyền giáo. Giáo hội Luxemburg đang sống trong một xã hội bị tục hóa, nhưng như Đức Hồng y Tổng giám mục sở tại đã nhận xét, Giáo hội trong một xã hội như thế, tiến triển, trưởng thành, không co cụm vào mình, không buồn sầu, cam chịu, cay đắng; đúng hơn, cần chấp nhận thách đố, trong niềm trung thành với các giá trị ngàn đời, tái khám phá và đề cao giá trị một cách mới mẻ những con đường loan báo Tin mừng, tiến từ việc chăm sóc mục vụ đến sự loan báo thừa sai. “Điều quan trọng đối với chúng ta, điều thúc đẩy chúng ta truyền giáo, không phải vì muốn có những con số đông đảo, chiêu dụ tín đồ, nhưng là ước muốn làm cho nhiều anh chị em cảm nghiệm niềm vui được gặp gỡ Chúa Kitô”.
Sau bài huấn dụ của Đức Thánh cha, Đức Hồng y Hollerich đã đọc kinh khai mạc Năm Thánh Mẫu, kỷ niệm 400 năm Đức Mẹ an ủi kẻ lo âu, và nghi thức đặt hoa hồng vàng nơi tượng Đức Mẹ.
Hiện diện trong cuộc gặp gỡ, cũng có một số giám mục. Trước khi rời nhà thờ, Đức Thánh cha dừng lại để chào thăm các vị kinh sĩ nhà thờ chính tòa, trước khi tiến ra quảng trường bên ngoài để chào thăm các tín hữu.
Giã từ thánh đường, Đức Thánh cha đã ra phi trường Luxemburg, cách đó gần 10 cây số để đáp máy lúc quá 6 giờ chiều, bay sang Vương quốc Bỉ. Đức Thánh cha tới sân bay căn cứ quân sự Melsbroek, cách đó hơn 300 cây số. Tại đây, có Quốc vương và Hoàng hậu Bỉ chào đón Đức Thánh cha, trước khi ngày về Tòa Sứ thần Tòa Thánh cách đó 18 cây số để dùng bữa và nghỉ đêm.
Đức Phanxicô đến thăm Luxembourg trong chuyến tông du ngày 26 tháng 9 đưa ngài đi Luxembourg và Bỉ cho đến ngày chúa nhật 29 tháng 9. Điểm dừng chân ngắn ngủi tại Luxembourg là một khích lệ cho Hồng y Dòng Tên Jean-Claude Hollerich của Luxembourg.
Hồng y Hollerich 66 tuổi là thành viên của nhóm C9 (chín hồng y cố vấn cho Đức Phanxicô). Ngài là tổng tường trình của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, một dự án rộng lớn của Đức Phanxicô để Giáo hội trở nên toàn diện hơn.
Xin Hồng y cho biết, các lý do của chuyến đi này?
Hồng y Jean-Claude Hollerich: Điều tôi có thể nói là chúng tôi ở vùng ngoại vi, Luxembourg là đất nước rất giàu có, nhưng chúng tôi là vùng ngoại vi của Giáo hội vi chúng tôi là quốc gia thế tục hóa rất mạnh. Các giáo xứ ở Luxembourg không còn tồn tại nữa. Chúng tôi là một cộng đồng ngôn ngữ, ngài đến thăm một thực tế mới vì chúng tôi là quốc gia quốc tế với một nửa dân số không phải là công dân Luxembourg. Nếu quý vị dự thánh lễ bằng tiếng Bồ Đào Nha thì quý vị sẽ thấy không có đủ ghế trong nhà thờ, cũng vậy với thánh lễ bằng tiếng Anh. Ở thành phố Luxembourg, có nhiều người Pháp và đức tin của họ rất mạnh.
Phong tục Luxembourg của chúng tôi vẫn liên kết với các sắc dân di cư khác nhau, đó là trường hợp của nhà thờ Đức Mẹ An ủi kẻ Đau khổ, bổn mạng của thành phố và đất nước. Đức Phanxicô sẽ đến đây dâng thánh lễ ngày 26 tháng 9, kỷ niệm 400 năm ngày thành lập Nhà thờ Đức Mẹ.
Đức Phanxicô gặp Cộng đoàn công giáo ở Nhà thờ Chính toà Đức Bà Luxembourg ngày 26 tháng 9
Nhiều người nghĩ Hồng y thân thiết với Giáo hoàng và tình bạn đã làm cho ngài dừng chân ở Luxembourg…
Tôi không biết, ông phải hỏi ngài! Tôi rất thân với ngài, không có nghĩa là ngài gần gũi với tôi nhiều hơn người khác. Tôi rất mừng vì ngài đến, chúng tôi vinh dự được đón tiếp ngài.
Sau chuyến đi 12 ngày đến Đông Nam Á và Châu Đại Dương, bây giờ ngài hướng tới trung tâm của một Châu Âu đã thế tục hóa và hậu kitô giáo, việc này mang lại thông điệp gì cho đất nước của Hồng y?
Đức Phanxicô là người loan báo Tin Mừng thuần khiết, tôi rất vui khi ngài đến đây để nói với chúng tôi lời kêu gọi hoán cải này. Chúng tôi phải nhìn hiện tại, không nhìn quá khứ để lý tưởng hóa. Chúng tôi phải sống với thời đại và thấy Thiên Chúa hiện diện trong văn hóa của chúng tôi, đó là nơi chúng tôi sẽ thấy các dấu hiệu để đổi mới Giáo hội. Đáng tiếc chúng tôi còn nhiều chuyện phải khép lại, những tàn tích của quá khứ. Tôi ở trong Giáo hội này nên tôi đau lòng về những chuyện này, nhưng tôi hy vọng chúng tôi bước đi với Chúa và Ngài sẽ dẫn dắt chúng tôi.
Luxembourg đón Đức Phanxicô ngày 26 tháng 9 năm 2024
Có những dấu hiệu hy vọng, đó là sức sống của cộng đồng Bồ Đào Nha, của những người trẻ tuổi. Dĩ nhiên số lượng không nhiều, nhưng chúng tôi thấy họ có một chiều sâu tâm linh mà trước đây họ không có. Tôi đã đi xe buýt với 200 bạn trẻ trong Ngày Thế Giới Trẻ Lisbon. Họ có ý thức về Thiên Chúa, về cầu nguyện. Bốn mươi năm trước đây, phong trào Công giáo Tiến hành rất mạnh, ngày nay người trẻ muốn biết Thiên Chúa là ai và muốn có được ơn để hành động.
Có phải sung túc và tiện nghi vật chất đã làm người công giáo Châu Âu ra khỏi sứ điệp Phúc âm không?
Chúng ta đang sống trong một chủ nghĩa duy vật xoàng xĩnh. Khi nói chuyện với các bạn trẻ, tôi thấy giấc mơ về tương lai của họ không phải là những gì họ muốn trở thành. Thật đau buồn hầu hết họ thích có phép lạ để kiếm được nhiều tiền.
“Giáo hội ngày mai sẽ không thể sống nếu không có linh mục”
Khi còn trẻ, một mặt tôi mơ là một linh mục thánh thiện, nhưng tôi cũng mơ lập gia đình. Tôi chưa bao giờ nghĩ nếu tôi yêu một cô gái, sau khi kiếm được nhiều tiền tôi sẽ kết hôn. Mối quan hệ với Chúa và mối quan hệ với người khác phải luôn đặt lên hàng đầu.
Theo Hồng y các biện pháp khắc phục cám dỗ vật chất là gì?
Trong một số giây phút hiếm hoi, như trong các đám tang, con người nhận ra mình đã sống sai lầm. Hiện nay chúng ta có mục vụ tang lễ rất phát triển, các linh mục, giáo dân đến thăm tang gia. Họ rất biết ơn. Đó là giây phút chúng ta có thời gian để chạm vào thân phận con người. Tôi cũng nghĩ đến những giây phút vui vẻ trong cuộc sống, trong tình yêu, nơi con cái. Đó là những khoảnh khắc tốt đẹp của cuộc sống phá vỡ bức tường của chủ nghĩa duy vật, con người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và Giáo hội phải có mặt ở đây.
Giáo hội ở Luxembourg có còn là phương tiện cho sự hiện diện này không?
Khó khăn, vì trước đây Giáo hội chúng tôi lệ thuộc vào Nhà nước, không có giáo lý ở giáo xứ nhưng có các lớp tôn giáo ở trường học. Ngày nay điều này không còn hợp lệ nữa, phải học giáo lý ở giáo xứ. Có rất nhiều việc cần làm trong Giáo hội, lẽ tự nhiên có nhiều việc thì mệt mỏi, chúng ta thích sống nơi đã ngăn nắp hơn sống ở nơi có nhiều việc! Nhưng đó là một bước cần thiết, Giáo hội trông cậy vào các giáo dân dấn thân và chúng ta luôn cần linh mục.
Xin Hồng y cho biết sự phát triển về số lượng linh mục trong giáo phận của Hồng y?
Năm 2001 chúng tôi có 268 linh mục, năm 2022 chúng tôi có 170 linh mục. Giáo hội ngày mai sẽ không thể sống nếu không có linh mục. Chúng ta cần linh mục vì chúng ta cần bí tích. Một Giáo hội không có bí tích sẽ không còn là Giáo hội nữa.
Kinh nghiệm truyền giáo lâu năm của Hồng y ở Nhật Bản, đất nước có ít người công giáo, kinh nghiệm này có giúp Hồng y đối diện với thực tế ngày nay không?
Tôi thường tự hỏi vì sao Chúa lại đưa tôi đến Nhật Bản trước khi về Luxembourg, hai thực tế hoàn toàn khác nhau. Tôi nghĩ Chúa đã có kế hoạch vì Nhật Bản là một xã hội rất thế tục, vì thế tôi đã được chuẩn bị để thấy Luxembourg cũng không kém thế tục, một vùng đất truyền giáo mới. Chính nhờ liên lỉ cầu nguyện, đọc Tin Mừng, hiểu Tin Mừng, cảm nhận được thông điệp của Tin Mừng mà tôi tìm được phương thuốc, người công giáo cần trải qua hoán cải để có thể thành công dân của Tin Mừng.
Đức Phanxicô sẽ thấy gì ở đất nước thành trì của tài chánh thế giới?
Tôi nghĩ ngài là người hành động và hiểu vấn đề của thế giới, dĩ nhiên có người không thích ngài. Ở đất nước chúng tôi, chúng tôi có Hiệp hội Tư tưởng Tự do của người vô thần và người theo chủ nghĩa nhân văn, chắc chắn họ không phải là những người nồng nhiệt chào đón ngài.
Ngoài ra còn có người công giáo cánh tả, cánh hữu, người cánh tả cho rằng ngài quá bảo thủ trong vấn đề linh mục độc thân, phụ nữ làm linh mục. Người cánh hữu không thích ngài vì những lý do khác. Họ không hiểu ngài là giáo hoàng của lòng thương xót bao la.
Những gì Giáo hội Châu Âu lưu giữ là di sản tinh thần và văn hóa, trí tuệ triết học và thần học”
Về mặt tài chính, Luxembourg có những cố gắng để đi đúng đường, nhưng tôi nghĩ chúng tôi vẫn còn xa với những gì Đức Phanxicô mong muốn.
Đến Luxembourg một tuần trước khi khai mạc giai đoạn cuối của Thượng Hội đồng, đây có phải là cách Đức Phanxicô nói đến phong trào cải cách của Giáo hội ngày mai không?
Ngài không cần đi Luxembourg để ủng hộ Thượng Hội Đồng. Chính ngài là người muốn có Thượng hội đồng này và chính ngài là người khuyến khích chúng tôi tiến về phía trước.
Thượng Hội đồng này có ảnh hưởng gì đến giáo phận của Hồng y?
Chúng ta có một Giáo hội mang nặng giáo sĩ tính, các linh mục và tu sĩ là nhân vật chính, giáo dân làm theo những gì họ nói. Nhưng trên hết chúng ta phải hiểu, tín hữu kitô không phải là đối tượng mà là chủ thể của Tin Mừng và của việc truyền giáo. Chúng ta phải sống ơn rửa tội cách sáng tạo và tích cực. Người dân sẽ về với Giáo hội khi họ gặp tín hữu kitô, họ sẽ hỏi: “Bí mật của những người này là gì?”
Trong một phỏng vấn gần đây với báo Gia đình Kitô giáo, Hồng y Christoph Schönborn cho rằng người công giáo Châu Âu phải chấp nhận sự suy tàn của Châu Âu. Hồng y Fridolin Ambongo cũng nói về sự suy đồi văn hóa và đạo đức ở phương Tây. Liệu Giáo hội Châu Âu còn có thể đóng góp gì cho Giáo hội hoàn vũ không? Thái độ của Giáo hội Châu Âu nên như thế nào?
Giáo hội Châu Âu phải khiêm nhường. Chúng ta không còn là ông chủ của các Giáo hội khác. Mùa hè này tôi đi Benin và Congo, tôi đã chứng kiến một Giáo hội sống động, với những phụng vụ tốn nhiều thời gian nhưng lại làm cho giáo dân vui vẻ. Ở đây chắc chắn sẽ có người nhìn đồng hồ. Đôi khi ở Châu Âu, thánh lễ là nghĩa vụ hơn là niềm vui. Tôi cũng biết ở Châu Á với những Giáo hội nhỏ bé nhưng đầy sức sống. Chúng ta đã thấy điều tốt đẹp cho Giáo hội Châu Âu khi có một giáo hoàng không phải là người Châu Âu. Đó là một ơn cho lục địa.
Di sản Giáo hội Châu Âu lưu giữ là di sản tinh thần và văn hóa, trí tuệ triết học và thần học. Chúng ta phải biến di sản này thành ký ức sống động. Chúng ta được nuôi dưỡng không phải để quay về quá khứ nhưng để sống ngày hôm nay với Thiên Chúa như Đức Bênêđíctô XVI đã thể hiện trong triều của ngài.
Thứ Sáu, ngày 27 tháng Chín năm 2024, lúc quá 9 giờ sáng, Đức Thánh cha Phanxicô sẽ viếng thăm Quốc vương và Hoàng hậu Bỉ, tại Lâu đài Laeken trước khi gặp chính quyền và các đại diện xã hội dân sự vào lúc 10 giờ.
Ban chiều, Đức Thánh cha đến thăm Đại học Công giáo Leuven, vào lúc 4 giờ và gặp gỡ các giáo sư, trước khi gặp gỡ và chào thăm dân chúng tại Quảng trường chính của thành phố Leuven.
Trong bài diễn văn liền sau đó, trước hết, Đức Thánh Cha bày tỏ niềm vui và cảm ơn vì sự đón tiếp nồng nhiệt dành cho ngài. Đức Thánh Cha nói: “Khi nghĩ đến đất nước này, điều hiện lên trong tâm trí tôi là một điều gì đó nhỏ bé nhưng to lớn, một đất nước ở phía tây nhưng đồng thời cũng là trung tâm, như thể Bỉ là trái tim đang đập của một sinh vật khổng lồ”.
Châu Âu cần Bỉ để nhắc rằng lịch sử châu lục gồm các dân tộc, nền văn hóa, nhà thờ và trường học
Ở điểm này, ngài khẳng định sẽ là sai lầm khi đánh giá chất lượng của một quốc gia dựa trên kích thước địa lý. Bỉ không phải là một quốc gia rộng lớn, nhưng lịch sử đặc biệt của quốc gia có tác động mạnh mẽ. Ngay sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, các dân tộc châu Âu mệt mỏi và chán nản, bắt đầu con đường bình định, hợp tác và hội nhập nghiêm túc, đã coi Bỉ là địa điểm tự nhiên của các tổ chức chính của châu Âu. Do thực tế đất nước nằm trên đường đứt gãy giữa thế giới Đức và thế giới Latinh, giáp ranh với Pháp và Đức, hai quốc gia thể hiện rõ nhất những lý tưởng dân tộc chủ nghĩa đối lập trong cuộc xung đột, Bỉ xuất hiện như một địa điểm lý tưởng, gần như là nơi tổng hợp của châu Âu, từ đó tái khởi động công cuộc tái thiết về thể chất, đạo đức và tinh thần.
Có thể nói Bỉ là cầu nối giữa lục địa và quần đảo Anh, giữa các vùng nói tiếng Đức và tiếng Pháp, giữa Nam và Bắc Âu. Một cây cầu cho phép sự hòa hợp lan toả và tranh chấp lùi bước. Một cầu nối nơi mọi người, với ngôn ngữ, cách nghĩ và niềm tin riêng có thể gặp những người khác và trò chuyện, đối thoại, chia sẻ như phương tiện tương tác lẫn nhau. Một nơi người ta học cách tạo nên căn tính của mình không phải là thần tượng hay rào cản, nhưng là một không gian chào đón, để bắt đầu và quay trở lại, nơi thúc đẩy những trao đổi giá trị và cùng nhau tìm kiếm sự ổn định xã hội mới, xây dựng những thoả thuận mới. Một cây cầu thúc đẩy thương mại, kết nối và cho phép các nền văn minh đối thoại. Do đó một cây cầu không thể thiếu để xây dựng hoà bình và từ khước chiến tranh.
Như thế, dễ hiểu tại sao Bỉ nhỏ bé nhưng thực sự to lớn. Châu Âu cần Bỉ để nhắc nhớ rằng lịch sử của mình bao gồm các dân tộc và nền văn hóa, nhà thờ và trường đại học, thành tựu của sự khéo léo con người, nhưng cũng có nhiều cuộc chiến tranh và ý chí thống trị mà đôi khi dẫn đến chủ nghĩa thực dân và bóc lột.
Châu Âu cần Bỉ để tiếp tục con đường hòa bình và tình huynh đệ giữa các dân tộc. Đất nước này nhắc nhở mọi người rằng, khi - dựa trên những lý do đa dạng và không thể bảo vệ nhất – người ta bắt đầu không tôn trọng biên giới và hiệp ước nữa, đồng thời để lại quyền tạo ra luật về vũ khí, đảo lộn luật hiện hành, người ta mở nắp hộp Pandora và mọi cơn gió bắt đầu thổi dữ dội, làm rung chuyển ngôi nhà và đe dọa phá hủy nó.
Hoà hợp và hoà bình là một nhiệm vụ cần vun trồng cách kiên nhẫn
Thực ra, hòa hợp và hòa bình không phải là một cuộc chinh phục đạt được một lần cho mãi mãi, mà là một nhiệm vụ và sứ vụ không ngừng cần được vun trồng, được chăm sóc một cách kiên nhẫn. Thực tế, khi con người không còn nhớ về quá khứ và những bài học giá trị của quá khứ, họ đang đối diện với nguy cơ lại một lần nữa tụt hậu, ngay cả khi đã tiến lên, quên đi những đau khổ và cái giá khủng khiếp mà các thế hệ trước phải trả.
Theo nghĩa này, hơn bao giờ hết Bỉ quý giá trong việc duy trì ký ức về lục địa châu Âu. Thật vậy, quốc gia này cung cấp một lý lẽ không thể chối cãi cho sự phát triển hoạt động văn hóa, xã hội và chính trị kịp thời và liên tục, đồng thời can đảm và thận trọng loại trừ khỏi tương lai ý tưởng và thực hành chiến tranh như một lựa chọn khả thi với những hậu quả thảm khốc.
Lịch sử Bỉ kêu gọi châu Âu mở lòng đón nhận sự sống và hy vọng
Lịch sử, thầy dạy cuộc sống thường không được chú ý, và lịch sử Bỉ kêu gọi châu Âu tiếp tục con đường của mình, tìm lại bộ mặt thật của mình, tái đầu tư vào tương lai bằng cách mở lòng đón nhận sự sống, hy vọng, vượt qua mùa đông nhân khẩu học và đau khổ của chiến tranh!
Giáo hội mong muốn mang đến cho thế giới niềm hy vọng
Tới đây, bài phát biểu của Đức Thánh Cha hướng đến Giáo hội Công giáo. Ngài giải thích, khi làm chứng cho đức tin vào Chúa Kitô Phục sinh, Giáo hội Công giáo mong muốn trở thành một sự hiện diện mang đến cho các cá nhân, gia đình, xã hội và quốc gia một niềm hy vọng vừa xa xưa vừa mới mẻ. Một sự hiện diện giúp mọi người đối diện với những thách đố và khó khăn, không phải với sự nhiệt tình dễ dãi hay bi quan ảm đạm, nhưng với sự chắc chắn rằng nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương, có một ơn gọi đời đời về hoà bình và sự tốt lành, chứ không phải bị dẫn đến số phận tan rã và hư vô.
Giáo hội biết mình thánh thiện vì được Chúa thiết lập nhưng cũng cảm nhận sự mong manh
Hướng mắt về Chúa Giêsu, Giáo hội luôn nhận ra mình như người môn đệ, bước theo Thầy với sự lo sợ và run rẩy khi biết rằng mình thánh thiện vì được Chúa thiết lập, nhưng đồng thời cũng cảm nghiệm sự mong manh và thiếu sót của các thành viên, những người không bao giờ hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ được giao phó vì luôn vượt quá khả năng của họ.
Giáo hội loan báo Tin Mừng có thể lấp đầy trái tim chúng ta bằng niềm vui. Qua các hoạt động bác ái và vô số chứng từ về tình yêu dành cho người khác, Giáo hội tìm cách đưa ra những dấu chỉ cụ thể và đáng tin cậy về tình yêu thúc đẩy mình. Tuy nhiên, Giáo hội luôn sống trong một nền văn hóa cụ thể, trong tâm thức của một thời đại cụ thể mà đôi khi Giáo hội giúp định hình hoặc đôi khi Giáo hội phải tuân theo; và các thành viên của Giáo hội không phải lúc nào cũng hiểu và sống sứ điệp của Tin Mừng trong tất cả sự thuần khiết và trọn vẹn của sứ điệp này.
Trong sự tồn tại lâu năm giữa ánh sáng và bóng tối này, Giáo hội thực hiện sứ vụ của mình, thường với những mẫu gương về lòng quảng đại và sự tận tụy chân thành, nhưng đáng buồn thay, đôi khi lại có những phản chứng đau đớn.
Đức Thánh Cha đề cập đến thực tế những trường hợp bi thảm về lạm dụng trẻ em, đây là một tai ương mà Giáo hội đang giải quyết một cách kiên quyết và dứt khoát bằng cách lắng nghe và đồng hành với những người bị tổn thương, và bằng cách thực hiện một chương trình phòng ngừa trên toàn thế giới.
Ngài còn bày tỏ đau buồn trước hiện tượng “nhận con nuôi ép buộc” diễn ra ở Bỉ vào giữa những năm 1950 và 1970. Trong những câu chuyện đau buồn này, chúng ta thấy trái đắng của hành vi sai trái và tội phạm đã hòa lẫn vào quan điểm không may đang thịnh hành ở mọi tầng lớp xã hội vào thời điểm đó, đến mức nhiều người tin vào lương tâm cho rằng đang làm điều gì đó tốt cho cả em bé và người mẹ. Thông thường, gia đình và các tác nhân xã hội khác, kể cả Giáo hội, nghĩ rằng để xóa bỏ sự kỳ thị tiêu cực, không may ảnh hưởng đến người mẹ chưa lập gia đình vào thời đó, tốt hơn là nên cho con nuôi vì lợi ích của cả hai, mẹ và con. Thậm chí có trường hợp một số phụ nữ không được lựa chọn giữ con hay giao cho người khác làm con nuôi.
Đức Thánh Cha cầu xin Chúa cho Giáo hội luôn tìm thấy trong mình sức mạnh để làm sáng tỏ và không bao giờ tuân theo nền văn hóa thống trị, ngay cả khi nền văn hóa đó sử dụng một cách thao túng các giá trị bắt nguồn từ Tin Mừng, nhưng lại rút ra từ đó những kết luận không chân thực, gây đau khổ và loại trừ. Ngài cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, bằng cách nhìn vào Bỉ và lịch sử của nước này, để có thể học hỏi từ nước này, và nhờ đó cứu dân mình khỏi những bất hạnh và đau khổ vô tận. Ngài cũng cầu nguyện để những người cầm quyền biết đảm nhận trách nhiệm, rủi ro và danh dự của hòa bình, cũng như biết cách tránh nguy hiểm, sự ô nhục và phi lý của chiến tranh. Sau cùng, Đức Thánh Cha cầu nguyện để họ sợ sự phán xét của lương tâm, lịch sử và Chúa, để trái tim và khối óc của họ được hoán cải và luôn đặt công ích lên hàng đầu.
Kết thúc bài phát biểu, Đức Thánh Cha nhắc đến khẩu hiệu của cuộc viếng thăm “En route, avec Espérance”. Ngài nói: “Hy vọng được viết hoa khiến tôi nghĩ hy vọng không chỉ là thứ gì đó để chúng ta mang theo trong hành lý của một chuyến đi. Ngược lại, hy vọng là một món quà từ Chúa cần được mang trong trái tim chúng ta. Vì thế tôi muốn để lại lời chúc này cho Quý vị và tất cả những người nam nữ đang sống tại Bỉ: cầu chúc Quý vị luôn cầu xin và nhận được món quà này từ Thánh Thần để cùng nhau bước đi với Niềm Hy vọng trên hành trình cuộc sống và lịch sử”.
Sau buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ Thần các đó khoảng 11km để dùng bữa trưa và nghỉ trưa.
Thứ Bảy, ngày 28 tháng Chín, lúc 10 giờ sáng, Đức Thánh cha đến Vương cung thánh đường Thánh Tâm, ở Koekelberg để gặp gỡ với các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.
Ban chiều, lúc 4 giờ 30 cùng ngày, Đức Thánh cha gặp gỡ với các sinh viên tại Đại thính đường của Đại học Công giáo Louvain, ở vùng nói tiếng Pháp. Sau đó, lúc 6 giờ 15, Đức Thánh cha gặp riêng các tu sĩ Dòng Tên ở Học viện thánh Micae.
Đức Hồng y Gerhard Müller
Những tội chống lại hòa bình, tội chống lại thiên nhiên như công trình tạo dựng, tội chống các thổ dân bản xứ, tội lạm dụng, tội chống lại tính hiệp hành/thiếu lắng nghe, hiệp thông và tham gia với mọi người.
Trong một bài đăng trên trang mạng Kath.net ở Đức, Đức Hồng y Müller nhận định rằng, “vào đầu Thượng Hội đồng về hiệp hành, không còn là một Thượng Hội đồng các giám mục mà thôi, nhưng là một đại hội hỗn hợp, không hề đại diện cho toàn Giáo hội Công giáo, sẽ có một nghi thức thống hối vì những tội mới được con người sáng nghĩ ra”.
Tội là sự chủ ý quay lưng của con người đối với Thiên Chúa và quay về với những thụ tạo, thờ lạy chúng thay vì tôn thờ Chúa, hoặc tôn thờ các ngẫu tượng ngoại giáo. Chúng ta có cũng thể phạm tội chống những người đồng loại của chúng ta nếu chúng ta không yêu mến họ vì Chúa. Điều này cũng bao gồm việc sử dụng những tài nguyên thiên nhiên trong sự ích kỷ mà Chúa ban cho mọi dân tộc như căn bản để sống...
“Chúng ta hãy nghĩ đến những nhà tỷ phú hoặc có tiếng là thương người, nhưng trước đó họ đã bóc lột dân chúng một cách vô liêm sỉ, rồi sau đó được ca ngợi như ân nhân của nhân loại, vì đã làm một số cử chỉ làm phúc. Đức Giáo hoàng và các giám mục không nên để cho mình chụp hình với những người ấy”.
Đức Hồng y Müller cũng nhận xét rằng: Danh sách các hành động được trình bày như tội, có tội gọi là chống lại đạo lý của Giáo hội, lạm dụng đạo lý như hòn đá để ném vào người khác, hoặc tội chống lại sự hiệp hành, dù người ta có thể hiểu nó thế nào đi nữa, có thể là một danh sách kiểm tra về ý thức hệ Kitô giáo và ý thức hệ về Gender, giống, ngoại trừ một số hành vi xấu kêu thấu tới trời”... Không có thứ tội chống đạo lý của Giáo hội mà người ta coi như khí giới, vì giáo huấn của các tông đồ dạy rằng ơn cứu độ chỉ có trong danh Chúa Kitô.
Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí, hôm 24 tháng Chín vừa qua, bên lề khóa họp mùa thu của Hội đồng Giám mục Đức, tiến hành ở thành phố Fulda, từ 23 đến ngày 26 tháng Chín này, 5 giám mục đại biểu của Hội đồng Giám mục Đức cho biết, trong Đại hội của các giám mục Đức tại thành phố này, cũng nói về vấn đề trong tương lai các Hội đồng Giám mục có thể có tự do quyết định về vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ hay không.
Đức cha Franz-Josef Overbeck, nổi tiếng là cấp tiến, cho biết đứng trước những khác biệt về văn hóa và xã hội trong các Giáo hội địa phương, có thể có những qui luật khác biệt về sự bình đẳng hóa phụ nữ. Vì thế, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới có thể cho các Hội đồng Giám mục quốc gia tự do quyết định về vấn đề truyền chức cho phụ nữ. Tuy nhiên, Đức cha nói thêm ngay rằng: “đề nghị này có thể là quá sớm hiện nay. Nó chỉ có thể khi người ta thấy rõ đây sẽ không phải là một sự mâu thuẫn phá vỡ tình hiệp nhất của Giáo hội”.
Một đại biểu khác là Đức cha Georg Baetzing, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, cũng thuộc khuynh hướng cấp tiến, nhận định rằng sự tham gia của phụ nữ vào mọi lãnh vực và cấp độ của đời sống Giáo hội, là vấn đề quan trọng quyết định đối với tương lai của Giáo hội Công giáo. Ngài nói: “Tôi rất mong muốn các phụ nữ có thể được chịu chức phó tế”. Vấn đề này trong tương lai phải được địa phương quyết định, trong tinh thần tản quyền về địa phương.
Đức cha Bertram Meier, Giám mục Giáo phận Augsburg, cũng là đại biểu, có một lập trường khác. Theo Đức cha, vấn đề cho phụ nữ chịu chức phó tế hoặc linh mục, hiện nay là điều không có thể, vì Tông thư “Ordinatio Sacerdotalis”, Truyền chức linh mục, do Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, có tính chất bó buộc, vẫn còn hiệu lực. Trong văn kiện đó, Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng Giáo hội không có năng quyền truyền chức cho phụ nữ.
Về Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, Đức cha Meier nhận định rằng xác tín nòng cốt của Con đường Công nghị thế giới là Giáo hội không được điều khiển bằng những quyết định đơn độc, do những người được quyền từ trên xuống dưới. Đúng hơn là sự tham gia, minh bạch và cởi mở, trách nhiệm trong các quyết định.
Đại biểu thứ tư của các giám mục Đức, là Đức cha Felix Genn, Giám mục Giáo phận Muenster, cho giới báo chí biết rằng ngài muốn làm sao để Thượng Hội đồng Giám mục có một hướng đi rõ ràng. “Các vấn đề nêu lên cần có những câu trả lời. Một cuộc thảo luận minh bạch là điều quan trọng, kể cả những vấn đề được chuyển cho các nhóm nghiên cứu, như vấn đề bình quyền của phụ nữ. Đức cha Genn là điều hợp viên của một trong mười nhóm được ủy thác nghiên cứu về những vấn đề các quyền và việc bầu các giám mục.
Sau cùng, Đức cha Stefan Oster, Dòng Don Bosco, Giám mục Giáo phận Passau, vốn bênh vực đạo lý và kỷ luật truyền thống của Giáo hội, thì nhắc lại cơ cấu phẩm trật căn bản của Giáo hội, dành quyền quyết định nòng cốt cho Đức Giáo hoàng và các giám mục. Vì thế, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới sẽ thảo luận về “sự hội nhập của Giáo hội hiệp hành và đồng thời là Giáo hội phẩm trật”. Điều chủ yếu là một cuộc khởi hành mới và một đường lối mới “cùng với nhau là Giáo hội”.
Pope Francis during his encounter with Jesuits in Jakarta, in Indonesia
Bán nguyệt san “Civiltà Cattolica, Văn minh Công giáo, của Dòng Tên ở Ý, xuất bản ngày 24 tháng Chín vừa qua, cho biết: Đức Thánh cha đã tiết lộ điều đó trong cuộc gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên ở Indonesia, trong chuyến tông du hồi đầu tháng Chín này. Tóm lược các cuộc gặp gỡ đó đã được cha Antonio Spadaro, Chủ nhiệm Tạp chí “Civiltà Cattolica” và hiện là Phó Tổng thư ký Bộ Giáo dục và Văn hóa Công giáo.
Bà Aung San Suu Kyi nguyên là Cố vấn nhà nước Myanmar và từng được giải Nobel Hòa bình, đã bị nhà cầm quyền quân phiệt bắt giam và lên án, sau cuộc đảo chánh hồi năm 2021, và hiện nay người ta không biết bà bị giam ở đâu.
Đức Thánh cha nói với các tu sĩ Dòng Tên rằng: “Tôi đã yêu cầu trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi. Tôi đã tiếp con trai của bà ở Roma. Tôi đã đề nghị đón nhận bà trên lãnh thổ Vatican.” Ngài cho biết như trên, khi trả lời câu hỏi do một tu sĩ Dòng Tên nêu lên.
Hiện nay, Myanmar đang ở trong tình trạng nội chiến và Đức Thánh cha nhiều lần kêu gọi cầu nguyện cho nước này. Ngài cũng nhắn nhủ người anh em cùng dòng đừng mất hy vọng, khi chúng ta bị mất sự sống, gia đình, những giấc mơ và tương lai”.
Cũng liên quan đến Myanmar, Đức Thánh cha đã bày tỏ quan tâm đến số phận của những người Rohingyas, một sắc dân thiểu số theo Hồi giáo bị nhà cầm quyền Myanmar bách hại và một số lớn phải chạy sang Bangladesh láng giềng để tị nạn. Đức Thánh cha đã viếng thăm cả Myanmar và Bangladesh hồi cuối tháng Mười Một, đầu tháng Mười Hai năm 2017.
Trong cuộc gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên ở Indonesia, Đức Thánh cha nói: “Không có câu trả lời phổ quát cho câu hỏi của anh em. Có nhiều người trẻ đang chiến đấu cho đất nước của họ. Tại Myanmar ngày nay, các bạn không thể im lặng, phải làm một cái gì đó! Tương lai đất nước của các anh em phải là một nền hòa bình dựa trên sự tôn trọng phẩm giá và quyền của tất cả mọi người, tôn trọng trật tự dân chủ giúp mỗi người đóng góp vào công ích”.
"Tôi đã yêu cầu thả tự do cho bà Aung San Suu Kyi và gặp con trai bà ấy tại Rome. Tôi cũng đã đề xuất với Vatican để cung cấp nơi ở cho bà ấy trên lãnh thổ của chúng tôi", Giáo hoàng Francis chia sẻ trong chuyến công du châu Á vào đầu tháng này.
Nội dung chia sẻ của Giáo hoàng được báo Corriere della Sera của Ý trích dẫn từ bài viết của linh mục Antonio Spadaro, trong đó có nội dung từ các cuộc gặp riêng tư của Giáo hoàng tại Indonesia, Timor Leste và Singapore, diễn ra từ ngày 2 đến 13-9.
"Chúng ta không thể im lặng trước tình hình tại Myanmar hôm nay. Chúng ta phải hành động", Giáo hoàng nhấn mạnh. "Tương lai của đất nước các bạn nên là một tương lai hòa bình, dựa trên sự tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của mọi người, cùng với một hệ thống dân chủ cho phép tất cả mọi người đóng góp vào lợi ích chung".
Bà Aung San Suu Kyi, 78 tuổi, đang phải chịu án tù 27 năm với các cáo buộc từ tham nhũng cho đến vi phạm quy định phòng chống dịch COVID-19.
Năm 2015, Đảng Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD) của bà Suu Kyi đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của Myanmar sau 25 năm.
Tuy nhiên vào năm 2021, bên quân đội Myanmar bắt giữ bà Suu Kyi khi đảo chính. Theo truyền thông địa phương, sức khỏe của bà đang gặp nhiều vấn đề trong khi bị giam giữ.
Là người được trao giải Nobel Hòa bình năm 1991, bà Suu Kyi từng được ca ngợi là biểu tượng của nhân quyền. Tuy nhiên, bà đã đánh mất sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế vào năm 2017, khi bị cáo buộc không làm gì để ngăn chặn quân đội Myanmar đàn áp người Rohingya, một cộng đồng Hồi giáo chiếm thiểu số ở nước này.
Cuộc đàn áp này đang là đối tượng của một cuộc điều tra về tội diệt chủng của Liên Hiệp Quốc và vẫn tiếp diễn, theo lời kể của người tị nạn Rohingya tại Bangladesh.
Tượng Chúa Giêsu Cứu Thế cao 61 mét, cao hơn 20 mét so với Tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở Rio de Janeiro, bên Brazil.
Tượng đã được Đức Thánh cha làm phép tượng trưng qua một tượng nhỏ, trong cuộc viếng thăm hồi đầu tháng Chín vừa rồi. Nghi thức làm phép diễn ra tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Jakarta, ngày 06 tháng Chín. Nay được Đức cha Antonius Subianto Benjamin, Giám mục Giáo phận Bandung, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Indonesia, chủ sự lễ khánh thành hôm 19 tháng Chín vừa qua, gần hồ Toba ở vùng du lich Samosir. Một tấm bảng hình thánh giá có kinh nguyện, với chữ ký của Đức Thánh cha Phanxicô đã được gắn vào tượng. Trong kinh có ghi: “Điều được ngưỡng mộ nơi Chúa Giêsu Cứu Thế là tình tương vô biên của Chúa”.
Tuyên bố trong buổi khánh thành, Đức cha Bunjamin nói: “Đồi này được Thiên Chúa chúc phúc và trở thành một nơi có thể củng cố đức tin của dân”.
Miền bắc đảo Sumatra bao gồm Tổng giáo phận Medan và Giáo phận Sibolta, là một trong những vùng có đa số dân là tín hữu Công giáo: trong số 15 triệu dân cư ở đây, có một triệu 100.000 tín hữu Công giáo và hơn bốn triệu tín hữu Tin lành.
Tượng tại Armeni cao 33 mét và được đặt trên bệ cao 44 mét, tọa lạc trên núi Hatis. Dự án này dưới sự hướng dẫn của doanh nhân Gagik Tsarukyn và khởi công từ tháng Bảy năm 2022. Người ta cho rằng pho tượng đặc biệt này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch, nhưng Hiệp hội các nhà hướng dẫn du lịch, công bố thư ngỏ nhấn mạnh rằng: “khác với các nước Công giáo như Brazil, Kitô giáo tại Armeni không có truyền thống xây tượng. Vì thế, sự hiện diện của tượng này không tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch, vì xét cho cùng các du khách đến Armeni để xem và cảm nghiệm đời sống thực tế”.
Còn trụ sở của Giáo hội Armeni Tông truyền ở Etchmiadzin, được coi là “Tòa Thánh” của Giáo hội này, thì nói rằng pho tượng to lớn ở núi Hatis không phù hợp với truyền thống của Armeni. Quốc gia đầu tiên theo Kitô giáo trên thế giới này đã xây dựng đức tin của mình quanh sách vở, các cảnh trí bé nhỏ (miniature) và các bia đá khachkar. Vì thế, những thánh giá khổng lồ bằng gạch đá chúng ta thấy khắp nơi Armeni. Trái lại, tượng Chúa Kitô Cứu thế là do ảnh hưởng của Tây phương, tân tiến, hầu như là một “cái tát” đối với quang cảnh Armeni.
Dầu có những phản đối và phê bình như thế, dự án xây tượng Chúa Kitô cao nhất thế giới ở Armeni, vẫn được tiếp tục. Doanh nhân Tsarykyan đã mua khu đất rộng 146 hécta, hồi năm 2008, bao gồm cả đỉnh núi nơi có pho tượng và tiến hành công trình kiến thiết từ hai năm nay và nay sắp được khánh thành.
Nhà Abraham nằm trên đỉnh đồi ở trung tâm khu phố Hồi giáo Ras al-Amud ở Đông Giêrusalem. Từ đây, tầm nhìn trải dài qua các bức tường của Giêrusalem.
Giám đốc Nhà Arbraham, Bernard Thibaud giải thích: “Chúng tôi tiếp đón những người hành hương thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt những người nghèo nhất. Đây là sứ vụ mà Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã giao phó cho chúng tôi vào năm 1964. Chúng tôi cũng được yêu cầu thúc đẩy cuộc gặp gỡ với cư dân trong khu phố”.
Dịp kỷ niệm 60 năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi sứ điệp khích lệ họ “tiếp tục hoạt động bác ái này, để ngôi nhà luôn là nơi chào đón, gặp gỡ và đối thoại cho tất cả con cái Abraham, những người chân thành tìm kiếm tương quan với Thiên Chúa và với người lân cận”. Đức Thánh Cha cũng bày tỏ mong muốn Con đường “sẽ là dấu chỉ của hy vọng, truyền cảm hứng cho mọi người và các nhà lãnh đạo trong khu vực hướng đến hoà bình”.
Vào ngày 14/9, Đức cha William Shomali, Đại diện của Tòa Thượng Phụ Latinh Giêrusalem, đã làm phép Đường hành hương hy vọng trước sự hiện diện của nhiều linh mục, tu sĩ, các Kitô hữu, các tín đồ Hồi giáo và Do Thái giáo.
Đường hành hương hy vọng được hình thành như một sự phản ánh về sứ vụ của Nhà Abraham. Tuyến đường quanh co bên dưới khu vườn và sân hiên của ngôi nhà, được đánh dấu bằng 15 trạm với những tấm bảng trên đó có viết những câu Kinh thánh Kitô giáo, Kinh thánh Do Thái và Kinh Koran.
Giám đốc Thibaud giải thích rằng những lời được lấy từ các giá trị Kitô giáo, nhưng mọi người thuộc mọi tôn giáo đều có thể tìm thấy cảm hứng. Thông điệp chủ yếu là lòng hiếu khách, lòng thương xót.
Phần đầu con đường tập trung vào lòng hiếu khách và bao gồm năm chặng dừng chân. Một biểu tượng mô tả Abraham và Sarah chào đón ba người khách lạ. Như thế, bắt đầu hành trình, mọi người được mời gọi suy ngẫm về cuộc gặp gỡ với vĩnh cửu qua sự chào đón vô điều kiện những khách lạ. Phần thứ hai được gọi là “Đức tin và bác ái”, bao gồm bốn chặng: đức tin của Abraham, người đã sẵn sàng hiến dâng người con duy nhất trên Núi Moria.
Phần thứ ba có tựa đề “Cầu nguyện và hiếu khách” và có ba chặng. Mục đích là để tôn vinh lịch sử của ngôi nhà, từng là nhà của cộng đoàn các đan sĩ Biển Đức và chủng viện Công giáo Syria. Phần cuối cùng về “Lòng thương xót và sự phục vụ”. Đường hành hương kết thúc trước biểu tượng “rửa chân”.
Trong buổi cầu nguyện sám hối ở Rôma ngày thứ ba 1 tháng 10, Đức Phanxicô đã đưa bảy tội mới vào giáo lý công giáo, trong đó có “tội chống lại người di cư”.
Phản đối việc nhập cư hoặc người di cư có làm chúng ta thành kẻ có tội không? Trong buổi lễ sám hối ở Rôma ngày thứ ba 1 tháng 10, Đức Phanxicô đã đưa bảy tội mới vào giáo lý công giáo, nhà báo Jean-Marie Guénois của Le Figaro giải thích.
Để mở đầu phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, Đức Phanxicô đã cử hành nghi thức sám hối tối thứ ba 1 tháng 10, ngài xin được tha thứ cho bảy tội này.
Tội chống lại người di cư
Bảy Hồng y lần lượt đọc bảy tội:
- Tội chống lại hòa bình,
- Tội chống lại tạo vật, chống lại người dân bản địa, chống lại người di cư,
- Tội lạm dụng,
- Tội chống lại phụ nữ, gia đình, giới trẻ,
- Tội dùng học thuyết làm viên đá để ném,
- Tội chống lại nghèo đói,
- Tội chống lại tính đồng nghị, thiếu lắng nghe, thiếu hiệp thông, thiếu tham gia của tất cả mọi người.
Hồng y Canada Michael Czerny, nổi tiếng với quan điểm tiến bộ, đọc văn bản của Đức Phanxicô viết về tội chống người di cư: “Tôi xấu hổ xin được tha thứ vì đã tham gia vào quá trình toàn cầu hóa với thái độ thờ ơ trước những thảm kịch đang biến các tuyến đường biển và biên giới giữa các quốc gia từ con đường hy vọng thành con đường chết chóc cho rất nhiều người di cư. Giá trị của con người luôn lớn hơn biên giới.”
Đức Phanxicô biến vấn đề di cư thành một trong những ưu tiên hàng đầu của ngài, ngài chỉ trích các chính phủ bảo thủ ở Đông Âu như Hungary của Viktor Orbán, phản đối vấn đề nhập cư, ngài nói đó là ích kỷ và không phải là người tín hữu kitô tốt.
Cuộc gặp gỡ này đã được Hội đồng Giám mục Bỉ loan báo trong những ngày trước đó, nhưng không chính thức xác định. Trong diễn văn hôm 27 tháng Chín trước chính phủ và các tầng lớp xã hội của Bỉ, Đức Thánh cha cũng đã lên án những vụ lạm dụng ấy.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết trong cuộc gặp gỡ, các nạn nhân đã kể với Đức Thánh cha những đau khổ của họ và họ mong đợi Giáo hội dấn thân chống lại những vụ lạm dụng.
Đức Thánh cha đã lắng nghe và bày tỏ sự gần gũi với đau khổ của họ, cũng như cám ơn vì sự can đảm của họ. Đức Thánh cha nói lên tâm tình tủi hổ vì những gì họ đã chịu khi còn nhỏ vì các linh mục đã được ủy thác chăm sóc họ. Ngài ghi nhận những thỉnh cầu của họ để có thể cứu xét.
Sau cuộc gặp gỡ với Đức Thánh cha, một vài nạn nhân đã họp với giới báo chí, trong số này có ông Jean Marc Turine, tác giả một cuốn sách, trong đó ông kể lại mình đã bị bốn linh mục lạm dụng từ năm 13 tuổi, và sau đó tại trường thánh Micae ở Bruxelles. Ông kể: tình trạng bị lạm dụng đã đưa đẩy ông rơi vào nạn nghiện rượu. Ông nói: “Tôi không được bình an, nhưng tôi đã thấy một người rất tử tế, thông minh và đó là điều tôi chờ đợi nơi ngài.
Ông đã nói với Đức Giáo hoàng như một người lắng nghe và đã thấy ngài là một người cảm thương, một người đồng cảm”.
Còn bà Anne Sophie thì cho biết đã có ấn tượng mành vì thấy Đức Giáo hoàng xúc động, trong khi lắng nghe điều bà kể lại. Sau cùng, chính Đức Thánh cha xin lỗi chúng tôi. Ngài đã nói một điều rất quan trọng, đó là những tội ác này không thể rơi vào thời hiệu. Và các linh mục là những người trách nhiệm khi lạm dụng xảy ra, nhưng nếu giám mục biết mà không làm gì thì cả giám mục cũng phải chịu trách nhiệm”.
Phá thai
Trả lời câu hỏi về việc làm án phong chân phước cho Vua Baudouin của Bỉ, đã can đảm thoái vị trong 36 tiếng đồng hồ để khỏi ký nhận dự luật cho phá thai, đã được quốc hội Bỉ thông qua trước đó, Đức Thánh cha nói: “Qua việc làm này, nhà vua đã nói lên một sứ điệp, và ông làm như thế vì ông là một thánh nhân. Nhân vật ấy là một vị thánh và tiến trình phong chân phước sẽ tiến hành, vì vua đã cho tôi bằng chứng về điều đó”.
Nữ ký giả nói đến quyền của phụ nữ có một cuộc sống không đau khổ, nhưng Đức Thánh cha nói: “Phụ nữ có quyền sống: sự sống của họ và sự sống của các con. Chúng ta đừng quên nói điều này: phá thai là giết người. Khoa học nói rõ điều này: trong tháng mới hoài thai, thai nhi đã có tất cả các cơ phận... Vì thế, giết thai nhi ấy là giết người và những bác sĩ nào thực hành phá thai là những sát nhân, những thích khách (sicari). Họ là những kẻ giết người! Về điểm này không thể tranh luận. Người ta giết một mạng sống con người. Và các phụ nữ có quyền bảo vệ sự sống. Các phương pháp ngừa thai là chuyện khác. Chúng ta đừng lẫn lộn. Ở đây, tôi chỉ nói về phá thai. Về điều này không thể tranh luận, đó là sự thật”.
Một ký giả đài truyền hình tiếng Flamand-Hòa Lan hỏi Đức Thánh cha về vấn đề lạm dụng tính dục và đề nghị có một bộ ở Vatican, một bộ độc lập để đương đầu với tai ương này trong Giáo hội và để phục hồi sự tín nhiệm của các tín hữu. Đức Thánh cha đáp:
“Đã có một cơ quan ở Vatican đối phó với vấn đề này rồi. Cơ quan này có một cơ cấu và chủ tịch là một giám mục người Colombia, để xử lý các vụ lạm dụng. Có một ủy ban do Đức Hồng y O’Malley thành lập và các cơ quan này đang hoạt động tốt: họ nhận tất cả đơn về các vụ được báo về Vatican, và thảo luận. Tại Vatican, tôi cũng tiếp những người bị lạm dụng, và tôi khích lệ để họ tiến bước”.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: Một số người nói: thống kê cho biết có từ 40% đến 46% những vụ lạm dụng xảy ra trong gia đình và khu xóm, và chỉ có 3% trong Giáo hội. Nhưng tôi không quan tâm đến những vụ ở ngoài, mà quan tâm đến những vụ trong Giáo hội. Chúng tôi có trách nhiệm giúp những người bị lạm dụng và chăm sóc họ. Một số người cần chữa trị tâm lý. Và người ta nói đến việc bồi thường, vì trong luật dân sự cũng có. Trong dân luật tôi nghĩ có việc bồi thường 50.000 Euro ở Bỉ, quá thấp. Đó không phải là một điều hữu ích. Có con số đó nhưng tôi không chắc chắn. Chúng ta phải chăm sóc những người bị lạm dụng và trừng phạt những kẻ lạm dụng, vì lạm dụng không phải là một tội nay mới có và có lẽ mai sẽ không còn là tội nữa. Đó là một xu hướng, một thứ bệnh tâm lý và vì thế, chúng ta phải đưa thủ phạm đi chữa trị và kiểm soát họ. Không thể để một người lạm dụng tự do trong đời sống bình thường, với trách nhiệm trong các giáo xứ và trong các trường học. Một số giám mục có những linh mục đã lạm dụng, thì sau khi xét xử và lên án, các vị giao cho các linh mục ấy làm các công việc, ví dụ trong thư viện, mà không có những tiếp xúc với các trẻ em trong các trường học, giáo xứ. Nhưng chúng ta phải tiến bước, tôi đã nói với các giám mục Bỉ đừng sợ và tiếp tục tiến bước. Điều xấu hổ là che đậy, che đậy mới đúng là điều xấu hổ”.
Một ký giả truyền hình Mỹ hỏi Đức Thánh cha về cuộc chiến tranh tại Liban: sáng ngày 29 tháng Chín, các bom nặng 900kg đã được Israel dùng để giết Nasrallah, thủ lãnh nhóm Hezbollah. Có hơn 1.000 người tản cư và bao nhiêu người thiệt mạng. Phải chăng người ta có thể giải quyết vấn đề như thế? Đức Thánh cha có sứ điệp nào cho những người ở đó?
Đức Thánh cha trả lời rằng “Sự phòng vệ phải luôn tương ứng với cuộc tấn công. Khi có gì không tương ứng, thì người ta tỏ ra một xu hướng thống trị đi quá luân lý. Một nước, với sức mạnh làm những điều đó, tôi nói là bất cứ nước nào thi hành điều đó một cách kiêu căng, thì đó là những hành động vô luân. Cả trong chiến tranh cũng phải tuân giữ luân lý. Chiến tranh là vô luân, nhưng những quy luật của chiến tranh bao hàm một luân lý nào đó. Khi người ta không giữ như vậy, thì đó là tình trạng như chúng tôi ở Argentina vẫn nói, đó là “xấu máu”.
Về vấn đề vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, Đức Thánh cha bác bỏ quan niệm nữ quyền chủ trương “nam giới hóa” phụ nữ trong Giáo hội và đòi truyền chức thánh cho phụ nữ. Ngài nói: “Quan niệm nữ quyền thái quá là điều không ổn. Trong Giáo hội, phụ nữ lớn hơn thừa tác vụ linh mục và đây là điều nhiều khi người ta không nghĩ tới. “Phụ nữ bình đẳng với người nam, đúng hơn trong đời sống Giáo hội phụ nữ cao trọng hơn, vì Giáo hội là nữ. Về thừa tác vụ thì sự thần bí của phụ nữ thì cao hơn thừa tác vụ. Có một đại thần học gia đã nghiên cứu về vấn đề này: ai cao trọng hơn, thừa tác vụ Phêrô hay thừa tác vụ Maria? Thừa tác vụ Maria cao trọng hơn, vì đó là một thừa tác vụ hiệp nhất, can dự vào, còn thừa tác vụ Phêrô là thừa tác vụ dẫn đường. Chức phận làm mẹ của Giáo hội là tình mẫu tử của phụ nữ. Thừa tác vụ là điều nhỏ bé hơn nhiều, vì nó là để đồng hành với các tín hữu, luôn ở trong tình mẫu tử. Có nhiều thần học gia khác đã nghiên cứu về điều này, và nói đó là một điều thực tế. Tôi không nói là điều tân tiến, nhưng là điều thực tế, không cổ xưa”.
Bên cạnh đó, tình hình chiến tranh giữa Lebanon và bắc Israel ngày càng căng thẳng với những cuộc tấn công bằng bom và bắn hỏa tiễn qua lại giữa hai bên khi Hezbollah ở Lebanon tuyên bố ủng hộ người Palestine. Cuộc tấn công hôm 23/9/2024 của Israel khiến ít nhất 558 người Lebanon thiệt mạng, trong đó có 50 trẻ em và 94 người lớn, cùng với gần 2.000 người bị thương.
Kitô hữu có nhiệm vụ dấn thân vì hòa bình
Trong thư đề ngày 26/9/2024 gửi đến các tín hữu thuộc Tòa Thượng phụ Giêrusalem, Đức Hồng y Pizzaballa viết: “Tháng 10 đang đến gần và cùng với đó là nhận thức rằng trong năm qua, Thánh Địa, và không chỉ nó, đã bị nhấn chìm vào vòng xoáy bạo lực và hận thù chưa từng thấy hoặc từng trải qua trước đây”.
Kể từ khi cuộc chiến bùng nổ, Đức Hồng y Thượng phụ Giêrusalem đã không ngừng kêu gọi hòa bình và ngừng bắn trong vùng. Trong thư, Đức Hồng y nói rằng các tín hữu phải tiếp tục kêu gọi các lãnh đạo tái dấn thân cho công lý, tự do, phẩm giá và hòa bình. Ngài nói rằng Kitô hữu chúng ta có nhiệm vụ dấn thân vì hòa bình, bằng cách giữ cho lòng mình tránh khỏi các tâm tình thù hận và nuôi dưỡng mong muốn tốt đẹp cho mọi người, trợ giúp những người thiếu thốn, hỗ trợ các cá nhân để giảm bớt đau khổ cho những người bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến này và thúc đẩy mọi hành động vì hòa bình, hòa giải và gặp gỡ.
Đức Hồng y Pizzaballa nhắc các tín hữu trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, ngày 7/10, “bằng chuỗi Mân Côi hoặc bất kỳ hình thức nào mà chúng ta thấy phù hợp, cách cá nhân nhưng tốt hơn là trong cộng đoàn, hãy dành thời gian dừng lại và cầu nguyện, và dâng lên ‘Cha nhân từ và Thiên Chúa của mọi sự an ủi’ (2 Cr 1,3) ước muốn hòa bình và hòa giải của chúng ta”.
Ngày 07 tháng Mười là kỷ niệm đúng một năm lực lượng Hamas đã tấn công khủng bố vào Israel, sát hại hơn 1.200 người và làm cho xung đột bùng nổ, kéo theo các cuộc tàn sát của Israel tại Gaza và nay đến Liban.
Trong thư gửi toàn giáo phận thuộc quyền ở Israel, Palestine, Gaza, Cipro và Giordani, Đức Hồng y Pizzaballa viết: “Tháng Mười đến gần, qua đó, ý thức rằng từ một năm nay, Thánh địa và cả nơi khác, lâm vào cái vòng bạo lực và oán ghét chưa từng có. Trong mười hai tháng này, chúng ta đã chứng kiến những thảm kịch, với cường độ và ảnh hưởng, đã xâu xé lương tâm và cảm thức về tình người của chúng ta một cách sâu đậm. Một lần nữa, các nhà cầm quyền và những người có trách nhiệm hệ trọng trong việc quyết định, cần dấn thân cho công lý, tôn trọng quyền tự do của mỗi người, phẩm giá và hòa bình”.
“Vì thế, tôi mới gọi cử hành một ngày cầu nguyện, ăn chay, thống hối vào ngày 07 tháng Mười tới đây, ngày này trở thành biểu tượng của thảm kịch chúng ta đang sống. Tháng Mười cũng là Tháng Đức Mẹ, và ngày 07 tháng Mười, chúng ta mừng kính Đức Mẹ Mân côi. Mỗi người, với kinh Mân côi hoặc với những hình thức mà mình thấy là thích hợp, cá nhân hoặc với cộng đoàn, hãy tìm một lúc để dừng lại và cầu nguyện, dâng lên Cha thương xót và là Thiên Chúa của mọi an ủi” (2 Cr 1,3), ước muốn hòa bình và hòa giải của chúng ta”.
Cuối lá thư, Đức Hồng y cũng phổ biến một bản kinh do ngài soạn thảo để đọc trong dịp này.
Khóa họp này tương đối yên hàn so với khóa họp mùa xuân hồi tháng 2 năm nay tại thành phố Augsburg. Hồi đó, vài ngày trước khóa họp, 3 vị Hồng Y của Tòa Thánh gồm ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin, ĐHY Victor Manuel Fernández Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin và ĐHY Robert Prevost, Tổng trưởng Bộ GM, đã gửi thư yêu cầu các GM Đức đừng bỏ phiếu chấp thuận việc thành lập Ủy ban Con đường công nghị (Synodal Ausschuss) để tiến tới Hội đồng Con đường Công nghị (Synodalrat), một cơ quan tân lập trong đó các giáo dân cùng với các GM cùng nhau điều hành Giáo Hội tại Đức, một điều trái với đạo lý và kỷ luật của Giáo Hội.
Trong khóa họp vừa qua, 61 GM thuộc 27 giáo phận tại Đức bàn về Thượng HĐGM thế giới: có 6 GM Đức tham dự công nghị này, đứng đầu là Đức Cha Chủ tịch Georg Baetzing và có cả Đức Cha Bohdan Dzyurakh, đặc trách các tín hữu Công Giáo Ucraina nghi lễ đông phương tại Đức và Bắc Âu. Các GM cũng bàn về tài liệu làm việc của Thượng HĐGM về hiệp hành, trong đó những đề nghị nào được 2 phần 3 số phiếu chung kết thì sẽ được đệ lên ĐTC. Điểm mới ở đây là không phải chỉ có các nghị phụ nhưng cả các “nghị mẫu” thuộc số 368 người tham dự Thượng HĐGM với quyền bỏ phiếu. Tuy nhiên những vấn đề “nóng bỏng”, như luật độc thân linh mục, hoặc truyền chức cho phụ nữ đã bị đưa ra khỏi khóa họp vì ĐTC đã thành lập 10 nhóm nghiên cứu về các vấn đề này, và chỉ có 1 bản tường trình cho Thượng HĐGM.
Các GM Đức cũng quan tâm đến tình hình Giáo Hội tại Trung Đông đang sống trong những cuộc xung đột như tại Gaza và Liban với Israel. ĐHY Pierbattista Pizzaballa, Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem, được mời đến để thông tin và trao đổi với các GM Đức.
Đức Sứ thần Tòa Thánh kêu gọi các GM Đức
Trong buổi khai mạc khóa họp, 23/9, Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, Sứ thần Tòa Thánh tại Đức, đã đến chào thăm các GM Đức, đồng thời cũng nói lên lập trường và mong ước của Tòa Thánh. Ngài kêu gọi các GM nước này đẩy mạnh việc loan báo Tin Mừng và đào sâu đức tin.
Đức TGM Eterovic nói: “Khóa hai của Thượng HĐGM sắp khai diễn và Năm Thánh 2025 đến gần là thời điểm đặc biệt để củng cố đức tin của mọi tín hữu, bắt đầu từ chính chúng ta. Nếu không có đức tin sinh động nơi Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần, thì những toan tính cải tổ Giáo Hội sẽ không thành công và những canh tân cơ cấu Giáo Hội đều không có ý nghĩa... Chúng ta cần liên tục đón nhận ơn Chúa và tiếp tục là những tín hữu hạnh phúc vì đức tin lan tỏa trong toàn Giáo Hội và thế giới, để những lời khiển trách của Chúa Giêsu chống những người biệt phái và kinh sư vì khép cửa Nước Trời khỏi áp dụng cho chúng ta”.
Đức TGM Eterovic đã chuyển lời chào thăm của ĐTC đến các GM Đức, và sự khích lệ của Người hãy tiếp tục sứ mạng Loan báo Tin Mừng với một lòng hăng say mới mẻ, và thăng tiến con người trong thời đại ngày nay có nhiều thách đố, trong số những thách đố này có liên hệ tới sự thiếu đức tin một cách tỏ tường”.
Đức Sứ Thần Tòa Thánh nhắc lại rằng cách đây 5 năm (2019) trong thư (19 trang) gửi Cộng đoàn Dân Chúa tại Đức khi Giáo Hội tại nước này chuẩn bị tiến hành Con đường Công nghị để cải tổ sau những vụ lạm dụng tính dục trẻ thành niên trong quá khứ, ĐTC cũng đã bày tỏ đau buồn vì sự suy giảm đức tin ngày càng lan tràn. Đức TGM nói: “Từ đầu triều đại Giáo Hoàng, ĐTC Phanxicô đã cam kết củng cố mọi thành phần Giáo Hội trong đức tin và khích lệ các Kitô hữu sống đức tin một cách không mệt mỏi, khám phá sự phong phú trong đức tin và thông truyền cho những người khác, trước hết bằng cuộc sống chứng nhân, nhưng nếu cần cả bằng lời nói và những phương thế thích hợp. Sự loan báo Tin Mừng dẫn chúng ta tái khám phá niềm vui đức tin, niềm vui vì được làm Kitô hữu”.
Trong thư năm 2019 mà chính ĐTC mất 1 tháng để tự soạn thảo, ngài cũng mời gọi các GM Đức hãy quan tâm hiệp nhất với Giáo Hội hoàn vũ và tiêu chuẩn hướng dẫn cuộc canh tân Giáo Hội phải là để loan báo Tin Mừng.
Lập trường các Giám Mục Đức tại Thượng HĐGM thế giới
Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí hôm thứ tư 24/9, bên lề khóa họp của HĐGM Đức, 5 GM đại biểu của HĐGM Đức cho biết trong khóa họp này cũng nói về vấn đề trong tương lai các HĐGM có thể có tự do quyết định về vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ hay không. Các vị không có lập trường đồng nhất:
- Đức Cha Franz-Josef Overbeck, GM giáo phận Essen, nổi tiếng là cấp tiến, cho biết đứng trước những khác biệt về văn hóa và xã hội trong các Giáo Hội địa phương, có thể có những quy luật khác biệt về sự bình đẳng hóa phụ nữ. Vì thế, Thượng HĐGM thế giới có thể cho các HĐGM quốc gia tự do quyết định về vấn đề truyền chức cho phụ nữ. Tuy nhiên Đức cha nói thêm ngay rằng: “Đề nghị này có thể là quá sớm hiện nay. Nó chỉ có thể khi người ta thấy rõ đây sẽ không phải là một sự mâu thuẫn phá vỡ tình hiệp nhất của Giáo Hội”.
- Một đại biểu khác là Đức Cha Georg Baetzing, Chủ tịch HĐGM Đức, cũng thuộc khuynh hướng cấp tiến, nhận định rằng sự tham gia của phụ nữ vào mọi cấp độ và lãnh vực của đời sống Giáo Hội là vấn đề quan trọng quyết định đối với tương lai của Giáo Hội Công Giáo. Ngài nói: “Tôi rất mong muốn các phụ nữ có thể được chịu chức phó tế”. Vấn đề này trong tương lai phải được địa phương quyết định trong tinh thần tản quyền về địa phương.
- Đức Cha Bertram Meier, GM giáo phận Augsburg, có một lập trường khác. Theo Đức Cha, vấn đề cho phụ nữ chịu chức phó tế hoặc LM hiện nay là điều không có thể, vì Tông thư “Ordinatio Sacerdotalis” (Truyền Chức LM) do ĐGH Gioan Phaolô 2 ban hành, vẫn còn hiệu lực bó buộc. Trong văn kiện đó, Đức Thánh Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng Giáo Hội không có năng quyền truyền chức cho phụ nữ.
Về Thượng HĐGM thế giới, Đức Cha Meier nhận định rằng xác tín nòng cốt của Con đường công nghị thế giới là Giáo Hội không được điều khiển bằng những quyết định đơn độc do những người được quyền từ trên xuống dưới. Đúng hơn là sự tham gia, minh bạch và cởi mở, trách nhiệm trong các quyết định.
- Đại biểu thứ tư của các GM Đức là Đức Cha Felix Genn, GM giáo phận Muenster. Ngài cho giới báo chí biết rằng ngài muốn làm sao để Thượng HĐGM có một hướng đi rõ ràng: “Các vấn đề nêu lên cần có những câu trả lời. Một cuộc thảo luận minh bạch là điều quan trọng, kể cả những vấn đề được chuyển cho các nhóm nghiên cứu, như vấn đề bình quyền của phụ nữ”.
Đức Cha Genn là điều hợp viên của 1 trong 10 nhóm được ĐTC ủy thác nghiên cứu về những vấn đề các quyền và việc bầu các GM.
- Sau cùng, Đức Cha Stefan Oster, dòng Don Bosco, GM giáo phận Passau, vốn bênh vực đạo lý và kỷ luật truyền thống của Giáo Hội, thì nhắc lại cơ cấu phẩm trật căn bản của Giáo Hội, dành quyền quyết định nòng cốt dành cho ĐGH và các GM. Vì thế, Thượng HĐGM thế giới sẽ thảo luận về “sự hội nhập của Giáo Hội hiệp hành và đồng thời là Giáo Hội phẩm trật”. Điều chủ yếu là một cuộc khởi hành mới và một đường lối mới “cùng với nhau là Giáo Hội”.
Quan tâm của các GM Đức về Giáo Hội tại Trung Đông
Về tình hình Giáo Hội tại Trung Đông, có 3 vị đã trình bày lập trường trong cuộc họp báo hôm 25/9, cuối khóa họp vừa qua của HĐGM Đức.
ĐHY Pierbattista Pizzaballa và Đức Cha Meier
Trước hết là Pizzaballa, Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Giêrusalem, kêu gọi tìm giải pháp chính trị cho cuộc xung đột hiện nay ở Trung Đông.
ĐHY nhận xét rằng hiện nay thiếu những sáng kiến từ phía các cộng đoàn tôn giáo ở Trung Đông liên quan đến cuộc xung đột hiện nay. Ngài nói: “Ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ, trong những tháng gần đây người ta không nghe thấy những lần lên tiếng, suy tư hoặc cầu nguyện từ phía các vị lãnh đạo tôn giáo khác biệt với những lãnh đạo chính trị hoặc xã hội”.
ĐHY cho biết ngài có cảm tưởng mỗi vị lãnh đạo tôn giáo chỉ nói lên lập trường phải ánh quan điểm của cộng đoàn của mình, thường là chống lại cộng đoàn khác.”
HĐGM Đức cũng kêu gọi ngưng bắn tại Gaza và phê bình chính phủ Israel. Chủ tịch Ủy ban GM Đức về Giáo Hội hoàn vũ, Đức Cha Bertram Meier, GM giáo phận Augsburg, ví các cuộc oanh kích của Israel tại Gaza như các cuộc tấn công khủng bố.
Đức Cha Meier nhắc đến vụ Hamas tàn sát dã man hơn 1.200 người Israel ngày 7/10 năm ngoái, trong đó đa số là người Do thái. Tuy nhiên sự trả đũa của Israel về mặt quân sự không tương ứng, gây ra vô số các nạn nhân và thảm trạng nhân đạo tại Gaza.
ĐHY Pizzaballa kêu gọi cần thận trọng hơn trong ngôn ngữ, vì “ngôn ngữ đầy bạo lực, gây hấn, oán ghét và khinh rẻ, bác bỏ và loại trừ không giữ một vai trò phụ thuộc trong cuộc chiến tranh này, nhưng nó là một trong những phương thế chính của cuộc chiến này và nhiều cuộc chiến khác”. Oán ghét thường xuất hiện trên các mạng xã hội. Theo ĐHY, những kiểu nói phủ nhận nhân tính của người khác là một hình thức bạo lực có thể tạo thêm những bạo lưc khác vì có những kiểu nói có thể làm thương tổn hơn cả những cuộc thảm sát và bom đạn”.
ĐHY Pizzaballa tỏ ra nghi ngờ về những cuộc thương thuyết để giải thoát các con tin đang bị Hamas cầm giữ. Ngài tin rằng “những dấu hiệu về thành quả của cuộc thương thuyết này rất yếu… không có dấu hiệu chứng tỏ chiến tranh sẽ chấm dứt, và cuộc xung đột không thể được giải quyết với cuộc tấn công của quân đội Israel chống các vị trí của Hezbollah ở Liban, nhưng càng làm cho tình hình trầm trọng hơn. “Bạo lực không phải là giải pháp”, trái lại cần có những giải pháp sáng kiến về chính trị. Tuy nhiên ĐHY không tin rằng giải pháp một quốc gia với Israel và Palestine là điều có thể thực hiện được.
Đức Cha Udo Bentz
Chủ tịch nhóm làm việc của HĐGM Đức về Trung Đông, là Đức Cha Udo Bentz, TGM giáo phận Paderborn, nói trong cuộc họp báo rằng “Cho dù cuộc chấm dứt chiến tranh không có nghĩa là hòa bình, nhưng vẫn cần ngưng chiến càng sớm càng tốt, và làm cho tình hình lắng dịu, để thương thuyết và đối thoại, chẳng vậy, các cuộc thảm sát tiếp tục và cái vòng bạo lực càng gia tăng mau lẹ hơn”. Bênh vực an ninh của Israel cũng giúp ích cho người Palestine. Ngược lại, bảo vệ các quyền của người Palestine, cũng giúp cho an ninh của Israel.
Đức TGM Udo Bentz mạnh mẽ tố giác tình trạng nhân đạo ở Gaza: hàng trăm ngàn người đang bị nạn đói đe dọa, hơn 85% dân Gaza đang phải di tản. Họ thiếu nước uống, lương thực và thuốc men. Đức TGM kêu gọi nhân dân Đưc tiếp tục ủng hộ công việc khó khăn của các tổ chức từ thiện tại Gaza. Các tổ chức bác ái của Giáo Hội như Caritas quốc tế và Hội hiệp sĩ Mata đang tích cực trong lãnh vực này nhưng hiện nay ít nhận được tài trợ, vì thế Đức TGM Bentz kêu gọi chính phủ Đức gia tăng sức ép trên chính phủ Israel để dân chúng tại Gaza được hoàn toàn trợ giúp nhân đạo và y tế”
Đồng tế với Đức Thánh cha, có 270 hồng y, giám mục cùng với đông đảo linh mục.
Trong bài giảng, dựa vào hai bài đọc trong thánh lễ: Trên đường tiến về Đất Hứa, Thiên Chúa dặn dò dân hãy lắng nghe tiếng thiên thần mà Ngài gửi đến (Xh 23,20-22). Và trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu gọi một trẻ em đến, đặt giữa các môn đệ và dạy họ hãy trở nên như trẻ nhỏ: “Ai trở nên như trẻ thơ thì sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời” (Xc Mt 18,1-5.10).
Đức Thánh cha nhắc nhớ rằng Thượng Hội đồng Giám mục là “một hành trình, trong đó Chúa đặt trong tay chúng ta lịch sử, những ước mơ và hy vọng của một đại dân tộc: các anh chị em chúng ta rải rác ở mọi nơi trên thế giới, được cùng một đức tin linh hoạt và vì họ, chúng ta tìm hiểu xem đâu là điều cần theo để tới nơi mà Chúa muốn đưa chúng ta tới. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể đặt mình nghe tiếng nói của thiên thần?
“Một con đường chắc chắn là chúng ta hãy kính trọng và chú ý đến trong kinh nguyện và dưới ánh sáng Lời Chúa, tất cả những đóng góp được thu tóm trong ba năm làm việc khẩn trương, chia sẻ, đối chiếu và kiên nhẫn cố gắng thanh tẩy tâm trí. Vấn đề ở đây là, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Linh, lắng nghe và hiểu những tiếng nói, tức là những ý tưởng, những mong đợi, đề nghị để cùng nhau phân định tiếng nói của Thiên Chúa nói với Giáo hội... Như đã được nhiều lần nhắc nhở, công nghị của chúng ta không phải là một nghị viện, nhưng là một nơi lắng nghe trong tình hiệp thông, như thánh Gregorio Cả đã nói, điều mà mỗi người biết một phần, thì được sở hữu không hoàn toàn nơi người khác và mặc dù vài người có những ơn đặc thù, nhưng tất cả đều thuộc về anh chị em trong tình bác ái của Chúa Thánh Linh”. (Omelie sui Vangeli, XXXXIV)
“Nhưng để điều đó xảy ra, có một điều kiện, đó là: chúng ta giải thoát mình khỏi những gì trong và giữa chúng ta có thể cản trở đức bác ái trong Thánh Linh, trong việc kiến tạo sự hòa hợp giữa những khác biệt. Không có khả năng nghe tiếng Chúa, những kẻ kiêu căng tự phụ và tự nhận mình độc quyền về khả năng đó”. (Xc Mc 9,38-39).
Đức Thánh cha cảnh giác trước những kẻ như thế, “những người nghĩ và chủ trương mình là những người độc quyền được nghe tiếng Chúa”. Và ngài kêu gọi các thành phần của Thượng Hội đồng Giám mục, trong khi quyết định, đừng biến những đóng góp của chúng ta thành những lập trường phải được bảo vệ hoặc chương trình hành động cần phải tiến hành, nhưng đúng hơn hãy cống hiến những điều ấy như những món quà chúng ta muốn chia sẻ, với thái độ sẵn sàng hy sinh phần của mình, nếu điều đó có thể giúp mang lại cái gì mới trong việc đồng hành theo kế hoạch của Chúa”.
Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng: “Trong chúng ta có nhiều người hùng mạnh, được chuẩn bị kỹ lưỡng, có khả năng đẩy mạnh những tư tưởng xuất sắc. Tất cả những điều đó là một sự phong phú gợi hứng cho chúng ta, hướng dẫn chúng ta, và đôi khi buộc chúng ta suy nghĩ cởi mở hơn và tiến bước một cách cương quyết, giúp chúng ta kiên vững trong đức tin, kể cả khi phải đứng trước những thách đố và khó khăn. Tuy nhiên, đó là một món quà cần phải được liên kết đúng lúc với khả năng giảm bớt những căng thẳng”.
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Chúng ta hãy cầu xin Chúa, trong thánh lễ này, cho chúng ta được sống những ngày đang chờ đợi chúng ta trong dấu chỉ lắng nghe, gìn giữ nhau và khiêm tốn, để nghe tiếng Chúa Thánh Linh, để cảm thấy được đón nhận trong tình thương và để khỏi quên nhìn những đôi mắt tín thác, vô tội và đơn sơ của những người nhỏ bé, mà chúng ta muốn lên tiếng thay, và qua họ, Chúa tiếp tục kêu gọi tự do của chúng ta, kêu gọi chúng ta tiếp tục hoán cải”.
Trong phần cuối của bài giảng thánh Lễ khai mạc Khóa II Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Thánh cha nhắc đến thời điểm bi thảm của lịch sử hiện nay của chúng ta, trong khi những luồng gió chiến tranh và lửa bạo lực tiếp tục đảo lộn nhiều dân nước. Ngài nói:
“Anh chị em thân mến, để cầu khẩn hồng ân hòa bình, nhờ sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, Chúa nhật tới đây, tôi sẽ đến Vương cung thánh đường Đức Bà Cả và đọc kinh Mân côi. Tôi sẽ dâng lên Đức Mẹ lời khẩn cầu thống thiết, và tôi cũng xin anh chị em, các thành phần của Thượng Hội đồng Giám mục, hiệp với tôi trong dịp này”.
“Và ngày hôm sau, mùng 07 tháng Mười, tôi xin tất cả mọi người hãy cử hành ngày cầu nguyện và ăn chay cho hòa bình thế giới”.
“Chúng ta hãy đồng hành với nhau. Chúng ta hãy lắng nghe Chúa, hãy để cho mình được luồng gió của Thánh Linh hướng dẫn”.
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Thánh cha đưa ra sáng kiến thuộc loại này. Ngày 07 tháng Chín năm 2013, gần sáu tháng sau khi được bầu làm Giáo hoàng, tại Quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh cha đã cử hành ngày ăn chay cầu nguyện cho Syria tang thương vì chiến tranh. Một sáng kiến tương tự cũng được thực hiện ngày 23 tháng Hai năm 2017, cho hòa bình tại Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan.
1. Tội chống lại hòa bình
Hồng y Oswald Gracias, Tổng Giám mục Bombay (Ấn Độ) mở đầu với lời xin tha thứ “vì thiếu can đảm, lòng can đảm cần thiết trong việc tìm kiếm hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia”. Hồng y ca ngợi lòng can đảm của “cuộc gặp gỡ”, “tôn trọng các hiệp ước”, “chân thành” cũng như lòng can đảm cần có để nhìn nhận “phẩm giá vô hạn của mọi sự sống con người trong mọi giai đoạn đời sống”, ngay cả trong nhu cầu vật chất cơ bản: “Quyền có việc làm, đất đai, nhà ở, gia đình, cộng đồng để sống tự do. Tội của chúng ta còn nặng hơn nếu chúng ta kêu cầu danh Chúa để biện minh cho chiến tranh và sự phân biệt đối xử.”
2. Tội chống lại tạo vật, chống lại người dân bản địa, chống lại người di cư
Hồng y Michael Czerny, Bộ trưởng Bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện xin tha thứ vì: “Những gì chúng ta làm biến đổi tạo vật từ khu vườn thành sa mạc, thao túng theo ý muốn của chúng ta. Tội bóc lột này làm suy yếu phẩm giá con người. Xin tha thứ cho các hệ thống ủng hộ chế độ nô lệ và chủ nghĩa thực dân, cho việc toàn cầu hóa đã thờ ơ trước những thảm kịch mà ngày nay ảnh hưởng đến rất nhiều người di cư. Tôi nghe thấy tiếng Chúa hỏi tất cả chúng ta: ‘Anh chị em của con ở đâu?’ Xin Chúa tha thứ cho chúng con.”
3. Tội lạm dụng
Hồng y Sean Patrick O’Malley, Tổng giám mục giáo phận Boston (Hoa Kỳ), nhậm chức năm 2003 ở một giáo phận bị các vụ lạm dụng tác động sâu sắc. Ngài cầu xin tha thứ cho tất cả các hình thức lạm dụng, đặc biệt là “lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương, đã cướp đi sự trong trắng và xúc phạm đến sự thánh thiện của những người yếu đuối, những người không có khả năng tự vệ, trong suốt thời gian qua chúng ta đã dùng địa vị của chức vụ và đời sống thánh hiến để phạm tội khủng khiếp này”.
4. Tội chống lại phụ nữ, gia đình, giới trẻ
Hồng y Kevin Joseph Farrell, Bộ trưởng Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống xin tha thứ: “Thay mặt cho tất cả các thành viên của Giáo hội, đặc biệt là nam giới chúng tôi, chúng tôi đã có một khinh thường với phẩm giá phụ nữ, bằng cách làm cho họ trở nên ‘câm lặng và phục tùng’. Giáo hội đôi khi bỏ bê nhu cầu của các gia đình, phán xét và lên án họ hơn là quan tâm đến họ. Đôi khi chúng tôi đã ‘đánh cắp niềm hy vọng và tình yêu của người trẻ khi chúng tôi chưa hiểu được giá trị của tình yêu và niềm hy vọng’. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người phạm sai lầm và những người bị bỏ rơi vào tù hoặc bị án tử hình.
5. Tội dùng học thuyết làm viên đá để ném
Hồng y Víctor Manuel Fernández, Bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin lấy làm tiếc về cách sử dụng sai trái giáo lý của Giáo hội. Ngài xin tha thứ: “Mục tử chúng tôi có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo dân nhưng chúng tôi đã không biết cách bảo vệ và cống hiến Tin Mừng như nguồn sống của sự mới mẻ vĩnh cửu. Chúng tôi xin được tha thứ cho những lần mà học thuyết đã biện minh cho sự đối xử vô nhân đạo hoặc đã cản trở các văn hóa hợp pháp khác nhau về sự thật của Chúa Giêsu Kitô, tạo khó khăn cho tình huynh đệ đích thực của toàn thể nhân loại.”
6. Tội chống lại nghèo đói
Hồng y Cristóbal Lopez Romero, Tổng giám mục giáo phận Rabat (Morocco) xin được tha thứ vì chúng tôi đã lấy bánh của người nghèo đói: “Chúng tôi xấu hổ vì chúng tôi trì trệ, chúng tôi không chấp nhận lời kêu gọi một Giáo hội nghèo cho người nghèo, chính chúng tôi cũng khó để nhận tội này, với những quyến rũ của quyền lực, chúng tôi thích ở những vị trí đầu tiên, thích có những chức tước phù phiếm, thích đến những nơi bệnh hoạn để tự khen nhau, tất cả đã hạn chế chúng tôi hướng tới các vùng ngoại vi thân yêu của Đức Phanxicô.
7. Tội chống lại tính đồng nghị, thiếu lắng nghe, thiếu hiệp thông, thiếu tham gia của tất cả mọi người
Cuối cùng, Hồng y Christoph Schưnborn, Tổng Giám mục Vienna (Áo) đề cập đến tinh thần cần thiết để có thể có đồng nghị thực sự. Hồng y xin tha thứ: “Vì những trở ngại chúng tôi đã đặt ra trong việc xây dựng một Giáo hội thực sự có tính đồng nghị, hòa mình, ý thức mình là dân thánh của Thiên Chúa cùng nhau bước đi, nhìn nhận phẩm giá rửa tội chung của nhau. Tôi xấu hổ về những lần chúng tôi đã không lắng nghe Chúa Thánh Thần, chỉ thích nghe chính mình (…), vì tất cả những lần chúng tôi đã biến quyền hành thành quyền lực, bóp nghẹt tính đa nguyên.”
Trong giờ canh thức, ba nạn nhân của tệ nạn lạm dụng, chiến tranh và sự thiếu bác ái đã trình bày chứng từ của họ.
Xưng thú tội lỗi
Bảy Hồng y đã đọc các lời thống hối và xin tha thứ “nhân danh toàn thể Giáo hội” vì tội chống lại hòa bình, chống lại môi trường, chống lại phẩm giá của phụ nữ và chống lại người nghèo; vì tội lạm dụng và sử dụng giáo lý như một “hòn đá để ném” vào người khác; và vì tội chống lại tính hiệp hành.
Khôi phục lại lòng tin vào và hướng tới Giáo hội
Trong bài suy tư, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Giáo hội, “trong bản chất đức tin và lời tuyên xưng của mình, luôn luôn có mối quan hệ – và chỉ bằng cách chữa lành các mối quan hệ bệnh hoạn, chúng ta mới trở thành một Giáo hội hiệp hành”.
Ngài đặt câu hỏi: “Làm sao chúng ta có thể đáng tin cậy trong sứ mạng nếu chúng ta không thừa nhận những sai lầm của mình và cúi mình để chữa lành những vết thương mà chúng ta đã gây ra bởi tội lỗi của mình?”
Thay vì phán xét người khác, tin rằng chỉ mình mới có công trạng, Đức Thánh Cha nói, chúng ta cần như người thu thuế, cúi mặt xấu hổ về tội lỗi của mình, cần dọn sạch không gian bị lấp đầy bởi sự tự phụ, giả hình và kiêu ngạo của chúng ta.
Đức Thánh Cha nói rằng canh thức thống hối này “là cơ hội để khôi phục lại lòng tin vào và hướng tới Giáo hội, một lòng tin đã bị phá vỡ bởi những sai lầm và tội lỗi của chúng ta; và để bắt đầu chữa lành những vết thương không ngừng chảy máu”. Ngài cũng xin các thế hệ trẻ tha thứ “nếu chúng ta chưa phải là những chứng nhân đáng tin cậy”.
Chúc bình an và trao Tin Mừng
Kết thúc giờ canh thức, Đức Thánh Cha chúc bình an cho những người đã trình bày chứng từ, và một số người khác. Ngài cũng trao cho các đại diện giới trẻ một sách Tin Mừng, ủy thác cho họ và các bạn đồng trang lứa với họ nhiệm vụ công bố Tin Mừng cho các thế hệ tương lai, với hy vọng về “một sứ mạng tốt đẹp hơn, ngày càng trung thành hơn với logic của Vương quốc Thiên Chúa”.
Khoảng 50 phụ nữ tham gia phiên họp lần thứ hai của Thượng Hội đồng về tương lai của Giáo hội khai mạc sáng thứ tư 2 tháng 10 tại Vatican
Đây là biểu tượng của một cuộc cách mạng nhỏ. Trong bức hình ngày 19 tháng 10 năm 2023, khoảng 60 phụ nữ vẫy tay từ bậc thang của một cầu thang kiểu la-mã. Tất cả đều tham gia vào phiên họp đầu tiên được tổ chức tại Vatican về “Thượng Hội đồng về tính đồng nghị”, cuộc tham vấn toàn cầu rộng lớn này đã được Đức Phanxicô phát động tháng 10 năm 2021 để suy nghĩ về tương lai của Giáo hội. Hiện có 53 phụ nữ về lại Rôma để dự phiên họp lần thứ nhì kéo dài một tháng, bắt đầu ngày thứ tư 2 tháng 10.
Lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội công giáo, các “nghị mẫu” là nữ tu hay giáo dân sẽ được bỏ phiếu như các giám mục (chiếm 75%) trong hội đồng có 368 thành viên. Để đạt được sự cởi mở này, dù chưa bình đẳng, phụ nữ cần khẳng định mình là một trong những chủ đề chính của tiến trình đồng nghị. Nhìn lại ba năm tranh luận.
Tham vấn quốc gia
Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại hội trường Lyon. Tổng giám mục Éric de Moulins-Beaufort, chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp, giải thích: “Anh chị em thân mến, trên màn hình trước mặt anh chị em là văn bản các giám mục chúng tôi vừa bỏ phiếu (…) sau khi đã bỏ văn bản ban đầu”. Giống như các nơi khác trên thế giới, kể từ tháng 10 năm 2021, các giám mục ghi lại nguyện vọng của gần 150.000 giáo dân Pháp về tương lai của Giáo hội qua 48 câu hỏi.
Tại Lyon, các giám mục đã có những sửa đổi với bản tóm tắt các câu trả lời nhưng cuối cùng họ quyết định không sửa đổi và gởi về Rôma. Một nữ giáo dân cho biết: “Chúng tôi cảm nhận chúng tôi được lắng nghe, đây là cơ hội để bày tỏ những vết thương sâu sắc liên quan đến các tình huống bị loại trừ, về chức phó tế nữ, về việc có những nơi không cho các cô gái giúp lễ dù đã được Giáo hội cho từ năm 1994. Đó là những vấn đề chính vẫn còn trong chương trình của phiên họp này.”
Bản tóm tắt nguyện vọng của giáo dân Pháp có các chủ đề khác như: “Những khó khăn trong giao tiếp với các linh mục và giám mục, sự mất cân đối giữa số lượng phụ nữ tham gia vào Giáo hội và những người có quyền quyết định… Tinh thần phục vụ của phụ nữ được đánh giá cao nhưng tiếng nói của họ dường như bị phớt lờ. Cách thức đối xử với phụ nữ trong Giáo hội không được Giáo hội điều chỉnh theo sứ mạng ở thời điểm mà bình đẳng giữa nam và nữ đã trở nên hiển nhiên. Vì thế Giáo hội tự bỏ đi vô số đặc sủng và khả năng để ra khỏi tình trạng giáo sĩ trị.” Những kết luận này đã gây được tiếng vang rộng rãi trong Giáo hội, không chỉ ở phương Tây.
“Giai đoạn lục địa”
Praha, ngày 8 tháng 2 năm 2023. Thần học gia Baptist người Pháp Valérie Duval-Poujol phát biểu ở một khách sạn thủ đô Séc: “Nếu Giáo hội là một thân thể theo hình ảnh trong Kinh Thánh thì trong nhiều giáo phái kitô giáo, thân thể này bị tê liệt, bị liệt nửa người vì chúng ta tước đi một nửa ân sủng của các thành viên: phụ nữ.” Hội đồng các Giáo hội Châu Âu (CEC) mời bà đến nói chuyện với 200 đại diện công giáo – các hồng y, giám mục, linh mục, nữ tu, giáo dân nam nữ đến từ khắp Châu Âu để tham gia vào phiên họp lục địa chưa từng có này.
Thần học gia Baptist người Pháp Valérie Duval-Poujol
Bà khẳng định: “Sự tham gia của phụ nữ là một vấn đề lớn của phiên họp ở Praha, chúng tôi mong muốn giảm bớt các khía cạnh của hệ thống cấp bậc và chủ nghĩa giáo quyền trong Giáo hội… Việc dựa vào phản hồi từ thực địa đã mang lại tính hợp pháp mạnh mẽ cho các cuộc thảo luận. Không có lễ rửa tội màu xanh cho con trai và màu hồng cho con gái! Chỉ có một lễ rửa tội!”
Được chính thức hóa trong “tài liệu tạm thời” đầu tiên – trước khi được tranh luận kín giữa các giám mục – những kỳ vọng bày tỏ ở Praha đã làm nảy sinh những điểm xung đột, giữa các tầm nhìn đôi khi hoàn toàn trái ngược nhau. Trước các phản đối của các Giáo hội Đông phương, một số tiếng nói của “khối Tây phương lấy làm tiếc cuộc tranh luận đã không tiến xa hơn – đặc biệt là về việc truyền chức linh mục cho phụ nữ -, sau những đề xuất của “con đường Thượng Hội đồng Đức”.
Phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng ở Rôma
Trong Hội trường Phaolô VI vào ngày 4 tháng 10 năm 2023, một số người tham dự tỏ ra bối rối. Đức Phanxicô đã mời 96 người không phải giám mục, trong đó có 54 phụ nữ. Một người tham dự cho biết: “Với một số giám mục từ các quốc gia ở Nam Bán cầu, nơi phụ nữ không được bình đẳng như ở Châu Âu, đây là lần đầu tiên họ thấy mình trao đổi một cách bình đẳng với một phụ nữ ở bàn ăn.” Tháng 10 năm 2023, một giám mục trả lời phỏng vấn: “Chúng tôi không nói giống nhau khi có phụ nữ trong nhóm.”
Phụ nữ trong Thượng Hội đồng tháng 10-2023
Theo hai nguồn tin, với ngày tháng trôi qua, sự khác biệt về thứ bậc đã ít rõ ràng, một số hồng y và giám mục chỉ mặc áo linh mục thường. Quá tập trung vào việc chia sẻ kinh nghiệm cá nhân – làm cho các thần học gia có mặt khó chịu –, một số chứng từ của phụ nữ đã được hoan nghênh như lời của một phụ nữ người Mỹ gốc Ba Lan có người chị tự tử vì cảm thấy mình tội lỗi vì mình là người đồng tính nữ.
Theo thông tin của báo La Croix, một cuộc họp kín đáo lẽ ra sẽ quy tụ hầu hết phụ nữ sẽ được tổ chức ở Rôma vào cuối kỳ họp, các “nghị mẫu” sẽ thảo luận về việc họ tham dự vào Thượng Hội đồng rất lịch sử này nhưng sẽ không thực hiện được vì có những bất đồng”
Một số người muốn công khai bày tỏ lòng biết ơn của họ với Giáo hội về lời mời tham dự nhưng cũng có những người muốn tận dụng văn bản dự kiến này để hỗ trợ một số yêu cầu nhất định, đặc biệt họ muốn có một vị trí lớn hơn cho phụ nữ trong các vị trí chịu trách nhiệm trong Giáo hội: “Cũng có lo ngại cho cách tiếp cận này sẽ bị cho là ‘một thượng hội đồng nhỏ trong thượng hội đồng”, bà lấy làm tiếc vì đã “bỏ lỡ cơ hội”.
Một vài ngày trước đó, những người tham gia đã tranh luận về chức phó tế nữ. Nếu việc đề cập đến chủ đề này cách đây vài năm là không thể tưởng tượng – nếu có một hoặc hai giám chức đi xa đến mức nói về các nữ linh mục – thì sẽ gặp sự phản đối cứng rắn của nhiều hồng y và giám mục.
Hiện diện trong phiên họp, Đức Phanxicô lắng nghe và ghi chép. Một trong những bài phát biểu hiếm hoi của ngài đã được Tòa Thánh công khai: ngài chỉ trích thái độ “trọng nam và độc tài” của một số linh mục bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa giáo quyền”, ngài nhắc lại – như ngài đã nhắc trong chuyến đi Bỉ từ ngày 27 đến 29 tháng 9 – “nữ tính” là đặc tính của Giáo hội.
Trích thư Thánh Phaolô gởi tín hữu thành Êphêsô (Êp 5:27), từ đó nảy sinh ra một nền thần học đã được ba giáo hoàng tiền nhiệm của ngài tiếp thu. Đức Bênêđíctô XVI viết năm 2006: “Mọi sự trong Giáo hội, mọi tổ chức và thừa tác vụ, kể cả thừa tác vụ Thánh Phêrô và những người kế vị đều được áo choàng của Đức Trinh Nữ che chở, trong không gian tràn đầy ân sủng của hai chữ “xin vâng” của Mẹ”. Ngày 28 tháng 9, tại trường đại học nói tiếng Pháp Louvain-la-Neuve, gần Brussels, quan điểm này là nguồn gốc của tranh cãi vì các sinh viên công giáo tại đây cho rằng ngài theo chủ nghĩa bản chất, phân biệt giới tính.
Trong báo cáo tóm tắt kỳ họp tháng 10 năm 2023, có một chương nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đấu tranh chống phân biệt đối xử với phụ nữ, mở rộng trách nhiệm của họ và áp dụng ngôn ngữ hòa nhập hơn. “Việc nghiên cứu thần học và mục vụ về khả năng tiếp cận chức phó tế nữ phải được các ủy ban thần học của Đức Phanxicô thành lập nghiên cứu. Một cách để loại chủ đề này ra khỏi các tranh luận của phiên họp lần thứ nhì này?” Một nguồn tin ở Vatican khẳng định: “Không,” đồng thời nhấn mạnh cần phát triển hơn nữa, chức phó tế nam chủ yếu vẫn được phát triển ở Châu Âu.
Nhiều câu hỏi liên quan đến vị trí phụ nữ vẫn còn ở trong chương trình làm việc của các cuộc tranh luận sắp tới. Tài liệu làm việc của phiên họp công bố ngày 9 tháng 7 năm 2024 đề cập đến các vị trí trách nhiệm của phụ nữ trong các giáo xứ, giáo phận và các thực thể khác của Giáo hội, kể cả trách nhiệm mục vụ và các hình thức mục vụ khác.
Tuy nhiên theo một quan sát viên ở Rôma, không nên mong chờ nhiều: “Nguyên tắc quan trọng nhất của Giáo hội là sự hiệp nhất. Vì vậy, như trong bất kỳ tranh luận nào thuộc loại này, các thành viên có khuynh hướng đồng thuận để kết thúc với một văn bản nhẹ nhàng về những câu hỏi có thể gây chia rẽ, như vấn đề phụ nữ.” Kết thúc phiên họp vẫn là quyết định của Đức Phanxicô. Theo truyền thống, một tông huấn sẽ được công bố vài tháng sau khi kết thúc các tranh luận để nói lên những gì Giáo hội giữ lại từ những tranh luận này. Một số người cho rằng có thể dùng báo cáo tóm tắt này cho tương lai, vì báo cáo này có thẩm quyền. Chắc chắn một quyết định sẽ mang tính đồng nghị nhưng nhiều người không tin.
Các đại biểu bỏ phiếu thông qua báo cáo tổng hợp tại phiên bế mạc Thượng Hội đồng về Hiệp hành vào ngày 28 tháng 10 năm 2023 (
Cuộc tranh luận về sự tham gia của phụ nữ trong Giáo hội Công giáo — bao gồm cả ý tưởng liệu phụ nữ một ngày nào đó có thể trở thành Phó tế hay không — không nằm trong chương trình nghị sự của phiên họp tháng này của Thượng Hội đồng Hiệp hành, nhưng các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng về chủ đề này vẫn tiếp tục, một số cuộc thảo luận theo lời mời gọi rõ ràng của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Vào ngày 2 tháng 10, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ khai mạc phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng Hiệp hành, phần cuối cùng của giai đoạn “phân định” của Tiến trình Hiệp hành bắt đầu vào năm 2021.
Mặc dù việc cho phép phụ nữ tham gia các Thừa tác vụ như Phó tế là một trong những chủ đề lớn tại hội nghị Thượng Hội đồng kéo dài một tháng vào năm ngoái, nhưng ban tổ chức cho biết vấn đề này hiện nằm trong tay các chuyên gia sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô thành lập một ủy ban tại cơ quan Giáo lý của Vatican để nghiên cứu vấn đề này theo yêu cầu của các đại biểu Thượng Hội đồng năm 2023.
Ủy ban tại Bộ Giáo lý Đức tin (DDF) sẽ cập nhật về công việc của mình trong cuộc họp tháng này với kế hoạch công bố tài liệu vào giữa năm 2025.
Trong khi các đại biểu và các tham dự viên khác tại cuộc họp Thượng Hội đồng sẽ tập trung vào cách thức trở thành một Giáo hội truyền giáo, thì cuộc thảo luận về phụ nữ cũng diễn ra ở những địa điểm khác: tại ủy ban nghiên cứu, tại các cuộc họp Thượng Hội đồng địa phương, trong các sự kiện trực tuyến và với Đức Thánh Cha cùng các Hồng y cố vấn của ngài.
Đức Thánh Cha Phanxicô và các đại biểu tại Thượng Hội đồng về Hiệp hành tại phiên bế mạc hội nghị vào ngày 28 tháng 10 năm 2023
Quan điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô
Khả năng cho phép phụ nữ Công giáo trở thành Phó tế vĩnh viễn là một vấn đề thường trực trong triều đại Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Mặc dù Đức Thánh Cha đã nhiều lần bày tỏ mong muốn nghiên cứu vấn đề này, đặc biệt là nhân vật nữ Phó tế trong lịch sử thời Giáo hội sơ khai, ngài cũng đã đưa ra câu trả lời chắc chắn rằng “các Phó tế có chức thánh” không phải là khả năng dành cho phụ nữ.
“Phụ nữ có thể phục vụ rất tốt với vai trò là phụ nữ, không phải trong vai trò Thừa tác viên trong lĩnh vực này, trong các chức thánh”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với người dẫn chương trình Norah O’Donnell của CBS News trong lần xuất hiện trên chương trình “60 Minutes” vào tháng 5.
Gần đây hơn, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về những vai trò khác nhau của nam giới và phụ nữ trong Giáo hội trong bài phát biểu trước các sinh viên tại Đại học Công giáo Louvain (UCLouvain) ở Bỉ vào ngày 28 tháng 9 trong chuyến Tông du bao gồm một ngày ở Luxembourg.
“Những gì đặc trưng cho phụ nữ, những gì thực sự nữ tính, không được quy định bởi sự đồng thuận hay ý thức hệ, cũng như phẩm giá được đảm bảo không phải bởi những luật lệ được viết trên giấy mà bởi một luật lệ ban đầu được ghi khắc trong trái tim chúng ta”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói, đồng thời cũng cho biết thêm rằng “thật kinh khủng khi một người phụ nữ muốn trở thành đàn ông”.
Trong thông cáo báo chí được đưa ra ngay sau cuộc gặp gỡ, cộng đồng trường đại học đã chỉ trích những phát biểu của Đức Thánh Cha về phụ nữ là phát biểu “liên quan đến thuyết định mệnh và giản lược”.
Tự bảo vệ mình trong cuộc họp báo trên chuyến bay Giáo hoàng trở về Rôma vào vào ngày hôm sau, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại nền tảng thần học trong nhiều tuyên bố hiện tại và trước đây của ngài về phẩm giá của phụ nữ và vai trò khác biệt của họ so với nam giới trong Giáo hội — điều gọi là “nguyên tắc Maria Phêrô” được được phát triển lần đầu tiên bởi thần học gia nổi tiếng người Thụy Sĩ Hans Urs von Balthazar và được viện dẫn trong giáo huấn của bốn triều đại Giáo hoàng gần đây nhất của Giáo hội.
Nguyên tắc này dựa trên chiều kích về Đức Maria và Thánh Phêrô như những biểu tượng minh họa cho vai trò khác nhau nhưng bổ sung cho nhau của phụ nữ và nam giới trong Giáo hội.
“Một Giáo hội chỉ có nguyên tắc Phêrô sẽ là một Giáo hội mà người ta nghĩ rằng bị thu hẹp lại chỉ còn là chiều kích thừa tác, không còn gì khác. Nhưng Giáo hội vượt xa khỏi chiều kích thừa tác đó. Đó là toàn thể dân Chúa. Giáo hội là một người phụ nữ. Giáo hội là một Hiền thê. Do đó, phẩm giá của phụ nữ được phản ánh theo cách này”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong một cuộc phỏng vấn với Tạp chí America năm 2022.
Phẩm giá của phụ nữ, Đức Thánh Cha tiếp tục trong cuộc phỏng vấn đó, phản ánh bản chất phu thê của Giáo hội, điều mà ngài gọi là “nguyên tắc Maria”.
“Phương pháp không chỉ là Thừa tác vụ có chức thánh. Giáo hội là một người phụ nữ. Giáo hội là Hiền thê. Chúng ta chưa phát triển một nền thần học về phụ nữ phản ánh điều này”, Đức Thánh Cha nói.
Một cuộc đối thoại cởi mở
Vào tháng 12 năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời các giáo sư thần học đến để trò chuyện với ngài và Hội đồng Hồng y cố vấn của ngài về sự tham gia của phụ nữ trong Giáo hội. Đầu năm nay, những bài phát biểu này đã được xuất bản trong một loạt sách, một trong số đó có nhan đề: “Phụ nữ và các Thừa tác vụ trong Giáo hội Hiệp hành: Cuộc đối thoại cởi mở”.
Trong phần lời tựa cho cuốn sách tiếng Ý, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết rằng một khía cạnh quan trọng của tính Hiệp hành là phải có những cuộc đối thoại cởi mở.
“Tiến trình Hiệp hành, như một tiến trình phân định, bắt đầu từ thực tế và kinh nghiệm, trong cuộc đối thoại cởi mở và lòng trung thành sáng tạo với truyền thống tuyệt vời đã đi trước chúng ta và đồng hành cùng với chúng ta”, Đức Thánh Cha nói trong phần lời tựa vào ngày 25 tháng 3.
Các bài phát biểu trong các cuộc họp của các nhà thần học với Đức Thánh Cha Phanxicô và nhóm Hồng y vào tháng 12 năm 2023 và tháng 2 năm 2024 phần lớn chỉ trích cách đối xử hiện tại với phụ nữ trong Giáo hội và các lập luận thần học của một số Giáo hoàng gần đây về chức Linh mục và chức Phó tế chỉ dành cho nam giới.
Trong bài viết của mình, thần học gia và giáo sư người Ý, Nữ tu Linda Pocher, thành viên của Dòng Nữ tu Salêdiêng Don Bosco, cho rằng một số lập luận thường thấy về chức Linh mục chỉ dành cho nam giới không mạnh mẽ như thường thấy.
“Tôi không có ý nói rằng chúng ta nên xóa bỏ hoàn toàn sự dành riêng cho nam giới đối với Thừa tác vụ có chức thánh. Ý tôi là cơ sở lý luận đằng sau sự dành riêng đó không thuyết phục, và điều quan trọng là phải nhận ra và nhận thức được điều đó”, Nữ tu Pocher viết trong cuốn “Phụ nữ và các Thừa tác vụ trong Giáo hội Hiệp hành: Cuộc đối thoại cởi mở”.
Trong lời chứng của mình, thần học gia người Ý và là một phụ nữ tận hiến thuộc Dòng Ordo Virginum (“Dòng Trinh Nữ Thánh Hiến”), bà Giuliva Di Berardino, lập luận rằng Giáo hội Công giáo đang thiếu một Thừa tác vụ dành cho phụ nữ “công khai và chính thức”.
“Vấn đề mà chúng ta phải thừa nhận là thế giới Công giáo thiếu tính đặc thù của một Thừa tác vụ dành cho phụ nữ vốn có thể mở rộng thiên chức làm mẹ thiêng liêng của mỗi người phụ nữ, món quà đặc biệt của họ, đối với chiều kích phổ quát của Giáo hội”, thần học gia Giuliva Di Berardino cho biết.
Trong một cuốn sách tiếng Ý khác ra đời sau những cuộc gặp gỡ với các Hồng y, 3 thần học gia — 2 phụ nữ và 1 Linh mục — đã xem xét “nguyên tắc Maria – Phêrô” của thần học gia Hans Urs von Balthazar và đặt câu hỏi liệu những cách giải thích khác về Kinh Thánh và về Đức Trinh Nữ Maria có thể ủng hộ một Thừa tác vụ dành cho phụ nữ hay không.
Trong phần lời tựa của cuốn sách này có tựa đề “Giảm bớt nam tính hóa trong Giáo hội?”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết rằng “chúng ta đã nhận ra, đặc biệt là trong quá trình chuẩn bị và tổ chức Thượng Hội đồng, rằng chúng ta chưa đủ lắng nghe tiếng nói của phụ nữ trong Giáo hội và Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải học hỏi từ họ”.
Đức Thánh Cha cho biết điểm khởi đầu là sự suy tư của thần học gia Hans Urs von Balthasar về các nguyên tắc Maria và Phêrô trong Giáo hội, “một sự suy tư đã truyền cảm hứng cho Huấn quyền của các Giáo hoàng gần đây trong nỗ lực hiểu và đánh giá cao sự hiện diện khác nhau của nam giới và nữ giới trong Giáo hội”.
“Tuy nhiên, điểm cuối cùng nằm trong bàn tay của Thiên Chúa”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.
“Đây là điều tôi mong muốn tại thời điểm này trong Tiến trình Hiệp hành: chúng ta không mệt mỏi khi cùng nhau bước đi, vì chỉ khi chúng ta bước đi, chúng ta mới là chính mình, là thân thể sống động của Đấng Phục sinh đang chuyển động, đang ra đi, đang gặp gỡ anh chị em của chúng ta, không sợ hãi, trên các ngả đường phố của thế giới”, Đức Thánh Cha nói.
Đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, hành trình của Thượng Hội đồng về Hiệp hành chính là đích đến, và hành trình đó chính là lắng nghe thực tế sống động của anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô và đồng hành với họ.
Như triết gia và thần học gia Lucia Vantini đã nói trong bài trình bày của bà trước Hội đồng Hồng y Cố vấn năm ngoái: “Vấn đề về các Thừa tác vụ hiện không còn nằm trong chương trình nghị sự, nhưng giờ đây nó lấp lửng đây đó và áp lực của nó được cảm nhận: Giống như một bóng ma, nó lởn vởn trong các phòng họp của chúng ta, làm gián đoạn suy tư và ngăn cản sự thẳng thắn giữa chúng ta”.
Đây là một bất ngờ hạnh phúc. Khi kết thúc các cuộc tham vấn quốc gia chuẩn bị cho Thượng Hội đồng năm 2023, có vẻ như vị trí của phụ nữ trong Giáo hội không chỉ là mối quan tâm chung mà còn là ưu tiên trên phạm vi toàn cầu. Vấn đề về chức phó tế nữ được đưa ra một cách quyết liệt. Vì thế không chỉ có yêu cầu của các phụ nữ kitô giáo ở rừng già Amazon đã khơi lại chủ đề này trong Thượng hội đồng năm 2019. Lòng tin tưởng rất mạnh, hy vọng vấn đề này cuối cùng sẽ được giải quyết.
Mệt mỏi! Kể từ đó thất vọng nhân lên! Chủ đề này đã biến mất khỏi chương trình của phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng: không có trong các chủ đề của 10 nhóm nghiên cứu được thành lập để hỗ trợ và kéo dài Thượng Hội đồng cho đến năm 2025. Cuối cùng, khi đài truyền hình Mỹ CBS phỏng vấn Đức Phanxicô tháng 5 năm 2024, ngài đã phản đối việc phong chức phó tế nữ. Bất chấp công việc của Thượng Hội đồng, vấn đề đã được giải quyết. Không có các nữ phó tế nào chịu trách nhiệm trả lời cho công việc này.
Mâu thuẫn khó chịu
Cú sốc thật nặng nề, nỗi thất vọng thật lớn lao. “Phụ nữ luôn có chức năng nữ phó tế nhưng không phải là phó tế,” là lời phản đối đau lòng trong cuộc phỏng vấn. Nói cách khác, phụ nữ bằng lòng với công việc phục vụ. Hiển nhiên họ luôn làm ở mọi nơi, hy sinh không mệt mỏi, để Giáo hội hoàn thành sứ mệnh của mình.
Nhưng làm sao chúng ta không ngạc nhiên khi nói đến chức phó tế nam vĩnh viễn được Công đồng Vatican II tái lập, văn bản công đồng (Ad gentes, 16) giải thích phó tế cần ân sủng bí tích để có thể triển khai đầy đủ sứ mệnh của mình? Liệu phụ nữ có thực hiện được chức vụ phó tế mà không cần đến ân sủng này không?
Sự mâu thuẫn đáng xấu hổ
Sự thật, dù được tách ra một cách rõ ràng khỏi chương trình giảng dạy của linh mục, chức phó tế nam vĩnh viễn vẫn gắn liền với địa vị linh mục và chủ nghĩa độc quyền nam giới. Ít nhất là trong tâm trí của những người từ chối chức phó tế nữ. Đặc biệt vì phó tế được quyền phục vụ bàn thờ, được giảng lễ, cũng như cử hành một số bí tích như rửa tội, chủ tế hôn phối. Tất cả những điều có thể tăng thêm sức nặng cho chức phó tế mà phụ nữ đã thực hiện, nhưng chính xác là chúng ta có ý định để ngoài tầm với của họ.
Thực ra, việc phong chức phó tế nữ sẽ buộc chúng ta đặt câu hỏi kỹ hơn một chút về cơ cấu thể chế, nền tảng của thể chế vẫn là chức linh mục được truyền chức cho người nam độc thân. Đây thực sự là điểm phản kháng bị ẩn giấu dưới sự phản đối cho rằng trong tất cả những điều này, đó sẽ là cuộc đấu tranh giành quyền lực của phụ nữ mà họ được giải thích sẽ chỉ là giáo sĩ hóa họ.
Thật đau khổ khi đối thoại với những người khiếm thính. Làm thế nào để họ có thể hiểu chính đời sống Giáo hội trong chiều kích trọn vẹn nam tính và nữ tính đang bị đe dọa? Làm thế nào để họ hiểu đây không phải là vấn đề quyền lực hay muốn được công nhận, nhưng cơ bản là sứ mệnh Giáo hội, để ân sủng của cuộc đời Chúa Kitô đến với thế giới, thông qua mọi hình thức gần gũi đương thời mà phụ nữ kitô giáo dự phần vào nhiệm vụ phục vụ? Trên thực tế, chính vì cuộc tranh luận chạm đến chiều sâu này mà nó tiếp tục bị đình trệ trong 50 năm bất chấp vô số công trình học thuật, những trao đổi trái ngược nhau, cho đến hai ủy ban do Đức Phanxicô triệu tập liên tiếp.
Sự trì hoãn này sẽ cảnh báo chúng ta. Trong một số trường hợp, chúng ta đã gần đạt được quyết định tích cực nhưng lại bị né tránh. Bất chấp tất cả, câu hỏi vẫn mở, không thể giải quyết được, như thể chúng ta đang đứng trên bờ vực thẳm. Tuyên bố gần đây của Giáo hoàng dường như muốn nói mọi sự đã làm xong. Nhưng hiện nay, về đời sống kitô giáo nữ tính, có rượu mới, thứ mà chúng ta phải hy vọng cuối cùng sẽ làm vỡ bầu da cũ.
Trong một phỏng vấn gần đây với đài truyền hình Mỹ CBS, Đức Phanxicô dường như loại trừ khả năng cho phụ nữ làm phó tế. Đã có nhiều phản ứng, một số Thượng Hội đồng Quốc gia nhấn mạnh điểm này trong phiên họp tháng 10 tại Rôma.
“Không,” Đức Phanxicô đơn giản trả lời. Trong một phỏng vấn ngày 24 tháng 4 năm 2024, phát sóng vào ngày 21 tháng 5, nhà báo Mỹ Norah O’Donnell hỏi: “Liệu một bé gái công giáo ngày nay khi lớn lên sẽ có thể làm phó tế và là thành viên giáo sĩ trong Giáo hội không?” Đức Phanxicô nói rõ: “Không, nếu đó là phó tế với chức thánh thì không (…) Nhưng phụ nữ luôn có chức năng phó tế, phụ nữ luôn phục vụ tốt đẹp trong tư cách là phụ nữ chứ không phải trong tư cách là thừa tác viên của một thứ trật thiêng liêng.”
Một gáo nước lạnh?
Nhiều người công giáo đã phản ứng mạnh, nhất là phụ nữ, họ đặt nhiều hy vọng vào cải cách này. Bà Marie-Christine Conrath, thành viên của Mạng lưới Phụ nữ trong Giáo hội, ở Thụy Sĩ vùng tiếng Pháp nói với trang Công giáo Thụy sĩ: “Tôi buồn và tức giận, đó là một thất vọng lớn lao, một lần nữa chúng tôi thấy mức độ phụ nữ không được thừa nhận trong Giáo hội lớn đến như thế nào. Khi nào Giáo hội sẽ tỉnh thức?”
Lời của Đức Phanxicô càng gây sốc hơn khi có nhiều tin đồn cho rằng ngài sẽ thuận với chức phó tế nữ. Nữ tu Linda Pocher, một trong những cố vấn chính của ngài về chủ đề này cho biết “ngài ưu ái với chức phó tế nữ”.
Nhưng sau khi nghe kỹ cuộc phỏng vấn, các nhà quan sát thấy Đức Phanxicô không loại trừ khả năng này, nếu đó không phải là “truyền chức”, là đưa phụ nữ vào thể chế. Một bước đi không làm hài lòng cho những ai muốn có một vị trí công bằng cho phụ nữ trong Giáo hội. Bà Marie-Christine Conrath bảo đảm: “Nếu sự phát triển một tổ chức dành cho phụ nữ được xác nhận, chúng tôi sẽ chấp nhận vì chắc chắn mọi thứ đang tiến triển theo từng bước nhỏ”. Nhưng đây là những bước chậm. Các nhà lãnh đạo Giáo hội không nhận ra vai trò “hạng hai” mà họ dành cho phụ nữ đã gây tổn thương cho phụ nữ đến như thế nào. Chúng tôi cảm thấy chúng tôi chỉ có thể im lặng, phục tùng, dù chúng tôi đã làm rất nhiều việc.”
Không “gia ân” cho chức phó tế nữ
Bà Claire Jonard, điều phối viên tại Thượng Hội đồng tháng 10 năm 2023 nghĩ rằng Đức Phanxicô đã có thể vạch ra một “con đường thứ ba” cho chức phó tế nữ, không cần phải chịu chức: “Vấn đề về chức phó tế nữ đã có trong các báo cáo của Hội đồng Giám mục của nhiều quốc gia gởi về Rôma. Trường hợp Thụy Sĩ, tài liệu này kêu gọi đừng bằng lòng chức phó tế ‘gia ân’.” Trong bối cảnh Thụy Sĩ, một hình thức đặc biệt của chức phó tế ‘dành cho phụ nữ’ sẽ bị cho là chuyện xuống cấp phụ nữ như việc phân cấp chức phó tế liên quan đến thừa tác vụ chịu chức” (thư gởi Vatican tháng 5-2024).
Đức Phanxicô gắn kết với tầm nhìn thể chế được chia theo chiều kích ‘Phêrô’ và ‘Maria’
Chức phó tế nữ là chủ đề được được tranh luận nhiều nhất ở Thượng Hội đồng, phản ánh toàn cầu này là để Giáo hội tham gia và đón nhận nhiều hơn, ít tập trung hơn, ít mang tính giáo sĩ hơn. Trong lần họp tháng 10 năm 2023, các thành viên kêu gọi “tiếp tục nghiên cứu thần học” đặc biệt dựa trên kết quả của các ủy ban do Giáo hoàng thành lập năm 2016 và sau đó là năm 2020.
Mặc dù kết luận về công việc của họ chưa bao giờ được công khai, nhưng theo nguồn tin của I.Media (từ Vatican), chúng tôi biết công việc của ủy ban thứ hai – có các thành viên bị ràng buộc với bí mật giáo hoàng – đã được đệ trình lên Giáo hoàng cuối năm 2022. Trong tài liệu tóm tắt tháng 10, Thượng Hội đồng yêu cầu trình bày kết quả này tại phiên họp tiếp theo, cho rằng dự án này do đó có thể được tiến hành.
Theo Truyền thống hay theo Giáo hội nguyên thủy?
Tuy nhiên, Thượng Hội đồng bị chia rẽ giữa những người cho rằng chức phó tế nữ sẽ “không thể chấp nhận vì không liên tục với Truyền thống”, hoặc những người cho rằng như thế “thiết lập lại cách làm của Giáo hội nguyên thủy”.
Nếu các sử gia đồng ý về sự hiện diện của các nữ phó tế trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội, thì có hai cách tiếp cận đối lập nhau liên quan đến bản chất của việc truyền chức cho nữ phó tế. Cách thứ nhất là họ được truyền chức bằng việc đặt tay và nghi thức này có chiều kích bí tích. Cách thứ hai ngược lại, chức phó tế nữ không bao giờ có thể tương đương với chức phó tế nam, đó không phải là một bí tích nhưng là một thừa tác vụ được thiết lập – như các mục vụ ngày nay, giáo lý viên hoặc người đọc sách, được mở ra cho giáo dân.
Một cuộc phỏng vấn không phải là một văn bản có tính giáo huấn
Vấn đề về tính hợp pháp của chức phó tế nữ được đặt chồng lên vấn đề bản chất của Giáo hội. Đức Phanxicô gắn kết tầm nhìn thể chế chia theo chiều kích ‘Phêrô’ và ‘Maria’. Một ý tưởng được thần học gia Thụy Sĩ Urs von Balthasar (1905-1988) khai triển, ngài có ảnh hưởng trên Giáo hoàng. Chiều kích Phêrô là tông truyền do các giám mục lãnh đạo, và chiều kích Maria là khía cạnh nữ tính của Giáo hội. Một khái niệm bị nhiều nhà quan sát chỉ trích vì lỗi thời và khái quát hóa. Lời “không” của Đức Phanxicô có xu hướng xác nhận ngài muốn bám vào đường nét khái quát của Truyền thống hơn là tiến tới những thay đổi lớn.
“Liệu chúng ta có thể hướng đến một ‘giải pháp phù hợp’ với những vấn đề nhạy cảm khác nhau của Giáo hội không?”
Như thế cuộc phỏng vấn của CBS dứt khoát “chôn vùi” ý tưởng về chức phó tế nữ, hay chúng ta vẫn có thể mong chờ một thay đổi? Bà Claire Jonard nhớ lại: “Đức Phanxicô sẽ là người đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng chúng ta phải nhớ, cuộc phỏng vấn không phải là một văn bản huấn quyền. Nó không xác nhận bất kỳ quyết định nào. Tôi nghĩ chúng ta phải chờ kết thúc tiến trình Thượng Hội đồng để biết ý kiến dứt khoát về việc này.”
Hướng tới một chức phó tế theo “hình học biến thiên”?
Không phải là không thể xảy ra như trường hợp của tuyên bố Fiducia supplicans (tháng 12 năm 2023, cho phép chúc phúc cho các cẵp vợ chồng bất hợp lệ), đã có ảnh hưởng đến Giáo hoàng trong vấn đề chức phó tế nữ. Những phản ứng cực kỳ gay gắt theo sau tài liệu đã làm cho ngài phải tìm một thỏa hiệp, cho phép các giám mục Châu Phi không áp dụng văn bản. Đức Phanxicô có bị “cháy” vì kinh nghiệm không tốt này nên quyết định tạt một gáo nước lạnh vào những cải cách của mình không?
Vì thế liệu chúng ta có thể tiến tới, như với việc chúc lành cho các cặp đồng tính, hướng tới một “giải pháp riêng” cho những nhạy cảm khác nhau của Giáo hội không? Ý tưởng này đã được nữ thần học gia Mỹ Phyllis Zagano đưa ra. Bà bảo đảm chức phó tế nữ “chỉ là vấn đề thời gian”, bà nghĩ, nếu không chấp nhận một cách rõ ràng các nữ phó tế, thì Giáo hoàng có thể thiết lập một tình huống trong đó giáo phận có thể phong phó tế cho phụ nữ, sau đó họ sẽ được Vatican xác nhận.
“Những lời của Đức Phanxicô có thể tạo gián đoạn trong cuộc bỏ phiếu của Thượng Hội đồng” Claire Jonard
Bà Helena Jeppesen, đại biểu Thụy Sĩ tại Thượng Hội đồng kêu gọi các giáo phận trong nước tự mình hành động: “Họ phải khẩn cấp giới thiệu những gì có thể làm trong phụng vụ mà không cần thánh hiến: rửa tội, cử hành Lời Chúa kèm rước lễ, giảng lễ.” Theo bà, chính hành động thực tế tại chỗ, ngoài sự hợp tác ở cấp Thượng Hội đồng Thế giới sẽ có ảnh hưởng và thay đổi Giáo hội, có lẽ thay đổi cả thần học”.
Rắc rối về Thượng Hội đồng
Tuy nhiên, về mặt nội dung, hình thức can thiệp của Đức Phanxicô cũng đặt ra nhiều câu hỏi. Bà Claire Jonard thừa nhận: “Tôi không thể hiểu được ý nghĩa này. Có phải ngài muốn khơi dậy cuộc tranh luận về chủ đề này không? Tôi nghĩ dù sao điều này sẽ không làm cho việc đọc tiến trình Thượng Hội đồng trở nên rõ ràng hơn. Chức phó tế nữ là vấn đề được nhiều báo cáo quốc gia đưa vào chương trình nghị sự, dù sao nó sẽ được thảo luận và đưa vào Tài liệu Làm việc. Lời nói của Giáo hoàng chắc chắn có thể làm gián đoạn việc bỏ phiếu.”
Bà Marie-Christine Conrath cũng bối rối, dù bà bảo đảm bà sẽ tiếp tục tham gia Thượng Hội đồng, nhưng tình tiết mới này đã làm cho niềm tin của bà vào tiến trình này bị lung lay: “Nếu mục tiêu là lắng nghe lẫn nhau, nhưng cuối cùng chúng ta không nghe phụ nữ, như vậy tất cả những điều này mang lại ý nghĩa gì?”
Khi phiên họp thứ nhì của Thượng Hội đồng lần thứ nhì sắp bắt đầu, chúng ta có lý do để ngạc nhiên khi thấy vấn đề phụ nữ có quá ít chỗ đứng trong Thượng Hội đồng lần này cũng như trong Giáo hội, cả trong cách đối xử với phụ nữ.
Việc loại vấn đề phụ nữ ra khỏi các tranh luận ở Thượng Hội đồng là quyết định của Đức Phanxicô, ngài tái khẳng định loại họ ra khỏi “các sứ vụ thiêng liêng”, có nghĩa khỏi hàng giáo sĩ.
Chúng ta biết ngài không muốn “giáo sĩ hóa” phụ nữ. Ngài thích nhờ đến chức tư tế chung của tín hữu nhờ phép rửa tội, qua phép rửa tội họ được thăng tiến, nam cũng như nữ.
Nhưng vì sao ngài không kết hợp hai quyết định khiêm hèn này với những hành vi tích cực dành cho phụ nữ? Điều này chỉ có thể làm cho chúng ta nghĩ, phụ nữ không có giá trị gì trong tâm trí của ngài và của toàn bộ huấn quyền La Mã, vĩnh viễn vướng vào những căng thẳng liên quan đến tuyên bố của Fiducia supplicans về đồng tính. Bị mắc kẹt giữa những áp lực đối lập, ngài dường như bằng lòng với việc điều khiển kém, một cú chèo sang trái, một cú chèo sang phải và chèo dọc theo … Nhưng đằng sau những chiến lược tinh tế này, có một nửa nhân loại. Phụ nữ được xem trọng ở mức độ nào?
Khó hội nhập vào Giáo hội
Điều ngạc nhiên thứ hai là vì sao việc thúc đẩy sự hội nhập của phụ nữ trong Giáo hội lại khó đến vậy. Việc một thể chế “thế tục” đang phanh lại không có gì đáng ngạc nhiên: chủ nghĩa tập đoàn giới rất mạnh cũng như việc bảo toàn các đặc quyền.
Nhưng Giáo hội của Chúa Kitô không phải là thế giới: Giáo hội phải là tình huynh đệ và tình chị em. Chúa Giêsu không bao giờ để phụ nữ bị tẩy chay và phải chịu khuất phục. Ngài muốn họ được tự do, tự do giống như các ông đã được tự do. Trong Giáo hội “chuyên gia về nhân loại”, chúng ta nên nghe tiếng kêu này từ trái tim: “Các chị yêu dấu, cánh cửa Giáo hội đang rộng mở chào đón các chị, chúng ta hãy cùng nhau xây dựng Vương quốc!”
Nỗi sợ của hàng giáo sĩ
Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp này. Một mặt, trong hơn một ngàn năm, phụ nữ đã làm cho hàng giáo sĩ sợ, họ giữ khoảng cách với phụ nữ, bôi xấu phụ nữ vì họ bị lời khấn khiết tịnh đe dọa. Mặt khác, nam tính của giới giáo sĩ được xây dựng dựa trên nam tính của Thiên Chúa, tưởng tượng và sai sót, nhưng đã neo chặt đủ để ngăn cản việc xem phụ nữ cũng là đại diện của Chúa Kitô. Sau đó đến lượt giới tính cố định các chức năng, một bên là nam, một bên là nữ.
Cuối cùng, để thiết lập kiểu này, Rôma viện đến khái niệm “sự khác biệt” bằng cách gán cho phụ nữ “ơn gọi” làm vợ và làm mẹ, xác nhận việc họ bị loại trừ khỏi “các chức thánh”. Vì thế một bất bình đẳng về mặt bản thể được thiết lập hoàn toàn xa lạ với tinh thần của Chúa Giêsu. Rõ ràng, Giáo hội tuân thủ các luật lệ của chủ nghĩa tập đoàn thế tục hơn là tuân theo các hướng dẫn của Phúc âm. Nhưng khi cho rằng phụ nữ “kém” hơn nam giới, có phải điều này làm cho người công giáo trở thành thuộc địa cuối cùng trong thế giới phương Tây không? Đối diện với sức nặng của một nguy cơ như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi huấn quyền không vội vã chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc này càng nhanh càng tốt?
Trong mắt Chúa
Điều ngạc nhiên thứ ba liên quan đến phụ nữ chúng ta: vì sao chúng ta lại phải chịu đựng tình trạng này? Có phải vì chúng ta ít tự trọng, ít quan tâm đến bản thân mình? Có phải chúng ta không có giá trị trước mắt Chúa? Trên mảnh đất nhân quyền, trong một thể chế lẽ ra phải nêu gương về giải phóng, liệu chúng ta có chấp nhận vĩnh viễn bị giao cho việc thoái lui này không? Có phải chúng ta, như nhà văn Pháp La Boétie (1530-1563) nhắc nhở, là đồng phạm của tình trạng nô lệ tự nguyện không?
Chúng ta đừng nghĩ khi cúi lưng xuống là chúng ta có đức khiêm nhường, như một số tuyên úy vẫn thì thầm với các nữ tu: “Bằng sự hạ mình, các chị chia sẻ trong im lặng những đau khổ của Chúa Giêsu.” Không, sự khiêm tốn này chỉ là lười biếng, sợ hãi đội lốt nhân đức. Sự hạ mình bỏ qua những tài năng của Đấng Tạo Hóa ban nhờ thái độ của kẻ xấu, của người quản lý bị chủ khiển trách vì không làm lợi cho tài sản của mình.
Vì tài năng của chúng ta là tài sản của Đấng Tạo Hóa chứ không phải của riêng chúng ta. Khi coi thường bản thân, người quản lý cũng coi thường chủ: “Tôi biết ông là người chủ khắc nghiệt” (Mt 25, 14-30). Đây có phải là cách chúng ta nói về Chúa không? Lòng tự trọng trước hết là quý trọng hành động sáng tạo của Thiên Chúa. Thánh vịnh nói: “Thật ngạc nhiên là tôi lại như vậy” (Tv 139). Làm sao chúng ta có thể không làm mọi thứ để tôn vinh Ngài?
Phẩm giá của phụ nữ
Đúng là dưới chỉ dẫn của huấn quyền với phụ nữ có thể có vẻ nhẹ nhàng và đối với một số người, có vẻ thư giãn. Cuối cùng thì nên tránh xa những xung đột, hy vọng san bằng họ, chấp nhận vai trò thứ yếu giao cho họ… Tuy nhiên, ở đây không có lòng tự trọng. Chắc chắn, phẩm giá của phụ nữ được tái khẳng định, nhưng nó ở trên Thiên đàng; chắc chắn, những lời khen ngợi, đôi khi cuồng nhiệt, nhưng không có hậu quả thực tế; chắc chắn là có những trách nhiệm, nhưng phải xuất phát từ trọng tâm mục vụ mới tốt. Chúng ta có phải là những con ngỗng tuyết dễ lừa không?
Vậy chúng ta muốn gì? Sự quyến rũ kín đáo của chủ nghĩa bảo thủ gia trưởng hay tự do truyền giáo? Nếu chúng ta muốn Giáo hội của chúng ta trung thành với sứ điệp của Chúa Giêsu, thì vấn đề phụ nữ là một vấn đề cấp bách đối với mọi tín hữu công giáo.
Ngày thứ tư 2 tháng 10, Hồng y Victor Fernandez, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin cho biết một tài liệu huấn quyền về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đang được chuẩn bị. Vấn đề về chức phó tế nữ cần được giải quyết.
Vai trò của phụ nữ trong Giáo hội không phải là chủ đề chính thức của Thượng Hội đồng lần này. Phiên họp lần này chủ yếu tập trung vào các phương thức quản trị trong Giáo hội, nhưng giáo dân mong chờ rất nhiều về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội. Có lẽ để giải quyết những quan tâm này, bộ Giáo lý Đức tin đã soạn một văn bản về chủ đề này. Một sáng kiến được Hồng y Fernandez công bố trước 369 thành viên tham dự.
Hồng y Fernández cho biết các chủ đề sẽ bàn luận trong phiên họp: bản chất của quyền năng bí tích, mối quan hệ giữa quyền lực này và các thừa tác vụ trong Giáo hội, nguồn gốc của các thừa tác vụ giáo hội, các thừa tác vụ và chức năng của giáo hội không truyền chức và các vấn đề phát sinh từ việc truyền chức sai lầm.
Đức Phanxicô nói “không”
Vấn đề với chức phó tế cho phụ nữ cũng phải được xem xét trong tài liệu tương lai. Ngài cho biết lúc này ngài chưa xem xét một quyết định tích cực nào theo hướng này. Trong một cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình Mỹ CBS tháng 5 năm 2024, Đức Phanxicô đã loại trừ chức phó tế nữ, trước đó có nhiều dấu hiệu cho thấy ngài khá ủng hộ tiến trình này.
Tài liệu mới về phụ nữ sẽ được Đức Phanxicô xem xét và phê duyệt. Hồng y Fernandez không nói thêm về tiến trình của dự án này.
Trong phiên khoáng đại đầu tiên, chiều thứ Tư, ngày 02 tháng Mười vừa qua, với sự tham dự của 350 người tại Thượng Hội đồng Giám mục ở nội thành Vatican, Đức Hồng y Fernandez, người Argentina, đã trình bày về hoạt động của nhóm nghiên cứu do Đức Thánh cha thiết lập về vấn đề này và thông báo quyết định soạn một văn kiện về đề tài trên đây, trong sự đối thoại với Văn phòng Tổng thư ký Thương Hội đồng Giám mục.
Văn kiện sẽ bàn về những vấn đề như: bản chất của quyền do thánh chức, tương quan giữa quyền này và các giáo vụ hay thừa tác vụ trong Hội Thánh, nguồn gốc các thừa tác vụ, các giáo vụ và chức năng không đòi phải có thánh chức, và sau cùng là các vấn đề nảy sinh do quan niệm về quyền bính trong Giáo hội.
Đức Hồng y Fernandez nhấn mạnh rằng, “chúng tôi biết rõ lập trường của Đức Thánh cha về vấn đề truyền chức phó tế cho phụ nữ. Ngài coi đây là một vấn đề chưa chín mùi. Những vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu rộng hơn để chuẩn bị cho văn kiện mới. Có những vấn đề khác cần được giải quyết trước khi nói về chức phó tế phụ nữ, chẳng vậy, chức này sẽ trở thành một phần thưởng an ủi đối với một số phụ nữ”.
Dự thảo sẽ được đệ trình lên Đức Thánh cha để ngài duyệt xét và phê chuẩn. Đức Hồng y không cho biết thời biểu nghiên cứu và soạn văn kiện mới này.
Gần đây nhất, hồi tháng Mười Hai năm 2023, Đức Hồng y Fernandez được các cơ quan truyền thông và dư luận nói tới rất nhiều, sau khi công bố Tuyên ngôn cho phép chúc lành ngoài phụng cho các cặp đồng phái. Văn kiện được nhiều người chào mừng, nhưng cũng bị nhiều Hội đồng Giám mục, đặc biệt tại Phi châu phê bình và cũng tạo nên những căng thẳng với các Giáo hội Chính thống và các Giáo hội khác, như Giáo hội Copte.
Trước đây, Đức Thánh cha Phanxicô đã thành lập hai Ủy ban nghiên cứu về chức phó tế phụ nữ. Nhưng cho đến nay không có quyết định nào được đề ra. Tuy nhiên, hơn một lần ngài đã nói rằng việc phục hồi vai trò của các nữ “phó tế” thời các tông đồ là điều có thể, nhưng việc truyền chức phó tế cho phụ nữ thì không được.
Theo thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh, Ngai tòa Thánh Phêrô là một ngai cổ xưa bằng gỗ và tượng trưng cho quyền tối thượng của Thánh Phêrô và đã được chuyển đến phòng thánh Ottoboni khi công trình trùng tu tán che trên Bàn thờ Tuyên xưng Đức tin được bắt đầu để chuẩn bị cho Năm Thánh 2025.
Cha Enzo Fortunato, giám đốc truyền thông của Đền thờ Thánh Phêrô, cho biết “việc trùng tu đã bắt đầu và khi [Đức Thánh Cha] ở trong Đền thờ, ngài muốn được nhìn thấy Ngai tòa này. Ngài đã thấy nhiều đồ vật khác nhau, bao gồm cả Ngai tòa”.
Trang web của Cơ quan bảo trì Đền thờ Thánh Phêrô cho biết, trong quá trình khôi phục tán che trên bàn thờ Tuyên xưng Đức tin, “Văn phòng Nghiên cứu Khoa học của Bảo tàng Vatican sẽ phụ trách các nghiên cứu khoa học, sẽ được thực hiện theo nhiều giai đoạn”.
Giáo hội cử hành lễ kính nhớ Ngai tòa Thánh Phêrô vào ngày 22/2 hàng năm nhằm tôn vinh quyền tối thượng của Thánh Phêrô và những người kế vị ngài. Việc cử hành này tưởng nhớ quyền năng được Chúa Kitô trao ban cho người đại diện cho Người trên trái đất, là người đứng đầu Giáo hội và là Đức Giáo Hoàng, như được viết trong các Tin Mừng đã chỉ ra: “Con là Đá và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được”
Trung tâm nghiên cứu Pew đang quay ngược lại hai thập kỷ để liệt kê những thay đổi lớn nhất đối với dư luận công chúng Hoa Kỳ. Trong số những thay đổi đáng chú ý nhất là sự gia tăng của những người “không theo tôn giáo nào” hoặc những người không có liên kết tôn giáo.
Một thuật ngữ bao trùm bao gồm những người vô thần, người theo thuyết bất khả tri hoặc những người chọn “không đề cập cụ thể” trong các cuộc khảo sát, những người không theo tôn giáo là những người không tuyên bố hoặc thực hành bất kỳ tôn giáo chính thức nào. Họ không nhất thiết phải hoàn toàn phản đối ý tưởng về Thiên Chúa – 13% những người không theo tôn giáo nói rằng họ tin vào Thiên Chúa trong Kinh Thánh – nhưng họ không tìm cách hình thành mối tương quan với Thiên Chúa thông qua tôn giáo.
Trong báo cáo, Pew phát hiện ra sự gia tăng đáng kể về số người không theo tôn giáo kể từ khi bắt đầu theo dõi, từ 16% người trưởng thành ở Mỹ vào năm 2007 lên 28% vào năm 2023.
Trong khi tỷ lệ người trưởng thành ở Mỹ tuyên bố không theo tôn giáo nào đã tăng đều đặn kể từ năm 2007, năm 2023 chứng kiến mức giảm lớn nhất (-3%) trong một năm. Pew lưu ý rằng hiện còn quá sớm để khẳng định chắc chắn rằng số lượng người không theo tôn giáo đã ổn định hay sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.
“Nhóm tôn giáo” lớn thứ 2
Mặc dù họ không phải là một nhóm – vì họ không thuộc bất kỳ tôn giáo nào và không có lãnh đạo hay cộng đồng tập trung – Pew trích dẫn số lượng của họ ngang bằng với các nhóm tôn giáo khác và trên thực tế nếu xét tổng thể, họ sẽ là nhóm tôn giáo lớn thứ hai trong cả nước. 28% số lượng của họ vẫn còn kém xa so với các tín hữu Tin lành (43%) nhưng hiện nay họ có số lượng “thành viên” bằng người Công giáo (20%) và tất cả các tôn giáo khác (8%) cộng lại.
Thành phần tôn giáo của Hoa Kỳ chỉ là một yếu tố trong vô vàn những thay đổi về quan điểm mà Pew đã ghi nhận trong 20 năm qua. Những yếu tố khác bao gồm sự phổ biến của Internet và các công nghệ mới nổi khác, lòng tin vào các thể chế quốc gia ngày càng suy giảm, sự bất mãn ngày càng tăng với cả hai đảng chính trị chính thống, sự mất lòng tin ngày càng tăng đối với Trung Quốc và sự đảo ngược hoàn toàn trong việc ủng hộ hôn nhân đồng giới.
ĐGH Phanxicô vẫy tay chào những người trẻ trong cuộc gặp mặt liên tôn tại Cao đẳng Công giáo ở Singapore vào ngày 13 tháng 9 năm 2024.
Như thường lệ, đoạn trích từ một số nhận định ngẫu hứng đã được đưa lên mạng xã hội và nhiều người đọc nó theo hướng tiêu cực, như thể Đức Giáo hoàng đang nói rằng mọi tôn giáo đều đúng như nhau (điều này có vẻ vô lý, vì mọi tôn giáo, theo một số khía cạnh, đều mâu thuẫn với nhau). Nhưng quan điểm của Đức Giáo hoàng là mọi tôn giáo đều là những cách thức giao tiếp với Thiên Chúa, chứ không phải tất cả đều "giống nhau".
Một số nhà bình luận đã diễn giải những nhận định của Đức Giáo hoàng theo hướng bác ái hơn, và đây là cơ hội tốt để làm rõ hơn về những gì Giáo hội dạy về các tôn giáo khác và mối quan hệ của đức tin Công giáo với các tôn giáo đó.
Một trong những tuyên bố nổi tiếng nhất về vấn đề này được Đức Giáo hoàng Boniface VIII đưa ra trong tông sắc Unam Sanctam vào năm 1302: “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ”. Tuyên bố này từ lâu đã được nhiều người Công giáo (và nhiều người Tin lành) hiểu là một lời khẳng định rằng những người không được rửa tội và không hiệp thông với Giáo hội Công giáo sẽ phải xuống địa ngục.
Tuy nhiên, chúng ta được biết trong Lumen Gentium, một trong những văn kiện chính của Công đồng Vatican II, rằng những người ngoài Công giáo “nhưng lại thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng hành động để chu toàn thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua mệnh lệnh của lương tâm, thì vẫn có thể đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.” Giáo hội khẳng định rằng cánh cửa cứu độ mở ra cho tất cả mọi người (Gaudium et Spes, số 22).
Giáo hội cũng khẳng định trong Ad Gentes rằng “những hạt giống của Lời” có thể được tìm thấy trong mọi tôn giáo lớn. Những “hạt giống” này được nhắc đến nhiều lần trong các văn kiện và thông điệp của công đồng, ám chỉ những yếu tố được xác định trong các tôn giáo và nền văn hóa khác chứa đựng những tia sáng của cùng một chân lý mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng.
Điều này không phải là một sáng kiến mới. Ý tưởng này xuất phát từ một trong những nhà thần học vĩ đại đầu tiên của Giáo hội, Thánh Justinô Tử đạo, người đã viết rằng “những lời dạy của Chúa Kitô không xa lạ với triết học Plato”. Dante cũng miêu tả thiên đàng chứa đựng những người ngoại đạo tốt lành. Và các giáo hoàng như Alexander VIII và Clement XI sau đó đã lên án là lạc giáo những ý kiến cho rằng ân sủng của Chúa Kitô không hoạt động trong những người thuộc các tôn giáo khác (xem Sai lầm của những người theo giáo thuyết Jansenius và thông điệp Unigenitus năm 1713, những tuyên bố trong đó các giáo hoàng lên án phong trào lạc giáo Jansenius trong Giáo hội, thần học của họ ở một số khía cạnh giống với thuyết Calvin hơn là giáo lý Công giáo).
Trong thông điệp Redemptoris Missio, Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong mọi tâm hồn trên thế giới (số 6, 29), và rằng nhiều tôn giáo phản chiếu một tia sáng của chân lý duy nhất (số 56). Vị giáo hoàng này, người đã đạt được những bước tiến lớn trong đối thoại liên tôn, cũng đã viết trong cuốn sách Bước qua Ngưỡng cửa Hy vọng:
Công đồng Vatican II dạy rằng Chúa Thánh Thần hoạt động hiệu quả ngay cả bên ngoài cấu trúc hữu hình của Giáo hội, bằng cách sử dụng… nguồn gốc cứu độ chung hiện diện trong mọi tôn giáo. Chúa Kitô đã đến thế gian vì tất cả những dân tộc này. Ngài đã cứu chuộc họ và có những cách thức riêng để đến với từng người trong giai đoạn cánh chung hiện tại của lịch sử cứu độ.
Tất cả những điều này có nghĩa là Giáo hội, như chúng ta biết, không còn quan trọng nữa sao? Rằng việc một người là tín hữu Công giáo hay không cũng không còn quan trọng? Rằng tất cả các tôn giáo đều chân chính như nhau? Không phải như thế.
Chúng ta có thể khẳng định rằng Thiên Chúa luôn hoạt động cách ân cần trên toàn thể gia đình nhân loại, rằng các truyền thống đức tin lớn đều là những hành trình đích thực tìm kiếm Thiên Chúa và chứa đựng một tia sáng của cùng một chân lý, và rằng chúng ta tin Chúa Kitô đã thiết lập một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền, ban các bí tích truyền đạt ân sủng, và rằng đức tin Công giáo chứa đựng sự trọn vẹn ân sủng và chân lý.
Giáo hội tin rằng đồng thời có thể khẳng định rằng mỗi người trên trái đất này đều được mời gọi đạt đến ơn cứu độ theo cách riêng của họ và rằng ơn cứu độ chỉ đến qua Thân Thể của Chúa Kitô. Giáo hội dạy rằng Chúa Kitô mong muốn "tất cả nên một" và con người có nghĩa vụ không ngừng tìm kiếm chân lý bằng đức tin tốt lành. Nhưng Giáo hội cũng dạy rằng Thiên Chúa không trừng phạt bất kỳ ai, những người thành tâm tìm kiếm chân lý và điều thiện, nhưng vẫn ở ngoài giới hạn hữu hình của Giáo hội vì hoàn cảnh, văn hóa, lịch sử hoặc thiếu hiểu biết.
Cùng với Giáo hội, chúng ta có thể nhìn một cách can đảm và hiếu kỳ vào "bất cứ điều gì là chân thật và thánh thiện" trong các đức tin khác mà không sợ làm tổn hại đến chân lý đức tin của mình. Sau đó, chúng ta có thể nhìn vào các bài thơ Sufi, hay các bài thơ ca ngợi cổ điển của truyền thống Trung Quốc hoặc truyền thống bản địa và tìm thấy những điều tuyệt vời để học hỏi, những điều này cộng hưởng với cùng một Logos (Lời) phổ quát trong cốt lõi đức tin của chúng ta. Chúng ta có thể nhìn những người anh em Hồi giáo, Khổng giáo hoặc Sikh của mình là những người cùng tìm kiếm Thiên Chúa, và tìm thấy sự đồng hành trong đó, ngay cả khi thực sự kiên định với trọn vẹn chân lý trong Giáo hội.
Điều này cho phép chúng ta đón nhận thái độ của Thánh Gioan Phaolô II, loan báo Tin Mừng theo cách thức chào đón những điều tốt đẹp trong các tôn giáo khác trong khi đồng thời giữ vững niềm tin rằng Giáo hội Công giáo "là bí tích phổ quát của ơn cứu độ" (Redemptoris Missio, số 9). Khi đó, chúng ta có thể hành động không phải vì sợ hãi hay mong muốn dập tắt các truyền thống khác, mà là để chia sẻ niềm vui trọn vẹn của Tin Mừng. Cuối cùng, chính niềm vui này làm cho tình bạn với Chúa Kitô trở nên hấp dẫn, và như G.K. Chesterton đã nói, là “chìa khóa mở ra mọi cánh cửa”.
____________________________
Tâm Bùi (TGPSG) chuyển ngữ
Nguồn: americamagazine.org
Việc gọi những bác sĩ phá thai là những người “giết mướn” đã được Đức Thánh cha nhắc đến nhiều lần.
Hôm mùng 04 tháng Mười vừa qua, Thủ tướng Alexandre De Croo của Bỉ đã triệu Đức Tổng giám mục Franco Coppola, Sứ thần Tòa Thánh, đến để phản đối. Ông nói rằng: “Thật là một điều tuyệt đối không thể chấp nhận được đối với vị quốc trưởng của một nước ngoài đưa ra những tuyên bố như thế về quyết định dân chủ của đất nước chúng tôi... Nước Bỉ không cần những bài học về cách thức các đại biểu quốc hội của chúng tôi phải thông qua những đạo luật dân chủ như thế nào”.
Bỉ có dân số gần 12 triệu người và mỗi năm có ít nhất 16.000 thai nhi bị giết, theo thống kê chính thức. Con số này lên tới mức cao nhất, hồi năm 2011 với 20.000 vụ phá thai. Hiện nay, quốc hội Bỉ đang thảo luận về việc cho phép phá thai sau tuần lễ thứ 12 và muốn nới rộng đến tuần lễ thứ 18, điều này có nghĩa là cả các thai nhi hơn 4 tháng cũng có thể bị giết.
Thủ tướng De Croo thuộc đảng Tự do dân chủ Flamand cởi mở, gọi tắt là “Open VLD”. Trong cuộc bầu cử hồi tháng Sáu năm nay, đảng này chỉ được 5,5% số phiếu. Trước đó, năm 2019 đảng này được 8,5%. Sau hơn một năm thương thuyết, một chính phủ liên minh đã được thành lập với bảy đảng và ông De Croo được chọn làm thủ tướng.
Trước đó, hôm mùng 03 tháng Mười, Thủ tướng De Croo đã điều trần trước quốc hội Bỉ.
Bà Sarah Schlitz, thuộc đảng “xanh” tỏ ra phẫn nộ vì Đức Giáo hoàng ví những bác sĩ phá thai là những kẻ được thuê để giết người.
Còn bà đại biểu Caroline Désir, thuộc đảng xã hội, cựu bộ trưởng giáo dục thì chất vấn thủ tướng rằng: “Thủ tướng đã tiếp đón một vị lãnh đạo tôn giáo đã lạm dụng cuộc viếng thăm của mình để bày tỏ những lập trường hủ lậu và phụ hệ về phụ nữ”.
Thủ tướng De Croo trả lời: “Sứ điệp của tôi thật là rõ ràng. Những nhận xét của Đức Giáo hoàng Phanxicô như thế là không thể chấp nhận được”.
Sau cuộc thảo luận, với 95 phiếu thuận và 18 phiếu chống, quốc hội Bỉ đã thông qua nghị quyết “lên án lập trường không thể chấp nhận được của Đức Giáo hoàng và yêu cầu chính thức phản đối Tòa Thánh”.
Đây là lần đầu tiên một quốc hội Âu châu chính thức phán đối một vị Giáo hoàng.
Cũng nên nhắc lại rằng chiều thứ Bảy, ngày 28 tháng Chín, Đức Thánh cha đã đến viếng thăm mộ của Vua Baudoin, trị vì tại Bỉ trong 42 năm, từ năm 1951 đến 1993, và trong thánh lễ sáng Chúa nhật hôm sau đó, ngài ca ngợi lòng can đảm của nhà vua đã thoái vị trong 36 tiếng đồng hồ để khỏi ký nhận luật cho phá thai đã được quốc hội Bỉ thông qua trước đó. Ngài cũng tuyên bố khi trở về Roma sẽ xúc tiến án phong chân phước cho vua Baudoin, một người can đảm như vậy.
Đức Thánh cha nói: “Tôi vui mừng thông báo rằng ngày 08 tháng Mười Hai tới đây, tôi sẽ nhóm Công nghị để bổ nhiệm các hồng y mới. Xuất xứ của các vị nói lên đặc tính hoàn vũ của Giáo hội tiếp tục loan báo tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho tất cả mọi người trên trái đất. Ngoài ra, việc tháp nhập các hồng y mới vào Giáo phận Roma, biểu lộ mối liên hệ không thể tách rời giữa Tòa Thánh và các Giáo hội địa phương rải rác trên thế giới. Đây là danh tính của các hồng y mới:
1. Đức Tổng giám mục Angelo Acerbi, người Ý, 89 tuổi, cựu Sứ thần Tòa Thánh.
2. Đức cha Carlos Gustavo Mattasoglio, Tổng giám mục Giáo phận Lima, thủ đô Peru.
3. Đức cha Vicente Bokalic Iglic, Tổng giám mục Santiago del Estero, Giáo chủ Công giáo Argentina.
4. Đức cha Cabrera Gerardo Herrera, Tổng giám mục Giáo phận Guayaquil, Ecuador.
5. Đức cha Natalio Chomalí Garib, Tổng giám mục Giáo phận Santiago de Chile.
6. Đức cha Tarcisio Isao Kikuchi, Dòng Ngôi Lời, Tổng giám mục Giáo phận Tokyo, Nhật Bản.
7. Đức cha Pablo Virgilio Siongco David, Giám mục Giáo phận Kalookan, Philippines.
8. Đức cha Ladislav Nemet, Tổng giám mục Giáo phận Belgrade, thủ đô Serbia.
9. - Đức cha Ignace Jaime Spengler, Dòng Phanxicô, Tổng giám mục Giáo phận Porto Alegre, Brazil.
10. Đức cha Ignace Bessi Doglo, Tổng giám mục Giáo phận Abidjan, Côte d’Ivoire.
11. Đức cha Jean-Paul Vesco, Dòng Đa Minh, Tổng giám mục Giáo phận Alger, thủ đô Algérie.
12. Đức cha Paskalis Bruno Syukur, Giám mục Giáo phận Bogor, Indonesia.
13. Đức cha Joseph Mathieu, Tổng giám mục Giáo phận Teheran Isparan, Iran.
14. Đức cha Roberto Repole, Tổng giám mục Giáo phận Torino bắc Ý.
15. Đức cha Baldassare Reina, Phó Giám quản Roma, từ nay là Tổng Đại diện Giáo phận Roma.
16, Đức cha Francis Leo, Tổng giám mục Giáo phận Toronto, Canada.
17. Đức Tổng giám mục Rolandas Makrickas, người Lituani, Phó Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả.
18. Đức cha Mykola Bychor, 44 tuổi, Giám mục Giáo phận thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne, của Giáo hội Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương.
19. Cha Timothy Peter Radcliffe, 80 tuổi, người Anh, thần học gia, nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh.
20. Cha Fabio Baggio, Dòng Scalabrini, Phó Tổng thư ký Bộ Phát triển nhân bản toàn diện.
21. Đức ông George Jacob Koovakad, người Ấn Độ, chức sắc tại Phủ Quốc vụ khanh, đặc trách tổ chức các cuộc viếng thăm của Giáo hoàng.
Trong số các vị trên đây, có mười vị người Âu châu, trong đó có ba người Ý, bốn vị từ Á châu, năm vị từ Nam Mỹ. Từ ngày 08 tháng Mười Hai trở đi, Hồng y đoàn có 256 vị, trong số này có 141 hồng y cử tri và 115 vị trên 80 tuổi.
Đây sẽ là Công nghị bổ nhiệm hồng y thứ mười Đức Thánh cha Phanxicô triệu tập, trong mười một năm làm Giáo hoàng, so với con số bảy Công nghị Đức Thánh cha Gioan Phaolô II triệu tập, trong 27 năm Giáo hoàng. Còn Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, trong tám năm Giáo hoàng, ngài bổ nhiệm các hồng y mới trong bốn công nghị.
Với số hồng y bổ nhiệm trong lần này, Hồng y đoàn sẽ có 256 vị, trong số này có 141 hồng y cử tri và 115 vị trên 80 tuổi. Số hồng y cử tri vượt xa con số tối đa 120 vị, theo quy luật do Đức Giáo hoàng Phaolô VI ấn định. Nhưng trong năm 2025 sắp tới, sẽ có 13 hồng y tròn 80 tuổi, trong số này có Đức Hồng y Oswald Gracias, Tổng giám mục Mumbai, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ấn Độ, thành viên Hội đồng Hồng y cố vấn của Đức Thánh cha.
Trong các hồng y tân cử, có mười vị người Âu châu, trong đó có bốn người Ý, bốn vị Á châu là từ Philippines, Nhật Bản, Ấn Độ và Iran, năm vị từ Mỹ châu Latinh. Nước Mỹ không có thêm hồng y nào và Canada được một vị, là Đức Tổng giám mục Giáo phận Toronto, lớn nhất tại nước này. Phi châu được một hồng y, là Đức Tổng giám mục Giáo phận Abidjan, thủ đô Côte d’Ivoire.
Có vài bổ nhiệm gây ngạc nhiên trong dư luận: như Đức Tổng giám mục Angelo Acerbi, người Ý, 99 tuổi, cựu Sứ thần Tòa Thánh. Nhiệm sở chót của ngài là Giám chức của Hội Hiệp sĩ Malta, một tổ chức bác ái Công giáo hiện có 13.500 thành viên nam nữ trên thế giới, 100.000 thiện nguyện viên trên thế giới, trong đó có nhiều bác sĩ và nhân viên y tế. Phần lớn các hoạt động của Hội thuộc lĩnh vực từ thiện và y tế, tại 120 nước.
Tiếp đến là cha Timothy Radcliffe, thần học gia người Anh, cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, sẽ tròn 80 tuổi ngày 22 tháng Tám năm tới, 2025. Ngài được biết đến nhiều trong hai Thượng Hội đồng Giám mục năm ngoái và năm nay, như người hướng dẫn tĩnh tâm trước khóa họp.
Vị trẻ nhất trong số 21 hồng y tân cử là Đức cha Mykola Bychor, 44 tuổi, Giám mục Giáo phận thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne, Australia, của Giáo hội Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương. Đây là một giáo phận tòng nhân với khoảng 32.000 tín hữu.
Đặc biệt là Đức ông George Jacob Koovakad, 53 tuổi, người Ấn Độ, thuộc Giáo hội Công giáo Syro Malabar, xuất thân từ trường ngoại giao Tòa Thánh, đã phục vụ tại một số Tòa Sứ thần Tòa Thánh, và có cấp bậc tham tán Sứ thần hạng I, hiện phục vụ tại tại Phủ Quốc vụ khanh và đặc trách việc tổ chức các cuộc viếng thăm của Giáo hoàng. Trước đây, cũng có cha Roberto Tucci, nguyên là Tổng giám đốc Đài Vatican, và đặc trách tổ chức các cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ngài được bổ nhiệm làm hồng y, sau khi đã kết thúc nhiệm vụ này.
Nay là trường hợp Đức Hồng y tân cử Koovakad. Nếu ngài còn tiếp tục làm nhiệm vụ tổ chức các cuộc tông du của Đức Thánh cha tại hải ngoại thì có nghĩa là ngài ngang hàng với Đức Hồng y Quốc vụ khanh và trên cấp Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng, Paul Gallagher.
Cũng vậy, trong số các hồng y tân cử, có cha Fabio Baggio, 59 tuổi (1965) Dòng Scalabrini, Phó Tổng thư ký Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đặc trách về vấn đề di dân và tị nạn. Cho đến nay, cha làm việc dưới sự điều hành của Đức Hồng y Bộ trưởng Michael Czerny, người Canada gốc Tiệp, thuộc Dòng Tên và nữ tu Alessandra Smerilli, Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, Tổng thư ký của Bộ. Báo chí có rằng Đức Hồng y Baggio sẽ thay thế Đức Hồng y Czerny sẽ nghỉ hưu, năm nay ngài đã 78 tuổi.
Cấp dưới có tước phẩm cao hơn cấp trên trong Tòa Thánh, đó cũng là trường hợp Đức Hồng y Mario Zenari, Sứ thần Tòa Thánh tại Syria, cấp trên của ngài là Đức Tổng giám mục Gallagher, Ngoại trưởng. Đức Thánh cha phong Đức Tổng giám mục Zenari làm hồng y dường như để nói lên quan tâm của ngài đối với Syria ở trong tình trạng chiến tranh, cuộc chiến vẫn chưa hoàn toàn kết thúc, sau 14 năm trời, và tình hình tại nước này bị thế giới quên lãng.
Ngoài ra, Iran đang ở giữa cơn lốc chiến tranh với Israel, một lò lửa có thể bùng lên. Đức Thánh cha bổ nhiệm làm hồng y vị Tổng giám mục tại thủ đô Teheran của nước này, là Dominique Matthieu, 61 tuổi (1963), thuộc Dòng Phanxicô Viện Tu. Giáo phận của ngài chỉ có 6.200 tín hữu Công giáo thuộc 5 giáo xứ, ít hơn cả Giáo hội tại Mông Cổ. Giáo hội tại đây phải chịu nhiều hạn chế.
Vai trò của phụ nữ và khả năng có nữ phó tế; nguy cơ biến mất các Giáo hội Đông phương do chiến tranh; cách tiếp cận “mục vụ” cho những người đa thê ở Châu Phi; việc loan báo Tin Mừng trong thời đại kỹ thuật số; mối tương quan giữa các Giám mục, linh mục và Dân Chúa; các tiêu chí chọn lựa ứng viên giám mục; góc nhìn “hiệp hành” về công việc của các Sứ thần Tòa Thánh; và đối thoại đại kết. Tại phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám mục, diễn ra vào chiều ngày 2/10 với bài phát biểu của Đức Thánh Cha cùng những lời giới thiệu của Đức Hồng y Grech và Tổng Tường trình viên, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, đại diện của từng nhóm nghiên cứu, đã trình bày công việc của họ.
Các đại diện của các nhóm, mỗi nhóm được giới thiệu bằng một đoạn video ngắn và có tối đa ba phút để trình bày, đã phác thảo những công việc đã thực hiện và các kế hoạch tương lai, dự kiến sẽ có một cuộc đối thoại liên tục giữa các thành viên Thượng Hội đồng và các Nhóm Nghiên cứu. Các “phản hồi” do các nhóm này thực hiện sẽ được trình lên Đức Thánh Cha vào năm 2025, một năm sau khi Thượng Hội đồng kết thúc, nhưng sẽ tính đến các đóng góp và kết quả từ Đại Hội đồng chung. Đức Hồng y Hollerich mô tả các nhóm này như là “những người đồng hành trên hành trình” và là “những người đối thoại.”
Đa Thê
Như đã đề cập, có mười nhóm nghiên cứu, bên cạnh một số Ủy ban được giao nhiệm vụ phân tích các chủ đề cụ thể. Một trong những nhóm này, giải quyết vấn đề phức tạp về đa thê ở một số quốc gia Châu Phi, đã được Đức Hồng y Fridolin Ambongo của Congo, Tổng Giám mục Kinshasa và Chủ tịch SECAM (Liên Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar) trình bày qua video. Ngài đặt ra câu hỏi về cách Giáo hội có thể đồng hành mục vụ với “những người đã đón nhận đức tin Kitô giáo nhưng đang sống trong tình trạng đa thê” hoặc “những người đã được rửa tội nhưng sau khi trở lại vẫn tiếp tục sống trong tình trạng đa thê.”
Các Giáo hội tại Châu Phi, mà cách đây vài tháng đã bày tỏ sự phản đối trước khả năng chúc lành cho người đồng giới (được đề xuất trong Tuyên ngôn Fiducia supplicans), giờ đây đang phải đối mặt với câu hỏi làm thế nào để đối xử với những người đàn ông có đến mười người vợ, cân nhắc đến những vấn đề như sự hiện diện của con cái, khó khăn kinh tế và các mối dây tình cảm. Đức Hồng y Ambongo cho biết SECAM có ý định phân tích những hình thức khác nhau mà hiện tượng này biểu hiện, cũng như động cơ của những người liên quan và giáo huấn của Giáo hội. Giáo huấn Công giáo khẳng định rằng đa thê “không phải là lý tưởng về hôn nhân theo thánh ý Thiên Chúa.” Tuy nhiên, ngày nay, điều này là chưa đủ: cần có sự “gần gũi,” “lắng nghe chủ động” và “hỗ trợ.” Công việc của nhóm, do một đội ngũ chuyên gia thực hiện, sẽ dẫn đến việc soạn thảo một tài liệu.
Vai trò của phụ nữ và nữ phó tế
Đức Hồng y Victor Manuel Fernández, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã đại diện cho Nhóm nghiên cứu về “các hình thức thừa tác vụ.” Ngài dự báo một “sự hồi sinh của một số suy tư của Đức Thánh Cha” – trong các tài liệu như Evangelii gaudium, Querida Amazonia và Antiquum Ministerium – vốn “chưa được đón nhận đúng mức,” và nhấn mạnh đến “vấn đề cấp bách về sự tham gia của phụ nữ trong đời sống và lãnh đạo của Giáo hội.”
Điều này bao gồm khả năng phụ nữ có thể được thừa nhận vào chức phó tế, vốn là chủ đề của hai Ủy ban được Đức Thánh Cha thành lập. “Chúng ta ý thức về lập trường công khai của Đức Thánh Cha, Ngài cho rằng vấn đề này chưa chín muồi,” Đức Hồng y Fernández làm rõ. “Trong suy tư của Đức Thánh Cha, vẫn còn nhiều vấn đề khác cần phải được khám phá và giải quyết trước khi vội vàng bàn đến việc có khả năng phong chức phó tế cho một số phụ nữ.”
Theo vị Bộ trưởng của Bộ Giáo lý Đức tin, rủi ro là chức phó tế có thể trở thành “một hình thức an ủi cho một số phụ nữ,” trong khi “vấn đề quan trọng hơn về sự tham gia vào đời sống Giáo hội lại bị bỏ quên.” Dù sao đi nữa, Ngài cho biết, Bộ Giáo lý Đức tin vẫn tiếp tục “nghiên cứu nhiều hơn,” kết hợp phân tích về phụ nữ trong lịch sử Giáo hội “những người thực sự đã nắm giữ quyền hành” (như Matilda thành Canossa, Hildegard thành Bingen, Jeanne d’Arc, Teresa Avila, Mama Antula, Dorothy Day) với việc lắng nghe những phụ nữ ngày nay đang đảm nhận các vai trò quan trọng trong các Giáo hội tại những vùng đất xa xôi như Indonesia và Châu Phi. Như vậy, Đức Hồng y Fernández cho biết, vấn đề nữ phó tế “được thu gọn lại” và “chúng ta đang nỗ lực mở rộng không gian cho một sự hiện diện quyết định hơn của phụ nữ.”
Tiếng kêu than của người nghèo
Vai trò của phụ nữ cũng là trọng tâm trong các nghiên cứu của Nhóm chuyên về “lắng nghe” tiếng kêu của trái đất và của người nghèo. Làm thế nào để củng cố mối liên hệ giữa cộng đoàn Kitô giáo và những ai làm việc hàng ngày trong lĩnh vực bác ái, công lý và phát triển là điểm chính của những suy tư được điều phối viên Sandie Cornish, một người Úc, trình bày. Bà nhấn mạnh rằng “phụ nữ, ở mọi nơi trên thế giới, thuộc về những người nghèo nhất trong số những người nghèo.”
Công việc của Nhóm “sẽ được xây dựng dựa trên tiếng nói của họ,” cũng như tiếng nói của các tình nguyện viên và các chuyên gia đang “đồng hành” với những người đang chịu cảnh nghèo khó và bị gạt ra bên lề. Sự chú ý cũng sẽ được dành cho “các nhóm đã bị loại trừ trong nhiều năm, chẳng hạn như các nạn nhân của sự phân biệt giai cấp.” Bà Cornish cho biết các Giám mục và những người lãnh đạo giáo phận, mà các trở ngại đã được thảo luận trước đó, cũng sẽ được mời tham gia, đồng thời lưu ý rằng các trở ngại này có thể kích thích sự sáng tạo và các phản hồi cụ thể.
Các Giáo hội Công giáo Đông phương bị tàn phá bởi chiến tranh
Đề cập đến các sự kiện thời sự, Đức Hồng y Claudio Gugerotti, Bộ trưởng Bộ Các Giáo hội Đông phương, đã nêu bật “tình hình bi thảm trong những ngày gần đây: bom đạn, xe tăng tàn phá không chỉ con người mà còn cả niềm hy vọng,” nhắm vào một “thành phần nhỏ và dễ tổn thương”—các Giáo hội Công giáo Đông phương trong các vùng chiến sự. Ngài cảnh báo: “Các Giáo hội này đang đối diện nguy cơ biến mất,” và sự mất mát này “sẽ là một tổn thất không thể bù đắp đối với Giáo hội.” Nhóm làm việc đã nhận nhiệm vụ “kêu gọi các Giáo hội Latinh, vốn mạnh mẽ và tổ chức tốt hơn, giúp đỡ các anh chị em chúng ta sống tốt hơn sau khi phải di tản ra khỏi quê hương của họ.” Đối với một số Giáo hội, “phần lớn các tín hữu đang sống ở nơi hải ngoại, chứ không phải trên chính quê hương bị chiến tranh tàn phá của họ.” Đức Hồng y giải thích rằng chương trình của nhóm sẽ bao gồm một bản câu hỏi và việc khởi động một hành trình, không chỉ dừng lại trong khuôn khổ Thượng Hội đồng, mà còn tiến xa hơn, dưới sự chăm sóc của Bộ Các Giáo hội Đông phương.
Thời đại kỹ thuật số và việc loan báo Tin Mừng
Từ thế giới thực đến thế giới kỹ thuật số: Kim Daniel, chuyên gia người Mỹ, đã trình bày công việc của Nhóm về việc loan báo Tin Mừng trong môi trường kỹ thuật số.
Bà nói: “Một trang truyền giáo mới trong đời sống của Giáo hội” đã mở ra, “cho phép chúng ta vươn đến các vùng ngoại vi” và trở thành “lời rao giảng đầu tiên về Chúa trong một thế giới chưa biết đến Ngài.”
Tất nhiên, cần phải phân định những cơ hội và thách đố của “không gian linh hoạt” này, với động lực “hội nhập văn hóa” cho Giáo hội. Nhóm làm việc bao gồm các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực trong Giáo hội và học thuật; công việc của nhóm được đánh dấu bằng việc lắng nghe sâu rộng, đặc biệt là những người trẻ tham gia vào các mạng lưới văn hóa kỹ thuật số; trong dự án “Giáo hội lắng nghe bạn”; và trong bài suy tư mục vụ của Bộ Truyền thông về mạng xã hội, Hướng tới một sự hiện diện tròn đầy”.
Quyền Tối thượng Phêrô trong bối cảnh đại kết
Mối quan hệ giữa tính hiệp hành và quyền tối thượng Phêrô, lòng hiếu khách Thánh Thể, và mối liên hệ với các phong trào canh tân Kitô giáo là những điểm sẽ được nhóm nghiên cứu, đại diện bởi Đức Cha Paul Rouhana, Giám mục Phụ tá của Giáo phận Joubbé, Sarba và Jounieh của Giáo hội Maronite, phân tích.
Chương trình làm việc, theo ngài, sẽ bao gồm việc phân tích “những hoa trái từ việc tiếp nhận hành trình đại kết trong thực hành giáo hội” và một số “đề xuất cụ thể cho việc thực thi quyền tối thượng Phêrô trong một khung cảnh đại kết mới.”
Văn kiện Giám mục Rôma sẽ là nền tảng cho các buổi gặp gỡ và suy tư, trong khi những kinh nghiệm từ các cuộc hôn nhân liên hệ phái, các gia đình và phong trào đại kết sẽ giúp mở rộng suy tư về lòng hiếu khách Thánh Thể.
Đồng thời, nhóm sẽ có một cái nhìn “tích cực” đối với các phong trào phi giáo phái để hiểu được “chúng ta có thể học được gì từ họ trong tinh thần trao đổi các hồng ân.”
Mối tương quan giữa Dân Chúa và các mục tử
Công việc của Nhóm về vai trò phục vụ của các giám mục, linh mục, và phó tế và mối quan hệ của họ với Dân Chúa mang tính chất thuần túy giáo hội.
Đức Cha Felix Genn của Giáo phận Münster nhấn mạnh sự cần thiết phải “đào sâu mối tương quan giữa giám mục và Giáo hội địa phương,” đặc biệt là theo ánh sáng của “những kỳ vọng Dân Chúa” về sự “minh bạch hơn”; sự tôn trọng lớn hơn đối với các bối cảnh địa phương; sự “tham gia tích cực hơn của Giáo hội địa phương trong việc lựa chọn các ứng viên để tránh những nghi ngờ về sự sắp đặt”; và nhu cầu khôi phục hình ảnh của “một Giáo hội thực sự hiệp hành.”
Đời sống thánh hiến
“Hiệp thông,” “hàng giáo phẩm,” “tính hiệp hành”; nhưng cũng là “tin tưởng,” “tình huynh đệ,” và “tình chị em” là những từ khóa hướng dẫn Nhóm Nghiên cứu về mối quan hệ giữa các giám mục và đời sống thánh hiến; và sự cộng tác giữa các Hội đồng Giám mục, các bề trên thượng cấp, các phong trào giáo dân, và các Giáo hội địa phương.
Nữ tu Simona Brambilla, Thư ký Bộ về các Tu hội Đời sống Thánh hiến và Các Tu đoàn Tông đồ, giải thích rằng nhóm sẽ đặc biệt xem xét “những khác biệt và sắc thái trong các phương thức sống mối tương quan giữa các giám mục và đời sống thánh hiến.” Ở một số khu vực trên thế giới, “mối quan hệ này hiệu quả và sinh hoa trái, trong khi ở những nơi khác lại mang nhiều thách đố và đời sống thánh hiến bị nhìn nhận một cách thuần túy chức năng.”
Đánh giá lại văn kiện ‘Ratio’ về linh mục trong viễn cảnh hiệp hành
Đức Hồng y José Cobo Cano đã trình bày, qua video, về công việc của Nhóm phụ trách việc đánh giá lại Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, văn kiện năm 1985 về đời sống, việc đào tạo và thừa tác vụ của các linh mục, trong “viễn cảnh thừa sai hiệp hành.”
Đức Tổng Giám mục Madrid cho biết Ratio “vẫn đang được đón nhận và cần những hướng dẫn rõ ràng”; thông qua nhiều “mảnh ghép” của các đề xuất và sự hiểu biết, một “bức tranh khảm” định hướng lớn sẽ được chuẩn bị, bao gồm các vấn đề như đào tạo chủng viện, sứ vụ linh mục, mục vụ ơn gọi, mối tương quan với các giám mục, và giáo dục về tính hiệp hành.
Phương thức hoạt động mới cho các Sứ thần Tòa Thánh
Nhóm Nghiên cứu cuối cùng, theo Đức Tổng Giám mục Anthony Fisher của Sydney, được giao nhiệm vụ “tái định hình vai trò hiện tại của các Sứ thần Tòa Thánh,” không chỉ liên quan đến các chức năng ngoại giao cổ điển mà còn trong trách nhiệm thúc đẩy “sự hiệp nhất, tình huynh đệ, và tính hiệp hành giữa các giám mục.”
Tâm Bùi (TGPSG)
Chuyển ngữ từ: Vatican News
Nguồn: tgpsaigon.net
Đức cha Norberto Phổ Anh Hùng (Pu Yingxiong), Giám mục Giáo phận Gia Nghĩa (Kiayi), đại biểu của Hội đồng Giám mục miền Đài Loan, năm nay 66 tuổi. Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Mỹ CNA, Đức cha cho biết mong được quen biết các giám mục, hồng y và các đại biểu tại Thượng Hội đồng Giám mục này. Đức cha nói đã gặp hai giám mục từ Hoa Lục và dự tính sẽ gặp lại các vị. Đức cha nói: “Đối thoại với các vị ấy là điều rất quan trọng, để tôn trọng lẫn nhau, và tôi nghĩ đây là điều tốt không những cho Giáo hội tại Trung Hoa, nhưng còn cho toàn Giáo hội”.
Đức cha Antôn Diệu Xuân (Yao Shun), Giám mục Giáo phận Tể Ning (Jining) là vị đầu tiên được thụ phong, theo hiệp định giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, về việc bổ nhiệm các giám mục. Ngài đã tham dự khóa I năm ngoái cùng với Đức cha Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), 54 tuổi. Trong khóa họp đó, hai giám mục đột ngột rời Thượng Hội đồng Giám mục, mà không có giải thích nào.
Đức cha Dương Vĩnh Cường thụ phong giám mục năm 2010, với phép của Tòa Thánh và làm Giám mục Giáo phận Chu Thôn (Zhoucun), tỉnh Sơn Đông, từ năm 2013 đến tháng Sáu năm nay, 2024.
Đức cha Diệu Xuân kể rằng nhiều tham dự viên hồi năm ngoái tại Thượng Hội đồng Giám mục tỏ ra quan tâm, muốn biết về sự phát triển của Giáo hội tại Trung Quốc, các vị muốn biết thêm và cầu nguyện cho chúng tôi”.
Thượng Hội đồng Giám mục cũng tạo cơ hội để các giám mục Hoa Lục đối thoại với Đức Hồng y Stephano Chu Thủ Nhân, Dòng Tên, Giám mục Hong Kong.
Hồi năm ngoái, Đức Hồng y và hai giám mục Hoa Lục đã cùng du hành đến thành phố Napoli, cách Roma 200 cây số và dâng thánh lễ tại nhà thờ Thánh Gia của các tín hữu người Hoa, một thánh đường được xây cất năm 1732, như thành phần của một Học viện do Đức Giáo hoàng Clemente XII thành lập để huấn luyện các chủng sinh người Hoa cũng như để dạy các thừa sai về tiếng Hoa, với mục đích loan báo Tin mừng tại Trung Quốc.
Năm nay, Đức cha Diệu Xuân được Đức cha Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu), Giám mục Giáo phận Mân Đông (Mindong), tỉnh Phúc Kiến (Fujian) thay thế. Đức cha Chiêm Tư Lộc năm nay 63 tuổi, đã chịu chức giám mục tại Bắc Kinh, không có phép của Đức Thánh cha, hồi năm 2000. Nhưng vạ này đã được thu hồi năm 2018, khi Tòa Thánh và Trung Quốc ký hiệp định về việc bổ nhiệm giám mục.
Khi ký giả hỏi Đức Hồng y Hollerich về lý do sự thay thế này, ngài đáp: “Phủ Quốc vụ khanh chỉ thông báo cho chúng tôi tên của các vị, nhưng chúng tôi không có thông tin về vấn đề này”.
Trong tuần lễ đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám mục này, hôm mùng 02 tháng Mười, một số đại biểu đã dành thời giờ đến tham dự lễ quốc khánh lần thứ 113 của Đài Loan, tổ chức tại Đại sứ quán Đài Loan, ở đường Hòa Giải, không xa Quảng trường thánh Phêrô.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Cha Thomas Schwartz, Giám đốc điều hành tổ chức bác ái Renovabis của Hội đồng Giám mục Đức, chuyên trợ giúp các Giáo hội tại Đông và Trung Âu cho biết như trên, trong một bài đăng trên trang mạng Công giáo của các giám mục Đức, truyền đi hôm mùng 04 tháng Mười. Cha là một trong số khách mời đặc biệt tại Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI đang tiến hành ở Vatican.
Cha kể rằng: “Gáo nước lạnh được dội trên mong đợi của những người ấy xảy ra trong phiên họp khoáng đại của Thượng Hội đồng Giám mục, chiều ngày 02 tháng Mười vừa qua, khi Đức Hồng y Manuel Fernandez, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, nói rằng “chúng ta biết rõ lập trường của Đức Thánh cha về vấn đề truyền chức phó tế cho phụ nữ. Ngài coi đây là một vấn đề chưa chín mùi”.
Đức Hồng y nói thêm rằng vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu rộng hơn để chuẩn bị cho văn kiện mới về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Có những vấn đề khác cần được giải quyết trước khi nói về chức phó tế phụ nữ. Chẳng vậy, chức này sẽ trở thành một phần thưởng an ủi đối với một số phụ nữ”.
Văn kiện được soạn thảo sẽ bàn về những vấn đề như: bản chất của quyền do thánh chức, tương quan giữa quyền này và các giáo vụ hay thừa tác vụ trong Hội Thánh, nguồn gốc các thừa tác vụ, các giáo vụ và chức năng không đòi phải có thánh chức, và sau cùng là các vấn đề nảy sinh do quan niệm về quyền bính trong Giáo hội.
Cha Schwartz viết: “Khi nghe những lời trên đây, tôi cảm thấy mình như con chó xù bị dội nước!”.
“Bây giờ thì tôi nóng lòng chờ đợi phúc trình của các nhóm ngôn ngữ, dự kiến được công bố vào thứ Sáu, ngày 04 tháng Mười này. Có lẽ thái độ thực tế đừng quá mong đợi sẽ là điều hữu ích. Vì khả năng thất vọng của tôi không còn ở mức độ cao nữa!”
Tổ chức Renovabis do cha Schwartz điều hành, được Hội đồng Giám mục Đức thành lập năm 1993 để giúp tái thiết Giáo hội tại 29 nước Đông và Trung Âu, thời hậu cộng sản và cho đến nay đã tài trợ hơn 26.000 dự án với 870 triệu Euro.
Chủ đề phụ nữ và vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đã được đề cập nhiều lần trong chuyến tông du đến Luxembourg và Bỉ, từ ngày 26 đến 29/9 vừa qua, cũng là trọng tâm của cuộc trò chuyện thân mật của Đức Thánh Cha với 150 tu sĩ Dòng Tên tại Brussels.
Trả lời câu hỏi “khó khăn trong việc mang lại cho phụ nữ một vị trí công bằng và thích hợp hơn trong Giáo hội”, Đức Thánh Cha tái khẳng định “Giáo hội là nữ”, và ngài thấy phụ nữ được ban cho các đặc sủng, vì thế không muốn giới hạn cuộc thảo luận về vai trò phụ nữ trong Giáo hội về chủ đề mục vụ. Đức Thánh Cha cho biết tại thời điểm này, ngài đang cố gắng “ngày càng nhiều hơn để đưa thêm phụ nữ vào Vatican với những vai trò có trách nhiệm ngày càng cao hơn. Và mọi thứ đang thay đổi. Người ta có thể thấy và cảm nhận điều này”.
Đức Thánh Cha đưa ra một số khuôn mặt cụ thể của phụ nữ đang phục vụ ở các vị trí quan trọng: Sơ Raffaella Petrini, Tổng Thư ký Phủ Thống đốc Thành Vatican; sơ Alessandra Smerilli, Tổng Thư ký Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện; trong Bộ Giám mục có ba thành viên là phụ nữ; sơ Simona Brambilla, Tổng Thư ký Bộ các Dòng tu; và trong Bộ Kinh tế, phó điều phối viên là bà Charlotte Kreuter-Kirchhof.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Tóm lại là đưa phụ nữ vào Vatican với những vai trò có trách nhiệm cao. Chúng ta sẽ tiếp tục con đường này. Mọi thứ đang hoạt động tốt hơn trước”.
Về vấn đề này, ngài cho biết chính những lời của bà Von der Leyen, Chủ tịch Uỷ ban châu Âu, đã làm ngài suy nghĩ rất nhiều về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Trong một cuộc gặp gỡ, ngài đã hỏi bà làm thế nào bà có thể đảm trách công việc của một Chủ tịch Uỷ ban châu Âu và vừa đảm nhận vai trò làm vợ và làm mẹ trong gia đình, bà đã trả lời: “Như những người mẹ chúng tôi vẫn làm”.
Cuộc đối thoại giữa Đức Thánh Cha và các tu sĩ Dòng Tên còn liên quan đến giáo xứ, cộng đoàn tín hữu, khi số linh mục phục vụ giáo xứ ngày càng ít. Đức Thánh Cha trả lời: “Cộng đoàn quan trọng hơn linh mục. Linh mục phục vụ cộng đoàn”, đồng thời đưa ra các ví dụ về trường hợp các nữ tu đảm nhận vai trò dẫn dắt một số nơi trên thế giới, như trường hợp các nữ tu ở Peru. Các nữ tu có “sứ vụ đặc biệt đi đến những nơi không có linh mục. Các chị làm mọi việc: giảng dạy, rửa tội… Và khi có một linh mục được sai đến, các nữ tu lại đi đến một nơi khác để tiếp tục thi hành sứ vụ”.
Phụ nữ Công giáo Hành động (CWC) dự định lên tiếng ở Rôma © Hội Phụ nữ Công giáo Hành động
Thất vọng vì thiếu phối cảnh cho phụ nữ trong Giáo hội tại Thượng Hội đồng, một liên minh gồm các nhóm ủng hộ cải cách tuyên bố biểu tình ở Rôma. Các lời thoại kịch nghệ phải có trong bối cảnh “các nữ giám mục”.
Bà Regina Franken, chủ tịch Hội Phụ nữ Công giáo Châu Âu Hành động nói với trang tin KNA của Đức: “Tôi không thấy Vatican có mong muốn nghiêm túc giải quyết vấn đề chức vụ phụ nữ trong Giáo hội.” Được thành lập năm 2019, Hội Phụ nữ Công giáo Hành động là mạng lưới toàn cầu gồm các tổ chức và phong trào Công giáo hoạt động có mục đích công nhận phẩm giá đầy đủ và bình đẳng của phụ nữ trong Giáo hội. Hội bao gồm Liên đoàn Phụ nữ Công giáo Thụy Sĩ (SKF).
Không có chỗ cho các nữ phó tế
Bà Franken tuyên bố: “Sự thất vọng giờ đây đã chuyển thành tức giận.” Động lực của các nhóm được thúc đẩy do thông tin gần đây của bộ Giáo lý Đức tin về Thượng Hội đồng ở Rôma, Hồng y bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin Víctor Manuel Fernández thông báo cho biết Bộ đang chuẩn bị một tài liệu về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội, ngài hứa hẹn có một “nghiên cứu sâu hơn” về những cách thức mà phụ nữ có thể hoạt động trong Giáo hội, một hướng đi đã được Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ ra vào tháng 5 năm 2024.
Đã thảo luận về khả năng hội đủ điều kiện nhận chức tư tế của nam giới
Bà Regina Franken mô tả cách tiếp cận này là “chiến thuật trì hoãn và là kỹ thuật thao túng”, phụ nữ không còn sẵn sàng chấp nhận những chiến lược này nữa. Bà nhắc lại, nghiên cứu thần học liên quan đến khả năng phụ nữ có đủ điều kiện đảm nhận các chức năng khác nhau trong giáo hội đã được tiến hành hơn 60 năm nay, với những kết quả đáng thất vọng. Nhưng bà bảo đảm tổ chức của bà sẵn sàng làm việc với các nhà lãnh đạo Giáo hội, vấn đề bây giờ là liệu sự hợp tác này có còn khả thi hay không.
Trang web của Hội đồng Phụ nữ Công giáo thông báo hai sự kiện công cộng được lên kế hoạch ở Rôma ngày 12 tháng 10: một cuộc tụ họp bên ngoài hội trường Thượng Hội đồng buổi tối để phát các tấm bưu thiếp có nội dung “bình đẳng” cho các thành viên và một vở kịch vào buổi chiều mang tên “Vaticanelle” trong đó các nhân vật được mô tả là “nữ giám mục” và “nữ Giáo hoàng” sẽ thảo luận về khả năng hội đủ điều kiện của nam giới cho chức tư tế.
Trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình CBS được phát ngày thứ ba 21 tháng 5, Đức Phanxicô bác bỏ việc phong chức phó tế nữ: “Phụ nữ luôn phục vụ rất tốt chức năng phó tế đúng không? Họ phục vụ rất tốt trong vai trò phụ nữ, không phải mục tử.” Một thông báo gây ngạc nhiên, chấm dứt những suy tư đã có từ nhiều năm nay.
Gần đây vấn đề này đã bị loại khỏi các chủ đề cần giải quyết của Thượng hội đồng về tính đồng nghị. Năm 2016 chức phó tế nữ đã được giao cho một ủy ban đặc biệt nhưng ủy ban này đã sớm giải thể, nhường chỗ cho một ủy ban nghiên cứu mới năm 2020, hiện nay ủy ban vẫn còn nhưng chưa hoàn thành công việc.
Bằng một câu nói trước các máy camera, Đức Phanxicô đã chấm dứt chủ đề. Bà Anne-Marie Pelletier, thần học gia và là thành viên của Ủy ban thở dài: “Tôi khó hiểu sự vội vàng này, tôi ngạc nhiên khi thấy ngài lên tiếng một cách gấp gác không cần thiết vì vấn đề này đã được tranh luận từ lâu.”
Linh mục Dòng Tên Étienne Grieu, khoa trưởng phân khoa Loyola Paris (trước đây là Trung tâm Sèvres) trả lời: “Thật là đáng tiếc khi vấn đề được giải quyết chỉ trong một câu, trong khi nó đáng được tranh luận, cân nhắc, phân định.” Theo linh mục, chức phó tế nữ mở ra khả năng khả năng phong chức linh mục cho phụ nữ; nhưng giáo hoàng chọn một kiểu ở giữa với các “nữ phó tế”, được hiểu là những phụ nữ phục vụ, ngay cả không nói rõ liệu họ có phải là thừa tác vụ được công nhận hay không, như chức đọc sách hay giúp lễ.
Bà Anne-Marie Pelletier giải thích: “Bằng cách từ chối chức phó tế nữ, Đức Phanxicô chỉ củng cố thêm sự bất cân xứng giữa nam và nữ trong Giáo hội, để phụ nữ ở một khoảng cách xa với linh mục.”
Vì thế thừa tác vụ thụ phong vẫn dành riêng cho nam giới theo ba thứ trật: hàng giám mục cho các giám mục; hàng linh mục cho linh mục; hàng phó tế cho phó tế. Linh mục Grieu nhấn mạnh: “Được chịu chức, phụ nữ có thể chú giải Lời Chúa trong phụng vụ. Chúng ta có thể nghe một giọng nữ mở đầu Tin Mừng cho chúng ta.”
Bà Anne-Marie Pelletier nhấn mạnh đến vị trí của “chức linh mục chịu phép rửa” lần đầu tiên kể từ Công đồng Vatican II. Với Đức Phanxicô, phụ nữ sẽ tiếp tục phục vụ như họ vẫn làm. Liệu điều này có cần đến việc công nhận một thừa tác vụ được thiết lập (nữ phó tế) bằng một phép lành đơn giản – trái ngược với việc truyền chức không? Đức Phanxicô không đề cập đến. Bà Pelletier hỏi: “Vì sao việc phục vụ Lời Chúa hoặc một số cử chỉ bí tích phụ nữ không được làm?”
Phản ứng trước những lời của giáo hoàng, bà Anne Soupa, thần học gia đồng sáng lập Ủy ban Phụ nữ cho biết: “Tôi cảm thấy bị xúc phạm, khi phủ nhận phụ nữ không có khả năng với chức thánh, đó là điều không thể chấp nhận về mặt trí tuệ.” Với nhà thần học tận tụy này, người đã đặt rất nhiều hy vọng vào Đức Phanxicô, những quyết định như vậy chỉ làm nổi bật khoảng cách với xã hội dân sự: bây giờ nước Pháp sẽ ra sao nếu không có các nữ dân biểu, quan tòa, cảnh sát, đó là chỉ nhắc đến các chức vụ tương đương.
Bị tổn thương với cuộc phỏng vấn trên đài CBS, bà ngạc nhiên khi thấy ngài đặt con số giới hạn cho phụ nữ được bầu ở Thượng hội đồng, bà tự hỏi “không biết trong các tranh cãi của Giáo triều, vấn đề phụ nữ có phải là một vấn đề lớn ở Vatican hay không”.
Cho đến cuối thời Cổ đại, vấn đề nữ phó tế vẫn chưa được giải quyết. Họ được công nhận bằng một phép lành đơn giản hay một phong chức? Theo Công đồng Chalceudonia (451), có cùng một truyền chức cho nữ phó tế cũng như cho nam phó tế.
Linh mục Étienne Grieu giải thích: “Vấn đề không phải là tái tạo lại những gì có thể đã tồn tại mà là tìm những gì Giáo hội ngày nay cần. Đây không phải chỉ là vấn đề của các chuyên gia. Chúng ta có thể dành một thượng hội đồng cho vấn đề này, vấn đề phụ nữ được công nhận như thừa tác viên được phong chức là rất quan trọng cho Giáo hội.”
Cuối cùng, nếu phụ nữ không thể làm phó tế, liệu có thể “giảm” chức phó tế nam thành thừa tác vụ đặt định ngang với nữ phó tế không? Tổng giám mục Jean-Paul Vesco của Algiers hỏi trong một chuyên mục của báo La Croix: “Không có sự phát triển đáng kể nào về vấn đề này cũng như những vấn đề khác có thể thực hiện được nếu không có một suy tư sâu sắc về bí tích truyền chức. Phải chăng mọi thứ trong đó đều vô hình, cố định mãi mãi chăng?”
Bực tức vì áp lực, giáo hoàng có vội vàng kết thúc cuộc tranh luận không? Dù một trích đoạn phỏng vấn không có sức mạnh thần học lớn thì cánh cửa hiện nay đã đóng lại trong một thời gian. Và vẫn cần một văn bản chính thức hơn.
Tại lễ khai mạc Phiên họp thứ nhì của Thượng Hội đồng ngày 2 tháng 10, giới truyền thông chú ý đến bài phát biểu của Hồng y Victor Fernández về khả năng phong chức phó tế cho phụ nữ.
Trọng tâm chú ý của dư luận là về chức phó tế nữ, nhưng trọng tâm của Thượng Hội đồng ở một hướng khác. Trong bài phát biểu, Hồng y Fernández nhận xét: “Có một câu hỏi về việc phụ nữ có thể đến với chức phó tế nữ không… Chúng ta biết lập trường công khai Đức Phanxicô, ngài không xem vấn đề này đã chín chắn.”
Hồng y nêu bật công việc của hai Ủy ban hiện có về chủ đề này và cho biết kết luận sẽ được đưa vào tài liệu cuối cùng. Hồng y lưu ý một số can thiệp “hiếm khi được lắng nghe” của Đức Phanxicô như Tông huấn Niềm vui Tin mừng, Tông huấn Querida Amazônia và Tông huấn Antiquum Ministerium.
Những Tông huấn này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chức thánh giáo dân, cảnh báo việc “giáo sĩ hóa phụ nữ” – một quan niệm cho rằng phụ nữ sẽ có địa vị và tham dự nhiều hơn vào Giáo hội khi họ được nhận vào Chức thánh. Như thế là xem chức linh mục thừa tác là “quyền lực và thống trị”, chứ không phải phục vụ theo tinh thần hướng đến sự thánh thiện của các chi thể của Chúa Kitô.
Hồng y Fernández lưu ý: “Vẫn còn cơ hội để nghiên cứu sâu hơn, nhưng trong tâm trí Đức Phanxicô còn có những chủ đề khác phải được đào sâu và giải quyết, nếu không chức phó tế sẽ là một hình thức an ủi cho một số phụ nữ, và các vấn đề về việc tham gia của phụ nữ trong Giáo hội sẽ bị bỏ qua.”
Trong buổi họp báo ngày 4 tháng 10, Giám mục Anthony Randazzo, thành viên Ủy ban Thông tin của Hội đồng Thượng hội đồng đã giải thích rõ : “Hiện nay, có một câu hỏi liên quan đến việc phong chức đã diễn ra liên tục trong nhiều năm, không chỉ với Thượng Hội đồng, Đức Phanxicô đã xin nghiên cứu vấn đề này nhiều lần và hiện tại có một nhóm nghiên cứu ngài thành lập để đưa vấn đề này ra khỏi cuộc thảo luận chung.”
Giám mục Randazzo giải thích, mục đích không phải để loại bỏ chủ đề khỏi trao đổi chung nhưng để nghiên cứu vấn đề này ở những nơi khác, nhưng không nên thực hiện với cái giá là phẩm giá của phụ nữ trong Giáo hội và trên thế giới: “Hiện tại, khi chúng ta nói về phụ nữ trong Giáo hội, chúng ta xem phụ nữ bị đối xử như công dân hạng hai, bị bỏ rơi trong Giáo hội và trên thế giới, điều này thật đáng xấu hổ, tất cả chỉ vì một nhóm thiểu số nhỏ với tiếng nói mạnh mẽ của phương Tây bị ám ảnh phải thúc đẩy vấn đề này.”
Không chỉ các phó tế nữ mà còn nhiều chủ đề gây tranh cãi khác như thảo luận các vấn đề LGBTQ cũng bị loại khỏi chương trình nghị sự thảo luận chính của cuộc họp.
Ngay từ năm 2023, trong Phiên họp đầu tiên của Thượng hội đồng, Đức Phanxicô đã xin các nhà báo chuyển hướng tập trung của họ khỏi các vấn đề gây tranh cãi, thay vào đó nhấn mạnh nhiệm vụ chính của Thượng Hội đồng là lắng nghe tiếng thúc giục của Chúa Thánh Thần.
Trong Thượng Hội đồng về Gia đình, sự hiệp thông được trao cho những người đã ly hôn, và Thượng Hội đồng bắt đầu với tinh thần này. Trong Thượng Hội đồng Amazon, dư luận, áp lực cho rằng các ông đã lập gia đình viri probati sẽ được phong chức và chúng ta làm việc dưới áp lực này. Bây giờ có những suy đoán: “Thượng Hội đồng sẽ làm gì?, có lẽ nên phong chức cho phụ nữ… Tôi không biết, đó là những điều họ nói bên ngoài.”
Đức Phanxicô thúc giục các nhà báo làm tốt và công bằng công việc của họ, để Giáo hội và những người thiện chí có thể hiểu trong Giáo hội, việc lắng nghe là: “Xin anh chị em truyền đạt điều này: nó rất quan trọng.”
Lắng nghe, Lòng thương xót và Đón nhận Chúa Thánh Thần
Trong bài phát biểu khai mạc Thượng Hội đồng, Đức Phanxicô đã xin các thành viên tham dự suy nghĩ về “cách trở thành một Giáo hội theo tinh thần công đồng, truyền giáo và thương xót”. Trước đó trong buổi canh thức sám hối ngày 1 tháng 10, ngài giải thích chúng ta không thể là “Giáo hội theo tinh thần công đồng nếu không có hòa giải”. Tội lỗi luôn làm tổn thương các mối quan hệ với Chúa và với người anh em: “Chỉ bằng cách chữa lành những mối quan hệ tan vỡ này, chúng ta mới có thể là Giáo hội theo tinh thần công đồng.”
Buổi canh thức bao gồm chứng từ của các nạn nhân chiến tranh, bất công xã hội và các lạm dụng của Giáo hội. Thay mặt giáo dân, bảy Hồng y đã xin được tha thứ cho những tội lỗi Giáo hội đã phạm phải: “Tôi xấu hổ xin được tha thứ vì tất cả những lần chúng tôi không công nhận anh chị em khi không xem các lời khuyên trong Phúc Âm như nguồn sống mới mẻ vĩnh cửu, nhồi nhét và biến những lời khuyên này thành đống đá dùng để ném vào người khác.”
Ngài cũng xin lỗi về những trường hợp dùng “những biện minh giáo lý để bảo vệ những hành vi vô nhân đạo hoặc khi Giáo hội không làm tròn vai trò là chứng nhân đáng tin cậy, không có được sự hội nhập văn hóa hợp pháp về chân lý của Chúa Giêsu Kitô,” Đấng gặp gỡ tất cả những ai trên con đường đi tìm Ngài.
Hồng y đã thêm tội “hành động thiếu sót đã cản trở và tiếp tục cản trở sự hiệp nhất đức tin kitô giáo và tình huynh đệ đích thực của toàn thể nhân loại”.
Ngày hôm sau, trong Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Thượng hội đồng không phải là một phiên họp Quốc hội nhưng là nơi lắng nghe trong sự hiệp thông.”
Để có được điều này, Thượng Hội đồng phải tiếp nhận tất cả các đóng góp được thu thập trong ba năm của tiến trình “với sự tôn trọng và chú ý, trong lời cầu nguyện… để cùng nhau phân định tiếng nói của Chúa đang nói với Giáo hội”.
Ngài giải thích: “Những ai kiêu ngạo tuyên bố họ độc quyền nghe tiếng gọi của Chúa, thì họ không thể nghe được. Chúng ta không có giải pháp cho những vấn đề chúng ta phải đối diện, nhưng Chúa thì có. Không có vấn đề đa số và thiểu số… điều quan trọng là hòa hợp, một hòa hợp chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban được. Ngài là hòa hợp và có khả năng tạo ra tiếng nói chung giữa các tiếng nói khác nhau. chúng ta đã thấy Ngài làm việc trong Lễ Hiện xuống.”
Vì thế chúng ta được yêu cầu cùng nhau làm việc theo bản giao hưởng, trong một sáng tác hợp nhất để tất cả chúng ta phục vụ trong lòng thương xót Chúa, phù hợp với các chức vụ, các đặc sủng khác nhau mà Giám mục có nhiệm vụ công nhận và thúc đẩy.
Tóm lại, Thượng Hội đồng là quá trình “cùng nhau hành trình, trong đó Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ đọc được các dấu chỉ của thời đại, liên tục đổi mới và hoàn thiện tính bí tích của mình”.
Có 10 nhóm nghiên cứu thần học trong Thượng Hội đồng, họ tập trung vào các chủ đề cụ thể như chăm sóc mục vụ cho giáo dân trong các hôn nhân đa thê ở Châu Phi, các thành viên được mời tham gia thảo luận về chủ đề này. Thượng hội đồng sẽ kết thúc ngày 27 tháng 10.
Pedro Gabriel, giáo dân, nhà văn, bác sĩ công giáo Bồ Đào Nha, chuyên gia về ung thư, hiện đang làm việc tại một bệnh viện công của Bồ Đào Nha.
Phụ nữ, tình huynh đệ, sự khác biệt: phỏng vấn Tổng Giám mục Jean-Paul Vesco, giáo phận Algiers
Tổng Giám mục người Pháp-Alger Jean-Paul Vesco, 61 tuổi, giáo phận Alger, ngài đã suy nghĩ rất nhiều về khái niệm tình huynh đệ và tính khác biệt, một trong những thành quả qua kinh nghiệm của ngài ở Algeria và việc ngài thuộc dòng Đa Minh đã soi sáng suy nghĩ của ngài về phụ nữ.
Giáo hội Công giáo có vấn đề với phụ nữ không?
Giám mục Jean-Paul Vesco. Câu hỏi của bà hơi khiêu khích, nhưng đúng vậy, trong nhiều thế kỷ, Giáo hội có vấn đề với phụ nữ, giống như hai tôn giáo đơn thần khác (hồi giáo và do thái giáo) và có lẽ là hầu hết các tôn giáo. Đây không phải là lời bào chữa, nó sẽ rất tốt và chính đáng nếu nó đã khác đi ngay từ đầu! Với một vài trường hợp ngoại lệ đáng mừng gần đây, ngoài ra phụ nữ gần như vắng mặt trong việc quản trị và giảng lễ, nhưng họ lại có mặt ở mọi nơi khác. Họ là xương thịt của các giáo xứ, là linh hồn của các giáo hội tại gia, là chuyên gia dạy giáo lý.
Trong cách chúng ta giới thiệu, theo định nghĩa Giáo hội là vượt thời gian, một Giáo hội phụ hệ nằm ngoài dòng thời gian, ngoài thời trang, ngoài sự đào thải của thời gian. Tuy nhiên, nếu Giáo hội không có sự tham dự mạnh mẽ hơn của phụ nữ vào các vị trí trách nhiệm và tầm nhìn, Giáo hội chúng ta có nguy cơ là một Giáo hội lỗi thời, không phải phi thời gian nhưng lỗi thời, lỗi thời trong tổ chức của mình. Giáo hội công giáo là Giáo hội phổ quát, nếu Giáo hội không thuộc về thế giới thì Giáo hội đã được khắc ghi rõ ràng trên thế giới và không thể dựa vào logic tự quy chiếu trong mối quan hệ với thế giới. Câu hỏi về trách nhiệm của giáo dân, từ đó là câu hỏi trách nhiệm của phụ nữ trong các cuộc tham vấn trước Thượng Hội đồng đã rõ ràng. Cuộc chiến giữa các cậu bé giúp lễ quanh bàn thờ như đã thấy ở một số nơi, không còn xảy ra nữa. Trong các thánh bộ của Vatican, nơi phụ nữ bắt đầu đông hơn trước, họ đảm nhận các trách nhiệm cao hơn, những nơi đó bầu khí đã hoàn toàn khác. Chỉ cần một vài phụ nữ là giáo triều không còn là cộng đồng giáo sĩ vốn rất dễ bị kỳ thị.
Người ta thường nói bây giờ không thể triệu tập một công đồng ở cấp độ Giáo hội hoàn vũ do khó khăn vật chất khi tập hợp hơn 5.000 giám mục. Nhưng bây giờ không còn là vấn đề nữa. Hình ảnh Thượng Hội đồng ở Hội trường Phaolô VI với các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân nam nữ ngồi quanh các bàn đồng cấp cho thấy thời đã thay đổi, nhận thức Thượng Hội đồng không thể chỉ do các giám mục quyết định. Một cách nào đó, Thượng Hội đồng về tính đồng nghị rất tự nhiên đã làm cho triển vọng về một Công đồng Vatican III trở nên lỗi thời! Ngày nay ai có thể tưởng tượng tương lai của Giáo hội chỉ được Hội đồng Giám mục chỉ định?
Vị trí của phụ nữ trong việc quản lý giáo phận Algiers là gì?
Trong giáo phận của chúng tôi, tôi muốn có một nhóm nhỏ phụ nữ bên cạnh các hội đồng khác nhau, bao gồm các nhân vật lãnh đạo giáo phận: tổng đại diện, tổng thư ký, thủ quỹ, phó thủ quỹ, chịu trách nhiệm về diakonia và tôi, tạo thành một đội gồm bốn phụ nữ và hai nam giới. Hầu hết các quyết định, chúng tôi đều cùng nhau suy nghĩ. Nói chung, tôi sống trong môi trường chủ yếu là nữ và đó là niềm vui của tôi mỗi ngày! Nhưng điều này không có nghĩa là không có va chạm. Một ngày nọ, một phụ nữ nói với tôi: “Cuối cùng thì việc này tùy thuộc vào cha!” Đó là sự thật và đó cũng là vấn đề. Trong Giáo hội công giáo chúng ta, các giám mục đưa ra quyết định và thực hiện chúng. Mô hình chắc chắn có thể phát triển. Về mặt này, các mô hình quản trị đời sống tu trì có thể cho cảm hứng: nhiều quyết định được đưa ra trong các cuộc họp tổng tu nghị hoặc trong Hội đồng đã được bầu chọn, và những hạn chế về quyền ra quyết định của bề trên không làm mất đi quyền lực biểu tượng của họ. Theo tôi, có vẻ như trong hầu hết các trường hợp, điều này nói lên lòng tin tưởng nảy sinh từ sự hiểu biết nhau và theo đuổi một dự án chung, có nghĩa phần lớn các quyết định đều đã được đồng thuận rộng rãi khi nói đến những vấn đề chưa nhất trí. Dù sao, ý kiến của mỗi người và mọi người đều được lắng nghe và cân nhắc theo cách này hay cách khác trước các quyết định có ảnh hưởng đến họ. Tôi nghĩ đó là một kinh nghiệm mạnh mẽ cho tất cả mọi người, kể cả tôi!
Đằng sau vấn đề của phụ nữ là vấn đề chỗ đứng của giáo dân…
Tất nhiên! Trong giai đoạn cấp giáo phận, tại giáo phận Algiers, mong muốn của giáo dân trong nước là được tham gia vào đời sống của Giáo hội. Họ xem Giáo hội là Giáo hội của họ một cách đúng đắn vì đó là Giáo hội Algeria. Tuy nhiên, họ cảm thấy bị gạt ra ngoài lề để ủng hộ những thành viên thường trực như chúng tôi, cơ bản là tu sĩ và là người nước ngoài, những người kể từ khi đất nước độc lập đã chiếm đa số trong sinh hoạt Giáo hội. Trên thực tế, họ gần như vắng mặt trong các cơ quan ra quyết định. Chúng tôi đã nghe thấy lời kêu gọi này và đã nghiêm túc xem xét trong các ban kinh tế và các ban mục vụ khác của Hội đồng Giám mục. Trong Hội đồng Giám mục có ba linh mục, một nữ tu, một giáo sĩ và bốn giáo dân người Algeria trong đó có hai phụ nữ. Và đã làm bầu khí thay đổi hoàn toàn. Một lần nữa, chúng tôi thoát ra tình cảnh chỉ có chúng tôi với nhau. Nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng, các chuyện cũ phải cất giữ trong tủ. Chúng tôi phải học cách hiểu bản thân và đo lường vực thẳm của sự khó hiểu, đôi khi ngăn cách mà chúng tôi không nhận thức vì không có nơi để trình bày. Giáo hội phải thành Giáo hội ít giáo sĩ hơn, đây là một thách thức với Giáo hội hoàn vũ ở mọi cấp độ và mọi nơi. Vấn đề này không phải là không có yêu sách về quyền lực, với tất cả những gì có thể làm khó chịu. Nhưng trách móc người khác vì họ muốn nắm quyền thường có nghĩa là mình muốn thực hiện quyền đó nhưng lại không ý thức được điều này. Đó là lý do vì sao tôi cảm thấy rất khó nghe khi các yêu cầu của phụ nữ trong Giáo hội bị bác bỏ với câu hỏi: “Tại sao họ lại muốn quyền lực?”
Trong một số xã hội, hoạt động của Giáo hội bị căng thẳng vì những vấn đề này với lý tưởng dân chủ!
Nguyên tắc tổ chức thứ bậc của Giáo hội bắt nguồn từ chế độ quân chủ… việc kế thừa cha truyền con nối phải được bảo tồn! Chính tổ chức của con người đã bảo đảm cho sự thống nhất gần như ngay từ đầu và nó đã chứng tỏ được mình. Trong mọi trường hợp, chúng ta là như vậy. Điều này không loại trừ các hoạt động và cơ quan dân chủ hơn bên trong, giống như các chế độ quân chủ hiện đại. Anh chị em của chúng ta trong các Giáo hội tin lành về bản chất có văn hóa dân chủ này, nghĩa là có tính đồng nghị, chắc chắn chúng ta sẽ học được rất nhiều từ họ trong phong trào lớn lao về tính đồng nghị theo kiểu công giáo do Đức Phanxicô khởi xướng. Động lực đồng nghị sẽ không dừng lại, nó sẽ mở rộng và lan rộng đến mọi cấp độ của Giáo hội mà không đặt câu hỏi về cơ cấu bí tích của nó. Bất kỳ bước lùi nào cũng sẽ thành lỗi thời hoàn toàn vì Giáo hội là công việc của tất cả những người đã được rửa tội. Niềm tin sâu sắc của tôi là trách nhiệm trong Giáo hội, trong đó các vấn đề về quyền lực bị bóp méo, trách nhiệm sẽ gia tăng cùng lúc với việc nó được chia sẻ. Chia sẻ trách nhiệm có nghĩa là tăng trách nhiệm này và Giáo hội chúng ta đang gặp tình trạng thiếu sót lớn trong việc đảm nhận trách nhiệm.
Cha nghĩ gì về chức phó tế nữ?
Cá nhân tôi, tôi hy vọng được như vậy! Theo tôi, dường như không thể lấy đi quyền của các tín hữu, và do đó cũng là của cả tôi, trong việc nữ giới tiếp nhận Lời Chúa. Không có một lý lẽ nào biện minh thuyết phục được tôi. Vì vậy, đúng, tôi muốn vấn đề chức phó tế nữ sẽ được đi tới hoặc ít nhất một bước nữa được thực hiện theo hướng trao quyền cho phụ nữ và những giáo dân được đào tạo để chú giải Lời Chúa trong thánh lễ ngày chủ nhật. Khác với thừa tác vụ linh mục, chức phó tế nữ có nguồn gốc từ truyền thống của Giáo hội và tôi thấy khó khăn khi gặp phản đối. Vấn đề mục vụ này cũng như vấn đề quản trị, chân trời sẽ mở rộng ra khi chúng ta tiến bước. Những gì ngày hôm qua tưởng như không thể, ngày mai sẽ thành dễ dàng. Ngày nay sự hiện diện độc quyền nam giới trong đoàn rước khi tiến lên bàn thờ là chuyện hiển nhiên. Nhưng liệu một ngày nào đó nó sẽ thành lỗi thời không? Chỉ riêng việc đặt câu hỏi đã mang lại sự thay đổi trong cách nhìn…
Có phải vấn đề xuất phát từ thực tế, ơn gọi của phụ nữ thường không được cho là tự thân nhưng liên quan đến ơn gọi của nam giới không?
Đúng vậy, theo truyền thống, ơn gọi của phụ nữ trong Giáo hội được cho là ơn gọi bổ sung. Điều này không còn đủ, ơn gọi này phải được nghĩ theo một dạng khác. Ơn gọi nữ giới tự nó có giá trị riêng của nó. Chiều kích khác biệt này có trong đời sống hôn nhân. Các nhiệm vụ được chia sẻ, cha mẹ đều làm việc, đều chăm sóc con cái… mỗi người hoàn thành công việc của mình theo giới tính, theo tính cách… Nhiệm vụ giống nhau nhưng cách thực hiện khác nhau và đúng cho tất cả mọi người. Làm sao chúng ta có thể nghĩ không có tiếng vang của sự tiến hóa xã hội trong Giáo hội theo cách thực thi các đặc sủng và mục vụ; truyền thống không phải là một xác chết nhưng là một thân thể sống, vừa bất động vừa luôn chuyển động.
Câu hỏi về sự khác biệt này là câu hỏi về tình huynh đệ. Thật vậy, tình huynh đệ vừa đòi hỏi, vừa làm cho sự khác biệt trở nên khả thi. Điều này không hoàn toàn đúng với tình phụ tử thiêng liêng. Tôi tin vào tình phụ tử thiêng liêng, là tu sĩ được Dòng Đa Minh đào tạo, tôi trải nghiệm được điều này. Nhưng tình phụ tử thiêng liêng này tôi nhận được từ người anh em của tôi, của một bản ngã khác tiến bộ hơn tôi rất nhiều trong đời sống tu trì cũng như trong sự thánh thiện. Nếu ngài không chết trước đó, tôi đã có thể là bề trên Tỉnh Dòng của ngài. Tôi gặp khó khăn với tình phụ tử thiêng liêng bị thể chế hóa như chúng ta có kinh nghiệm trong Giáo hội. Các vai trò này không bao giờ đảo ngược, giống như vai trò làm cha trong đời thực với các mối quan hệ tiếp tục phát triển giữa cha mẹ và con cái trong suốt cuộc đời. Sẽ có ngày con cái chăm sóc cha mẹ. Việc gia trưởng giữ quyền của mình cho đến chết lại là một chuyện khác. Theo nghĩa này, với tôi, tình phụ tử thiêng liêng bị thể chế hóa dường như giống mô hình gia trưởng hơn là tình cha cha con. Tình huynh đệ, giống như anh chị em thực sự, làm cho mọi hình thức quan hệ trở nên khả thi. Trong một thời gian, người chị lớn có thể đóng vai người mẹ cho em trai mình. Sẽ luôn còn lại một điều gì đó, nhưng mọi người sẽ trải nghiệm sự khác biệt cơ bản mà họ nhận được khi họ là con cùng một cha một mẹ. Cuộc sống sẽ làm phát triển mối quan hệ và có thể có khi làm đảo ngược mối quan hệ này.
Tôi tin sâu sắc Giáo hội chúng ta nên xem mình như một cộng đồng gồm các anh chị em. Đó là lời chứng cao nhất Giáo hội có thể đưa ra cho thế giới. Hơn cả tranh giành quyền lực, sự tái cân bằng cần thiết giữa giáo sĩ và giáo dân, giữa nam và nữ là vấn đề của sự khác biệt và tình huynh đệ. Nếu tôi thích được gọi là sư huynh hơn là cha hay Đức ông thì không phải vì khiêm tốn hay làm bộ làm tịch, nhưng chính vì khác biệt ở đây không phải là một lựa chọn, nhưng là điều hiển nhiên: Tôi cần các anh, các chị của tôi ở giáo phận của tôi, tôi cần anh em Đa Minh của tôi để tôi là của họ.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 21 tháng 5 trên kênh CBS, Đức Phanxicô xác nhận việc loại trừ chức phó tế nữ để suy ngẫm về tính đồng nghị của Giáo hội. Chắc chắn ngài có nhiều lý do cho quyết định này. Có thể xem đây là xác tín sâu xa của ngài được hun đúc trong lời cầu nguyện, thế là đủ. Tuy vậy chúng ta có thể xem xét ít nhất ba lý do.
Lý do đầu tiên: ngài mang trách nhiệm người bảo vệ cuối cùng cho sự hợp nhất Giáo hội. Ngài định giới hạn cho “tính co giãn” này trong sự đa dạng to lớn về địa lý, lịch sử, văn hóa và ý thức hệ. Việc tiếp nhận tài liệu Fiducia supplicans về chúc phúc từ nay cho thấy thật cực kỳ khó khăn để có tiếng nói đồng nhất khả dĩ nghe được trên khắp các châu lục, vì nhiều xã hội và mối quan hệ giữa Giáo hội và một số xã hội này rất khác nhau.
Khi đi mới thấy đường đi
Tính chất đặc biệt của động lực đồng nghị trong Giáo hội công giáo là “Cùng với Phêrô và dưới quyền Phêrô, cum Petro sub Petro”. Giáo hoàng vừa là thành viên của Thượng hội đồng, vừa có vị trí quyền lực với Thượng hội đồng. Đó là lợi thế mà trong mỗi Thượng hội đồng, ý của giáo hoàng thường hướng Giáo hội đi về một hướng đã định. Nhưng trên con đường này, theo ngữ học là cùng đi chung nhưng theo một tiến trình thường chậm nhất. Việc lượng định tốc độ này là trách nhiệm riêng của giáo hoàng.
Về vấn đề nóng bỏng vị trí của phụ nữ trong đời sống Giáo hội, đây là cả một cách biệt lớn so với vị trí của họ có được trong các xã hội trên thế giới, Đức Phanxicô đã làm lay chuyển các con đường khó tưởng tượng có thể lay chuyển. Khi đi mới thấy đường đi, những gì ngày hôm qua khó hình dung như việc bổ nhiệm phụ nữ ở chức vụ có trách nhiệm cao trong Giáo triều, hôm nay đây là chuyện tự nhiên.
Vấn đề về bí tích truyền chức
Lý do thứ hai: tìm vấn đề ở trọng tâm bí tích truyền chức. Đây là cột sống của các cơ quan giáo hội. Cột sống này giới hạn sự tăng trưởng hay giữ cơ thể đứng vững trong tính đặc trưng của nó? Không khó để tìm ra những vết nứt sâu xa chung quanh câu trả lời cho câu hỏi này. Chúng ta tất cả đều có tham vọng thay đổi cơ thể mình, làm ốm đi, có bắp thịt hơn, nhưng chúng ta biết chúng ta không thể thay đổi cơ thể mà không thay đổi căn tính. Mở ra cho phụ nữ bí tích truyền chức qua việc truyền chức phó tế có cho thấy đây là tiến trình lành mạnh trong đoàn thể giáo hội hay cho thấy sự thay đổi thân xác không thể thực hiện được? Giáo hoàng có vẻ quyết định cho câu trả lời thứ hai. Có một điều chắc chắn, không có sự phát triển đáng kể nào về vấn đề này cũng như những vấn đề khác có thể thực hiện được nếu không có một suy tư sâu sắc về bí tích Truyền Chức. Có phải tất cả mọi thứ trong đó đều vô hình, cố định mãi mãi không? Cột sống đồng hành cùng sự phát triển của cơ thể con người. Nếu nó cản trở sự phát triển, nó sẽ làm cho cơ thể thành tàn tật.
Rủi ro của chủ nghĩa giáo sĩ trị
Lý do thứ ba có thể tìm thấy trong quyết tâm của giáo hoàng để chống với những rủi ro lệch lạc cố hữu của cái gọi là chủ nghĩa giáo quyền, những lệch lạc giữa nam tính với nhau thì không có gì là xa lạ. Thành phần thượng hội đồng, phương thức hoạt động và diễn tả của nó làm vô hiệu hóa mọi ý tưởng của một Công đồng Vatican III, theo mẫu của Vatican II cho những định hướng lớn lao của Giáo hội trong nhiều thập kỷ đã được thực hiện trong nhiều năm. Cuộc (tái) cách mạng không phải không có những hậu quả sâu đậm với vai trò của giáo dân, và do đó với phụ nữ trong Giáo hội.
Vì tất cả những điều đó, nếu ngày nay chức phó tế nữ bị ngăn cản, thì việc phân chia sứ vụ giữa giáo sĩ và không giáo sĩ không phải là bất di bất dịch. Trong câu trả lời cho nhà báo Mỹ, Đức Phanxicô nói “phụ nữ luôn có chức năng của các nữ phó tế mà không phải là phó tế!” Thực vậy, phụ nữ không cần phải chờ có bí tích phó tế để phục vụ, để đảm nhận những điều thiết yếu cho các công việc phục vụ lớn nhỏ trong Giáo hội!
Mở ra với việc phục vụ Lời
Tuy nhiên đây là việc phục vụ mà họ bị từ chối mỗi ngày, đó là phục vụ Lời Chúa, trong những gì vừa cao quý nhất, vừa phổ biến nhất: Bí tích Thánh Thể. Số phụ nữ được đào tạo giống hoặc còn cao hơn các giáo sĩ. Chúng ta biết cách tốt nhất để duy trì mối liên kết mang tính biểu tượng giữa bàn của Lời Chúa và bàn của Bí tích Thánh Thể khi chủ tế không giảng bài giảng.
Khi đó làm sao biện minh cho việc chỉ có sự nhạy cảm nam tính được thể hiện trong những chú giải lời Chúa về Bí tích Thánh Thể không? Làm sao biện minh chúng ta không hiểu Lời Chúa qua tiếng nói của phụ nữ? Tôi hy vọng rằng cuối cùng cũng đến lúc mở Lời Chúa ra cho các giáo dân được đào tạo, kể cả phụ nữ.
Bà Nathalie Trouiller, tác giả, cựu giám đốc truyền thông của giáo phận Lyon / Flavien Edenne – La Croix
Xin bà cho biết về bà và bà khám phá chủ đề bạo lực tình dục trong Giáo hội như thế nào?
Bà Natalia Trouiller: Tôi đã lập gia đình, là mẹ của ba đứa con, đó là công việc chính của tôi (Cười). Tôi là nhà báo của báo công giáo và tôi cũng là tác giả. Năm 2013, tôi được yêu cầu phụ trách truyền thông cho giáo phận Lyon và tôi đã làm việc hai năm rất tốt đẹp ở đây. Năm 2015, tôi bị bệnh và dần dần nghỉ việc. Năm sau, vấn đề bạo lực tình dục nổi lên ở giáo phận với các vụ lạm dụng ấu dâm của linh mục Preynat.
Tôi bị sốc nhưng chưa lập tức dự vào cuộc chiến. Thậm chí tôi còn bảo vệ Hồng y Barbarin, tôi thấy thật bất công khi ngài là biểu tượng của cái ác tuyệt đối, thậm chí còn vượt xa trường hợp của linh mục ấu dâm Bernard Preynat. Nhưng Báo cáo Ciase năm 2021 như một cú sét đánh từ trên cao. Khi đó tôi hiểu chúng tôi phải xắn tay áo. Trên Twitter, tôi bắt đầu nói về nỗi đau của các nạn nhân và dần dần tôi thu thập chứng từ của họ.
Hiện nay bà làm công việc gì với các nạn nhân bạo lực tình dục và thiêng liêng trong Giáo hội công giáo?
Tôi nhanh chóng hiểu, chỉ nghe thôi chưa đủ. Các nạn nhân không chỉ làm chứng về bạo lực mà còn về việc Giáo hội thiếu phản ứng thích đáng. Thật đáng sợ, vì nếu việc chạm trán với kẻ săn mồi có thể xảy ra ở bất cứ đâu trong Giáo hội, thì nạn nhân sẽ phải chịu thêm một loạt hình phạt nữa. Công lý theo giáo luật quan tâm đến sự cứu rỗi của linh mục hơn là của nạn nhân, các nạn nhân thường bị bỏ mặc trong sự thiếu hiểu biết và đôi khi còn bị loại trừ khỏi cộng đồng.
Công việc của tôi trước hết là vì tình bạn: tôi duy trì liên lạc, tôi nhận được tin tức dù nguồn lực dường như đã cạn kiệt. Sự hỗ trợ này là cần thiết để phá vỡ sự cô đơn của họ. Sau đó, tôi cố gắng đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng người. Tôi giúp họ định hướng trong các ngõ ngách của giáo luật, tòa án, luật sư, tâm lý gia… Cùng với đội ngũ giáo dân giúp, tôi cố gắng đưa ra các giải pháp phù hợp.
Kể từ khi báo cáo Sauvé được công bố năm 2021, bà thấy Giáo hội đã tiến bộ như thế nào?
Việc công bố báo cáo Sauvé là hết sức cần thiết để chúng ta hiểu lạm dụng trong Giáo hội là một hiện tượng mang tính hệ thống ở một quy mô rộng lớn. Nhưng ngày nay tôi thấy vấn đề ở chỗ, nhiều người dựa vào tầm nhìn hiệu quả của Báo cáo này, như thể vì nó đã diễn ra nên mọi thứ đang diễn ra trong giáo phận là tốt, không còn “lạm dụng nào” nữa. Nhưng lạm dụng luôn luôn có. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là chúng ta áp dụng quy trình nào để khi có lạm dụng, các vụ này sẽ được xử lý một cách chuyên nghiệp ngay lập tức để hành vi này không tiếp tục tác hại trên người khác và kẻ lạm dụng sẽ bị vô hiệu hóa.
Cụ thể, trong những năm gần đây, sau các vụ lạm dụng đã được biết, nhiều linh mục bị trừng phạt không bị sa thải khỏi hàng giáo sĩ, lại được đưa về những nơi họ có thể lạm dụng tiếp trên các nạn nhân khác. Làm thế nào để hành động?
Tôi không có tất cả các câu trả lời, nhưng tôi thấy có một ảo tưởng nguy hiểm chúng ta cương quyết phải đấu tranh: Tôi thường nghe tốt hơn nên để các linh mục lạm dụng tiếp tục công việc và Giáo hội giám sát. Nhưng hoàn toàn sai. Giáo hội không có phương tiện để giám sát kẻ xâm lược cũng như không chống lại kẻ thao túng. Các giám mục và linh mục không phải là cai ngục, họ không được đào tạo để làm việc này. Đó là trách nhiệm họ không thể gánh vác.
Thông thường, các linh mục này được đặt vào những vị trí ít bị lộ diện hơn một chút, ở đó, cộng đồng không biết, họ không được phép gặp phụ nữ hoặc trẻ em, cũng như không được hỗ trợ, nhưng cuối cùng điều này lại biến thành một vụ tái phạm. Giáo hội phải ý thức Giáo hội không có phương tiện cũng như kỹ năng để kiểm soát kẻ gây hấn hoặc kẻ thao túng. Nếu muốn các biện pháp trừng phạt có hiệu quả tối thiểu, Giáo hội không thể thoát khỏi cuộc tranh luận về việc công bố các hành động này. Sự minh bạch là đồng minh của việc tôn trọng các biện pháp trừng phạt do Giáo hội áp đặt và bảo vệ tín hữu.
Tương tự như vậy, trong những tháng gần đây, tin tức tiết lộ một số linh mục lạm dụng đã được giám mục bổ nhiệm bất chấp sự phản đối của hội đồng chủng viện. Đây có phải là một vấn đề phổ biến?
Tất nhiên. Chúng ta có các giám mục, và tôi hiểu họ, họ ở trong các giáo phận không thể đứng vững theo nghĩa đen của thuật ngữ này. Quá nhiều giáo họ, quá nhiều việc phải làm. Họ bị áp lực rất lớn để có linh mục. Vì vậy, họ thỏa hiệp với các linh mục này, đây là một vấn đề rất lớn. Thay vì chạy theo con số, tôi muốn chúng ta bắt đầu bằng một suy tư thần học về sa mạc mà Giáo hội đang trải qua.
Bà thấy có những tiến bộ nào trong cuộc chiến chống bạo lực tình dục trong Giáo hội không?
Tôi thấy có hai tiến bộ chính: việc thành lập tòa án hình sự giáo luật quốc gia (TPCN) và các Ủy ban bồi thường (CRR). Tòa án hình sự là một bước tiến quan trọng, giúp cho công việc của các giáo phận, một điều hoàn toàn cần thiết, họ được đào tạo để lo các vụ án và khi họ xét xử, họ làm tốt, nhưng vì thiếu phương tiện nên họ làm việc chậm.
Về Ủy ban bồi thường, họ làm việc rất tốt khi làm việc tự nguyện, khi không tự nguyện thì đó là một con đường gay go. Inirr – cơ quan bồi thường cho các nạn nhân vị thành niên của các linh mục giáo phận – đã thành công tốt. Họ đưa ra những quy trình thậm chí chưa có ở nơi nào khác, họ đặt nạn nhân vào trọng tâm. Tôi thán phục công việc của họ. Và nếu các Ủy ban khác làm theo cách làm của họ thì thật tốt đẹp.
Còn cách Giáo hội xử lý các trường hợp bạo lực tình dục và thiêng liêng với người lớn thì như thế nào?
Trong Giáo hội, có quan điểm cho rằng lạm dụng người lớn không thực sự là lạm dụng vì về cơ bản, người lớn có phương tiện để nói lên sự không đồng ý của họ, không giống như trẻ em. Điều này đúng, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua các hình thức chế ngự tinh thần có hệ thống trước mỗi tấn công tình dục. Bạo lực tình dục thường là mắt xích cuối cùng trong chuỗi áp đặt quyền lực trên người khác. Một ý tưởng đã định sẵn: hậu quả của tấn công trên người lớn sẽ ít nghiêm trọng hơn. Nhưng đặt câu hỏi như vậy là bắt đầu từ việc nạn nhân cố gắng đánh giá tác hại của họ. Bây giờ chúng ta phải bắt đầu từ Chúa.
Nói chung, việc dùng Chúa để thao túng sự mật thiết thiêng liêng nhất của con người, dù họ là người lớn hay trẻ em, có nghiêm trọng không?
Câu trả lời của tôi là có, nó rất nghiêm trọng. Và hậu quả sẽ khác, dù người lớn nhưng khi chúng ta đặt niềm tin vào người của Chúa thì chúng ta cũng như trẻ con cần đến người mẹ. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng, chúng ta đầu hàng và chúng ta từ bỏ phần thiêng liêng nhất của chính mình. Và phần thiêng liêng nhất này bị ô uế, bị chà đạp. Như thế dù trẻ em hay người lớn, chuyện này thật kinh tởm. Sẽ có những hậu quả vô cùng tàn khốc.
Theo bà, vấn đề chính mà Giáo hội phải tiến tới để trở nên đáng tin cậy trong việc điều trị và ngăn ngừa bạo lực tình dục là gì?
Giáo hội phải chuyển từ phản ứng sang chủ động. Chúng ta phải ngừng loại phản ứng đơn giản trước các vụ bê bối và công bố những thông cáo báo chí như: “Chúng tôi thất vọng khi biết linh mục…”. Hai tháng sau, chúng ta biết các cấp cao đã biết việc này, họ chờ vụ bê bối nổ ra trên báo chí để lên án.
Ngay khi một nạn nhân tiềm năng xuất hiện hoặc được biết đến, chúng ta nên tiến hành kêu gọi nhân chứng nhưng phải tôn trọng quy luật suy đoán vô tội. Điều quan trọng là phải bảo đảm hỗ trợ cụ thể cho các nạn nhân: tiếp xúc với các giám mục, thanh toán chi phí chăm sóc, chi phí pháp lý. Chính nhờ hành động chủ động và minh bạch mà Giáo hội mới có thể lấy lại được uy tín trong cuộc chiến chống lạm dụng.
Một năm sau chiến tranh, xung đột ngày càng lan rộng, cha Ibrahim Faltas, Đại diện Dòng Phanxicô tại Thánh Địa viết trên nhật báo Al-Quds của Palestine, số ra ngày 07/10: “Mất hy vọng là rất nguy hiểm”, “Tất cả các nhà lãnh đạo và những dân tộc yêu chuộng hòa bình phải đoàn kết và hành động trước khi sợi dây hy vọng mong manh này bị đứt”.
Mô tả tình hình thực tế, cha Ibrahim Faltas viết: “Mỗi bình minh của ngày mới trong năm nay đều mang đến niềm hy vọng rằng hận thù này có thể chấm dứt, cỗ máy phá huỷ sẽ dừng lại, những người cầm quyền sẽ khôi phục ý thức trách nhiệm, và lần đầu tiên, thế giới có thể làm cho những lời này thành hành động. Nhưng đáng tiếc, vết nhơ và bùn lầy chiến tranh đã lan rộng. Sau vụ tấn công bi thảm ngày 07/10 năm ngoái, bạo lực tiếp tục diễn ra ở Gaza và lan rộng sang bờ Tây, Libăng và toàn Trung Đông, tiếp tục bước vào giai đoạn tối đen hơn trước”.
Vị đại diện Dòng Phanxicô tại Thánh Địa khẳng định, sau 35 năm phục vụ ở đây, trải nghiệm đau khổ này khác với tất cả những trải nghiệm trước đây. Không chỉ vì mức độ tàn phá khủng khiếp và số lớn nạn nhân vô tội, mà còn vì những gì ngài thấy trong mắt mọi người: sự tuyệt vọng và thiếu hy vọng.
Cha Ibrahim Faltas nói ngài bị sốc trước cuộc di cư của các gia đình nói chung và của các Kitô hữu nói riêng, đặc biệt là ở Bêlem. Hàng ngàn trẻ em bị giết và hàng ngàn trẻ khác mồ côi. Chiến tranh không chỉ liên quan đến quân đội, tên lửa mà còn là khủng hoảng kinh tế và hủy hoại mọi kỳ vọng và cơ hội cuộc sống.
Ngài mạnh mẽ viết: “Những người nắm giữ quyền lực thế giới sẽ bị lịch sử ghi nhớ vì những vụ giết người và huỷ diệt, sẽ phải xấu hổ. Đây là nền văn minh gì? Những người vô tội bị giết về thể xác, bị giết vì đói khát và vì một tội duy nhất: sinh ra ở Thánh Địa”.
Trong bài báo, đại diện Dòng Phanxicô tại Thánh Địa mời gọi mọi người cầu nguyện để những người cầm quyền chuyển từ lời nói sang hành động cụ thể và có ý thức. “Nếu hy vọng bị mất ở Thánh Địa yêu dấu và biến mất ở nơi khác, ai có thể mang trở lại?”, ngài đặt câu hỏi và nói đây là lý do tại sao tất cả các nhà lãnh đạo và những dân tộc yêu chuộng hòa bình phải đoàn kết và hành động trước khi sợi dây hy vọng mong manh này bị đứt.
Hoàn thành việc tu bổ bức mái che trên bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô
Cái tán, hay mái che này do kiến trúc sư Gian Lorenzo Bernini (1598-1680) thực hiện hồi thế kỷ XVII. Tán cao 29 mét, với 4 cột chống đỡ được thực hiện bằng đồng, đá cẩm thạch, gỗ và vàng, trong khoảng thời gian từ 1624 đến 1635, theo sự ủy nhiệm của Đức Giáo hoàng Urbano VIII. Tán và 4 cột đã được thanh tẩy bụi bặm bám vào trong 250 năm qua, và phí tổn là 700.000 Euro, do Hội Hiệp sĩ Colombo ở Mỹ tài trợ.
Trong thông cáo, hôm mùng 08 tháng Mười vừa qua, cơ quan bảo trì Đền thờ thánh Phêrô cho biết việc hoàn tất này cũng đúng chương trình dự định, trước lễ mở cửa Năm Thánh, vào ngày 24 tháng Mười Hai tới đây.
Ban tu bổ mái che Đền thờ bao gồm 16 người, trong đó một nửa là phụ nữ, và dưới sự điều động của ông Giorgio Capriotti.
Cả ngai tòa thánh Phêrô ở phía đầu của Đền thờ thánh Phêrô cũng được tu bổ. Ở cửa sổ phía trên ngai tòa này có hình chim bồ câu, biểu tượng Chúa Thánh Thần.
Với thời gian, đã có thêm các tượng các thánh Giáo phụ, như Atanasio, Ambrosio, và Augustino. Cả các tượng này cũng được tu bổ trong dịp này.
Thượng Hội đồng Giám mục quyên góp được 62.000 Euro giúp giáo xứ Gaza
Sáng kiến này do Đức Hồng y Konrad Krajewski, người Ba Lan, Bộ trưởng Bộ Bác ái của Đức Thánh cha, đề xướng, để giúp dân chúng tại Gaza, bị kiệt quệ vì các cuộc dội bom của Israel, và được thực hiện đúng ngày ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình, ngày 07 tháng Mười, theo lời kêu gọi của Đức Thánh cha.
Trong cuộc họp báo, trưa ngày 08 tháng Mười, ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Bộ Truyền thông của Tòa Thánh, cho biết kết quả trên đây. Trong số 62.000 Euro này, có 32.000 do các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục đóng góp và 30.000 còn lại do Bộ Bác ái. Tổng cộng, 62.000 Euro được chuyển ngay cho cha Gabriel Romanelli, chánh sở giáo xứ Thánh Gia, qua trung gian Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Israel. Mọi người đã nhiệt liệt vỗ tay chào mừng, khi xem Video do cha Romanelli và một số thiếu niên cùng với giáo dân ở địa phương gửi đến lời cảm ơn đến Đức Thánh cha và mọi người.
Trong Video, cha Romanelli cũng kể lại những kinh hoàng đã xóa bỏ bao nhiêu sinh mạng và đảo lộn các tâm hồn.
Trong cuộc họp báo, ông Ruffini cũng cho biết trong phiên khoáng đại sáng ngày 08 tháng Mười, 350 thành viên Thượng Hội đồng Giám mục đã bầu bảy trong số mười bốn thành viên của Ủy ban soạn Văn kiện chung kết của Công nghị Giám mục này.
Thực tế, Ủy ban không đích thân soạn văn kiện nhưng giám sát dự án công việc. Văn kiện sẽ được các tham dự viên bỏ phiếu trong ngày áp chót của khóa họp, nếu được đa số thì các đề nghị sẽ được đệ trình lên Đức Thánh cha để tùy ngài sử dụng và quyết định.
Có ba hồng y tân cử cũng được mời tham dự cuộc họp báo, trong đó có Đức Hồng y Jaime Spengler, Tổng giám mục Giáo phận Porto Alegre, bên Brazil và cũng là Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Mỹ châu Latinh, gọi tắt là CELAM. Một ký giả đã hỏi ngài về vấn đề độc thân linh mục, nhất là ở miền Amazon, nơi rất khan hiếm linh mục và đa số các tín là thổ dân bản địa. Từ lâu, đã có vấn đề có nên truyền chức linh mục cho những người nam thổ dân chín chắn và có gia đình hay không. Đức Hồng y nói: “cần phải thẳng thắn và cởi mở” và trưng dẫn trường hợp một giám mục được bổ nhiệm cho vùng Rio Xingu, ở miền trung Brazil, rộng gấp đôi nước Ý (tức là gần gấp đôi Việt nam). Hôm sau ngày lễ nhậm chức giám mục, chỉ còn lại tại địa phương vị giám mục và một linh mục duy nhất.
Và Đức Hồng y tân cử Spengler kết luận rằng: “Từ kinh nghiệm chức phó tế vĩnh viễn, có lẽ trong tương lai những người ấy có thể được truyền chức linh mục cho một cộng đoàn đặc thù nào đó? Tôi không biết, nhưng chúng ta có thể cứu xét vấn đề này, để ý đến những khía cạnh thần học cũng như các dấu chỉ thời đại”.
Cũng nên nhắc lại rằng trong Thượng Hội đồng Giám mục về miền Amazon, hồi tháng Mười năm 2019, trong Văn kiện chung kết được Công nghị Giám mục này thông qua, đề nghị truyền chức linh mục cho những người nam chín chắn có gia đình, gọi là Viri probati, được thông qua với đại đa số phiếu, nhưng không được Đức Thánh cha chấp nhận.
Vụ thảm sát xảy ra vào rạng sáng ngày 03/10 do các thành viên của nhóm vũ trang Gran grif de Savien thực hiện, đã làm ít nhất 70 người thiệt mạng, trong đó có 10 phụ nữ và 3 trẻ em. Ngoài sát hại, những kẻ tấn công còn đốt 45 ngôi nhà, làm cho hơn 6.000 người đã chạy trốn. Mặc dù các băng đảng đã thông báo về cuộc tấn công bạo lực, nhưng không có hành động nào được thực hiện để ngăn chặn.
“Đất nước bị bệnh hoàn toàn. Nhưng tình hình ở phía tây và ở Artibonite, là những nơi tồi tệ nhất”, Đức Tổng Giám Mục Mésidor nói và cho rằng có một âm mưu muốn phá hủy hai khu vực này. Bởi vì thực tế, hai nơi này đã bị lãng quên trong hai năm qua, không có sự hiện diện của cảnh sát. Điều tương tự cũng xảy ra với thành phố Liancourt. Hai khu vực nơi cuộc sống từng sôi động giờ đây bị tràn ngập bởi sự tuyệt vọng.
Trong những năm gần đây, khu vực Artibonite, phía tây đất nước, bị chìm trong bạo lực băng đảng với dân thường ở giữa các làn đạn. Theo Văn phòng Tổng hợp Liên Hiệp Quốc tại Haiti (BINUH), từ tháng 4 đến 6/2024, các cuộc tấn công đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 76 người, trong đó có cả trẻ em.
Artibonite được coi là vựa lúa của Haiti. Sự bất ổn mạnh mẽ trong khu vực đã góp phần gây ra cuộc khủng hoảng lương thực, làm tình hình an ninh càng căng thẳng ở một đất nước dường như không thể có được hòa bình.
Theo dữ liệu do một nhóm tổ chức phi chính phủ hoạt động tại Haiti công bố, 5,4 triệu người Haiti đang phải đối diện với tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng, trong đó 2 triệu người - khoảng 18% dân số - bị đói nghiêm trọng.
Trên khắp Haiti kể từ năm 2023, hơn 700.000 người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa để thoát khỏi bạo lực nhóm vũ trang và tình trạng bất ổn lan rộng. Trong sáu tháng đầu năm 2024 Liên Hiệp Quốc ghi nhận 3.638 vụ giết người, tăng gần 74% so với năm 2023.
Thủ tướng lâm thời Garry Conille đã tới Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Kenya để yêu cầu tăng cường sứ mệnh an ninh quốc tế ở Haiti, cho đến nay chỉ có 400 cảnh sát, chủ yếu là người Kenya.
Đức Tổng Giám Mục Launay Saturné của Cap-Haïtie đang tham dự phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng cũng cho biết, mặc dù có sự xuất hiện của lực lượng cảnh sát được Liên Hiệp Quốc hậu thuẫn từ Kenya, và các cuộc họp quốc tế và sự hiện diện của phái bộ Hỗ trợ an ninh đa quốc gia do Kenya đứng đầu tại Haiti, tình hình an ninh vẫn chưa được cải thiện. Ngài than phiền sự tôn trọng nhân phẩm ở quốc gia châu Phi này còn lâu mới trở thành hiện thực. Cho đến nay, những người đáng lẽ phải mang lại trật tự hoà bình vẫn đã không hoàn thành trách nhiệm. Mọi người đang rất tuyệt vọng.
Cha Martín de la Hoz cho biết như trên, trong buổi giới thiệu tại Madrid cuốn sách tựa đề: “Tổ ấm tình thương và tha thứ II” (Hogares de amor y perdón II), do nhà xuất bản của Hiệp hội “Ăn rễ trong Chúa Kitô” (Enraizados en Cristo) ấn hành, trong đó có trình bày chứng tá của 23 gia đình nổi bật về lòng tận tụy và trung thành của các hội viên đến độ hy sinh mạng sống.
Cha kể rằng: “Cách đây vài tháng, theo lời yêu cầu của Bộ Phong thánh, một cuộc kiểm kê đã được thực hiện, qua cuộc nói chuyện với tất cả các đại biểu của các giáo phận, và một danh sách 4.000 vị tử đạo Tây Ban Nha đã được thiết lập. Khi công việc này hoàn tất trong vòng bốn năm, thì sẽ có tổng cộng 7.500 chân phước tử đạo được tôn vinh trên bàn thờ.
Cha de la Hoz nhấn mạnh rằng “điều gây ấn tượng mạnh nhất, đó là 7.500 vị tử đạo, chân phước ấy, có tài liệu và chứng tích chứng tỏ họ bị sát hại vì sự oán ghét đức tin, và cũng có những bằng chứng họ tha thứ cho những kẻ giết mình.
Trong số những chứng từ về sự tha thứ được kể trong sách vừa nói, có những lời kể của Luis García Chillón về người chú ruột của ông Hermenegildo Chillón Cabrera, quen gọi là Mere, tử đạo tại thị trấn Talavera de la Reina, thuộc tỉnh Toledo, Tây Ban Nha.
Mere bấy giờ 29 tuổi, là một người canh gác trong thị trấn, bị Thị trưởng Francisco Cancho, thuộc đảng Mặt trận nhân dân, sa thải. Một đêm trong tháng Hai năm 1936, Mere bị một nhóm 20 người đánh đập và để ông nửa sống nửa chết. Ông trải qua 12 ngày tại nhà thương và khi được xuất viện, ông cố gắng dưỡng bệnh tại thành phố Tarancón, tỉnh Cuenca. Sau khi nội chiến bắt đầu hồi tháng Bảy cùng năm 1936, họ đến lùng bắt để cầm tù ông trong tu viện nữ “Ilfonsas”, hôm đó là ngày 22 tháng Tám.
Sau một phiên xử sơ sài của toà án nhân dân, ông Mere bị còng tay đưa ra khỏi nơi xử, ở cổ thì đeo cái chuông bò, trong lúc tòa bàn luận xem nên thiêu sinh hay là bắn bị can. Sau cùng, họ dẫn ông Mere tới nơi hành quyết. Trước khi chết, ông Mere xin các lý hình trao cái ví của ông cho thân mẫu của mình và dặn dò người lý hình: “xin hãy ôm hôn mẹ tôi và một cái hôn khác của tôi cho anh để anh có thể tha thứ cho tôi, nếu tôi có làm phật lòng anh cách nào”.
Ông Luis, cháu vị tử đạo, kể rằng mặc dù không biết chú mình, nhưng từ những lời ấy, người ta có thể biết vị tử đạo đã tha thứ cho những kẻ hành quyết mình: “Điều này chứng tỏ một tâm hồn quảng đại đặc biệt” và cho thấy rõ, dù chú ấy sống đạo thế nào đi nữa, máu tử đạo cũng tẩy sạch và chữa lành mọi sự”.
Cha Martín de la Hoz nhắc lại rằng Bộ Phong thánh là cơ quan Tòa Thánh đầu tiên được thiết lập trong Kitô giáo, như chúng ta thấy trong sách Tông đồ Công vụ, có nói đến quyết định đầu tiên do Giáo hội đề ra, là bảo tồn ký ức về các vị tử đạo, và trong thời các Kitô hữu tiên khởi, thánh lễ được cử hành trên mộ các vị tử đạo.”
Đức Thánh cha Phanxicô sinh ngày 17 tháng Mười Hai năm 1936, và ngày 17 tháng Mười, ngài tròn 32.082 ngày từ khi sinh ra. Vị Giáo hoàng đứng thứ I về phương diện này là Đức Lêô XIII, tục danh là Vincenzo Gioacchino Pecci, qua đời ngày 20 tháng Bảy năm 1903, thọ 93 tuổi, tức là 34.108 ngày. Để vượt vị Giáo hoàng tiền nhiệm này, Đức Thánh cha đương kim phải tiếp tục cai quản Giáo hội hơn 5 năm rưỡi nữa tức là cho đến ngày 07 tháng Năm năm 2030.
Đứng thứ ba sau Đức Thánh cha Phanxicô là Đức Giáo hoàng Clemente XII, tục danh là Lorenzo Corsini, sinh ngày 07 tháng Tư năm 1652, và thọ 87 tuổi, qua đời năm 1740, tức là ngài sống 32.081 ngày.
Cũng nên nói rằng vị trẻ nhất trong lịch sử Giáo hội khi làm Giáo hoàng là Gioan XII, hay là Octaviano miền Tusculum, Hoàng tử của Vua Alberic II. Nhà vua đích thân bổ nhiệm con của mình làm Giáo hoàng. Ngày 16 tháng Mười Hai năm 955, khi bắt đầu sứ vụ, Đức Gioan XII được 18 tuổi và cai trị Giáo hội trong gần chín năm, cho đến ngày 14 tháng Năm năm 964, lúc mới được khoảng 26-27 tuổi.
Vị cao niên nhất khi được bầu làm Giáo hoàng là Agathon, người miền Sicilia, gốc Hy Lạp, được bầu lên hồi tháng Sáu năm 678, khi đã hơn 100 tuổi, theo một số nguồn sử liệu và cai quản Giáo hội trong hai năm bảy tháng, cho đến ngày 10 tháng Giêng năm 681.
Những con số này rút từ “Niên giám Thống kê của Giáo hội”, được cập nhật đến ngày 31 tháng Mười Hai năm 2022, theo đó dân số thế giới là hơn bảy tỷ 838 triệu người (7.838.944.000), tăng hơn 53 triệu 175.000 người so với năm trước đó. Sự gia tăng này diễn ra tại mọi châu lục, ngoại trừ Âu châu.
Số tín hữu Công giáo là gần một tỷ 390 triệu người (1.389.573.000), tức là tăng 13 triệu 721.000 người so với năm trước đó và chỉ có Âu châu chẳng những không tăng tín hữu Công giáo, nhưng còn giảm sút 474.000 người. Sự tăng trưởng này mạnh nhất ở Phi châu, tăng gần bảy triệu 230.000 (7.271.000). Tiếp theo đó là Mỹ châu tăng gần sáu triệu (5.912.000), Á châu có thêm 900.000 tín hữu Công giáo (889.000) và Châu Đại Dương tăng 123.000 tín hữu. Bình quân cứ sáu người trên trái đất thì có một tín hữu Công giáo.
Con số các giám mục trên thế giới tăng thêm 13 vị, và hiện có 5.353 giám mục, trong số này có gần 2.700 giám mục giáo phận (2.682) và 2.670 giám mục dòng. Hai con số xấp xỉ nhau.
Tổng số linh mục trên thế giới giảm bớt và hiện còn 407.730, tức là giảm 142 linh mục so với năm trước đó. Âu châu giảm nhiều nhất: 2.745 vị, tiếp đến, Mỹ châu giảm 164 vị, trong khi đó, số linh mục gia tăng tại Phi châu, gần 1700 vị (1.676) và Á châu có thêm 1.160 linh mục. Còn Úc châu, sau khi tăng hồi năm ngoái, thì nay lại giảm mất 69 linh mục. Điều đáng nói là số linh mục giáo phận giảm 438 vị (279.171), trong khi linh mục dòng tăng thêm 297 vị (128.559).
Số chủng sinh giáo phận và dòng tu ở ba châu lục đều giảm sút và chỉ gia tăng tại Phi châu và Châu Đại Dương.
Các cử hành phụng vụ của ĐTC Phanxicô trong hai tháng 11 và 12
Theo lịch cử hành phụng vụ này, Công nghị Hồng y sẽ diễn ra vào chiều ngày 7/12 tại Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày hôm sau, 8/12, vào lúc 9:30, Đức Thánh Cha và toàn thể Hồng y đoàn sẽ cử hành Thánh lễ tạ ơn cũng tại Đền thờ Thánh Phêrô. Sau đó, vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày, Đức Thánh Cha sẽ đến Quảng trường Tây Ban Nha ở Roma để kính viếng Đức Mẹ.
Cũng theo thông báo của Văn phòng cử hành phụng vụ của Đức Thánh Cha, vào ngày 4/11, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho các Hồng y và Giám mục qua đời trong vòng một năm qua.
Tiếp đến, vào ngày 17/11, Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ 8, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ vào lúc 10 giờ sáng tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Sau đó, vào ngày 24/11, lễ trọng Chúa Kitô Vua Vũ trụ, như Đức Thánh Cha đã ấn định, ngài sẽ chủ sự Thánh lễ Ngày Giới trẻ Thế giới vào lúc 9:30 sáng tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Cuối cùng, chiều ngày 12/12, lễ Đức Mẹ Guadalupe, vào lúc 6 giờ chiều, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ bằng tiếng Tây Ban Nha cũng tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài BBC ở Anh quốc, truyền đi hôm Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười vừa qua, Đức Hồng y Radcliffe kể là đã hỏi Đức Thánh cha xem mình có được miễn mặc áo đỏ của Hồng y hay không. Trong cùng ngày hôm đó, ngài nhận được câu trả lời của Đức Thánh cha bày tỏ sự cảm thông hoàn toàn đối với tình trạng của cha và chuẩn chước cho cha “khỏi phải mang bộ áo cầu kỳ”. Phẩm phục chính thức của Hồng y, gồm áo khoác màu đỏ, biểu tượng lòng trung thành với Đức Giáo hoàng, áo chùng với đai, cũng như mũ đỏ.
Đức Hồng y Radcliffe sinh ngày 22 tháng Tám năm 1945, tại Luân Đôn, được bầu làm Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, với nhiệm kỳ 9 năm, từ năm 1991 đến năm 2001. Sau đó, ngài được mời diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới và là tác giả của nhiều tác phẩm, sách thần học. Trong Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI hồi tháng Mười năm ngoái và năm nay, ngài được mời giảng tĩnh tâm cho các tham dự viên vào đầu mỗi khóa họp.
Ủy ban Tòa Thánh về khảo cổ thánh cho biết bia mộ này viết bằng tiếng Hy Lạp có những chữ cổ nhất nhắc đến tên Chúa Kitô. Bia bị lấy trộm từ hang toại đạo Ad Decimum, ở thành Grottaferrata, cách Roma 20 cây số về hướng nam.
Hồi tháng Mười Một năm ngoái, cảnh sát Ý và Hòa Lan đã tìm lại được bia mộ và trước tiên được lưu giữ tại Bảo tàng viện quốc gia Hòa Lan, ở thành phố Utrecht.
Lễ nghi trao trả diễn ra hôm Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười này, với sự hiện diện của các đại diện của Vatican, Ý và Hòa Lan, tại hang toại đạo Ad Decimum. Hang này là một nghĩa trang hầm có từ thế kỷ thứ III và thứ V, được tình cờ khám phá hồi năm 1905 và chứa đựng một số bích họa với chủ đề về Kitô giáo.
⛪⛪⛪⛪⛪
Bên lề một sự kiện tại Roma nhân kỷ niệm Ngày Quốc khánh của Đài Loan, được tổ chức hàng năm vào ngày 10/10/2024, ông Matthew Lee, Đại sứ Đài Loan cạnh Tòa Thánh, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ đối tác Vatican-Đài Loan, đặc biệt là trong việc thúc đẩy hòa bình và tự do tôn giáo.
Sự kiện có sự tham dự của Đức Hồng y Giovanni Battista Re, Đức Hồng y Óscar Rodríguez Maradiaga, Đức Hồng y Silvano Tomasi, Đức Tổng Giám mục Salvatore Pennacchio và một số quan chức Vatican khác và ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.
Ông Matthew Lee nói: “Đài Loan đã có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh trong 82 năm. Điều đó rất quan trọng vì nó có nghĩa là Tòa thánh công nhận Đài Loan là một quốc gia coi trọng tự do tôn giáo và sự hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ”. “Ở Đài Loan, người Công giáo [chiếm] khoảng 3%, nhưng họ rất mạnh mẽ”.
Đại sứ Đài Loan cạnh Tòa Thánh đã nhấn mạnh cách Đài Loan và Vatican đã chung tay làm việc để cung cấp viện trợ nhân đạo và đóng góp cho cộng đồng quốc tế. Ông cho biết “Trong tương lai, Đài Loan sẽ tiếp tục hợp tác với Tòa Thánh và các nền dân chủ cùng chí hướng để cùng nhau bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực, bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tạo ra một xã hội công bằng và hòa bình hơn cho nhân loại”. Ông nhấn mạnh cam kết của Đài Loan đối với lời kêu gọi của Thánh Cha về việc thúc đẩy hòa bình trên thế giới, đặc biệt là ở Eo biển Đài Loan. Ông lưu ý rằng đại sứ quán đã tổ chức “tuần chín ngày cho hòa bình” để đáp lại lời kêu gọi hòa bình của Đức Thánh Cha.
Đức Cha Noberto Phổ Anh Hùng (Pu Yingxiong) của Đài Loan đã cho thấy ý nghĩa của việc Vatican công nhận người Công giáo Đài Loan. Ngài nói: “Chúng tôi hy vọng chúng tôi luôn có thể duy trì mối quan hệ chính thức và tốt đẹp này với Vatican. Bởi vì đối với Đài Loan, điều này rất quan trọng. Chúng tôi hy vọng rằng thế giới sẽ thấy điều này vì Đài Loan là một quốc gia dân chủ và tự do, được các quốc gia khác tôn trọng”
Theo các tờ báo lớn của Ý, cảnh sát tài chính Ý đã tịch thu các hàng hóa giả mạo, gồm hơn 100.000 tràng hạt, ảnh tượng, hình ảnh Đức giáo hoàng, có in vương miện Giáo hoàng và logo Năm Thánh 2025.
Theo Ủy ban tổ chức Năm Thánh và chính quyền Roma, dự kiến sẽ có khoảng 30 triệu người hành hương Roma trong Năm Thánh 2025. Do đó, các cửa tiệm bán các ảnh tượng và tràng hạt tại đây đang chuẩn bị các ảnh tượng cho nhu cầu của tín hữu hành hương.
Hàng hóa giả
Các thanh tra viên của cảnh sát tài chính Ý đã tìm thấy các tràng hạt và ảnh tượng giả mạo được in logo Năm Thánh tại ba cửa tiệm trên Đại lộ Hòa giải (Via della Conciliazione), một tuyến đường hành hương nổi tiếng giữa Vatican và Lâu đài Thiên thần (Castel Sant'Angelo). Những kẻ chủ mưu được cho là công dân Trung Quốc.
Nhiều mặt hàng giả khác cũng được tìm thấy trong các nhà kho ở ngoại ô Roma, bao gồm các tượng Đức Mẹ nhỏ, bưu thiếp có hình Đức Giáo hoàng Phanxicô, "mề đay" và Thánh Giá; tất cả đều được sản xuất tại Trung Quốc và mang nhãn hiệu của Vatican cho Năm Thánh: với mũ vương miện "Tiara" của giáo hoàng và logo "Giubileo 2025 - Pellegrini dell'Esperanza" ("Năm Thánh 2025 - Những người hành hương của Hy vọng"). Những hàng hóa giá rẻ này đôi khi được bán với giá gấp mười lần giá trị thực.
Logo Năm Thánh 2025
Logo Năm Thánh 2025 được thiết kế bởi Giacomo Travisani. Tác giả cho biết mình đã tưởng tượng cách thế tất cả mọi người cùng nhau tiến bước, có thể tiến bước "nhờ ngọn gió Hy vọng là Thánh giá của Chúa Kitô và chính Chúa Kitô."
Logo trình bày bốn nhân vật cách điệu, diễn tả tất cả nhân loại từ bốn phương của trái đất. Mọi người đều ôm nhau, biểu thị tình liên đới, huynh đệ đoàn kết các dân tộc. Người thứ nhất đang bám vào Thánh giá. Những con sóng bên dưới vỗ mạnh để chỉ ra rằng cuộc hành hương của cuộc sống không phải lúc nào cũng trên mặt nước phẳng lặng. Bởi vì các hoàn cảnh cá nhân và các sự kiện thế giới thường mời gọi một cảm giác hy vọng lớn hơn, một mô tả của logo với phần dưới của Thánh giá được thuôn dài biến thành mỏ neo, làm im chuyển động của các ngọn sóng. Mỏ neo thường được sử dụng như ẩn dụ cho hy vọng. Hình ảnh cho thấy cuộc hành trình của người hành hương không phải là cá nhân, mà là mang tính cộng đồng, với những dấu hiệu của một sự năng động ngày càng tiến về phía Thánh Giá.
Án phạt
Những nghi phạm trong vụ hàng giả mạo bị cáo buộc nhập khẩu và quảng cáo tiếp thị hàng giả. Ngoài ra, một số sản phẩm có chứa các chất bị luật pháp Liên minh Châu Âu cấm. Những người bị cáo buộc đã bị phạt từ 5.000 đến 40.000 euro.
Theo thông tin, cảnh sát tài chính đang lên kế hoạch kiểm tra thêm trước Năm Thánh. Chỉ riêng trên Đại lộ Hòa giải đã có khoảng 30 cửa hàng bán đồ tôn giáo và đồ lưu niệm; hầu hết đều do người Trung Quốc điều hành. Theo báo La Repubblica, họ kiểm soát toàn bộ chuỗi cung ứng các hàng hóa như vậy, từ xuất khẩu từ Trung Quốc đến buôn bán.
Geert de Cubber là phó tế vĩnh viễn duy nhất của Thượng Hội đồng
Ngày thứ tư 9 tháng 10, trong một họp báo, Phó tế vĩnh viễn người Bỉ Geert De Cubber, phó tế duy nhất tham dự Thượng Hội đồng cho biết, trong số nhiều chủ đề được nêu ra tại Thượng Hội đồng hiện nay ở Rôma, chức phó tế nữ và khả năng phong chức linh mục cho các phó tế đã kết hôn đang được thảo luận.
Bộ Giáo lý Đức tin được Đức Phanxicô ủy nhiệm nghiên cứu việc phụ nữ tham gia Giáo hội cho biết, các thành viên của Thượng hội đồng đã thảo luận vấn đề này, Phó tế Geert De Cubber trả lời báo chí: “Đây là một vấn đề tế nhị vì lẽ ra chúng tôi không được nói về chức phó tế nữ trong Thượng Hội đồng nhưng chủ đề này đã được nêu ra. Đó là lẽ tự nhiên dù chúng ta không đưa ra quyết định.” Sứ vụ đặc biệt của chức phó tế đòi hỏi phải thụ phong và dành riêng cho nam giới là một trong những chủ đề Đức Phanxicô giao cho một trong 10 ủy ban chuyên gia, các ủy ban này sẽ đệ trình công việc của họ vào tháng 6 năm 2025.
Phó tế “rất khác với linh mục”
Phó tế De Cubber người Bỉ đã lập gia đình và là cha của ba người con, cho biết điều quan trọng là phải hiểu bản chất của phó tế. Phó tế nhấn mạnh: “Phó tế rất khác với linh mục. Đó là phục vụ Giáo hội và con người, một loại mục vụ khác.” Khi được hỏi về giả thuyết cho phép phụ nữ làm phó tế ở một số nơi trên thế giới, phó tế Cubber cho biết đó là vấn đề tiến tới một cách chung “có tính đồng bộ” để “không để mất ai trên con đường”.
Chủ đề này chưa được nhất trí trong Thượng Hội đồng. Trong cuộc họp báo ngày 7 tháng 10 Giám mục Anthony Randazzo của giáo phận Broken Bay Úc cho biết: “Rất tiếc phụ nữ thường bị bỏ qua trong Giáo hội. Một thiểu số nhỏ có tiếng nói ở phương Tây đã ngăn cản việc này.”
Công việc của nhóm 5
Vào tháng 2 năm 2024, chủ đề chức phó tế nữ là một trong những chủ đề được Đức Phanxicô giao cho nhóm số 5 dưới sự chỉ đạo của bộ Giáo lý Đức tin. Trong một thông báo về tiến độ công việc trước phiên họp Thượng Hội đồng ngày 2 tháng 10, hồng y bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin Víctor Manuel Fernández khẳng định chủ đề này vẫn phải được xem xét và giải quyết và có thể thực hiện được cho một số phụ nữ.
Theo bộ Giáo lý Đức tin “không có chỗ cho một quyết định thuận lợi của Huấn quyền về việc phụ nữ tiếp cận chức phó tế được hiểu như một cấp độ của bí tích Dòng”, theo ngài, vấn đề chưa chín muồi nhưng nhóm làm việc cho rằng “công việc chuyên sâu” là khả thi.
Ngày 9 tháng 10, hồng y Fernández cho biết các nhóm làm việc đã bắt đầu “giai đoạn tham vấn” mở cho cả các phụ nữ không phải là cố vấn của thánh bộ. Ngài cho biết tất cả các thành viên và các thần học gia của Thượng Hội đồng gởi những đóng góp của họ cho Bộ trong những tháng tới.
Ngày 18 tháng 10, hai nhân viên của Bộ sẽ có mặt để nhận những suy tư về chủ đề này. Các chuyên gia của 10 nhóm sẽ làm việc ngày hôm đó.
Truyền chức cho phó tế đã lập gia đình làm linh mục?
Một cái nhìn khác về sự phát triển của chức phó tế được đề cập trong cuộc họp báo ngày thứ ba 8 tháng 10. Tân hồng y Jaime Spengler của Porto Alegre ở Brazil cho biết việc truyền chức linh mục cho các ông đã lập gia đình ở vùng Amazon đang rất cần ở những vùng lãnh thổ rộng lớn. Một câu hỏi đã thu hút sự chú ý trong Thượng Hội đồng về Amazon năm 2019.
Giám mục Spengler cho biết, đã cân nhắc hết sức thận trọng khả năng truyền chức linh mục cho các ông đã lập gia đình và đã là phó tế vĩnh viễn: “Theo thực tế những gì tôi thấy, vì thực tế thì khác, tôi nghĩ chúng ta không thể khái quát hóa từ kinh nghiệm của chức phó tế vĩnh viễn, trong tương lai không xa, liệu chúng ta sẽ thấy những phó tế này sẽ làm linh mục cho một cộng đồng cụ thể hay không,” theo ngài, vấn đề này cần được “đào sâu” hơn và đòi hỏi “lòng can đảm và khả năng cởi mở của trái tim”.
Đối diện với những cuộc khủng hoảng và tình trạng khẩn cấp về tình hình chính trị hiện nay, thời gian dường như đang trôi nhanh, làm hại cho nền dân chủ và cho sự cân nhắc. Có vẻ như đã đến lúc phải có những bài phân cực và những hình ảnh của các nhân vật độc tài để “trấn an”. Châu Âu cũng bị ảnh hưởng bởi những cám dỗ dân túy lợi dụng nỗi sợ của kẻ thù nội bộ. Phe cực hữu tiếp tục trỗi dậy ở tất cả các nước Châu Âu, chẳng hạn ở Áo vào cuối tháng 9 năm 2024 với chiến thắng của đảng FPƯ.
Làm thế nào chúng ta có thể chống lại động lực gây hỗn loạn này? Điều đáng chú ý nhất trong những tháng gần đây ở Châu Âu là khoảng cách đáng lo ngại đang ngày càng gia tăng giữa sự nối tiếp nhanh chóng của các sự kiện nghiêm trọng và sự tan rã của bộ máy chính trị của các nền nước dân chủ phương Tây mà dường như không thể làm gì được.
Tuy nhiên, đồng thời, vào đầu tháng 10 năm 2024, Thượng hội đồng về tính đồng nghị họp lại, quy tụ các đại diện từ tất cả các châu lục tại Rôma, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, nam nữ để suy nghĩ về tương lai Giáo Hội, mang tham vọng nghĩ ra những hình thức phù hợp để công bố Tin Mừng cho thiên niên kỷ mới, khi chúng ta chỉ nói về những trường hợp khẩn cấp và khủng hoảng. Mang hoài bảo của một tầm cao?
Học cách cùng nhau thảo luận
Phiên họp Thượng Hội đồng khai mạc trong bối cảnh quốc tế đầy bạo lực và căng thẳng. Nhưng Đức Phanxicô phát động tiến trình này không phải để trả lời các câu hỏi mà để Giáo hội công giáo có thể trải nghiệm tính đồng nghị. Điều đó có nghĩa là gì? Cùng nhau học cách thảo luận, mọi bậc sống cùng hiệp nhất trong Giáo hội. Nhưng trên hết là nói về tất cả các chủ đề, cấm kỵ hay không. Không nhằm mục đích quyết định mà nhằm đưa ra những bất đồng.
Một trong những thách thức của tính đồng nghị là thoát khỏi cạm bẫy tranh luận để tạo điều kiện cho việc lắng nghe và đối thoại chung. Tìm kiếm sự chắc chắn trong mọi việc là dấu hiệu của một tâm trí không ngừng nghỉ, Đức Phanxicô đã viết trong quyển Một thời để thay đổi (Un temps pour changer, nxb. Flammarion, 2020). Hồng y Newman cho thấy, bằng cách chấp nhận những sự thật mâu thuẫn, chúng ta vẫn đạt được một sự thật lớn hơn, vượt quá chúng ta. Vì thế Thượng Hội đồng được xem là tiến trình thiên về một trải nghiệm sống để cùng nhau gặp gỡ và lắng nghe Chúa Thánh Thần hơn là một phương pháp làm việc.
Các vấn đề đang được nêu lên ở Pháp, vì Thượng Hội đồng chưa cải cách đủ mức, đặc biệt là về vị trí của phụ nữ. Chúng ta có thể xin thứ lỗi một cách hợp pháp. Nhưng trong bối cảnh chính trị chúng ta biết, chúng ta đã đo lường mức độ mà tính đồng nghị mang tính tiên tri, có lẽ không phải ở nội dung mà ở hình thức của nó chưa? Mang tính tiên tri cho Giáo hội và tràn đầy hy vọng cho thế giới: làm chứng cho một gặp gỡ và đa dạng vẫn có thể xảy ra. Rằng đây là nơi và là hình thức hiệp thông, và chúng ta sẽ không nhượng bộ trước cám dỗ rút lui vào bản sắc riêng.
Theo cuộc họp báo, trưa ngày 16 tháng Mười vừa qua, các đại biểu của các nhóm ngôn ngữ khác và thuộc các vùng địa lý khác nhau đã bày tỏ lo âu về đề nghị tản quyền vừa nói.
Thật ra, vấn đề thẩm quyền của các Hội đồng Giám mục về đạo lý đã được bàn luận từ lâu: những người bênh vực sự tản quyền thì cho rằng cần đặt đạo lý của Giáo hội trong bối cảnh địa phương, trình bày và thích ứng đạo lý làm sao để các tín hữu hiểu và sống đạo lý Công giáo. Nhưng những người phê bình lập trường này thì nói rằng dành quá nhiều quyền giải thích đạo lý cho mỗi địa phương có thể đưa tới những sai lệch và ngộ nhận.
Hồi tháng Năm năm 1998, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công bố hai văn kiện, trước tiên là Tự sắc: “Apostolos Suos” kèm theo Tông thư “Ad Tuendam Fidem”, Để bảo vệ đức tin, cất đi thẩm quyền giáo huấn khỏi các Hội đồng Giám mục, kể cả thẩm quyền về đạo lý.
Một thành viên Thượng Hội đồng Giám mục hiện nay nói với trang mạng NcRegister.com, ở Mỹ rằng mức độ chống đối đề nghị tản quyền đạo lý này rất lớn: đại đa số các thành viên chống lại đề nghị tản quyền nói trên. Một thành viên nói rằng: “Một đức tin bị phân hóa có nghĩa là một Giáo hội bị phân hóa”.
Về phần Đức Tổng giám mục Anthony Fisher, Dòng Đa Minh, Tổng giám mục Giáo phận Sydney, Australia, ngài nói với Đài truyền hình “Lời Vĩnh Cửu” (EWTN) ở Mỹ rằng: “Giáo hội không thể tái sáng chế đức tin Công giáo” hoặc “giảng dạy một đạo Công giáo khác nhau tùy, theo mỗi nước”.
Đức Cha Giuse Dương Vĩnh Cường chia sẻ: “Giáo hội tại Trung Quốc cũng giống như Giáo hội Công giáo ở các quốc gia khác trên thế giới: chúng tôi cùng chung một đức tin, cùng chung một phép rửa tội và tất cả chúng tôi đều trung thành với Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.
Đức Cha nói thêm: “Chúng tôi theo đuổi tinh thần truyền giáo ‘trở thành tất cả cho mọi người’. Chúng tôi thực sự thích nghi với xã hội, phục vụ xã hội, theo đuổi định hướng đưa Công giáo “hội nhập vào văn hóa Trung Quốc” và rao giảng Tin Mừng. Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc đã khởi xướng các cuộc trao đổi tích cực với các cộng đồng Công giáo trên khắp thế giới dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau. Chúng tôi tiến hành trao đổi về các chủ đề như truyền giáo và chăm sóc mục vụ trong Giáo hội, các dịch vụ xã hội và nghiên cứu thần học; chúng tôi tích cực tham gia các cuộc họp quốc tế và hoạt động cầu nguyện của các tôn giáo vì hòa bình; chúng tôi cố gắng trở thành ‘ánh sáng và muối’ cho hòa bình thế giới và thúc đẩy một cộng đồng nơi nhân loại có thể chia sẻ vận mệnh; cuối cùng, chúng tôi thúc đẩy phát triển thông qua nhiều loại dự án khác nhau”.
Còn Đức Cha Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc, trong bài chia sẻ, đã nhắc lại hình ảnh của nhà truyền giáo Dòng Tên, Cha Matteo Ricci, và “thí nghiệm” của cha nhằm “thích ứng Phúc âm Kitô giáo cho phù hợp với các tập tục khác nhau của con người”. Cha nói rằng “Là một Giáo hội hiệp hành tham gia vào sứ mạng truyền giáo có nghĩa là tôn trọng và lắng nghe tiếng nói của những câu chuyện, nền văn hóa và truyền thống khác nhau trong hành trình tìm kiếm mục tiêu cuối cùng của nhân loại, đó là Thiên Chúa”.
Đức Cha cũng cho biết rằng Giáo hội Trung Quốc phải “giải quyết những thách thức mà hôn nhân hỗn hợp đặt ra đối với giáo dục gia đình; làm thế nào để thích ứng với luật pháp và quy định của địa phương; hoặc làm thế nào để giải quyết sự nhầm lẫn tồn tại trong giáo dân giữa các niềm tin dân gian và một số khía cạnh của văn hóa truyền thống”. Ngài kết luận rằng “việc học hỏi một cách khiêm nhường từ cả những kinh nghiệm lịch sử và hiện tại là một cách quan trọng để truyền giáo, tức là phân định con đường mới mà Chúa đang chỉ ra cho Giáo hội”.
Hiện diện trong cuộc họp báo, trưa thứ Ba vừa qua, có nữ tu Nirmala Alaex Maria Nazareth, Dòng Cát Minh Tông Đồ, Đức Hồng y tân cử Leonardo Ulrich Steiner, Dòng Phanxicô, Tổng giám mục Giáo phận Manaus, bên Brazil và Đức Hồng y tân cử Roberto Repole, Tổng giám mục Giáo phận Torino, bắc Ý.
Ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Truyền thông và cũng là Trưởng ban thông tin của Thượng Hội đồng Giám mục hiện nay, cho biết: ban sáng và ban chiều ngày 15 tháng Mười, các tham dự viên đã họp trong hơn 30 nhóm nhỏ, ở Đại thính đường Phaolô VI, với sự hiện diện của 347 người, trên tổng số hơn 370 thành viên.
Trước đó, Đức Hồng y Jean Claude Hollerich, người Luxemburg, Tổng tường trình viên, đã trình bày nội dung tóm tắt của Phần III trong Tài liệu Làm việc, trong đó có đề cập đến những nơi cụ thể để thi hành sứ mạng của Giáo luật, đặc biệt là các thành thị, với vấn đề di dân.
Trong cuộc họp báo, Đức Hồng y Steiner nói về vai trò các phụ nữ trong Giáo phận Manaus của ngài, rộng 90.000 cây số vuông, thuộc miền Amazonia bên Brazil, với rất nhiều thổ dân và ngài ủng hộ ý tưởng nên có các nữ phó tế vĩnh viễn và cả các linh mục có gia đình, vì từ hơn 100 năm nay, miền này rất khan hiếm linh mục.
Đức Hồng y cũng nói đến tình trạng khẩn cấp về khí hậu ở miền Amazonia, ví dụ như nạn hạn hán vì thiếu mưa. Đức Hồng y nói: “Chúng tôi không có nước từ một tháng nay, các sông lớn không còn có thể di chuyển bằng thuyền trên đó, vì thế nhiều cộng đoàn không thể lui tới được. Ngoài ra, nước sông ở nhiều nơi bị ô nhiễm do thủy ngân thải ra từ việc khai thác khoáng sản.
Một chủ đề tranh luận không ngừng, đời sống độc thân của các linh mục kết tinh những hiểu lầm. Theo thần học gia Marie-Jo Thiel, bà đã viết một quyển sách về vấn đề này, luật không còn tính bắt buộc nhưng là tùy chọn. Có nguy cơ mất đi điều gì làm nên sự độc đáo của Giáo hội la-tinh không?
Thần học gia Marie-Jo Thiel
Trong một thế giới tục hóa, việc linh mục độc thân tạo khó hiểu và hiểu lầm. Thậm chí còn hơn thế nữa vì các vụ bạo lực tình dục trong Giáo hội đã ngập tràn trên tin tức. Gần đây vụ Abbé Pierre đã làm mọi người ghê tởm. Trong Giáo hội, vấn đề này thường được giáo dân đặt lên bàn thảo luận, đặc biệt khi Đức Phanxicô loại nó ra khỏi các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng.
Là bác sĩ và là thần học gia, bà Marie-Jo Thiel viết quyển sách Ân sủng và Trọng lực (La Grâce et la Pesanteur, nxb. Desclée de Brouwer). Bà nghiên cứu nền tảng và những biện minh cho kỷ luật tình dục được các giáo sĩ từ thời Trung cổ áp dụng. Bằng ngôn ngữ uyên bác nhưng dễ tiếp cận, bà kêu gọi một tiến hóa, đi ngược lại truyền thống của Giáo hội. Bà giải thích trên báo La Vie.
Quần chúng nghĩ có mối liên hệ trực tiếp giữa đời sống độc thân của các linh mục và bạo lực tình dục của một số linh mục, như vụ Abbé Pierre gần đây. Như thế là hiểu lầm sao?
Thần học gia, bà Marie-Jo Thiel: Đúng, rõ ràng như vậy. Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp (Ủy ban Ciase) giải thích rõ ràng, đời sống độc thân không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm dụng, nhưng là một phần trong cái nhìn nào đó về linh mục có thể tạo điều kiện cho lạm dụng sinh sôi. Sống như vợ chồng không bao giờ ngăn được tội bạo lực. Dù vậy, hiểu lầm vẫn tiếp diễn. Nhưng tôi nghĩ chính Giáo hội góp phần duy trì khi nhầm lẫn giữa độc thân, tiết dục và khiết tịnh.
Trong thực tế, đức khiết tịnh liên quan đến tất cả mọi người dù bậc sống của họ là gì. Thần học gia Xavier Theuvenot đã nói rõ ràng: castus (khiết tịnh) ngược với incastus (loạn luân). Loạn luân là không được hợp nhất, là phải cắt đứt. Tiết dục là kiêng quan hệ tình dục. Độc thân là không kết hôn. Vì thế chúng ta có thể sống độc thân mà không cần phải khiết tịnh và tiết dục.
Trong quyển sách của bà, bà nghĩ Giáo hội phải về với nghĩa vụ độc thân của các linh mục. Hành trình cá nhân của bà về chủ đề này là gì?
Tôi được giáo dục trong môi trường công giáo với ý tưởng bất kỳ đời sống thánh hiến nào cũng là một ân sủng đặc biệt, đến mức đôi khi tôi quên hôn nhân cũng là một ân sủng. Sau đó, tôi phát hiện các vụ tai tiếng tuyệt đối về những người thánh hiến hoặc các linh mục phạm tội lạm dụng. Điều này làm tôi tự đặt câu hỏi: đời sống độc thân có liên quan gì đến nó không? Dần dần, tôi nhận ra có nhiều yếu tố góp phần tạo những hành vi lạm dụng này, nhưng cũng có nhiều yếu tố góp phần vào việc che giấu. Chúng ta phải rất rõ ràng: đời sống độc thân không liên quan trực tiếp đến việc lạm dụng. Nhưng đó là một trong những yếu tố có thể phối hợp với những yếu tố khác để góp phần tạo bạo lực trên trẻ vị thành niên hoặc với những người dễ bị tổn thương.
Làm sao đời sống độc thân phù hợp với cơ chế mục nát này?
Nền văn hóa giáo sĩ đặt linh mục lên trên giáo dân với sự bất cân xứng có thể là dốc trơn trượt dẫn đến nguy cơ bạo lực tình dục. Văn hóa này được ủng hộ bởi luật buộc sống độc thân, đặt họ lên bệ thờ trong quan hệ với giáo dân, được sự hỗ tương của họ, đôi khi cảm giác ưu việt làm cho giáo dân bị ấu trĩ hóa. Thêm vào đó họ có quá nhiều quyền lực, thường xuyên làm họ bị suy yếu, họ phân biệt đối xử với phụ nữ, và khó công nhận tính dễ bị tổn thương của chính mình… tất cả những yếu tố này phối hợp với nhau góp phần tạo nên chiều hướng “có hệ thống” được báo cáo Ciase nói rõ.
Nhưng bậc sống độc thân được một số linh mục đón nhận nồng nhiệt.
Đó là ơn được Thiên Chúa ban! Vì thế tựa đề của tác phẩm đảo ngược tựa đề quyển sách của triết gia Simone Weil: ân sủng, theo nghĩa ơn của Chúa đi trước sự nặng nề của xác thịt và thế gian, Thiên Chúa kêu gọi thời gian và ngược thời gian. Nhưng như Thánh Tôma Aquinô đã nói, ân sủng bao hàm bản chất. Điều này có nghĩa là nó phải mang lấy tính xác thịt, phải nhập thể để sinh hoa trái. Do đó, nó không thể tách rời khỏi trọng lực hấp dẫn chống lại nó, nhưng còn để kích thích nó. Sức hấp dẫn có thể được nâng lên nhờ tác động của ân sủng. Nếu ai được Thiên Chúa kêu gọi sống độc thân, tạ ơn Chúa! Nhưng tùy thuộc từng người. Ân sủng của Thiên Chúa luôn nảy mầm một cách độc đáo trong tâm hồn mỗi con người.
Ngoài vấn đề lạm dụng, bà xem lại các nền tảng của đời sống độc thân của các linh mục. Bà cho rằng ngày nay chúng không còn hoàn toàn có giá trị nữa. Vì sao?
Quyển sách của tôi không nói về đời sống độc thân của các linh mục, nhưng về nghĩa vụ sống độc thân. Vấn đề này không phải là giáo điều nhưng là kỷ luật. Vì thế yêu cầu về đời sống độc thân không phải là bất biến. Và việc xem lại nó có còn hợp lý hay không là hợp pháp. Bây giờ sau khi xem xét chi tiết, sau khi nhận định, tôi đi đến kết luận độc thân là một lựa chọn khả thi của một số người, nhưng việc trở thành linh mục không bắt buộc phải độc thân.
Truyền thống Giáo Hội từ những cộng đồng kitô giáo đầu tiên như thế nào?
Theo tôi, cả Kinh thánh lẫn truyền thống Giáo hội đều không thể được viện dẫn để buộc các linh mục phải sống độc thân. Chúa Giêsu đã cư xử một cách cực kỳ cởi mở với những người nam nữ ở thời đại của Ngài. Ngài tương đối hóa mạnh mẽ mọi liên quan đến việc thánh hóa tôn giáo: với Ngài, trái tim con người là trên hết chứ không phải ngày Sabát. Thánh Phaolô là một trong những người đầu tiên hiểu, ngài tổ chức các cộng đồng kitô giáo đầu tiên vào khoảng 20 năm sau khi Chúa Giêsu qua đời, dựa trên sự bình đẳng trong phép rửa tội.
Sau khi Thánh Phaolô qua đời, một lần nữa giá trị của phụ nữ bị giảm sút, càng ngày họ càng bị loại trừ, xa bàn thờ, phụ nữ bị cho là ô uế… Vào khoảng năm 200, đồng trinh được cho là cao hơn hôn nhân, hôn nhân bị cho là không đủ tư cách. Văn hóa tu viện ngày càng phát triển, văn hóa này được dùng để làm gương mẫu cho việc ưu tiên đời sống độc thân của các giáo sĩ. Và vào giữa thế kỷ thứ 3, những người cố gắng duy trì sự tiết dục, khiết tịnh và độc thân được cho là cao hơn giáo dân. Việc họ làm chủ được tình dục là dấu hiệu cho thấy sự làm chủ là cần thiết cho việc quản trị Giáo hội.
Bà nghĩ chúng ta có nên quay về mô hình ban đầu của Thánh Phaolô để tách rời bậc sống độc thân khỏi quyền lực giáo hội không?
Bằng cách duy trì tình trạng độc thân bắt buộc với các linh mục, chúng ta duy trì sự khóa chặt quyền lực-tình dục-giới tính, vốn là nguồn gốc của quyền lực giáo sĩ trong Giáo hội. Khi Thánh Phaolô xây dựng cộng đồng đầu tiên của ngài dựa trên sự bình đẳng trong phép rửa tội và sự đa dạng của các đặc sủng. Điều này làm giảm các mối quan hệ bất đối xứng giữa giáo sĩ và giáo dân và mở ra sự hợp tác. Công đồng Vatican II đã cố gắng trình bày điều này trong Hiến chế Tín lý về Hội thánh Lumen Gentium, nhưng đã không theo được trực giác của mình, vì cần phải tìm ra những thỏa hiệp giữa người cấp tiến và người bảo thủ.
Chủ đề này không nằm trong chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng, phiên họp thứ hai đã khai mạc tại Rôma ngày 1 tháng 10 với các giám mục (và một số giáo dân) từ khắp nơi trên thế giới. Bà có tiếc không?
Tình trạng các mục vụ và vấn đề về đặc sủng vẫn còn trong chương trình, vì thế vấn đề truyền chức cho các ông đã lập gia đình không bị loại trừ hoàn toàn. Nhưng trên thực tế, Giáo hội chỉ có thể tự cải cách bằng cách suy ngẫm về cách đọc Kinh thánh mới liên quan đến các mục vụ và đoàn sủng. Chúng ta nên tách biệt đặc sủng độc thân khỏi đặc sủng chức linh mục.
Việc những người đương thời không còn hiểu việc sống độc thân bắt buộc là một trong những cánh cửa dẫn đến việc xin có một thay đổi kỷ luật. Có phải sự lệch thời này là một cách tiên tri tốt không?
Tôi không nói ngược lại. Cuộc sống độc thân có tính chất lật đổ chủ nghĩa tiêu dùng trong thế giới chúng ta. Đó là dấu hiệu của lời kêu gọi theo sự tận căn của Phúc Âm. Tôi cho rằng đời sống độc thân có thể là trọng tâm của quan điểm này. Nhưng chúng ta không được đưa lý tưởng linh mục đi quá xa bằng cách đòi hỏi việc này với những người không có khuynh hướng này.
Hình ảnh linh mục hiến dâng đời mình cho Tin Mừng gắn liền với đời sống độc thân. Chúng ta có mạo hiểm thay đổi khi tách chức linh mục với đời sống độc thân không?
Nếu bà hỏi các linh mục đã kết hôn trong Giáo hội công giáo la-mã – vì có một số trong Giáo hội phương Đông, các ông góa bụa hoặc mục sư của các Giáo hội khác chuyển sang Giáo hội công giáo -, cuối cùng chúng ta nhận thấy cuộc sống gia đình không có vấn đề gì. Những người bình thường sẽ nói với chúng ta điều này giúp linh mục hiểu họ hơn. Và chức linh mục có thể cùng tồn tại với một nghề, miễn là nó không quá xâm phạm, nghề nghiệp là một sinh kế.
Hôn nhân có miễn được tình trạng mệt mỏi hay cô đơn không?
Chúng ta cũng đừng lý tưởng hóa hôn nhân! Giống như cuộc sống độc thân, hôn nhân không phải là dòng sông dài yên tĩnh. Nhưng cả hai đều là những con đường để đi. Và việc linh mục buổi tối có thể chia sẻ niềm vui với người bạn đời có thể giúp họ bớt căng thẳng.
Bà đề xuất một giải pháp là truyền chức cho các ông đã lập gia đình (viri probati) giống như các Giáo hội Đông phương, hiện nay trong các Giáo hội này, các linh mục chưa lập gia đình được xem trọng hơn các linh mục đã kết hôn. Độc thân luôn là một yếu tố của thứ bậc.
Đối với mô hình Đông phương, tôi thích mô hình đoàn sủng quay trở lại sự bình đẳng trong bí tích rửa tội. Đời sống độc thân là một trong những cánh cổng khả thi để phi giáo sĩ hóa Giáo hội, nhưng nó không phải là cánh cổng duy nhất. Chúng ta đừng quên chúng ta ở trong một hệ thống nơi tất cả các yếu tố hoạt động tương tác nhau. Khi bạn kéo một sợi chỉ, toàn bộ quả bóng sẽ ở phía sau: mục vụ, phụ nữ, chăm sóc mục vụ và cả vấn đề đọc Kinh thánh, luôn được đọc theo căn tính của người đọc.
Bà là thần học gia nhưng cũng là bác sĩ. Kỹ năng bác sĩ mang lại cho bà điều gì?
Quá trình đào tạo y khoa cho tôi những hiểu biết về hoạt động của cơ thể và tâm lý. Nó luôn ẩn sâu trong cách nhận thức của tôi, ngay cả khi nó không xuất hiện đầu tiên. Điều này rất cần thiết vì chúng ta có thể nhanh chóng suy luận một cách trừu tượng. Ngoài y học, khoa học nhân văn còn góp phần vào hoạt động của cơ thể con người. Chúng rất cần thiết để hiểu con người một cách tổng thể. Bởi vì chính con người phức tạp này là lời của Chúa Kitô: “Hãy theo Ta!”
Hồng y Brazil Steiner: “Nhiều phụ nữ của chúng tôi đã là phó tế”
Trong cuộc họp Thượng Hội đồng ngày thứ ba 15 tháng 10, khi công khai đề cập đến việc phụ nữ phục vụ trong cộng đồng Brazil, Hồng y Leonardo Steiner, Tổng Giám mục Địa phận Manaus (Brazil) khẳng định: “Phụ nữ là những người lãnh đạo trong cộng đồng chúng tôi. Hiện nay họ phục vụ ở những vùng xa xôi nhất, cử hành một số bí tích như rửa tội khi không có linh mục. Rất nhiều phụ nữ của chúng tôi đã là phó tế, dù họ chưa được phong.” Hồng y lên tiếng về những yêu cầu của của một số vùng, đặc biệt vùng Amazonia nơi chỉ có 163 linh mục phục vụ cho hàng ngàn cộng đồng: “Chúng tôi muốn gọi họ là phó tế, nhưng để không tạo nhầm lẫn với thừa tác vụ thụ phong, chúng tôi chưa tìm được từ thích hợp.”
Đề cập đến vấn đề này ở Rôma – Đức Phanxicô đã thành lập hai Ủy ban để nghiên cứu – Hồng y Steiner cho biết: “Nếu chúng ta thấy phụ nữ phó tế đã có trong lịch sử Giáo hội, vì sao chúng ta không khôi phục lại như chúng ta đã làm với chức phó tế nam.” Trong một phỏng vấn tháng 5 vừa qua, Đức Phanxicô đã loại trừ khả năng phụ nữ tiếp cận với chức phó tế.
Đức Phanxicô cũng chưa giải quyết vấn đề ‘viri probati’
Về việc phong chức linh mục cho các ông đã lập gia đình (viri probati), đã được nêu ra trong Thượng hội đồng Amazon năm 2019, Hồng y Steiner cho biết một số người đã “thất vọng” vì vấn đề này đã không được đề cập trong phần kết luận của Thượng hội đồng. Ngài cho biết việc thiếu linh mục ở khu vực Amazon đã là mối lo ngại cho các cộng đồng ở đây, vì không chỉ liên quan đến Bí tích Thánh Thể mà còn liên quan đến đời sống bí tích của các cộng đồng.
Nhưng theo Hồng y: “Đức Phanxicô vẫn chưa kết thúc vấn đề, ngài sẽ tiến về phía trước, nhưng vì tính nhạy cảm cao độ nên ngài chưa làm vì vẫn còn các chia rẽ trong Giáo hội. Trong một số thực tế, không khó để chấp nhận các ông lập gia đình được thụ phong; với các thực tại khác của Giáo hội, điều này là một khó khăn lớn vì cuộc sống độc thân ở một số nơi là một khó khăn lớn, chúng ta còn phải tiếp tục suy nghĩ về vấn đề này.”
Không thể đồng ý về các đề xuất cụ thể?
Tài liệu Làm việc là kim chỉ nam cho công việc của Thượng hội đồng đưa ra giả thuyết giáo dân có thể giảng lễ, Hồng y Steiner cho biết một số nhận xét đã được đưa ra trong các cuộc tranh luận: “Tôi không biết điều này sẽ như thế nào trong văn bản cuối cùng. Với một số thành viên được hãng tin I.Media phỏng vấn, họ cho biết mỗi đoạn trong Tài liệu Làm việc phải được đa số 2/3 biểu quyết – đây là một trở ngại cho bất kỳ tiến bộ cụ thể nào về các chủ đề nhạy cảm.”
Đức Hồng y Eijk năm nay 71 tuổi, vốn là một bác sĩ y khoa, trước khi đi tu làm linh mục. Trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Communio, ấn bản trực tuyến, truyền đi ngày 16 tháng Mười vừa qua, ngài nói rằng từ kinh nghiệm sai lầm của Giáo hội Hòa Lan, với những lập trường cấp tiến, Giáo hội hoàn vũ có thể học được những bài học để khỏi đi vào cùng một con đường. “Ai gieo rắc sự hỗn độn thì làm cho người ta xa lìa Giáo hội. Làm như thế, bạn sẽ không bao giờ dẫn đưa được ai trở về với Giáo hội”.
“Thay vào đó, tốt hơn Giáo hội phải tập trung vào việc loan báo Tin mừng và cử hành phụng vụ, để có thể sẵn sàng đón nhận tương lai. Tại các giáo xứ, trong đó đức tin được loan báo tốt đẹp và phụng vụ được cử hành xứng đáng, thì nhà thờ đầy các tín hữu. Vấn đề ở đây là để Chúa Kitô ở trung tâm. Theo mức độ dân chúng khám phá Chúa Kitô và hiểu rõ hơn về Kinh thánh, họ sẽ hiểu rõ hơn về Giáo hội”.
Hòa Lan thuộc vào số những nước bị tục hóa cao độ nhất thế giới. Hơn một nửa dân chúng coi mình là những người vô thần hoặc không biết gì về tôn giáo.
Giáo hội Công giáo Hòa Lan đã cử hành công đồng mục vụ từ năm 1966 đến năm 1970, để áp dụng những kết luận của Công đồng chung Vatican II (1962-1965). Đức Hồng y Willem Eijk nhận định rằng tiến trình “Con đường công nghị” hiện nay của Giáo hội Công giáo tại Đức rất giống con đường Giáo hội Công giáo Hòa Lan hồi cuối thập niên 1960. Hồi đó, cũng như bây giờ, có những mong đợi thái quá, như bãi bỏ luật độc thân linh mục, rốt cuộc sau đó, từ những chủ trương như vậy chẳng có gì tốt đẹp nảy sinh.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Tổng giám mục Utrecht cũng nói đến việc cải tổ Giáo hội, như truyền chức cho phụ nữ, và ngài chống lại những giải pháp gọi là để tùy mỗi địa phương. Ngài nói: “Chúng ta phải theo con đường chung và đừng tách rời khỏi Giáo hội hoàn vũ. “Nếu hiệp nhất không còn nữa trong việc loan báo Tin mừng thì chúng ta sẽ mất. Giáo hội không còn đáng tín nhiệm nữa. Dầu sao, đa số các tham dự viên tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, đang nhóm tại Roma đến cuối tháng Mười này, không phấn khởi về những vấn đề như truyền chức thánh cho phụ nữ.”
Đức Hồng y nói thêm: “Chúng ta phải nhớ rằng Âu châu chỉ là một phần nhỏ của Giáo hội hoàn cầu và đang giảm sút. Hơn nữa, tất cả các dân tộc ở Âu châu và Bắc Mỹ không có cùng lập trường về những vấn đề này”.
Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Nữ tu Sheila Leocádia Pires
Nữ tu Sheila Leocádia Pires, người Mozambique, phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục miền nam Phi châu, cho biết như trên và nói thêm rằng yêu cầu này đã được các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục hưởng ứng bằng tràng pháo tay dài.
Trả lời câu hỏi của báo chí, nữ tu Pires cho biết hiện tượng lạm dụng này không phải chỉ xảy ra ở Phi châu, nhưng cả các đại lục khác.
Trước câu hỏi: đề tài này có được đề cập đến trong Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục hay không, nữ tu Pires nói là không biết. Vấn đề được nói đến là mọi hình thức lạm dụng, kể cả sự bạo hành về tính dục từ phía giáo sĩ.
Chủ tịch Hiệp hội các dòng tu Mỹ châu Latinh, gọi tắt là CLAR, nữ tu Gloria Franco Echevăerri, tuyên bố rằng trong vấn đề này, Giáo hội phải dấn thân vào con đường hoán cải. Cả trong các cộng đoàn nữ tu cũng cần thay đổi để ngăn chặn mọi hình thức lạm dụng. Nếu phẩm giá và quyền của các nữ tu bị thương tổn, thì phải trình báo. Giáo hội cần có một nền văn hóa cảnh giác”.
Đức cha Zbignev Stankevics, Tổng giám mục Giáo phận Riga, thủ đô Cộng hòa Lettoni, hay Latvia, nhấn mạnh rằng, theo ý ngài, vấn đề lạm dụng này cũng thuộc đề tài của Thượng Hội đồng Giám mục, vì gương mù cản trở sứ mạng truyền giáo của Giáo hội.
Theo ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Truyền thông của Tòa Thánh, trong Thượng Hội đồng Giám mục cũng có đề cập đến vấn đề: làm thế nào để tránh những sai lầm của các giám mục trong việc xử lý những vụ lạm dụng. Một số quyết định sai lầm được chính các giám mục nhận thấy hoặc dưới sức ép. Đàng khác, cũng cần những cuộc gặp gỡ và tham khảo ý kiến với giám mục khác và một thái độ minh bạch và trách nhiệm.
The Synod scrapped the idea of allowing women to be deacons
Trang mạng của Hội đồng Giám mục Đức truyền đi, ngày 18 tháng Mười vừa qua, cho biết buổi lễ được làm trên tàu để tránh bị ngăn cản hoặc phá rối, và diễn ra trong lúc Thượng Hội đồng Giám mục thế giới kỳ thứ XVI đang tiến hành ở Vatican, và vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ bị loại khỏi chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng.
Giáo luật Công giáo không trù định việc truyền chức thánh cho phụ nữ và người nào tích cực cử hành hoặc cộng tác vào việc làm này, sẽ bị vạ tuyệt thông.
Trong buổi lễ do “Hiệp hội quốc tế các nữ linh mục Công giáo” tổ chức, có ba phụ nữ chịu chức linh mục là Belen Repiso Carrillo, người Tây Ban Nha, Anne La Tour và Mary Katherine Daniels từ Mỹ. Tiếp đến là Loan Rocher người Pháp, Maria Teresa Ribeiro Rosa và Txus Garcia Pascual, người Tây Ban Nha, là ba người chịu chức phó tế. Tham dự buổi lễ, có 70 người và nhiều người khác thuộc giới truyền thông.
Bà Bridget Mary Meehan, người Mỹ, từ 16 năm nay (2009) tự xưng là giám mục ở bang Florida, đã cử hành buổi lễ truyền chức ngụy tạo, dài 2 tiếng đồng hồ, với mọi nghi thức như buổi lễ truyền chức thực sự.
Trong bài giảng, bà giám mục tự xưng Meehan nói rằng trong Giáo hội, thực tế là phụ nữ đã thi hành các công tác của phó tế, tuy không được truyền chức chính thức. Kinh thánh kể có nhiều phụ nữ được Chúa Giêsu kêu gọi và theo Chúa. Maria Madalena được sai đi như tông đồ đầu tiên loan báo tin Chúa sống lại cho các tông đồ. Bà Meehan kêu gọi Giáo hội hãy truyền chức linh mục và phó tế cho phụ nữ, rồi kết thúc với câu: “Chúng tôi sẵn sàng!”, trước những tiếng vỗ tay của mọi người!
Phong trào tên là “Chúng tôi là Giáo hội” (Wir sind Kirche), đang hô hào Thượng Hội đồng Giám mục trong việc truyền chức này, với khẩu hiệu: “Bình đẳng cho mọi tín hữu đã chịu phép rửa. Bình đẳng tại Thượng Hội đồng!”
Từ khi có buổi lễ truyền chức linh mục ngụy tạo hồi năm 2002, trên sông Danube, bên Áo, hiện nay có mười tám phụ nữ xưng mình là giám mục và khoảng 300 phụ nữ xưng là linh mục đã được thụ phong.
Đây là một trong những tòa nhà Công giáo lâu đời nhất ở Chile, chủ yếu được làm bằng gỗ và có niên đại từ thế kỷ 17. Nhà thờ được xây dựng vào thời điểm Tây Ban Nha chinh phục Nam Mỹ và là nơi đầu tiên dòng Phanxicô đến khu vực này, và từ năm 1994 đã được công nhận là di tích quốc gia.
Ngọn lửa bùng phát vào ngày hôm trước bên dưới tượng của một vị thánh và ban đầu đã được đội cứu hỏa khống chế. Sau đó, không rõ lý do, ngọn lửa tiếp tục 24 giờ sau đó. Các đơn vị chữa cháy, tổng cộng có 12 người, đã không thể ngăn chặn ngọn lửa thiêu rụi hoàn toàn tòa nhà bằng gỗ. Các nhân chứng mô tả vụ cháy là một sự tàn phá hoàn toàn, một thảm họa cho khu vực.
Các nhà chức trách đã mở một cuộc điều tra và một nhóm điều tra viên hiện đang làm việc để tìm bằng chứng về nguyên nhân ban đầu của vụ cháy.
Trong một video đăng trên Facebook, Đức Cha Isauro Covili của giáo phận Iquique nói: “Chúng ta đang đối diện với một tình huống đau lòng như vậy, một thảm kịch về mặt di sản của chúng ta, về nhà thờ giáo xứ Thánh Antôn thành Padova đã bị thiêu rụi, cũng như tu viện Phanxicô”. Ngài nói thêm: “[Đó] là một tòa nhà, như chúng ta đều biết, rất có giá trị lịch sử và quan trọng đối với thành phố và khu vực. Chúng ta thực sự đau lòng vì vụ cháy và hậu quả của nó”.
Trong khi nhắc các tín hữu rằng dù nhà thờ bị thiêu rụi hoàn toàn, “Giáo hội, thân thể của Chúa Giêsu Kitô, thân thể sống động của Chúa Giêsu, sẽ vẫn tiến bước giữa đau buồn, bi kịch và nước mắt để cử hành với niềm vui và hy vọng đức tin và lời tuyên bố của Chúa Giêsu Kitô”, Đức Cha Covili cũng cám ơn đội cứu hỏa đã làm việc chăm chỉ, cũng như cảm ơn sự gần gũi và quan tâm của nhiều người.
Tu viện Dòng Phanxicô ở Tiro đã đón tiếp nhiều gia đình tị nạn tại miền này, trước các cuộc tấn công của Israel. Nay dân chúng thuộc khu vực Hồi giáo ở miền nam Liban, trong đó có tu viện Phanxicô, phải di tản.
Cha Toufic Mehri kể với trang mạng Tempi.it ở Ý rằng: “Tôi đã nói các anh em Dòng Phanxicô: chúng ta ở lại đây không phải vì chúng ta là những anh hùng, không phải để canh giữ các tảng đá. Nếu dân chúng không cần chúng ta nữa, nếu tất cả đã di tản, thì cả chúng ta cũng ra đi. Chúng ta sẽ hữu dụng hơn ở Beirut.”
Cha Toufic chỉ mang theo được những gì cần thiết, các di tích thánh và Mình Thánh Chúa, rồi đi Beirut.
Trong đêm trước đó, làng Kitô ở Deir Mimas, gần biên giới Israel, đã bị oanh kích nặng nề. Dân chúng buộc lòng phải tản cư. Họ chia thành nhiều nhóm để di tản bằng xe hơi. Cả những con đường dẫn đến Beirut cũng bị dội bom.
Tin mới nhất cho biết, một làng Kitô Aitou ở miền bắc Liban cũng bị Israel không kích, mặc dù đây là vùng ở ngoài sự kiểm soát của dân quân Hezbollah mà Israel đang tìm cách tiêu diệt. Bom đã san bằng một tòa nhà nhỏ được các gia đình tản cư thuê, khiến cho khoảng 20 người bị thiệt mạng dưới các đống gạch vụn.
Trong hai tuần qua, từ khi Israel tấn công Liban, đã có 2.300 người bị thiệt mạng. Liban đang có nguy cơ trở thành Gaza thứ hai.
Theo thống kê được phổ biến trên trang mạng Ekai, Công giáo Ba Lan, nhân Ngày Thế giới Truyền giáo, Chúa nhật, ngày 20 tháng Mười tới đây, các thừa sai Ba Lan hoạt động đông nhất tại Phi châu và Madagascar, với 660 vị, gồm 66 linh mục giáo phận, 257 nam tu sĩ và 322 nữ tu, 15 giáo dân. Đứng đầu trong số các nước có đông thừa sai Ba Lan là Cameroon, với 101 vị, tiếp đến là 65 vị tại Tanzania.
Mỗi năm, vào ngày 01 tháng Mười, Ủy ban Giám mục Ba Lan về truyền giáo, công bố các thống kê về các nhân sự và các hoạt động thừa sai của Giáo hội nước này. Tại Mỹ châu Latinh, có 646 thừa sai Ba Lan, đứng đầu là tại Brazil với 193 vị.
Tại Á châu, có 280 thừa sai Ba Lan hoạt động. Từ nhiều năm nay, quốc gia có số thừa sai Ba Lan đông nhất vẫn là Kazachstan, với 97 vị. Nhật Bản có 24 và Philippines có 23 thừa sai Ba Lan.
Có 23 thừa sai Ba Lan là giám mục, hầu hết thuộc các dòng tu, đông nhất tại Mỹ châu Latinh và Caraibí, với 11 vị. Tiếp đến là 5 vị tại Phi châu, 2 tại Á châu và 3 vị tại Úc châu, 2 giám mục tại Bắc Mỹ.
Con số trên đây tuy có vẻ nhiều, nhưng thực ra số thừa sai Ba Lan tại nước ngoài liên tục giảm sút, vì số ơn gọi linh mục và nữ tu trong nước tiếp tục suy giảm, nên cũng không gửi các thừa sai ra nước ngoài. Trung tâm đào tạo thừa sai ở thủ đô Varsava, những năm trước đây thường có khoảng 30 học viên, năm ngoái chỉ có 15 người và năm nay còn 7 người.
THÔNG BÁO PHỤNG VỤ
VỀ CỬ HÀNH THÁNH LỄ CHIỀU THỨ BẢY 02/11/2024
Kính gởi quý cha và các cộng đoàn trong giáo phận.
- Những ai tham dự thánh lễ Cầu cho tín hữu đã qua đời vào chiều thứ Bảy 2/11/2024, thì đã chu toàn luật buộc tham dự thánh lễ Chúa Nhật (x. Bộ Giáo Luật 1983, số 1248, triệt 1).
LM. Phaolô Nguyễn Đức Nguyên
Trưởng ban phụng vụ giáo phận
Chính Đức Thánh cha đã thông báo sẽ ban hành văn kiện này, trong buổi Tiếp kiến chung, ngày 05 tháng Sáu năm nay, tại Quảng trường thánh Phêrô, nhân tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thông điệp được công bố vào một trong những thời điểm bi thảm nhất của lịch sử nhân loại. Những cuộc chiến làm hao mòn, những chênh lệch xã hội và kinh tế, trào lưu duy tiêu thụ thái quá, các kỹ thuật mới có nguy cơ làm biến thái chính bản chất con người, đánh dấu thời đại tân tiến ngày nay. Qua thông điệp này, Đức Thánh cha mời gọi mọi người hãy thay đổi cái nhìn, thay đổi viễn tượng, mục tiêu, đồng thời phục hồi điều quan trọng và cần thiết nhất, đó là con tim.
Văn kiện được công bố có tiêu đề là “Thông điệp về tình yêu nhân trần và thần linh của Thánh Tâm Chúa Giêsu”, hoàn toàn nói về lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa.
Hiện nay là thời kỳ mừng kỷ niệm 350 năm Chúa Giêsu tỏ lộ Trái Tim của Ngài cho thánh nữ Magarita Maria Alacoque, Dòng Thăm viếng, ở Đan viện Paray-le-Monial, miền trung nước Pháp, tiến hành từ ngày 27 tháng Mười Hai năm 2023 đến ngày 27 tháng Sáu năm 2025. Các lần hiện ra của Chúa Giêsu với thánh nữ còn tiếp tục trong 17 năm trời, với trái tim Chúa ở trên một ngai lửa, chung quanh có một vòng gai, biểu tượng những vết thương do tội lỗi loài người gây ra. Chúa Giêsu dạy thánh nữ, vào ngày thứ Sáu, sau lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, nghĩa là tám ngày sau, được dành để kính Thánh Tâm Chúa. Đó là một sứ mạng không dễ dàng, vì chị nữ tu gặp phải sự thiếu cảm thông, ngay nơi các chị em cùng dòng và các bề trên. Họ coi chị là một người hoang tưởng. Nhưng thánh nữ không nản lòng, trái lại, đã dành trọn cuộc sống để phổ biến tình thương của Chúa Kitô.
Thông điệp mới của Đức Thánh cha sẽ được công bố trong một cuộc họp báo, do Đức Tổng giám mục Bruno Forte, một nhà thần học, Tổng giám mục Giáo phận Chieti, và là thành viên Bộ Giáo lý đức tin, cùng với nữ tu Antonella Fraccaro, Bề trên Tổng quyền Dòng Các nữ môn đệ Tin mừng (Discepole del Vangelo) giới thiệu.
Thông điệp gồm 220 số, được chia thành 5 chương, bắt đầu với lời của Thánh Phaolô nói về Chúa Kitô: “Dilexit nos” (Người đã yêu thương chúng ta) (Rm 8,37) để giúp chúng ta khám phá rằng “không gì có thể tách rời chúng ta” khỏi tình yêu này (Rm 8,39).
Đức Thánh Cha cũng viết trong số đầu tiên của Thông điệp: “Trái tim rộng mở của Người đi trước chúng ta và chờ đợi chúng ta vô điều kiện, không đòi hỏi bất kỳ yêu cầu nào trước để có thể yêu thương chúng ta và cống hiến cho chúng ta tình bạn của Người: Người yêu thương chúng ta trước (x. 1 Ga 4,10). Nhờ Chúa Giêsu “chúng ta đã biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1 Ga 4,16)” .
Trong Trái Tim Chúa Giêsu chúng ta nhận ra chính mình và học cách yêu thương
Trong một xã hội với sự gia tăng của “nhiều hình thức tôn giáo khác nhau mà không đề cập đến mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa tình yêu” , trong khi Kitô giáo thường quên mất “sự dịu dàng của đức tin, niềm vui của việc cống hiến để phục vụ, lòng nhiệt thành truyền giáo từ người này sang người khác", Đức Thánh Cha đề xuất tái đào sâu về tình yêu của Chúa Kitô được thể hiện trong Thánh Tâm Người và mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính đích thực của mình bằng cách nhớ rằng trong Trái Tim Chúa Kitô “chúng ta có thể tìm thấy toàn bộ Tin Mừng” : chính trong Trái Tim Người mà “cuối cùng chúng ta nhận ra chính mình và học cách yêu thương” .
Đức Thánh Cha giải thích rằng bằng cách gặp gỡ tình yêu của Chúa Kitô, “chúng ta có khả năng dệt nên những mối dây huynh đệ, nhận ra phẩm giá của mỗi con người và cùng nhau chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta”. Và trước Trái Tim Chúa Kitô, ngài cầu xin Chúa “một lần nữa tỏ lòng thương xót đối với trái đất bị thương tích này” bằng cách tuôn đổ trên đó “những kho tàng ánh sáng và tình yêu của Người”, để thế giới “tồn tại giữa chiến tranh, những mất cân bằng kinh tế xã hội, chủ nghĩa tiêu thụ và việc sử dụng công nghệ chống con người, có thể phục hồi điều quan trọng và cần thiết nhất: trái tim”.
Chương 1: Tầm quan trọng của trái tim
Chương thứ nhất, “Tầm quan trọng của trái tim”, giải thích tại sao cần phải “trở về với trái tim” trong một thế giới mà chúng ta bị cám dỗ “trở thành những người tiêu dùng vô độ” . Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng hiện nay tầm quan trọng của trái tim bị đánh giá thấp lại do “chủ nghĩa duy lý Hy Lạp và tiền Kitô giáo, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật hậu Kitô giáo”, vốn ưa thích các khái niệm như “lý trí, ý chí hay tự do”.
Chương 2: Những cử chỉ và lời nói yêu thương của Chúa Kitô
Chương thứ hai nói về những cử chỉ và lời nói yêu thương của Chúa Kitô, những cử chỉ qua đó Người cư xử với chúng ta như những người bạn và cho thấy rằng Thiên Chúa “là sự gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng”.
Chương 3: Đây là trái tim đã yêu thương rất nhiều
Trong chương thứ ba, “Đây là trái tim đã yêu thương rất nhiều”, Đức Thánh Cha cho thấy rõ rằng Trái Tim Chúa Kitô chứa đựng “ba mặt của tình yêu”: sự nhạy cảm của trái tim thể lý “và tình yêu thiêng liêng kép của Người, con người và Thiên Chúa”, trong đó chúng ta tìm thấy “cái vô hạn trong cái hữu hạn”. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính Trái Tim Chúa Kitô cũng để chống lại “những biểu hiện mới của một ‘linh đạo phi thân xác’” hiện diện trong xã hội”. Cần phải quay trở lại với “sự tổng hợp nhập thể của Tin Mừng” khi đứng trước “các cộng đồng và các mục tử chỉ tập trung vào các hoạt động bên ngoài, những cải cách cơ cấu không có Tin Mừng, các ám ảnh về tổ chức, các dự án trần thế, những suy tư thế tục hóa”, trước các đề xuất “mà đôi khi đòi áp đặt lên mọi người”.
Chương 4: Tình yêu ban nước Thánh Thần
Trong chương thứ tư, “Tình yêu ban nước uống”, Đức Thánh Cha trích dẫn một số Giáo phụ đã nói về “vết thương nơi cạnh sườn Chúa Giêsu là nguồn gốc của nước Thánh Thần” làm dịu đi cơn khát tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta. Thánh Augustinô “đã mở đường cho việc sùng kính Thánh Tâm như một nơi gặp gỡ cá nhân với Chúa”. Đức Thánh Cha nhắc lại, dần dần khía cạnh bị thương tích này “đã mang hình dáng của trái tim”, và liệt kê một số phụ nữ thánh thiện đã “kể lại những kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô, được đặc trưng bởi sự an nghỉ trong Trái Tim Chúa”.
Đức Thánh Cha cũng nhắc lại kinh nghiệm kết nối mật thiết với Thánh Tâm Chúa Giêsu của một số vị thánh như Thánh Magarita Maria Alacoque, Thánh Têrêsa thành Lisieux, Thánh Faustina Kowalska, Thánh Gioan Phaolô II.
Chương 5: Tình yêu vì tình yêu
Trong chương thứ năm và cũng là chương cuối cùng “Tình yêu vì tình yêu”, Đức Thánh Cha đi sâu vào chiều kích cộng đồng, xã hội và truyền giáo của mọi lòng sùng kính đích thực đối với Trái Tim Chúa Kitô, Đấng mà khi “dẫn chúng ta đến với Chúa Cha, sai chúng ta đến với anh em của chúng ta”. Thực ra, “tình yêu dành cho anh em” là “cử chỉ lớn nhất mà chúng ta có thể cống hiến cho họ để đáp lại tình yêu bằng tình yêu”. Nhìn vào lịch sử linh đạo, Đức Thánh Cha nhắc lại rằng sự dấn thân truyền giáo của Thánh Charles de Foucauld đã biến ngài thành một “người anh em phổ quát”: “để cho mình được uốn nắn bởi Trái Tim Chúa Kitô, ngài muốn đón nhận toàn thể nhân loại đang đau khổ trong trái tim huynh đệ của mình”.
Đền tạ Thánh Tâm
Sau đó, Đức Thánh Cha nói về “sự đền tạ” Thánh Tâm, như Thánh Gioan Phaolô II giải thích: “bằng cách cùng nhau hiến thân cho Trái Tim Chúa Kitô, ‘trên những đống đổ nát do hận thù và bạo lực tích tụ, Người có thể xây dựng nền văn minh của tình yêu mà nhiều người mong ước, vương quốc của trái tim Chúa Kitô’”.
Thông điệp một lần nữa nhắc lại lời Thánh Gioan Phaolô II rằng việc thánh hiến cho Trái Tim Chúa Kitô “được so sánh với hoạt động truyền giáo của chính Giáo Hội”, và lời Thánh Phaolô VI nhấn mạnh, chúng ta cần “những nhà truyền giáo yêu thương, những người đã để Chúa Kitô chinh phục”.
Thông điệp kết thúc với lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha.
Trong thông điệp Người đã yêu thương chúng ta, Đức Phanxicô xin chúng ta mở lòng ra với việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngày thứ năm 24 tháng 10, ngài công bố thông điệp thứ tư trong 12 năm triều của ngài có tựa đề “Người đã yêu thương chúng ta”, về tình yêu nhân bản và thiêng liêng của Trái Tim Chúa Giêsu Kitô. Theo Vatican, văn bản cũng là một phần của “lễ kỷ niệm 350 năm ngày Thánh Tâm Chúa Giêsu tỏ hiện lần đầu với Thánh Marguerite-Marie Alacoque năm 1673” tại Paray-le-Monial, Paris.
Thông điệp thần bí này khác với hai thông điệp trước đây mang tính xã hội: Thông điệp Laudato si’ năm 2015 và Thông điệp Fratelli Tutti năm 2020. Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta dựa vào linh đạo “phục vụ” người khác. Ngài đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có thể làm hài lòng Trái tim đã yêu thương chúng ta vô bờ khi chúng ta duy trì một kinh nghiệm tôn giáo mật thiết, không tạo những hậu quả về tình huynh đệ và xã hội không?”
Trong phần kết luận ngài giải thích thông điệp Người đã yêu thương chúng ta liên quan với các Thông điệp Laudato si’ và Thông điệp Fratelli Tutti, nhấn mạnh đến cuộc gặp của chúng ta với tình yêu Chúa Giêsu Kitô: “Khi chúng ta ở trong tình yêu này, chúng ta có khả năng dệt tình huynh đệ, nhìn nhận phẩm giá của mỗi con người và cùng nhau chăm sóc ngôi nhà chung.” Không trích dẫn thông điệp đầu tiên Hiến chế Tín lý về Hội thánh Lumen Fidei được công bố tháng 7 năm 2013, ba tháng sau khi ngài được bầu chọn, thông điệp này được Đức Bênêđíctô XVI viết tập trung vào các nhân đức thần học về đức tin, đức cậy và đức ái.
Ủng hộ người nghèo, người di cư và hệ sinh thái
Các thông điệp là dấu ấn về căn tính của một triều giáo hoàng. Đức Phanxicô sẽ 88 tuổi vào tháng 12 sắp tới, ngài đi vào lịch sử với các định hướng xã hội mạnh mẽ, ủng hộ người nghèo, người di cư và hệ sinh thái, qua thông điệp mới này, phát sinh đức tin công giáo một cách tự nhiên, ngài giải thích: “Kitô giáo cuốn hút khi kitô giáo được sống và thể hiện một cách trọn vẹn, kitô giáo không phải là nơi ẩn náu đơn thuần của các cảm xúc tôn giáo hay với các nghi lễ xa hoa. Vì làm sao chúng ta có thể kính Chúa Kitô nếu chúng ta không giúp đỡ người khác, giúp họ bớt đau khổ và sống tốt hơn?”
Ngài nhấn mạnh: “Xin anh chị em chân thành đọc Lời Chúa vì Tin Mừng không chỉ để suy gẫm mà còn phải được sống trong tâm hồn và yêu thương tha nhân. Cũng vậy, vấn đề không phải là làm việc để thăng tiến xã hội mà không có ý nghĩa tôn giáo”.
Sứ mệnh của Giáo hội cần những người truyền giáo yêu thương, luôn được Chúa Kitô cuốn hút. Họ là những người không lãng phí thời gian để thảo luận những vấn đề thứ yếu hay áp đặt các sự thật và quy tắc, họ là những người không mệt mỏi chuyển tải tình yêu đã thay đổi cuộc đời họ. Tóm lại, “đó là vấn đề đào sâu chiều kích cộng đồng, xã hội và truyền giáo của lòng kính mến Trái Tim Chúa Kitô.
“Phản ứng với chủ nghĩa Giăng-xen khắc khổ”
Thông điệp dài 140 trang là luận thuyết về linh đạo công giáo nhằm giải thích ý nghĩa của việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Một câu chuyện thần bí được Đức Phanxicô kể lại, hết chương này đến chương khác, một cách rất giáo dục, quen thuộc với chủ đề vì lòng kính mến đặc biệt này đã nuôi dưỡng linh đạo Dòng Tên. Ngài xin đừng ai chế nhạo lòng sốt sắng khi khi chạm đến Trái Tim Chúa Giêsu.
Vị trí hàng đầu được trao cho Thánh Marguerite-Marie Alacoque, ngài đã nhìn thấy Chúa Kitô ở Paray-le-Monial. Đó là để phản ứng lại với thuyết Giăng-xen khắc khổ, không quan tâm đến lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa như Đức Gioan Phaolô II đã nói và đã được Đức Phanxicô trích dẫn.
Thông điệp trích dẫn các bậc thầy và các Thánh: François de Sales, Claude La Colombière, Charles de Foucauld, Thérèse Hài Đồng Giêsu, Thánh John Henry Newman, Nữ tu Faustine Kowalska, Thánh I-Nhã.
Đức Phanxicô đặt trái tim vào trọng tâm mọi việc. Ngài viết: “Tôi đi theo trái tim của tôi, chính trái tim làm tôi khác biệt, định hình căn tính thiêng liêng của tôi, giúp tôi hiệp thông với người khác. Vì thế điều quan trọng là phải khám phá lại tầm quan trọng của trái tim vì xã hội chúng ta đã đánh mất trái tim của mình”. Theo ngài, chỉ có tình yêu của Chúa Kitô mới có thể tạo ra một nhân loại mới cho chúng ta: “Trái tim của chúng ta hiệp với trái tim của Chúa Kitô có khả năng thực hiện phép lạ xã hội này vì Thánh Tâm là nguyên lý hiệp nhất của thực tại.”
Đức Phanxicô sẽ công bố thông điệp về Thánh Tâm, việc tôn kính Thánh Tâm bao gồm những gì?
Cha Etienne Kern: Việc tôn kính Thánh Tâm là dâng hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu theo đúng nghĩa đen. Đó là việc suy gẫm trái tim bằng xương bằng thịt của Chúa, biểu tượng nhập thể nhưng cũng là biểu tượng của tình yêu cho nhân loại.
Lòng tôn kính này đến từ đâu?
Đầu tiên từ chính Kinh Thánh. Đoạn Phúc âm Thánh Gioan 19:34 – “Một người lính lấy lưỡi đòng đâm vào sườn Ngài, lập tức máu và nước chảy ra” – tiếp theo là đoạn: “Họ sẽ nhìn Đấng họ đã đâm thâu.” Theo nghĩa này, các Tổ phụ Sa mạc, thần học gia đầu tiên đã suy gẫm về mầu nhiệm này, xem Trái Tim Chúa Kitô là “nguồn nước hằng sống”.
Vào thời Trung cổ, nhiều nhà văn thần bí, đặc biệt là Thánh Bênađô Clairvaux phát triển lòng tôn kính này, vào thế kỷ 17 có Thánh Jean Eudes. Cho đến nay, công việc tôn kính này gần như chỉ dành riêng cho những người có đạo.
Vì sao và làm thế nào lòng sùng kính này lại trở nên phổ biến?
Việc tôn kính Thánh Tâm được phổ biến nhờ Thánh Marguerite-Marie Alacoque, nữ tu Dòng Thăm Viếng, ngài kể lại hai trải nghiệm thần bí năm 1673 và 1675 tại Paray-le-Monial, Chúa Kitô hiện ra để xin nữ tu phát huy lòng tôn kính Thánh Tâm Ngài. Và nữ tu đã để cả đời để làm công việc này với sự trợ giúp của cha Claude La Colombière, người hướng dẫn thiêng liêng của nữ tu.
Vào thế kỷ 18, các dòng tu tiếp tục lòng tôn kính, đặc biệt Dòng Tên và Dòng Đức Mẹ Đi Viếng. Năm 1720, thành phố Marseille là thành phố đầu tiên được dâng hiến cho Thánh Tâm để xin được cứu khỏi bệnh dịch hạch.
Năm 1856, Lễ Thánh Tâm được Đức Piô IX thiết lập cho toàn Giáo hội, các cuộc hành hương đến Paray-le-Monial ngày càng thường xuyên và quy mô.
Theo thời gian sự tôn kính này được phát triển như thế nào?
Vào đầu thế kỷ 20, trong một thông điệp năm 1956, Đức Piô XII đã nêu lên tình trạng đời sống thiêng liêng bị suy thoái. Trong những năm 1970, lòng kính mến Thánh Tâm đã trở lại, đặc biệt nhờ thánh đường Paray-le-Monial. Năm 1986, Thánh Gioan Phaolô II đã đến đây, đó là giai đoạn lịch sử quan trọng của thánh đường. Ngày nay, sự tôn kính dần dần quay trở lại, một nảy mầm chậm rãi mà theo tôi nhờ ba lý do: việc tái khám phá trái tim Chúa Giêsu, cảm nghiệm Paray-le-Monial và việc nhìn trái tim Chúa Giêsu nơi người khác.
Cha phản ứng thế nào trước việc công bố thông điệp mới này về Thánh Tâm?
Một niềm vui lớn lao. Chúng tôi chỉ mong đợi một tông huấn, nhưng dường như Đức Phanxicô muốn tóm tắt tinh thần triều của ngài với thông điệp tập trung vào Thánh Tâm. Chúng tôi dự kiến sẽ có nhiều người hành hương đến Paray-le-Monial hơn và chúng tôi chuẩn bị để chào đón họ.
Cuốn hồi ký mà Đức Thánh Cha bắt đầu thực hiện vào tháng 3/2019 sẽ được phát hành tại hơn 80 quốc gia vào ngày 14/1/2025.
Thông cáo của nhà xuất bản Random House trích dẫn lời của Đức Thánh Cha: “Cuốn sách cuộc đời tôi là câu chuyện về một hành trình hy vọng, một hành trình mà tôi không thể tách rời khỏi hành trình của gia đình tôi, của dân tộc tôi, của tất cả dân của Chúa. Trong từng trang, từng đoạn, đó cũng là cuốn sách của những người đã đồng hành cùng tôi, của những người đi trước, của những người sẽ theo sau”.
Đức Thánh Cha viết tiếp: “Một cuốn tự truyện không phải là câu chuyện riêng tư của chúng ta mà đúng hơn là hành trang mà chúng ta mang theo bên mình. Và ký ức không chỉ là những gì chúng ta nhớ lại mà còn là những gì xung quanh chúng ta. Nó không chỉ nói về những gì đã qua mà còn về những gì sẽ đến. Nó có vẻ giống như ngày hôm qua, nhưng thực ra là ngày mai. Tất cả đều được sinh ra để nở rộ trong một mùa xuân vĩnh cửu. Cuối cùng, chúng ta sẽ chỉ nói rằng: ‘Con không nhớ lại bất cứ điều gì mà Ngài không ở đó’”.
Cuốn hồi ký “Hy vọng”, theo Random House, đưa ra một góc nhìn độc đáo từ Đức giáo hoàng và chứa đựng “một kho tàng những tiết lộ và những câu chuyện chưa được công bố” trong đó cuộc đời của chính ngài là trọng tâm chính.
Cùng viết với Carlo Musso, người sáng lập nhà xuất bản độc lập của Ý Libreria Pienogiorno, hồi ký bắt đầu bằng lịch sử gia đình của Đức Phanxicô và cuộc di cư của họ từ Ý đến Châu Mỹ Latinh. Sau đó, cuốn sách tiếp tục kể về thời thơ ấu, cuộc sống trưởng thành, câu chuyện ơn gọi và toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài cho đến ngày nay.
Hồi tháng 3 năm nay cuốn sách cuối cùng của Đức Thánh Cha - “Cuộc đời: Câu chuyện của tôi qua lịch sử” - được xuất bản. Trong cuốn sách đó, Đức Thánh Cha đã kể lại trải nghiệm của ngài về các sự kiện lịch sử lớn bao gồm cuộc đảo chính ở Argentina năm 1976, mật nghị bầu ngài làm Giáo hoàng và đại dịch COVID-19
Nhà sử học Giovanni Maria Vian khẳng định, đạo công giáo đang đi qua thời kỳ mang tính quyết định lịch sử với phiên họp Thượng Hội đồng từ ngày 2 đến ngày 27 tháng 10, là cựu giám đốc nhật báo L'Osservatore Romano từ năm 2007 đến năm 2018, là nhà báo độc lập, ông có cái nhìn uyên bác và phê phán về Tòa thánh và giáo hoàng, tác phẩm mới nhất của ông, Giáo hoàng Cuối cùng (Le Dernier Pape. Nxb. Cerf).
Liệu Đức Phanxicô có phải là “giáo hoàng cuối cùng” như tựa đề quyển sách của ông không?
Giovanni Maria Vian: Danh hiệu này đề cập đến lời tiên tri của tiên tri Malachi, được cho là tu sĩ người Ai-len thời Trung cổ. Danh sách liệt kê một trăm giáo hoàng từ thế kỷ 12 đến một giáo hoàng có biệt danh là “Vinh quang của Cây Ô liu”. Sau đó, danh sách này tiếp tục với phần mô tả về ngày tận thế: “Trong cuộc đàn áp cuối cùng của Giáo hội la-mã, sẽ có một ‘Phêrô La Mã’ chăn dắt đoàn chiên vượt qua nhiều hoạn nạn. Thành phố bảy ngọn đồi sau đó sẽ bị hủy hoại và quan tòa khủng khiếp sẽ phán xét người dân.” Nếu nghiên cứu danh sách theo thứ tự, Đức Bênêđíctô XVI (1927-2022) là “Vinh quang của Cây Ôliu”, như thế Đức Phanxicô là “Phêrô La Mã” của ngày tận thế.
Tài liệu này được viết năm 1590 chắc chắn là sai – trước đây không thấy nhắc – với mục đích ủng hộ một hồng y trong mật nghị thời đó, và cũng để khẳng định với người Tin lành Cải cách, rằng danh sách các giáo hoàng vẫn còn dài.
Được một nhà báo người Đức hỏi về điều này năm 2016, ba năm sau khi ngài từ nhiệm, Đức Bênêđíctô XVI không tin lời tiên tri này, đã có một câu trả lời mà tôi thấy thú vị. Trước hết, ngài nhắc lại mức độ thế tục hóa ở Châu Âu và sự thay đổi sâu sắc trong đạo công giáo, sau đó ngài nói thêm: “Tôi không còn thuộc về thế giới cũ nữa, nhưng thực tế thế giới mới vẫn chưa thực sự bắt đầu.”
Do đó, Đức Bênêđíctô XVI khẳng định ngài và người kế nhiệm ngài thuộc một thế hệ được hình thành trong một thế giới công giáo “cũ”, một thế giới sẽ sớm không còn tồn tại. Ý tưởng chính, cũng là chìa khóa để đọc quyển sách của tôi: chúng ta đang ở một bước ngoặt trong đời sống của Giáo hội công giáo, và quyền lực của giáo hoàng không còn có thể được thực thi theo cách tương tự sau Đức Phanxicô.
Có nghĩa là? Những thay đổi nào sẽ được mong chờ?
Thế giới công giáo được cấu trúc xung quanh “quyền tối cao” của giáo hoàng: giáo hoàng được cho là “không thể sai lầm” và nắm giữ chính thức mọi quyền lực của Giáo hội. Ý tưởng này xuất hiện trong thế giới la-tinh từ những thế kỷ đầu tiên của kitô giáo, nhưng giáo điều về tính không thể sai lầm của giáo hoàng đã được Công đồng Vatican I công bố năm 1870. Một số người thấy đây là khả năng có ảnh hưởng phổ quát, đạo đức và tâm linh, gần như một hình thức tái cân bằng cho Tòa thánh sau khi Tòa Thánh mất các Quốc gia Giáo hoàng và quyền lực thế gian.
Cụ thể, tín điều về tính không thể sai lầm của giáo hoàng giả định giáo hoàng có thể có quyết định về các vấn đề đức tin và đạo đức. Đó là trường hợp năm 1950, khi Đức Piô XII (1876-1958) chính thức công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (Đức Maria “lên trời” cả hồn lẫn xác).
Nhưng đó chỉ là vấn đề thiết lập một ý tưởng đã có trong truyền thống công giáo từ lâu. Trên thực tế, chính với Đức Phanxicô mà nguyên tắc bất khả ngộ của giáo hoàng đã đạt đến đỉnh cao. Ngài không ngần ngại tuyên bố mình là người kế vị Thánh Phêrô tông đồ và thực thi quyền uy của ngài trong một số quyết định, như năm 2022 khi ngài cải cách Giáo triều dù bị phản đối, hoặc ngài can thiệp vào các cuộc tranh luận của Thượng Hội đồng gia đình năm 2014-2015 (hầu hết các đề xuất của các giám mục đều bị bác bỏ).
Trước đây chưa có giáo hoàng nào tuyên bố quyền lực đến mức này: đó là thuần túy chế độ thần quyền. Nghịch lý thay, chính Giáo hoàng đến từ Nam bán cầu – từ “tận cùng thế giới” như ngài hay nói – ngay từ đầu ngài đã kêu gọi phải giải tập trung nhiều hơn, bớt quyền của Rôma và cho “ngoại vi” nhiều quyền hơn. Nhưng ngài chưa đi đủ xa, và tôi nghĩ chúng ta đang phải đối diện với những bực tức, từ giáo dân đến giáo triều, đến hàng giám mục, và giáo hoàng tương lai sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải tìm ra một cách thức mới để thực thi quyền lực.
Có phải Đức Phanxicô đã không đi xa hơn các giáo hoàng tiền nhiệm của ngài không? Như cuộc cải cách giáo triều năm 2022 đã không mở cửa văn phòng các bộ ở Vatican cho giáo dân?
Đức Phanxicô có những ý định xuất sắc. Nhưng đây chỉ là khởi đầu của sự thay đổi, không phải là không có mâu thuẫn. Chắc chắn giáo dân có thể được bổ nhiệm làm bộ trưởng các bộ, nhưng thực tế chỉ có ông Paolo Ruffini (một trong khoảng ba mươi) là người đứng đầu Bộ Truyền thông. Và giáo hoàng có thể phản đối việc đề cử, cũng như ngài có thể đưa ra bất kỳ quyết định nào mà không cần tham khảo ý kiến của một bộ.
Chúng ta lấy ví dụ về hệ thống tư pháp của nước Vatican nhỏ bé. Theo Hiệp định Lateran (1929), ngày nay Vatican có thể đưa hoặc không đưa các vụ án hình sự ra trước công lý Ý. Vụ âm mưu ám sát Đức Gioan-Phaolô II (1920-2005) của ông Mehmet Ali Agça, nhà hoạt động cực hữu người Thổ Nhĩ Kỳ ngày 13 tháng 5 năm 1981 được giao cho công lý Ý. Nhưng năm 1998, vụ ám sát hai cận vệ Thụy Sĩ ở Vatican đã được giao cho tòa án Vatican. Tuy nhiên, công lý của Vatican chỉ là ảo tưởng. Không có sự phân chia quyền lực vì người đứng đầu mọi quyền lực là giáo hoàng.
Vatican vẫn hoạt động ngay cả trước thời Montesquieu (1689-1755). Và cả ngày nay, vì sao phiên tòa xét xử tòa nhà ở London (Hồng y người Ý Angelo Becciu bị tòa hình sự Vatican kết án năm năm rưỡi tù giam năm 2023 vì tham nhũng) lại không được giao cho công lý Ý hoặc Anh? Trên thực tế, những cải cách của Đức Phanxicô vẫn chưa xong.
Còn Thượng Hội đồng hiện nay thì sao? Từ bậc sống độc thân của linh mục đến các mục vụ truyền chức cho phụ nữ, những chủ đề nhạy cảm nhất đều đã bị gạt sang một bên. Chúng ta mong đợi gì?
Theo tôi, vấn đề chính của Thượng Hội đồng nằm ở phương pháp tham vấn. Mục tiêu là tạo ra sự năng động giữa giáo dân, khuyến khích họ có trách nhiệm với Giáo hội của họ, thoát ra khỏi vòng quyền lực thông thường bị giới hạn ở Rôma.
Tiến trình của Thượng Hội đồng này đôi khi được gọi là “thượng hội đồng về tính đồng nghị” (Vì một Giáo hội có tính đồng nghị: hiệp thông, tham gia và truyền giáo) bắt đầu bằng việc tham khảo ý kiến của giáo dân trên toàn thế giới. Các giám mục của mỗi quốc gia, sau đó là mỗi châu lục đã cùng nhau tổng hợp và bây giờ Thượng Hội đồng, lần đầu tiên quy tụ các tu sĩ, giáo dân – kể cả phụ nữ –, gặp nhau ở Rôma để thảo luận. Đây là điều chưa từng có.
Vẫn còn phải xem Đức Phanxicô sẽ giữ lại điều gì. Khi mở chức phó tế cho phụ nữ, ngài đã chỉ định một ủy ban lo việc này. Không có gì ngăn cản việc có các nữ phó tế vì đã có một số ở thời Cổ đại. Nhưng dù ý kiến của ủy ban đặc biệt này như thế nào thì có một rủi ro, đó là sẽ không có gì thay đổi. Vì mọi thứ đều nằm trong tay Giáo hoàng. Đức Phanxicô thường nhắc chúng ta phải thoát khỏi chủ nghĩa giáo sĩ trị, khỏi một Giáo hội được các giáo sĩ toàn năng lãnh đạo. Ngài hoàn toàn đúng. Nhưng ngài phải áp dụng yêu cầu này.
Triều Đức Phanxicô cũng là triều chứng kiến nhiều tiết lộ nhất về bạo lực tình dục của các giáo sĩ (thật sự là đã có từ đầu thế kỷ 20). Ông nghĩ câu trả lời của ngài mang lại là gì?
Trong các bài phát biểu của ngài, dường như ngài đã nắm được các vấn đề. Tuy nhiên, vẫn còn những vùng tối như vụ linh mục Dòng Tên Marko Rupnik người Slovenia bị buộc tội bạo lực tình dục. Tháng 5 năm 2020, linh mục bị dứt phép thông công và được dỡ bỏ một tháng sau đó. Trong một phỏng vấn tháng 1 năm 2023, Đức Phanxicô giải thích linh mục Rupnik đã thú nhận một phần cáo buộc và bồi thường cho nạn nhân. Bị loại khỏi Dòng Tên, cuối cùng linh mục được một giáo phận ở Slovenia nhận. Với sự hỗ trợ nào? Và hôm nay linh mục ở đâu? Bí ẩn, có người nói linh mục đang ở Rôma. Và các bức tranh khảm của linh mục vẫn tiếp tục trang hoàng cho các cơ sở của Giáo hội trên khắp thế giới, và các phương tiện truyền thông Vatican tiếp tục dùng để minh họa cho các bài báo hoặc thông điệp trên mạng xã hội, trước sự ngạc nhiên của các nạn nhân. Trường hợp này cũng như các trường hợp khác – Tổng giám mục Gustavo Zanchetta người Argentina thân cận với Đức Phanxicô, bị kết án tấn công tình dục năm 2022 và Giám mục Ấn Độ Franco Mulakkal (đã từ chức năm 2023, bị buộc tội cưỡng hiếp một nữ tu trong nhiều năm), vai trò của Đức Phanxicô cần được làm sáng tỏ.
Nói rộng hơn, chúng ta có thể lấy làm tiếc Giáo hội vẫn bị khóa chặt trong tầm nhìn xưa cổ về các chủ đề này. Trong giáo luật, bạo lực tình dục vẫn xếp vào loại vi phạm điều răn thứ sáu – “Chớ làm sự dâm dục” – như thế đây là tội ác và phải được xem là tội ác, như nhà thần học Lucetta Scaraffia viết trong một cuốn sách gần đây Vượt ra ngoài điều răn thứ sáu (Au-delà du sixième commandement, mxb Salvator, 2024).
Nếu Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô là các giáo hoàng của “thế giới cũ”, thì các giáo hoàng của “thế giới mới” sẽ như thế nào? Chân dung của họ sẽ ra sao?
Tôi sẽ không mạo hiểm dự đoán vị giáo hoàng tương lai, nhưng chúng ta có thể có những nhân cách đáng chú ý như Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa: Thượng phụ la-tinh của Giêrusalem, ngài là một trong những hồng y cuối cùng được Đức Phanxicô bổ nhiệm; ngài đại diện cho Giáo hội ở Thánh địa một cách cân bằng và can đảm trong thời điểm khó khăn này.
Hoặc Hồng y Anders Arborelius, Tổng giám mục Stockholm sinh ra ở Thụy Sĩ trong một gia đình theo giáo phái Luther, ngài trở lại đạo công giáo, biết nhiều ngoại ngữ, làm việc về các vấn đề tình dục, hướng tới chủ nghĩa đại kết: tác động của ngài vượt ra ngoài khuôn khổ Hội đồng Giám mục nhỏ bé của ngài.
Vì sao không phải là một giáo hoàng Châu Phi? Hồng y Fridolin Ambongo người Congo được nhiều người biết đến, ngài có chân trong “Hội đồng C9”, có trách nhiệm giúp Giáo hoàng quản trị Giáo hội. Hay một hồng y Châu Á, như hồng y Miến điện Charles Maung Bo? Một thách thức trong việc nối lại quan hệ với Trung Quốc trong những năm tới. Dù là ai, giáo hoàng tương lai phải nhạy cảm với thời của mình.
Tình trạng thế tục hóa đang gia tăng, đặc biệt ở phương Tây, chúng ta phải đối diện với những sa mạc tâm linh. Nhưng nhiều người vẫn tiếp tục khao khát sự siêu việt, đối đầu với những bí ẩn của sự sống và sự dữ, họ muốn được đón nhận, lắng nghe, trấn an và thách thức của một điều gì đó vượt quá họ. Tôi hy vọng người kế vị Thánh Phêrô tiếp theo sẽ có thể thỏa mãn được cơn khát này.
“Giáo hoàng cuối cùng” ( Le Dernier Pape, Giovanni Maria Vian. Nxb. Du Cerf).
Đức cha Bruno Syukur, năm nay 62 tuổi (1962), sinh quán tại Giáo phận Ruteng, trên đảo Flores, gia nhập Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục năm 1991. Cha du học Roma và đậu Cao học về Linh đạo tại Giáo hoàng Đại học Antonianum. Ngài từng làm Giám tỉnh của dòng tại Indonesia trong tám năm, từ 2001 đến 2009, sau đó làm Tổng cố vấn của dòng, đặc trách vùng Á châu Thái Bình Dương cho đến khi được Đức Thánh cha bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Bogor, trên đảo Java, Indonesia, từ ngày 21 tháng Mười Một năm 2013.
Dưới thời các vị Giáo hoàng tiền nhiệm, như Gioan Phaolô II và Biển Đức XVI, những người được chọn làm Hồng y thường được Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh báo trước 24 tiếng đồng hồ, trước khi Đức Thánh cha công bố. Nhưng Đức Thánh cha đương kim đã bỏ thói quen đó, và thường những vị được chọn lựa chỉ hay tin bổ nhiệm trong sự ngỡ ngàng, khi có những người thân quen, - sau khi nghe Đức Thánh cha thông báo, trong buổi đọc kinh Truyền tin hoặc một dịp lễ nào đó - gọi điện đến chúc mừng!
Hồi năm 2022, Đức cha Lucas Van Looy, nguyên Giám mục Giáo phận Gand, bên Bỉ, lẽ ra được phong Hồng y ngày 27 tháng Tám năm đó, nhưng đã xin Đức Thánh cha cho miễn nhận tước Hồng y, trước sức ép của dư luận ở Bỉ, trách cứ ngài đã không hành động đúng để xử lý hai tu sĩ bị tố cáo lạm dụng tính dục, khi còn làm thừa sai ở Phi châu và tại Gand sau đó.
Nhật báo này, xuất bản ngày 23 tháng Mười vừa qua, trích thuật một văn thư nội bộ của Bộ trưởng Kinh tế Tòa Thánh, ông Maximo Caballero, người Tây Ban Nha, phụ cấp cho các Hồng y sẽ bị cắt giảm, từ ngày 01 tháng Mười Một này, khoảng vài trăm Euro và đây là dấu chỉ cụ thể cần thiết về “tinh thần phục vụ.”
Ngày 20 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh cha đã viết một lá thư rất tha thiết, gửi Hồng y đoàn, trong đó ngài khẳng định rằng: “Các nguồn kinh tế để chu toàn sứ mạng thật là giới hạn, và vì thế phải được quản lý đúng quy luật và nghiêm túc để cố gắng của những người đã đóng góp cho gia sản của Tòa Thánh không bị uổng phí... Do đó, cần có sự cố gắng hơn nữa của tất cả mọi người để mục tiêu “không bị thiếu hụt”, không phải chỉ là một điều trên lý thuyết, nhưng là một mục tiêu đích thực có thể đạt được”.
Đức Thánh cha kêu gọi các Hồng y nêu gương về vấn đề này, tự giới hạn vào những gì thiết yếu, tránh mọi dư thừa, và phải góp phần làm sao để quân bình sự thiếu hụt chung của Tòa Thánh.
Từ lâu, Đức Thánh cha Phanxicô đã tìm các chấn chỉnh lại, minh bạch và hiệu năng hóa kinh tế của Tòa Thánh, với những biện pháp tiết kiệm, bắt đầu từ các vị lãnh đạo cao nhất, là các Hồng y. Năm ngoái, Đức Thánh cha đã bãi bỏ đặc ân của các Hồng y về nhà ở: từ nay, khi ký hoặc gia hạn các hợp đồng mới, cần phải được tính theo giá trị trường.
Hồi năm 2021, Đức Thánh cha đã cắt giảm 8% lương các Hồng y và các vị lãnh đạo cấp cao, trong khi các nhân viên khác thì bị cắt 3%.
Trong thư tháng 9 năm 2024, Đức Phanxicô đặc biệt xin những người đứng đầu các Bộ phải tìm đến nguồn tài chính bên ngoài – thông qua các quỹ, như trường hợp của Bộ Truyền thông.
Hiện tại, tình trạng tài chính của Vatican chưa được rõ, vì kể từ năm 2022, Ban Thư ký Kinh tế (SpE) không công bố báo cáo tài chính.
Những năm trước đây có xu hướng cho thấy tính không bền vững về mặt cấu trúc của mô hình được áp dụng trong dài hạn – hàng năm Vatican buộc phải bán bớt tài sản. Trong một phỏng vấn với Vatican News năm 2020, linh mục Guerrero cho biết từ năm 2016 đến năm 2020, doanh thu trung bình là 270 triệu âu kim, so với 320 triệu âu kim chi phí – mức thâm hụt trung bình hàng năm là 50 triệu âu kim. Sự thâm hụt liên quan đến gánh nặng tiền lương của 5.000 nhân viên nhưng cũng liên quan do việc quyên góp của giáo dân đã giảm nhiều trong những năm gần đây.
Trưa ngày 23/10/2024, trong cuộc họp báo về công việc của Thượng Hội đồng, Đức Hồng y Francis Prevost, Tổng trưởng Bộ Giám Mục, đã nói đến một số phẩm chất mà các ứng viên Giám mục phải có. Ngài nói rằng quyết định bổ nhiệm là của Đức Thánh Cha nhưng quá trình lựa chọn Giám mục sẽ ngày càng có sự tham gia của Dân Chúa.
Quá trình lựa chọn các Giám mục trong mỗi Hội đồng Giám mục và cách thức thực hiện việc này là một trong những vấn đề được thảo luận trong Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành.
Đức Hồng y Prevost đặt câu hỏi: “Vấn đề là: làm thế nào để quá trình tìm kiếm ứng viên Giám mục có thể trở nên hiệp hành hơn và bao gồm sự tham gia nhiều hơn không chỉ của các Giám mục mà còn của các linh mục, tu sĩ và giáo dân?”.
Vai trò của Sứ thần
Ngài nói đến sự tham gia của các Sứ thần trong quá trình lựa chọn này, những người đóng vai trò quan trọng trong việc sàng lọc ứng viên. Do đó, các Sứ thần phải biết rõ người dân trong các chuyến viếng thăm mục vụ và họ không chỉ “được cha xứ tiếp đón” và tham gia vào các nghi lễ.
Đồng thời, Tòa Thánh cũng xem xét các giáo phận cụ thể và nhu cầu của họ. Đó là lý do tại sao Sứ thần Tòa Thánh có trách nhiệm báo cáo không chỉ về các giám mục mà còn về các linh mục, giáo dân và tu sĩ. Để biết giáo phận như thế nào, nhu cầu của giáo phận và vị giám mục họ cần.
Tổng trưởng Bộ Giám mục giải thích rằng trong báo cáo của Sứ thần, bên cạnh việc tìm hiểu xem liệu ứng viên có gặp phải những vấn đề nghiêm trọng mà không ai biết, một số vấn đề sức khỏe nhất định, hoặc liệu có những khía cạnh khác khiến vị này không phải là một ứng viên thích hợp, còn có những “giá trị” mà các ứng viên cần có.
Thẩm quyền duy nhất của Giám mục là phục vụ
Đức Hồng y Prevost nhấn mạnh rằng thẩm quyền duy nhất của các Giám mục “là phục vụ”, và nói rằng điều rất quan trọng là phải thay đổi động lực của các cấu trúc quyền lực trong Giáo hội bằng cách nhấn mạnh nhu cầu phục vụ tất cả các thành viên của một giáo phận. Trong bối cảnh này, ngài nhấn mạnh rằng các Giám mục cần phải tham khảo ý kiến và làm việc với các linh mục, tu sĩ và giáo dân, cũng như các cấu trúc hiệp hành khác đã được công nhận trong giáo luật.
Giám mục có "mùi chiên"
Ngài cũng nhắc lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô rằng các Giám mục phải có “mùi chiên”, như một hệ quả của việc bước đi bên cạnh Dân Chúa và thậm chí “đau khổ với họ”. Ngoài ra, các Giám mục cũng phải có ơn lãnh đạo, đôi khi ngay cả trong “những cộng đoàn có nhiều linh mục tốt”, nhưng không có một người lãnh đạo giỏi thì “họ sẽ chẳng đi đến đâu cả”. Theo nghĩa này, ngài đã đề cập đến sứ vụ mục vụ của các Giám mục, những người không phải là “những nhà quản lý doanh nghiệp chỉ chuyên tâm vào các tổ chức, các vấn đề cơ cấu và nghi lễ”.
Tham dự khóa họp, có các giám mục đến từ 196 giáo phận toàn quốc, trong số này cũng có 16 giáo phận thuộc Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương. Mỗi năm, Hội đồng Giám mục Mỹ có hai khóa họp: khóa mùa thu vào tháng Mười Một, là khóa họp chính và diễn ra tại Baltimore, còn khóa họp tháng Sáu, diễn ra tại các địa điểm thay đổi mỗi lần.
Trong khóa họp lần này, có phúc trình về Chương trình Phục hồi Thánh Thể toàn quốc, với Đại hội Thánh Thể toàn quốc Mỹ đã tiến hành hồi mùa hè năm nay, tại thành phố Indianapolis. Các giám mục cũng như tường trình về khóa II của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới đang tiến hành trong tháng Mười này tại Roma, cũng như tiến trình Thượng Hội đồng này bắt đầu từ năm 2021, do Đức Thánh cha Phanxicô khởi xướng.
Đức Hồng y Christophe Pierre, người Pháp, Sứ thần Tòa Thánh tại Washington, và Đức Hồng y Timothy Broglio, Tổng giám mục Giáo phận quân đội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Mỹ sẽ lên tiếng trong buổi khai mạc khóa họp.
Chi tiết toàn bộ chương trình nghị sự của khóa họp sắp tới chưa được công bố, nhưng người ta được biết trong đó có nhiều tường trình của các Ủy ban Giám mục về việc đẩy mạnh những sáng kiến do Đức Thánh cha đề ra, về phẩm giá con người và thừa tác vụ giáo lý. Các vị cũng thảo luận về những kế hoạch mục vụ áp dụng sinh thái toàn diện (integral ecology), như Đức Thánh cha Phanxicô đã đề cập đến trong Thông điệp Laudato sì, ban hành năm 2015.
Các giám mục sẽ bầu lại Chủ tịch cho 5 ủy ban và vị thủ quỹ mới của Hội đồng Giám mục Mỹ. Các vị cũng được tham khảo ý kiến về việc xin mở án phong chân phước cho hai phụ nữ, thuộc thế kỷ XX: đó là nữ tu Annella Zervas, Dòng Biển Đức, thuộc bang Minnesota, và giáo viên Gertrude Agnes Barber, thuộc bang Pennsylvania.
Hồi tháng Mười năm nay, Đức cha Andrew Cozzens, Giám mục Giáo phận Crookston, bang Minnesota, thông báo rằng những bước sơ khởi đã được thực hiện để khởi xướng án phong chân phước cho nữ tu Annella; tiến trình tương tự đã được khởi sự hồi tháng Mười Hai năm 2019 cho giáo viên Barber.
Tiến sĩ Ruffini, Chủ tịch Ủy ban Thông tin của Thượng Hội đồng, nhấn mạnh rằng nhiều phát biểu nhấn mạnh tầm quan trọng của các Giáo hội địa phương, lưu ý rằng các Giáo hội này "không gây hại mà phục vụ cho sự hiệp nhất" vì "tính độc đáo của mỗi Giáo hội" không phải là mối đe dọa mà là "một món quà đặc biệt".
Một ví dụ về điều này là các Giáo hội Công giáo Đông phương, những truyền thống của họ phải được bảo vệ như một "kho báu cho toàn thể Giáo hội Công giáo hoàn vũ" và do đó "là một phần tích hợp và không thể thiếu" của Giáo hội. Do đó, nhiều người chỉ ra điều cần thiết là không chỉ đảm bảo "sự tồn tại" mà còn "sự hồi sinh của các Giáo hội Công giáo Đông phương, cả ở các khu vực xuất xứ và ở hải ngoại".
Một số người lập luận rằng "đã có một sự hiểu biết không hoàn toàn đúng về sự hiệp nhất trong lịch sử" và đôi khi Giáo hội Công giáo Latinh đã hành xử "bất công đối với các Giáo hội Đông phương tự quản, coi thần học của họ là thứ yếu". Tuy nhiên, ngày nay, một trong những thách đố là "xác định lại khái niệm lãnh thổ", "không chỉ là không gian vật lý". Do tình trạng di cư, "có những tín hữu Công giáo Đông phương sinh sống tại những vùng lãnh thổ mà số đông theo Nghi lễ Latinh".
Việc phân quyền từ Roma đến các vùng ngoại vi là chủ đề của nhiều suy tư trong các phiên họp của Thượng Hội đồng này, thu hút sự tò mò của các nhà báo trong nhiều cuộc họp báo. Cô Pires, Thư ký Ủy ban Thông tin của Thượng Hội đồng Giám mục, giải thích rằng các tiêu chí để xác định "phân cấp lành mạnh" đã được phân tích, bao gồm "tính gần gũi và tính bí tích", nghĩa là các bí tích.
Các cộng đồng cơ sở nhỏ cũng được nhấn mạnh là "không gian đặc quyền cho một Giáo hội hiệp hành". Đối với những cộng đồng này, các nghị phụ lưu ý rằng môi trường kỹ thuật số có tầm quan trọng lớn, vì nó có thể giúp họ kết nối, "không chỉ trên mạng mà còn trên lãnh thổ".
Chiều ngày 18/10/2024, khoảng 140 sinh viên đại học, chủ yếu đến từ Bắc Mỹ, đã tập trung tại Hội trường Phaolô VI để trực tiếp trao đổi với các nhà lãnh đạo của Ủy ban thư ký Thượng hội đồng trong sự kiện có tên “Sinh viên đại học đối thoại với các nhà lãnh đạo Thượng Hội đồng”.
Các câu hỏi của các sinh viên đã được Đức Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng hội đồng, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Tổng tường trình viên của Thượng hội đồng, Sơ Leticia Salazar, Chưởng ấn của Giáo phận San Bernardino và Đức Cha Daniel Flores của Giáo phận Brownsville ở miền nam Texas trả lời.
Trả lời thách đố của việc lắng nghe
Câu hỏi đầu tiên đến từ Asia Chan, một sinh viên đến từ Trinidad và Tobago, đã diễn tả sự đấu tranh của mình khi bày tỏ đức tin trong một nền văn hóa khác và hỏi Giáo hội có thể cải thiện các cuộc tham vấn trong tương lai như thế nào để đảm bảo nhiều tiếng nói hơn được lắng nghe.
Đức Hồng y Grech trả lời, nhìn nhận thách thức và chia sẻ rằng tiến trình hiệp hành hiện tại của Giáo hội là điều chưa từng có xét về phạm vi lắng nghe. Ngài lưu ý rằng mặc dù vẫn còn những điều cần cải thiện, nhưng Thượng Hội đồng này đã thu hút nhiều người tham gia hơn so với các Thượng Hội đồng trước.
Đức Hồng y cho biết, “Trong Thượng hội đồng về Gia đình, chỉ có 80 trong số 114 Hội đồng Giám mục tham gia. Lần này, 112 trong số 114 Hội đồng đã nộp báo cáo của họ: điều đó có nghĩa là một bộ phận lớn người dân đã được lắng nghe”. Ngài cũng lưu ý rằng lần này, hơn 20.000 người đã tham gia trên nền tảng kỹ thuật số, vì vậy “Sự tham gia rất tốt và hứa hẹn sẽ tốt hơn trong tương lai”.
“Lắng nghe là điều cơ bản”, ngài nói tiếp, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe không chỉ ý kiến mà còn cả sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong một tiến trình “sẽ giúp Giáo hội trở nên hiệp hành hơn, tạo ra một nền văn hóa gặp gỡ bắt nguồn từ việc lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe nhau”.
Thu hút những người trẻ ở bên lề
Alexandra, một sinh viên người Venezuela lớn lên ở Trung Đông, đã hỏi tại sao những người trẻ không tham gia vào Giáo hội lại quan tâm đến tính hiệp hành và Giáo hội có thể tạo ra nơi chốn cho những người cảm thấy bị tổn thương bởi điều đó như thế nào.
Đức Hồng y Hollerich nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe mọi người, không chỉ lắng nghe ý kiến của họ, trong thế giới phân cực ngày nay.
Ngài chỉ ra sự xung đột ý kiến hiện đang đặc trưng cho Hoa Kỳ và nói rằng "phân cực là một cách suy nghĩ rất xa với tính hiệp hành, giống như thế giới kỹ thuật số, nơi bạn chỉ theo dõi những người có cùng quan điểm với bạn - và nếu bạn không đồng ý, nó sẽ trở nên rất đối lập".
Đức Hồng y nói thêm, "Một người có quan điểm khác không phải là kẻ thù; chúng ta là một phần của cùng một nhân loại. Chúng ta phải tìm ra giải pháp chung". Trong Giáo hội, ngài nói, điều đó dễ dàng hơn vì chúng ta là anh chị em; chúng ta cùng chia sẻ một Bí tích Rửa tội.
Ngài nói: “Tôi nghĩ thế giới có thể học hỏi từ điều đó, và thật tuyệt nếu chúng ta có thể mở lòng với các tín ngưỡng và tôn giáo khác để thảo luận trong tình huynh đệ toàn cầu về các vấn đề quan trọng của thế giới chúng ta” bởi vì tính hiệp hành cung cấp cách thế đưa mọi người lại với nhau, và công nhận tính nhân văn chung của họ.
Đức Hồng y Hollerich cho biết thế giới có thể học hỏi từ phương thức hiệp hành của Giáo hội, đặc biệt là trong việc tạo ra không gian cho cuộc đối thoại tôn trọng giải quyết các vấn đề toàn cầu như hòa bình, công lý và sinh thái.
Sự trung thành với truyền thống trong bối cảnh thay đổi của Thượng Hội đồng
Sondra, một sinh viên đến từ San Francisco, đã nêu lên lo ngại về việc nhấn mạnh vào kinh nghiệm trong tiến trình hiệp hành có thể ảnh hưởng đến lòng trung thành với truyền thống và chân lý.
Đức Cha Flores đã trả lời bằng cách trấn an cô rằng tính hiệp hành không làm tổn hại đến sứ mạng công bố Phúc âm của Giáo hội. Ngài thừa nhận thách thức khi lắng nghe những người có quan điểm khác nhưng khẳng định rằng điều đó rất cần thiết để hiểu được thực tế mà mọi người phải đối mặt.
Ngài nói: "Làm thế nào bạn vẫn trung thành với Giáo hội? Giáo hội đã hỗn loạn trong 2000 năm, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn giữ cho Giáo hội được đoàn kết. Tôi mang gì đến Roma từ Nam Texas? Tôi không lo rằng đức tin của Giáo hội sẽ bị tổn hại nếu chúng ta lắng nghe nhau". Ngài giải thích rằng tiến trình hiệp hành giúp đào sâu sự hiểu biết mà không làm suy yếu các giáo lý cốt lõi của Giáo hội.
Chuyển từ thảo luận sang hành động
Joseph, một sinh viên đến từ New Orleans tham gia vào mục vụ giới trẻ, đã hỏi làm thế nào để Thượng Hội đồng có thể biến các cuộc thảo luận thành hành động cụ thể.
Sơ Leticia Salazar nhấn mạnh bản chất biến đổi của tiến trình hiệp hành. Sơ ví nó như lời mời của Thánh Inhaxiô thành Loyola để cảm nghiệm Kinh Thánh như thể một người đang hiện diện trong bối cảnh đó. Sơ cho biết, việc ngồi cùng bàn với các tham dự viên Thượng Hội đồng là một trải nghiệm mạnh mẽ thúc đẩy sự hiệp thông và biến đổi.
Sơ Leticia bày tỏ hy vọng rằng các sinh viên sẽ mang trải nghiệm này trở về cộng đồng của họ, biến tính hiệp hành thành hiện thực sống động. Sơ nói thêm rằng tiến trình này không chỉ mang tính lý thuyết mà là một cách để phân định và xây dựng cùng nhau như một Giáo hội.
Sơ nói: “Điều gì sẽ xảy ra sau thời gian này ở đây? Nó sẽ tiếp tục ở San Bernardino và hy vọng là trong toàn thể Giáo hội. Đó là một cách để tìm thấy Chúa Giêsu ở nơi nhau, đó không phải là một ý tưởng, mà là cùng nhau xây dựng và cùng nhau phân định ý muốn của Chúa”.
Trong thời điểm phân cực này, Sơ Leticia tiếp tục, “Tính hiệp hành có một cách nhẹ nhàng để công bố Tin Mừng theo cách rất tôn trọng”.
Sơ kết luận: “Tôi rất hy vọng Hoa Kỳ sẽ thấy các bạn ở đây. Điều tuyệt vời là chúng ta không đơn độc. Đức Giáo hoàng Phanxicô không muốn thực hiện sứ mạng của ngài một mình; ngài kêu gọi toàn thể Giáo hội cùng thực hiện với ngài. Hãy biến nó thành hiện thực!”.
Tính hiệp hành trong đào tạo thần học và mục vụ
Fabio đến từ El Salvador, một học giả thần học, đã hỏi làm thế nào các chủng viện và trường thần học có thể thúc đẩy tính hiệp hành.
Đức Cha Flores trả lời bằng cách khuyến khích các nhà thần học và chủng sinh tham gia vào thực tế của những người mà họ phục vụ. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bước ra khỏi môi trường học thuật để trải nghiệm cuộc sống của những người ở bên lề.
Đức Hồng y Grech nói thêm rằng các chủng viện và chương trình thần học phải được đánh giá lại thông qua lăng kính hiệp hành. Ngài mời các sinh viên và nhà thần học đóng góp vào cuộc trò chuyện đang diễn ra này, nhấn mạnh rằng tính hiệp hành phải thấm nhuần vào mọi cấp độ đào tạo của Giáo hội.
Đối thoại liên tôn và tính hiệp hành toàn cầu
Mika đến từ Cincinnati đã đặt câu hỏi thứ 6 và cũng là câu hỏi cuối cùng về cách Giáo hội có thể hỗ trợ giáo dân trong việc thúc đẩy đối thoại liên tôn và những bài học mà tính hiệp hành có thể học được từ các truyền thống đức tin khác.
Đức Hồng y Hollerich đã suy tư về kinh nghiệm của ngài tại Nhật Bản, nơi ngài dạy cho các sinh viên của nhiều tôn giáo khác nhau. Ngài chia sẻ rằng cuộc gặp gỡ này đã giúp ngài nhận ra rằng Chúa đã hiện diện trong mọi nền văn hóa và tôn giáo.
Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng tính hiệp hành có thể dạy thế giới rằng tôn giáo không nên là nguồn gốc của xung đột mà là con đường dẫn đến tình huynh đệ lớn hơn và kêu gọi Giáo hội hành động cùng với các truyền thống đức tin khác để giải quyết các thách đố toàn cầu, ví dụ như công bằng xã hội và sinh thái, như những người anh chị em được hiệp nhất bởi một sứ mạng chung.
Ngài nói: “Chúng ta phải cho thấy chúng ta không chỉ nói, chúng ta phải hành động cùng nhau, cùng nhau gặp gỡ và phát triển lòng tôn trọng, tình yêu và tình bạn và hành động vì lợi ích của nhân loại. Đó là một phần trong sứ mạng của chúng ta, và một phần của sứ mạng đó cũng là loan báo về Chúa”.
Một bức tranh ghép về những lời cầu nguyện và câu hỏi
Vào cuối cuộc gặp gỡ, các sinh viên đã trình bày một tác phẩm nghệ thuật theo phong cách mosaic, diễn tả những lời cầu nguyện và câu hỏi nảy sinh trong thời gian ở Roma. Mỗi thành viên trong nhóm thảo luận được mời đóng góp một lời cầu nguyện, tượng trưng cho hy vọng chung về một Giáo hội hiệp hành, bao gồm và lắng nghe hơn.
Theo thần học gia Birgit Weilwe, “mọi thứ đang chuyển động” với phụ nữ ở Thượng Hội đồng
Nữ tu Birgit Weiler, giáo sư thần học ở Đại học Lima, chuyên gia tại Thượng Hội đồng về tính đồng nghị | © Annegret Langenhorst
cath.ch, Lucienne Bittar, 2024-10-20
Theo nữ tu thần học gia Birgit Weiler: “Nguồn gốc của của chủ nghĩa giáo quyền và chủ nghĩa trọng nam là sự phạm pháp hiển nhiên với tính đồng nghị, phạm pháp này cần được khắc phục.” Là chuyên gia tại Thượng Hội đồng 2024, có một đức tin vững mạnh, Sơ có bài phát biểu rõ ràng và thực tế về vấn đề phụ nữ trong Giáo hội và việc phân cấp quyền lực.
Tháng 2 năm 2024, Đức Phanxicô mở rộng nhóm cố vấn cho Thượng Hội đồng. Trong số sáu thành viên mới của Hội đồng Tổng Thư ký có ba phụ nữ, trong đó có nữ tu người Đức Birgit Weiler, thuộc Tu hội Nữ tu Truyền giáo Y tế (MMS). Giáo sư thần học tại Đại học Công giáo Giáo hoàng Lima, Pêru là chuyên gia về con đường đồng nghị, sơ đã tham dự ở mọi cấp độ, quốc gia, lục địa và bây giờ là toàn cầu.
Sơ tích cực tham gia Thượng Hội đồng với tư cách là chuyên gia. vì sao sơ không có mặt ở Rôma?
Sơ Birgit Weiler: Tôi chỉ mới bắt đầu từ tháng 2 vừa qua, chỉ có thành viên của Thượng hội đồng lần thứ nhất (2023) mới có thể tham dự kỳ họp thứ hai. Công việc của tôi là viết bài theo chuyên môn của tôi cho Tài liệu Làm việc (Instrumentum labis, IL). Tài liệu này được ban thư ký Thượng Hội đồng chuẩn bị dựa trên sự tham vấn trên khắp thế giới, là cơ sở để các thành viên suy ngẫm và đưa ra đề nghị. Chúng tôi cũng chuẩn bị tài liệu cho các thư ký đặc biệt, họ sẽ dần dần viết tài liệu cuối cùng. Tôi đặc biệt làm việc về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội.
Sơ là giáo sư thần học, cố vấn thần học của Trung tâm Chương trình và Mạng lưới Mục vụ của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê (CELAM), thành viên của nhóm các thần học gia CELAM… Sơ đã cho thấy phụ nữ có thể tìm vị trí cho chính họ. Sơ cảm nghiệm thế nào về sự chia rẽ hiện nay trong Giáo hội về vị trí “được giao” cho phụ nữ?
Khoảng cách này rất đau đớn và phải được khắc phục. Đây là vấn đề quan trọng của Giáo hội như toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng đã cho thấy.
Nhờ sự đóng góp của một số thành viên trong phiên họp toàn thể tháng 10 năm 2023, báo cáo tóm tắt của kỳ họp đầu tiên này nêu rõ: “Khi trong Giáo hội, phẩm giá và công lý trong các mối quan hệ giữa nam và nữ được tôn trọng, thì độ tin cậy của lời tuyên bố chúng ta đưa ra với thế giới lại bị suy yếu. Tiến trình đồng nghị cho thấy chúng ta cần phải điều chỉnh các mối quan hệ và thực hiện các thay đổi về cơ cấu.”
Từ góc độ đức tin, tôi vẫn nghĩ Thần Khí đã và vẫn đang hoạt động trên con đường đồng nghị, trong tất cả các giai đoạn của Thượng Hội đồng. Chúng ta có nhiều nơi chốn để lắng nghe nhau, và với Chúa Thánh Thần, chúng tôi đã được tự do ngôn luận (parrhesia) và nhận định về các ơn gọi khác nhau.
Sơ nói về các ơn gọi khác nhau. Nhiều người trong Giáo hội thích nói đến “đặc sủng” đặc biệt của phụ nữ. Sơ nghĩ gì về chuyện này?
Điều quan trọng là phải tránh ‘chủ nghĩa bản chất’ như thể phụ nữ chỉ có một bản chất thu hút nào đó. Nhưng chúng ta phải nghĩ đến sự đa dạng của phụ nữ. Phụ nữ có nhiều ơn đặc biệt như khả năng chăm sóc, gặp gỡ người khác, xây cầu, đánh giá cao sự đa dạng, vì thế họ có khả năng thống nhất trong đa dạng… Nhưng đây là những năng khiếu đàn ông cũng có và họ có khả năng phát triển.
Cách suy nghĩ này vẫn còn thấy rõ trong Giáo hội… Chúng ta có thể nghĩ đã có một thay đổi thực sự đang hình thành không?
Trong hành trình Thượng Hội đồng, có nhiều đóng góp của phụ nữ từ khắp nơi trên thế giới – cũng như của cả nam giới – nhắc chúng ta nam nữ đều được ban cho phẩm giá rửa tội như nhau và nhận các ơn đa dạng của Chúa Thánh Thần cũng như nhau. Thánh Phaolô đã viết: “… Không còn nam hay nữ vì tất cả anh em là một trong Chúa Giêsu Kitô” (Gl 3,28) – báo cáo tóm tắt năm 2023 viết: “Người nam người nữ đều được kêu gọi hướng tới một hiệp thông đặc trưng bởi tinh thần đồng trách nhiệm, không có sự cạnh tranh, điều này phải được thể hiện ở mọi cấp độ của đời sống Giáo hội.”
Nhưng những đóng góp này cũng đã xác định căn tính và chủ nghĩa trọng nam, ít nhất là ở Châu Mỹ La-tinh, đó là não trạng và thái độ cản trở để có một Giáo hội đồng nghị thực sự. Căn nguyên của hai hiện tượng này là lạm dụng quyền lực, mâu thuẫn hiển nhiên với tính đồng nghị. Điều này phải được khắc phục.
Đây là lý do vì sao cần phải có hoán cải sâu sắc và liên tục trong trái tim và trong tâm trí. Điều này đi đôi với việc biến đổi các cơ cấu và thủ tục không ủng hộ tính đồng nghị, đòi hỏi sự đa dạng của các đoàn sủng – nam giới cũng như nữ giới – phải được đánh giá cao và họ phải có không gian cần thiết để phát triển, đóng góp cho lợi ích Giáo hội, đồng thời thúc đẩy sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới ngày nay.
Làm thế nào để đấu tranh hiệu quả chống lại chủ nghĩa giáo quyền và chủ nghĩa trọng nam?
Trong suốt tiến trình đồng nghị, chúng tôi đã thừa nhận chính phụ nữ là người thúc đẩy tính đồng nghị trong Giáo hội. Họ góp phần rất lớn vào việc xây dựng cộng đồng và củng cố đời sống đức tin trong các giáo xứ, trong nhiều lãnh vực khác nhau của Giáo hội. Vì thế điều cần thiết là họ phải được tham gia nhiều hơn vào các không gian phân định và đưa ra quyết định, cũng như trong các không gian đào tạo, kể cả trong các cuộc hội thảo. Nơi chúng tôi làm công việc thần học và nơi chúng tôi giảng dạy.
Một số lớn phụ nữ và cả các ông cũng yêu cầu phụ nữ được làm phó tế vĩnh viễn như một thừa tác vụ được phong chức. Nhưng chức phó tế nữ đã bị loại khỏi các chủ đề thảo luận của Thượng Hội đồng lần thứ hai. Làm thế nào để giữ lạc quan trong bối cảnh này?
Mọi thứ đang chuyển động. Chủ đề này được nhắc đến trong các phiên họp hiện tại của Thượng Hội đồng. Một số thành viên mong muốn có một tiến trình đối thoại hơn trong việc giải quyết vấn đề này, để vấn đề không chỉ được các Ủy ban quy định giải quyết. Chúng ta sẽ xem những người có trách nhiệm về tiến trình đồng nghị sẽ xem xét vấn đề này như thế nào.
Có một điều chắc chắn là sự minh bạch trong cách chúng ta tiến hành vấn đề là rất quan trọng, có nghĩa tất cả các lập luận phải được đưa ra bàn thảo, được những người có quan điểm khác nhau cân nhắc một cách tự do và phân định cẩn thận.
Sơ cũng đã theo dõi kỹ Thượng hội đồng về Amazon năm 2019, “nơi thử nghiệm tốt đẹp” tiến trình Thượng Hội đồng, đã tạo nhiều kỳ vọng… và cả thất vọng. Tại Querida Amazonia, Đức Phanxicô đã không theo mong muốn của các Nghị phụ, không thiết lập viri probati. Có phải chúng ta cũng đang đi đến thất vọng tương tự với Thượng Hội đồng này không?
Trước hết phải làm rõ, Thượng Hội đồng không có quyền đưa ra quyết định mà chỉ đưa ra đề nghị cho giáo hoàng. Tại Querida Amazonia, ngài không đóng cánh cửa viri probati cũng như việc phụ nữ tiếp cận chức phó tế được phong chức.
Tôi đã tham dự vào Giáo hội Amazonia, và với chúng tôi, Thượng Hội đồng Amazonia mang lại nhiều hoa trái và vẫn tiếp tục phát triển, đã khơi dậy sự tham gia mạnh mẽ của phụ nữ và giáo dân vào các lãnh vực phân định và ra quyết định cho Amazon.
Một ví dụ cụ thể là việc thành lập Hội đồng Giáo hội Amazon (CEAMA) và thành phần ban chủ tịch, trong đó có ông Mauricio López, đại diện cho giáo dân, và hai phụ nữ, một lãnh đạo bản địa đại diện cho các dân tộc bản địa và một nữ tu đại diện cho các tu sĩ nam nữ vùng Amazon. CEAMA là nơi để tìm hiểu về sự phát triển của tính đồng nghị ở Amazon, cả ở cấp độ tinh thần lẫn cơ cấu, thủ tục và thực hành cụ thể.
Thượng Hội đồng có các đại diện từ khắp nơi trên thế giới, với những tầm nhìn văn hóa và Giáo hội rất khác nhau. Liệu những căng thẳng giữa Giáo hội hoàn vũ và các nét đặc thù địa phương có cơ hội khắc phục mà không cần xem xét lại các phương thức quản trị không?
Tôi nghĩ chúng ta cần một “phân cấp lành mạnh”, như Đức Phanxicô đã viết trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) năm 2013. Điều này ngụ ý quy một số quyền hạn nào đó, chẳng hạn quyền ra quyết định trực tiếp cho các Giáo hội địa phương.
Đức Phanxicô cũng đã nhiều lần nhấn mạnh các Giáo hội địa phương có kiến thức cụ thể hơn về bối cảnh và thực tế tại địa phương. Kiến thức này cần thiết cho việc phân định và đưa ra quyết định ở địa phương về nhiều vấn đề.
Tiến trình đồng nghị đã kêu gọi Giáo hội sống sâu sắc ý nghĩa thế nào là một tín hữu công giáo, cố gắng sống và thực hành sự hiệp nhất trong đa dạng. Đây là một thách thức liên tục để phát triển, đòi hỏi chúng ta đánh giá cao các khác biệt, tin tưởng nhau và công nhận không chỉ có một cách duy nhất để trải nghiệm tính đồng nghị, cũng như phát triển các cơ cấu, phương tiện và thủ tục quản trị trong Giáo hội. Những điều này phải đáp ứng sự đa dạng của các bối cảnh, các nơi thực hiện, cách để là một Giáo hội, cách sống và cử hành đức tin của chúng ta.
Tài liệu làm việc của phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng đưa ra những quan điểm thần học và mục vụ quan trọng về vấn đề này. Và ở cấp độ toàn thể Giáo hội, Đức Phanxicô đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Giáo hội sống nhất quán trong sự hiệp nhất trong đa dạng.
Cách thức giải quyết vấn đề phụ nữ trong Giáo hội tại Thượng Hội đồng tạo nhiều bất bình. Ngày 18 tháng 10 đánh dấu cao điểm của vấn đề này với một cuộc họp bị cho là rất thất vọng vì không có khả năng tranh luận. Cùng ngày hôm đó, tại Rôma đã có một sự kiện đáng ngạc nhiên đã xảy ra: phong chức trái phép cho phụ nữ.
Vai trò của phụ nữ trong Giáo hội công giáo không phải là chủ đề chính thức của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị nhưng vấn đề này đã được đưa trở lại bàn thảo luận sau những câu hỏi của các thành viên trong hội đồng. Các cuộc gặp với các chuyên gia của mười nhóm nghiên cứu do Đức Phanxicô thành lập để giải quyết các vấn đề ‘tế nhị’ cuối cùng đã được ban lãnh đạo Thượng Hội đồng cho phép hai tuần trước, sau khi có nhiều thành viên xin có cơ hội thảo luận về những vấn đề gây tranh cãi này.
Hồng y Víctor Manuel Fernández làm các nghị mẫu Thượng Hội đồng thất vọng
Ngày 2 tháng 10 năm 2024, Bộ Giáo lý Đức tin ra thông báo cho biết một tài liệu huấn quyền về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đang được chuẩn bị. Sau đó, một cuộc họp đã được tổ chức vào ngày 18 tháng 10, giữa khoảng một trăm người tham gia Thượng Hội đồng và hai chuyên gia từ nhóm nghiên cứu về phụ nữ. Nhưng theo những người có mặt, cuộc họp đã diễn ra không tốt đẹp, họ phẫn nộ vì bất kỳ cuộc thảo luận nào cũng đều không thể thực hiện được. Họ chỉ được mời can thiệp bằng lời nói hoặc bằng văn bản.
Sự vắng mặt của hồng y Bộ trưởng Victor Fernandez, tổng trưởng không được chấp nhận, các thành viên cho rằng đây là “một chuyện không tốt, một thất vọng nặng nề”. Nhưng ngày 9 tháng 10, Hồng y Fernandez đã cho biết ngài không dự cuộc họp được. Sau khi bị chỉ trích, ngài lấy làm tiếc vì có “hiểu lầm”, ngài không thể dự kịp thời được. Ngài cho biết ngài sẽ dự cuộc họ dự kiến ngày 24 tháng 10 giữa nhóm nghiên cứu về vấn đề phụ nữ và các thành viên Hội đồng.
Bị tổn thương vì Hồng y không dự cuộc họp, các nghị mẫu đã trực tiếp nói chuyện với Đức Phanxicô. Họ được ngài tiếp ngày hôm sau trong một buổi tiếp kiến đặc biệt, họ bày tỏ mối quan tâm của họ với Ngài.
Sáu phụ nữ chịu chức ở Rôma
Bên lề các phiên họp chính thức của Thượng Hội đồng, một cuộc biểu tình đã được ‘Hiệp hội nữ linh mục công giáo la-mã quốc tế’ tổ chức trên một chiếc sà lan trên sông Tiber, gồm sáu phụ nữ đến từ Pháp, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ đã được ba nữ giám mục bị vạ tuyệt thông truyền chức phó tế và linh mục một cách bất hợp pháp. Trong số này có nữ Giám mục Bridget Mary Meehan, đến từ Hoa Kỳ, thụ phong linh mục tại Pittsburgh năm 2006 và trở thành giám mục năm 2009, và nữ Giám mục Gisela Forster, 78 tuổi, được các giám mục Đức truyền chức linh mục, sau đó bị vạ tuyệt thông, cùng với sáu phụ nữ khác chịu chức năm 2002 trong một buổi lễ được tổ chức trên sông Danube.
Theo báo Nederlands Dagblad, hiện nay có 19 Giám mục công giáo bất hợp pháp và khoảng 300 linh mục trên 14 quốc gia. Họ thuộc hai tổ chức “nữ linh mục công giáo la-mã”. Giáo luật không quy định việc truyền chức cho phụ nữ và tự động dứt phép thông công bất cứ ai tham dự vào một hành động mang tính biểu tượng như vậy.
Truyền chức linh mục nữ năm 2006, Pittsburgh, Hoa Kỳ
Bà Bridget Mary Meehan nói: “Đúng, Giáo hội đã rút phép thông công chúng tôi nhưng không có nghĩa chúng tôi không còn là người công giáo la-mã nữa. Vì phép rửa tội không thể bị hủy bỏ. Đơn giản là bạn không còn được nhận Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác. Nhưng tôi làm theo lương tâm của tôi, và nếu tôi đi lễ ở một giáo xứ, tôi sẽ được rước lễ.” Báo Nederlands Dagblad cho biết nghi thức phụng vụ áp dụng cho lễ phong chức cho phụ nữ ngày 18 tháng 10 “giống như phụng vụ chính thức của công giáo”. Bà Bridget Mary Meehan giải thích: “Sự khác biệt duy nhất là chúng tôi không tuyên thệ vâng phục giám mục.”
Trang mạng “Công giáo Đức” của Hội đồng Giám mục Đức, truyền đi ngày 18 tháng Mười vừa qua, cho biết một phần bài tham luận hôm 17 tháng Mười trước đó của Đức cha Bätzing, không được công bố, nhưng được chuyển cho hãng tin EPD của Đức, nói rằng: “Trong những ngày qua, chúng ta đã nói nhiều về sự cần thiết phải đối xử với phụ nữ một cách tốt đẹp hơn so với hiện nay, đưa phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo ở mọi cấp độ trong cộng đoàn Giáo hội và vào tiến trình thảo luận và quyết định. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Các cuộc trao đổi trong Thượng Hội đồng này cho thấy vấn đề cho phụ nữ lãnh nhận thánh chức phó tế, không phải chỉ được đề ra trong một phần nhỏ của Giáo hội hoàn vũ. Đối với vùng văn hóa xuất xứ của tôi, đã có một câu trả lời được quyết định cho câu hỏi này là: các phụ nữ có tiếp tục tìm kiếm và có thể tìm thấy quê hương của mình trong Giáo hội hay không?”
Ở Rôma, ngoài công việc chính thức tại Hội trường Phaolô VI rộng lớn gần Đền thờ Thánh Phêrô, còn có bốn diễn đàn thần học-mục vụ được tổ chức tại Viện Augustinianum và Trụ sở Dòng Tên tại Rôma ngày 9 và 16 tháng 10.
Rất được theo dõi, các hội nghị này tập trung vào việc chia sẻ trách nhiệm trong Giáo hội, thẩm quyền của giám mục, mối liên kết giữa các Giáo hội địa phương và Vatican… Một thành viên tham dự cho biết: “Đây là thời điểm cần làm sáng tỏ, tôi vui mừng vì cuối cùng thần học có chỗ đứng trong Thượng Hội đồng.”
Trong Công đồng Vatican II, các giám mục đã được các các Hồng y Henri de Lubac và Joseph Ratzinger làm cố vấn thần học. Còn với Thượng Hội đồng này thì sao?
Rõ ràng là quy mô khác nhau – Công đồng quy tụ hơn 2.000 giám mục trong khi Thượng Hội đồng chỉ có khoảng 340 giám mục trong đó có 79 chuyên gia thần học từ khắp nơi trên thế giới về họp. Để tránh làm gián đoạn công việc đang diễn ra, năm thần học gia đồng ý nói chuyện với báo La Croix, họ xin được giấu tên.
Thu thập, phân loại, biên soạn, công bố
Các chuyên gia đã viết “tài liệu làm việc” dài 60 trang, làm cơ sở cho các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng. Kể từ đầu tháng 10, họ có mặt hàng ngày để làm sáng rõ công việc của 36 nhóm làm việc.
Chẳng hạn, ngày 15 tháng 10, bàn nói tiếng Anh đã xin chuyên gia người Úc Ormond Rush giải thích rõ hơn về Sensus fidei (cảm thức đức tin). Một nguồn tin nội bộ cho biết: “Trên thực tế, các chuyên gia hiếm khi được mời đến bàn thảo luận.” Các thành viên có thời gian rất hạn chế, họ chỉ có 3 phút để nói.
Cũng vậy với Phiên họp toàn thể. Trong một bài phát biểu rất đáng chú ý ngày 17 tháng 10, chuyên gia người Canada Gilles Routhier đã bảo vệ quyền tự lập lớn hơn cho các hội đồng giám mục, phải phù hợp với bộ giáo luật hiện hành. Nhưng sau mười lăm ngày tranh luận, đó là một trong những bài phát biểu đầu tiên của một thần học gia tại Thượng Hội đồng.
Giống như năm ngoái, một số chuyên gia, giáo sư từ các trường đại học danh tiếng cho biết họ “thất vọng” và cảm thấy bị bó buộc trong “công việc rất lệ thuộc”: thu thập, phân loại, sắp xếp, tải các báo cáo trao đổi lên đám mây (“máy chủ từ xa”). Theo phương pháp luận của Thượng Hội đồng, vai trò của thần học gia là “sắp xếp, phân tích và tổng hợp tất cả các tài liệu (gồm cả những bài can thiệp tự do), trên cơ sở Kinh thánh và Truyền thống tích cực của Giáo hội”.
Tóm lại, các thành viên Thượng Hội đồng nói, các thần học gia viết. Nhưng các thần học gia có vai trò gì trong công việc này?
Vẫn còn hơi mờ. Ngày 9 tháng 10, một ủy ban giám sát đã được bầu, ngày 18 tháng 10, Hồng y Jean-Marc Aveline giáo phận Marseille và thành viên của ủy ban giải thích: “Mục đích là đảm bảo có ít khoảng cách nhất có thể, dù luôn có khoảng cách giữa văn bản được đề xuất và các cuộc thảo luận.” Phiên bản đầu tiên của tài liệu cuối cùng sẽ được gởi đến Thượng Hội đồng ngày thứ hai 21 tháng 10 và sẽ được sửa đổi cho đến cuối tuần. Một chuyên gia quen thuộc với các Thượng Hội đồng nhận xét: “Nhưng nếu toàn bộ văn bản không tương ứng với bầu khí chung của các cuộc tranh luận, thì sẽ rất căng thẳng.”
Các thần học gia thấy mình ở đầu ngọn sóng. Một mặt, họ được yêu cầu phải báo cáo trung thực các cuộc tranh luận. Ngày 16 tháng 10, linh mục thần học gia Dario Vitali, điều phối viên các chuyên gia giải thích: “Họ phải công nhận sự đồng thuận đang trưởng thành trong Thượng Hội đồng để văn bản có thể phát triển một cách mạch lạc”. Nhưng mặt khác, công việc của họ cũng là làm sáng tỏ và phát triển các trực giác được thể hiện, bằng cách tái cấu trúc chúng, để thực hiện mong muốn lớn lao nhưng vẫn còn hơi mơ hồ về tính đồng nghị này.
Các thách thức rất quan trọng. Một chuyên gia cho rằng Thượng Hội đồng này được xem là một cố gắng thành công nhất cho đến nay nhằm chống lại nạn lạm dụng trong Giáo hội, cả về tình dục lẫn quyền hành. Trong các diễn đàn thần học ngày 9 và 16 tháng 10, các giám mục có mặt được khuyến khích thay đổi thái độ, “trở thành anh em”, chia sẻ trách nhiệm, không giấu giếm bất cứ điều gì.
Thần học mới được trình bày ở đây nhằm mục đích chú ý hơn đến bối cảnh, đến sự cân bằng quyền lực… Với thần học mới này, Giáo hội không còn tưởng tượng ra những nguyên nhân ngoại sinh dẫn đến cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đã trải qua, phổ biến các ý tưởng của Tháng Năm 68 (cấm không được cấm), các lệch lạc cá nhân. Nhưng ngược lại, bây giờ Thượng Hội đồng đặt câu hỏi sâu sắc về chính tổ chức của chính mình. Để phân cấp? Thượng Hội đồng có thời hạn đến ngày 27 tháng 10 để cho biết họ muốn đi bao xa.
Mở đầu bài nói chuyện, Đức Thánh Cha nhắc các cha giải tội tại Đền thờ Thánh Phêrô rằng sự hiện diện của họ rất quan trọng, bởi vì họ giúp các tín hữu hành hương gặp gỡ Chúa của lòng thương xót qua bí tích Hòa giải và làm chứng cho các du khách rằng Giáo hội là cộng đoàn của những người được cứu độ, những người được tha thứ, những người tin yêu và hy vọng vào sự từ ái của Thiên Chúa.
Dựa trên chứng tá của Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha chia sẻ với các linh mục ba chiều kích đặc biệt trong sứ vụ của họ.
Khiêm nhường
Trước hết là khiêm nhường. Nhắc lại rằng Thánh Tông đồ Phêrô đổ máu tử đạo chỉ sau khi đã khiêm nhường khóc lóc vì tội lỗi của mình (Lc 22,56-62), Đức Thánh Cha nói rằng thánh nhân nhắc nhở rằng mỗi Tông Đồ - và mỗi vị Giải tội - đều mang kho tàng ân sủng mà mình phân phát trong một bình đất, ‘để có vẻ như quyền năng phi thường này thuộc về Thiên Chúa, chứ không đến từ chúng ta’ (2 Cr 4,7)”. Vì vậy, ngài nhắn nhủ họ rằng “để trở thành những cha giải tội tốt lành, chúng ta hãy trở thành những hối nhân đầu tiên tìm kiếm sự tha thứ” (Bolla Misericordiae Vultus, 17).
Lắng nghe
Điểm thứ hai là lắng nghe mọi người, đặc biệt là giới trẻ và trẻ em. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “lắng nghe không chỉ là lắng nghe những gì người ta nói, nhưng trước hết là đón nhận lời nói của họ như một món quà Thiên Chúa ban cho sự hoán cải của mình, một cách ngoan ngoãn, như đất sét trong tay người thợ gốm (xem Is 64.7)”. Ngài nhắn nhủ các vị giải tội đừng bao giờ quên rằng “bằng cách thực sự lắng nghe người anh em của chúng ta trong cuộc đối thoại bí tích, chúng ta lắng nghe chính Chúa Giêsu, người nghèo khổ và khiêm nhường […] và chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể hy vọng đưa hối nhân tiếp xúc với Chúa Giêsu” (ibid.).
Lòng thương xót
Và điều cuối cùng là lòng thương xót. Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Là những người ban phát sự tha thứ của Thiên Chúa, điều quan trọng là phải trở thành ‘những người có lòng thương xót’, vui vẻ, quảng đại, sẵn sàng hiểu và an ủi, bằng lời nói và thái độ”. Ngài nói rằng cha giải tội chỉ có một loại thuốc để đổ lên vết thương của anh em mình: đó là lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thư của Bộ Giám mục, với chữ ký của Đức Hồng y Tổng trưởng Robert Francis Prevost, được đăng trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Thụy sĩ, hôm thứ Sáu, ngày 18 tháng Mười vừa qua. Thư nhận xét rằng các thủ tục được quy định trong giáo luật đã không được các giám mục tuân hành đúng, đồng thời kêu gọi các giám mục cảnh giác hơn trong tương lai, khi xử lý các vụ lạm dụng tính dục được trình báo: cần phải hết sức cẩn thận và với sự chuyên môn, nghiêm túc tuân theo tất cả các quy luật có thể áp dụng được trong các thủ tục điều tra”.
Tuy nhiên, theo các thông tin mà Bộ Giám mục nhận được, không có bằng chứng nào về những tội phạm, che đậy, thờ ơ hoặc sai lỗi đòi phải khởi sự các biện pháp hình sự.
Theo thông tin chi tiết hơn của giáo xứ Công giáo ở thủ đô Bern, có sự chậm trễ trong việc trình báo về Tòa Thánh, và sự cố tình không kiểm soát khi chọn các ứng sinh linh mục.
Trong thông cáo, các giám mục Thụy Sĩ rất tiếc vì những sai lầm, thiếu sót và lơ là trong việc áp dụng giáo luật và các vị bày tỏ quyết tâm hơn trong việc chống lại những vụ lạm dụng trong Giáo hội.
Việc tu sửa nhà thờ Đức Bà, sau hỏa hoạn có chi phí là 150 triệu Euro, hầu hết do các ân nhân đóng góp và tài trợ của chính phủ.
Bà Bộ trưởng Rachida Dati đã đưa đề nghị thu tiền vé 5 Euro mỗi du khách vào thăm, để lấy tiền trang trải chi phí bảo trì thánh đường. Bà dự kiến rằng với tiền 75 triệu Euro mỗi năm, việc bảo trì được bảo đảm. Bà đưa đề nghị đó với Đức Tổng giám mục Laurent Ulrich của giáo phận sở tại. Bà nói rằng: “Các nơi ở Âu châu, vào các nhà thờ nổi tiếng nhất đều phải trả tiền”.
Trước năm 2019, mỗi năm có từ mười hai đến mười bốn triệu người viếng thăm nhà thờ chính tòa Đức Bà. Trong khi đó, tháp Eiffel, hồi năm ngoái, chỉ có 6 triệu 300.000 người viếng thăm.
Nhà thờ chính tòa Paris cũng như hơn 30.000 thánh đường khác trên toàn quốc thuộc quyền sở hữu của chính phủ. Nhà nước chịu trách nhiệm bảo tồn, nhưng để cho Giáo hội sử dụng để làm việc phụng tự. Chỉ có những thánh đường xây cất sau năm 1905, là năm có luật tách biệt Giáo hội và nhà nước, thì thuộc quyền sở hữu của Giáo hội. Tại Ý, hầu hết các thánh đường cũng có quy chế tương tự.
Phản ứng về đề nghị của bà Bộ trưởng văn hóa, hôm thứ Năm, ngày 24 tháng Mười vừa qua, Tòa Tổng giám mục Paris ra thông cáo nhắc nhở nguyên tắc miễn phí vào các nhà thờ. Sở dĩ có sự miễn phí này là vì sứ mạng của Giáo hội là đón tiếp vô điều kiện, và vì thế là miễn phí, tất cả mọi người nam nữ. “Tại nhà thờ Đức Bà, các tín hữu và du khách không bao giờ bị phân biệt: các buổi lễ được cử hành trong các cuộc viếng thăm và các cuộc viếng thăm này tiếp tục trong các buổi lễ. Vì thế, mọi sự phân cách thể lý làm cho khách hành hương và người viếng thăm không được hiệp thông giữa tất cả những gì là thiết yếu tại nơi ấy”.
Khoản số 17 của luật năm 1905 quy định những điều vừa nói.
Giáo Hội cho biết như trên trong phúc trình thường niên mới công bố. Lý do nhiều người nêu lên là vì “kinh tởm trước những vụ lạm dụng tính dục trong Giáo hội cũng như thứ văn hóa im lặng, che đậy.!”
Tại Đức hoặc Thụy Sĩ: người muốn ra khỏi Giáo Hội của mình để khỏi phải đóng thuế cho Giáo hội, thì phải nộp đơn tại Văn phòng tòa án liên hệ. Nếu được nhận, thì họ sẽ không phải trả thuế cho Giáo hội cũ của họ, tương đương với 8 hoặc 9% thuế lợi tức họ đóng cho nhà nước.
Nhưng tại Bỉ, việc chính thức ra khỏi Giáo hội là điều không có thể. Thay vào đó, họ gửi đơn đến giáo xứ liên hệ để yêu cầu xóa tên họ trong sổ rửa tội. Nhưng bí tích rửa tội, theo Giáo lý Công giáo là điều không thể xóa bỏ, nên người trách nhiệm chỉ ghi chú cạnh tên của họ ở trong sổ rằng “đã làm đơn xin xóa bỏ”.
Cho đến nay, mỗi năm có khoảng 1.200 người Công giáo Bỉ xin xóa tên như vậy và chỉ có năm 2021, con số này mới tăng lên hơn 5.000 người.
Riêng trong năm ngoái, như vừa nói, con số đơn xin tăng vọt lên trên 14.000 người, trong đó 98% thuộc vùng nói tiếng Flamand hay tiếng Hòa Lan.
Theo nhận định của Giáo hội, trong năm ngoái, việc trình chiếu cuốn phim thời sự với tựa đề “Bị Thiên Chúa quên lãng” đã đưa tới sự gia tăng như thế. Phim được chiếu tại vùng nói tiếng Flamand, do đài VRT truyền hình thực hiện này phổ biến. Phim đã ảnh hưởng mạnh đến các khán thính giả. Phim trình bày cuộc phỏng vấn khoảng 20 nạn nhân đã bị lạm dụng trong các cơ sở của Giáo hội Công giáo. Phần lớn đó là những người già, nhiều hơn những người trẻ, là những nạn nhân được phỏng vấn trong phim.
Vấn đề lạm dụng tính dục là một trong những đề tài chính được báo chí nói đến, trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Bỉ, hồi tháng Chín vừa qua. Tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh, Đức Thánh cha đã gặp gỡ 17 người đã bị giáo sĩ Công giáo ở Bỉ lạm dụng tính dục trong quá khứ. Cuộc gặp gỡ dài hơn hai tiếng đồng hồ và tiếp theo đó, Đức Thánh cha đã gọi sự lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên là một ô nhục. Ngài nói: “Phải nhìn nhận sự ô nhục này, xin lỗi và giải quyết vấn đề”.
Trước đó, quốc hội Bỉ đã quyết định lập một ủy ban để điều tra về lạm dụng trong Giáo hội.
Cả trong năm 2024 này, số người Công giáo tại Bỉ rời bỏ Giáo hội cũng gia tăng. Sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Bì, có 524 người tuyên bố trong một thư ngỏ là đã yêu cầu xóa bỏ tên của họ trong sổ rửa tội. Họ nêu lý do là để phản đối lời Đức Giáo hoàng nói “phá thai là giết người, và bác sĩ phá thai là kẻ giết mướn."
Ngày 29 tháng 9, trong chuyến đi Bỉ, Đức Phanxicô nói với các nhà báo về “luật hình sự” cho phép “thuê những kẻ giết người” – cụ thể là các bác sĩ – để các phụ nữ có thể tự nguyện chấm dứt thai kỳ. Một tuyên bố thực sự không mới mẻ nhưng được ngài lặp lại ở một quốc gia đã tranh luận trong nhiều năm về khả năng gia hạn thời hạn hợp pháp của việc phá thai, và thậm chí là phi hình sự hóa, đã tạo tiếng vang mạnh.
Đặc biệt khi ngài công bố ý định tiến hành thủ tục phong chân phước cho Vua Baudouin, qua đời năm 1993. Ba năm trước khi qua đời, Nhà Vua công giáo đã từ chối ký một đạo luật phi hình sự hóa việc phá thai được Quốc hội phê duyệt. Một bàn tay khéo léo của một luật sư đã tránh được cuộc khủng hoảng thể chế lớn: đề nghị viện đến “sự bất lực trong việc cai trị” cho phép chính phủ phê chuẩn văn bản thay cho nhà vua, ngài sẽ tiếp tục làm vua sau ba mươi sáu giờ gián đoạn.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi lời tuyên bố của Đức Phanxicô đã làm cho Ủy ban Hành động Thế tục và năm thành viên Tam điểm phản ứng mạnh khi họ nói, đây là “sự can thiệp tàn bạo của một thể chế tôn giáo vào công việc của Nhà nước”. Ông Jan Danckaert, viện trưởng trường Đại học Flemish ở Brussels tố cáo “những nhận xét trái với luật dân chủ” có thể dẫn đến một sự cố ngoại giao. Cảm nhận được cơn bão đang ập đến, Thủ tướng từ nhiệm Alexander De Croo đã tuyên bố trước Quốc hội ngày 3 tháng 10: “May mắn thay, thời điểm Giáo hội ban hành luật pháp ở đất nước chúng ta đã ở sau lưng.” Ông đã “mời” sứ thần tòa thánh đến gặp và nội dung cuộc gặp không được tiết lộ.
“’Giáo hội của tôi’ không ở đó”
Người công giáo cũng phản ứng, họ cho biết họ rất buồn và mất tinh thần. Bà Céline Fremault, 50 tuổi, cựu bộ trưởng và nghị sĩ, thành viên đảng Dân chủ Thiên chúa giáo, ngày 1 tháng 10, trong một bức thư ngỏ gởi Giáo hoàng, bà cho biết: “Bà đã được rửa tội, là tín hữu được giáo dục với các giá trị của Tin Mừng, là thành viên của Giáo hội kể từ khi sinh ra và trung thành với dân Chúa. Năm 2000, tôi đã dùng thuốc phá thai. Tôi xin ‘Giáo hội của tôi’ ở bên cạnh tôi trong những giây phút đau đớn này của một phụ nữ 26 tuổi, nhưng Giáo hội đã không ở đó. Tôi đã cầu nguyện để tôi không phạm điều không thể sửa chữa được, đó là ‘lấy đi một mạng sống’”.
Kể từ đó, bà đã dành một phần hoạt động của bà để tạo điều kiện giúp các cha mẹ phải trải qua sự mất mát đứa con trong bụng. Bị sốc trước lời nói của Đức Phanxicô, bà viết cho ngài: “Những kẻ giết thuê có khả năng y tế và nhân bản rất cao, qua công việc của họ, họ có thể bảo toàn cơ thể và tôi đã có thể sinh thêm bốn đứa con khác.”
Bà Fremault ngày nay là mẹ của ba cô con gái và một con trai. Bà xin ngài: “Xin ngài đến gặp chúng tôi, tôi xin bảo đảm các phụ nữ đã phá thai không phải là những người bị bán cho các luật giết người.”
Ra khỏi Giáo hội và tài trợ đang được tranh luận
Các nhân vật gắn bó trực tiếp hoặc gián tiếp với Giáo hội công giáo còn muốn đi xa hơn. Theo sáng kiến của ông Bernard De Vos, cựu tổng đại biểu về quyền trẻ em của Liên đoàn Wallonia-Brussels, hai trăm thành viên của Liên đoàn muốn xóa tên họ ra khỏi sổ đăng ký của giáo xứ, ông nói với báo Le Soir ngày 5 tháng 10: “Có thể sẽ chẳng có lợi ích gì, nhưng đó là tín hiệu để Giáo hội Bỉ tự vấn.” Chúng ta sẽ phải đợi đến năm 2025 và báo cáo thường niên của Giáo hội công giáo Bỉ để biết liệu lời kêu gọi này có được đông đảo người theo hay không.
Những tiết lộ khủng khiếp về loạt phim truyền hình, Bị Chúa lãng quên, nói về các vụ lạm dụng tình dục trong Giáo hội, phát sóng tháng 9 năm 2023 đã làm cho nhiều người công giáo muốn xóa tên ra khỏi sổ rửa tội. Cũng như một vụ tai tiếng khác vài tháng sau đó: ít nhất 30.000 trẻ sơ sinh của các phụ nữ trẻ độc thân sinh ra trong các cơ sở tôn giáo đã bị cưỡng bức lấy đi và bán cho cha mẹ nuôi.
Cần thời gian để đo lường tác động chính xác của việc xóa tên khỏi sổ rửa tội. Về cơ bản, hệ quả của việc này sẽ mang tính cá nhân và mang tính biểu tượng vì phép rửa tội là không thể thay đổi được. Trên thực tế, hy vọng của ông Demotte và của những người khác về các vụ này là để tạo một cuộc tranh luận về tính hợp pháp của việc chính quyền tài trợ cho các tôn giáo. Ở đây có một dè dặt: nó không liên quan đến số lượng tín hữu mà liên quan đến số lượng linh mục và các tòa nhà dành riêng cho việc thờ phụng được công nhận.
Bằng cách tỏ lòng kính trọng Vua Baudouin (1930-1993), người đã từ chối ký luật hợp pháp hóa việc phá thai ở Bỉ, bằng cách công khai mong muốn phong chân phước cho Đức Vua, Đức Phanxicô đã đưa ra một số chỉ trích, nhưng đây không phải là quan điểm mới của ngài.
Chuyến thăm mộ của Hoàng gia Bỉ ở Đền thờ Đức Bà Laeken đã không được công bố. Nhưng một tuyên bố chính thức của Vatican cho biết tin này và đã có những phản ứng mạnh trong nước.
Sáng thứ bảy 28 tháng 9, Đức Phanxicô đến Nhà thờ tân Gothic nằm cách vương cung thánh đường Koekelberg năm cây số, ở đó ngài vừa có bài phát biểu với các nhà lãnh đạo Giáo hội công giáo Bỉ. Được xây dựng theo sáng kiến của vua Leopold I để chôn hài cốt của vợ, nơi này đã là nơi chôn cất các nhân vật trong hoàng gia Bỉ. Ngài đã gặp Vua Philippe và Hoàng hậu Mathilde ở đó, họ đã đón ngài ở phi trường trong cơn mưa khi ngài đến Bỉ tối thứ năm 26 tháng 9. Ngày hôm sau, Đức Vua và Hoàng hậu chào đón chính thức ngài ở Lâu đài Laeken, tại đây ngài đã nói về sự xấu hổ của Giáo hội vì hành vi lạm dụng tình dục của các giáo sĩ, một tình trạng chính Nhà Vua cũng đề cập trong bài phát biểu của ngài.
Nhưng sáng thứ bảy 28 tháng 9, trong bầu khí thân mật và gia đình, Đức Phanxicô đã gặp một phần hoàng gia. Hầm mộ của hoàng gia có lối đi lên đi xuống song song, Đức Phanxicô, Đức Vua và Hoàng hậu nghiêng mình trước mộ.
Beaudoin trị vì nước Bỉ trong 42 năm, từ năm 1951 đến khi ông đột ngột qua đời vì đau tim năm 1993, khi mới 63 tuổi. Bên cạnh Đức Phanxicô, Vua Philippe và Hoàng hậu Mathilde còn có cựu Vua Albert II, kế vị người anh Baudouin vì ông không có con cháu, và vợ là Hoàng hậu Paola. Tổng giám mục trẻ Luc Terlinden của giáo phận Mechelen-Brussels cũng có mặt.
“Lòng can đảm” của Vua Baudouin
Câu chuyện có thể đã kết thúc ở đó. Nhưng một lời giải thích từ Vatican gởi cho các nhà báo đã rung chuyển: Đức Phanxicô ca ngợi “lòng can đảm” của Vua Baudouin, ngài đã rời chức vụ “để không ký vào một đạo luật giết người”. Ám chỉ đến một tình tiết đáng kinh ngạc trong lịch sử của chế độ quân chủ Bỉ. Năm 1990, trong 36 giờ, Đức Vua đã dùng một công thức pháp lý tạo ra để không gắn chữ ký của ngài với luật mà ngài không thể chấp thuận hay bác bỏ. Cách làm này đã chia rẽ các chuyên gia luật hiến pháp và các nhà lãnh đạo chính trị, nhưng không làm giảm đi tình cảm gắn bó của người dân Bỉ với nhà vua.
Một thẳng thắn rất bất thường, Tòa Thánh cho biết Giáo hoàng muốn phong chân phước cho Nhà Vua và xin “người Bỉ hãy quay về với Đức Vua khi luật hình sự đang được soạn thảo”. Một ám chỉ có thể xảy ra với việc mở rộng dần dần các khả năng dùng biện pháp an tử. Ngay khi tin tức lan truyền, một thông cáo báo chí mạnh mẽ từ Trung tâm Hành động Thế tục đã tố cáo “những bình luận đáng kinh ngạc” xem đây là một “khiêu khích” trong ngày quốc tế về quyền phá thai. Xấu hổ trước việc lan truyền tin tức có nguy cơ làm suy yếu vị thế trọng tài hiến pháp của Quốc vương Bỉ, Hoàng gia đã liên tục gởi thông cáo nhắc lại tính chất “nghiêm ngặt riêng tư” của chuyến đi này.
Theo trang mạng France-Catholic.fr, truyền đi ngày 16 tháng Mười vừa qua, một cha sở vùng thủ đô Paris cho biết từ tháng Chín năm nay, trong 20 năm lịch sử giáo xứ của cha, chưa bao giờ cha thấy có nhiều đơn xin rửa tội như năm nay và nhu cầu cần huấn luyện những người trẻ ấy đẩy mạnh. Các “người làm vườn” giờ chót này đến từ đâu? Đâu là sự khao khát thúc đẩy các linh hồn này dám vượt qua bước này, trong khi các dấu chỉ, các cơ quan truyền thông và đôi khi chính các giáo sĩ tỏ ra cam chịu khi thấy Giáo hội Công giáo đang biến mất khỏi khung cảnh nước Pháp?
Dĩ nhiên là phải giữ ý nghĩa của tỷ lệ. Một số nhà thông thái cho rằng trong sự gia tăng này, có sự phục hồi lại những năm đại dịch Covid-19. Hồi đó không có các lễ rửa tội, cũng như các buổi phụng tự... Sự phục hồi này không thể bù đắp cho sự giảm sút đáng kể về số trẻ em được rửa tội: từ 200.000, con số này giảm mất một nửa trong vòng 20 năm!
Có những người khác, tân tiến hơn, thì cho rằng sự gia tăng số người lớn và thiếu niên xin rửa tội là do sự hiện diện của các linh mục trên các mạng xã hội, nhờ đó họ đi tới các độc giả, khán thính giả xa xăm hơn...
Những nhận định trên đây không đủ để giải thích sự đột nhiên phục hồi đức tin. Phải chăng trong sự khao khát này, có một dấu chỉ cho thấy Chúa Thánh Linh tiếp tục thổi, trong khi những cố gắng phàm nhân của chúng ta dường như vô ích?
Gia tăng số các thánh đường bị đốt tại Pháp
Ngày càng có các thánh đường Công giáo bị đốt phá tại Pháp. Nguyên trong năm nay, có 14 vụ cố ý đốt phá như vậy và theo “Viện quan sát gia sản tôn giáo” tại Pháp, xu hướng ngày liên tục gia tăng.
Tuần báo “Gia đình Kitô” (Famille Chrétienne), số mới xuất bản, cho biết những vụ đốt phá nhà thờ như thế gây sốc trong dư luận ở Pháp, và vụ mới nhất là nhà thờ thánh Hilario thành Poitiers, xây trên mộ thánh nhân hồi thế kỷ thứ IV. May mắn, nhờ phản ứng mau lẹ của các phụ huynh học sinh trường học gần đó, lính cứu hỏa đã dập tắt được ngọn lửa trong vòng một tiếng đồng hồ.
Một tháng trước đó, báo chí cũng đăng tải những hình ảnh đốt nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Saint-Omère, gần thành phố Calais, mạn tây bắc nước Pháp. Mái và đỉnh tháp của nhà thờ mới được tu bổ gần đây, đã bị phá hủy.
Viện quan sát gia sản tôn giáo ở Pháp nhấn mạnh rằng đó không phải là những vụ riêng rẽ. Năm ngoái, tại nước này trong số 27 vụ hỏa hoạn các nhà thờ Công giáo, có 8 vụ do những kẻ gian ác gây ra. Nhưng năm nay, chưa đầy 10 tháng qua, đã có 26 vụ hỏa hoạn nhà thờ, trong đó 14 vụ là do thủ phạm cố tình đốt phá.
Thêm vào đó, có những vụ phá hoại, theo đài quan sát, con số này thường bị coi nhẹ, vì các cha sở không luôn trình báo với cảnh sát. Các vị nói rằng nếu làm lớn vấn đề này thì chỉ khuyến khích những kẻ gian ác tiếp tục thực hiện những tội ác tương tự.
Ngày 22/10/2024, Tòa Thánh đã thông báo về việc gia hạn thêm bốn năm Thỏa thuận Tạm thời giữa Tòa Thánh-Trung Quốc về bổ nhiệm Giám mục. Đây là lần thứ ba thỏa thuận ký ngày 22/9/2018 được gia hạn. Thông cáo nhấn mạnh “sự đồng thuận đã đạt được để có một áp dụng hiệu quả”. Vatican nhắc lại ý định duy trì “cuộc đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng với phía Trung Quốc”.
Đây là lần thứ ba thỏa thuận ký ngày 22/9/2018 được gia hạn. Hai lần trước đây, vào năm 2020 và vào ngày 22/10/2022, thỏa thuận được gia hạn với thời hạn hai năm.
Thỏa thuận về bổ nhiệm Giám mục này đã mở ra một trang lịch sử trong các mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và trong chính Giáo hội của nước này, giúp cho tất cả các Giám mục Trung Quốc được hiệp thông đầy đủ về phẩm trật với Đức Thánh Cha.
Thông cáo báo chí chính thức của Vatican giải thích rằng quyết định này, được đưa ra “sau khi tham khảo ý kiến và đánh giá thích hợp”, nhờ “sự đồng thuận đã đạt được để áp dụng hiệu quả” Thỏa thuận về việc bổ nhiệm các Giám mục và nêu rõ rằng “Phía Vatican vẫn có ý định tiếp tục đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng với phía Trung Quốc, nhằm phát triển quan hệ song phương hướng tới lợi ích của Giáo hội Công giáo trong nước và của toàn thể người dân Trung Quốc”.
Thỏa thuận tạm thời đã chấm dứt các lần tấn phong Giám mục không có sự đồng ý của Đức Giáo hoàng trong nhiều thập kỷ. Một kịch bản đã thay đổi hoàn toàn trong 6 năm qua, với khoảng 10 lần bổ nhiệm và tấn phong các Giám mục, đồng thời chính thức hóa chức vụ công khai của một số giám chức trước đây chưa được Bắc Kinh công nhận.
Dấu hiệu của sự hợp tác mới cũng được thể hiện qua sự hiện diện của các Giám mục từ Trung Quốc đại lục tại Thượng Hội đồng Giám mục ở Vatican và trong các sự kiện khác ở Châu Âu và Châu Mỹ, cũng như sự hiện diện của giới trẻ tại Đại hội Giới trẻ Thế giới ở Lisbon vào năm 2023, và một sự tham gia chung của các tín hữu Trung Quốc vào các chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến phương Đông trong vài năm qua.
Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười vừa qua, có ba tín hữu Công giáo người Palestine, tên là David David, Jack Odeh và Sami Mubarak, từ thị trấn Beit Sahour, thuộc miền Cisjordani, nay cũng gọi là Tây Ngạn, một vùng của người Palestine bị Israel chiếm đóng, đến giáo xứ Thánh Thể ở thành phố San Antonio, bang Texas. Họ mang theo một số đồ đạo làm bằng gỗ ôliu, gồm thánh giá, tượng, hang đá máng cỏ. Các đồ thủ công này do các tín hữu Công giáo Palestine, gồm 500 gia đình sản xuất với hy vọng là có thể ở lại quê hương nhờ bán các sản phẩm này, và đồng thời có thể giúp những người mua có thể tăng trưởng trong đức tin.
Ông Jack Odeh nói: “Chúng tôi đến đây để thi hành một sứ vụ và hỗ trợ các gia đình Kitô Palestine. Tại đó, chúng tôi có rất nhiều vấn đề: trước tiên là làm sao để các tín hữu Kitô ở lại Thánh địa và đừng tìm cách di cư đi nơi khác”.
Cuộc xung đột bùng nổ sau biến cố khủng bố ngày 07 tháng Mười năm ngoái, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của những người sống trên lãnh thổ của người Palestine. Các du khách, tín hữu hành hương vốn mua các đồ kỷ niệm trong các tiệm ở Bethlehem, nay họ lo sợ không dám tới đó nữa.
Ông Odeh đang du hành các nơi ở Mỹ để phổ biến, và bán các đồ thủ công của các gia đình Kitô trong các giáo xứ ở Mỹ. “Tất cả số tiền thu được đều dành cho các gia đình Công giáo, để giúp họ có thể ở lại quê hương. Họ không muốn ai phải rời bỏ Thánh địa, vì đó là nơi Thánh, nơi Chúa Giêsu sinh ra và chịu chết. Chúng tôi không thể rời bỏ phần đất này”.
Trong khi du hành tại Mỹ, họ luôn giữ liên lạc với những người thân yêu ở quê hương. Ông Odeh giải thích rằng: “Có những cuộc xung đột giữa người Do thái và Hồi giáo và các tín hữu Kitô bị kẹt ở giữa. Chúng tôi muốn hòa bình, chúng tôi không thích cuộc sống này, nhưng chúng tôi không thể ra đi, vì các gia đình chúng tôi ở đó. Tôi liên lạc mười lần mỗi ngày với gia đình, vì có thể họ bị trúng bom đạn bất cứ lúc nào. Ai không sống tại những nơi đó thì không thể đích thân hiểu được. Các tin tức rất xấu, các tín hữu Kitô tại Thánh địa biết những gì xảy ra, nhưng những tin tức không được truyền đi và dân chúng cần được giúp đỡ. Không thể ở lại lâu khi có chiến tranh, tất cả đều muốn ra đi, nhưng Chúa Giêsu đã chịu chết tại đó, chúng tôi không thể rời bỏ, và chúng tôi sẽ chết vì Chúa Giêsu”.
Cha Marcelo Pérez, thuộc giáo phận San Cristóbal de las Casas, Mexico, đã bị sát hại hôm Chúa Nhật ngày 20/10. Những kẻ tấn công đã bắn cha vào cuối Thánh lễ, khi cha chuẩn bị rời đi để tiếp tục công việc mục vụ.
Người dân khiêng thi hài Cha Marcelo Pérez
Theo báo địa phương El Heraldo de Chiapas, sau khi cha Pérez dâng lễ tại nhà thờ ở khu Cuxtitali và đang đi đến nhà thờ Guadalupe thì bị một số kẻ đi xe máy bắn chết.
Trong một tuyên bố, Hội đồng Giám mục Mexico lên án sự việc này, nói rằng thực tế này “không chỉ tước mất đi một mục tử tận tụy của cộng đoàn, mà còn làm im lặng tiếng nói ngôn sứ vốn đấu tranh không mệt mỏi cho hòa bình bằng sự thật và công lý ở vùng Chiapas”.
Các Giám mục Mexico nhận định rằng Cha Marcelo Pérez là một mẫu gương sống động về sự dấn thân của linh mục đối với những người túng thiếu và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Công việc mục vụ của cha, được đặc trưng bởi sự gần gũi với mọi người và sự hỗ trợ liên tục đối với những người cần nhất, đã để lại một di sản về tình yêu và sự phục vụ sẽ tồn tại trong trái tim của tất cả những người mà cha đã chạm đến qua sứ vụ của cha”.
Trong tuyên bố, các Giám mục Mexico cũng bày tỏ “sự liên đới và gần gũi về tinh thần” với Giám mục của San Cristóbal de las Casas, Đức Cha Rodrigo Aguilar Martínez, và với cộng đoàn Công giáo địa phương. Đồng thời, các ngài yêu cầu chính quyền thực hiện “một cuộc điều tra toàn diện và minh bạch nhằm làm sáng tỏ tội ác này và tìm công lý cho Cha Marcelo Pérez”, thực hiện “các biện pháp hiệu quả để đảm bảo an toàn cho các linh mục và các nhân viên mục vụ” và gia tăng gấp đôi “các nỗ lực chống lại bạo lực và việc không trừng phạt các tội ác, những điều đang gây đau khổ cho khu vực Chiapas” và cho toàn đất nước nói chung.
Xin bà cho biết bà giới thiệu với các bạn trẻ như thế nào về hướng nội?
Bà Marie-Dominique Germette: Hàng tuần tại trường Học việc Auteuil của chúng tôi, chúng tôi có một giờ bắt buộc có chủ đề “phát triển con người và tinh thần” nhằm mục đích giúp các em thấy mối quan hệ của các em với người khác, với thế giới bên ngoài để khám phá sự khác biệt. Trong chương trình này, trước mỗi cuộc họp, chúng tôi bắt đầu bằng phút thinh lặng, ba, bốn phút. Lần đầu tiên, các em ngạc nhiên, đôi khi chúng tôi phải lặp lại bài tập để các em im lặng hoàn toàn, nhưng ở các buổi tiếp theo, ngay từ đầu, các em đã im lặng!
Tôi giải thích vòng tròn nhỏ ở giữa là nội tâm “ngôi vườn bí mật” của các con, để vào ngôi vườn này, các con phải tìm chìa khóa. Đôi khi cánh cổng bị hoen gỉ và ngôi vườn đầy cỏ dại. Thinh lặng là con đường đi về nguồn, đi vào ngôi vườn và vun trồng nó. Thánh Catarina Siêna nói về “tế bào của sự hiểu biết về chính mình”.
Triết gia Pascal đã nói: “Mọi bất hạnh của con người đều xuất phát từ một điều, đó là chúng ta không làm sao ngồi yên một chỗ trong phòng.” Vì chính nơi rất mật thiết này chúng ta gặp Thiên Chúa, Đấng, theo Thánh Augustinô “mật thiết với chúng ta hơn chính chúng ta”. Tôi nói với các em, giữ thinh lặng sẽ có ích cho các em khi các em trưởng thành: các em có thể rút lui khỏi cuộc sống đầy sóng gió, đi sâu vào tâm hồn mình để có những lựa chọn quyết định.
Có khó khăn với các em không?
Có, ở buổi học đầu tiên, một số các em không quen, các em cảm thấy ngượng ngùng. Giữ im lặng không phải là điều dễ dàng, các em lo lắng, các em phải gom lại những vấn đề các em gặp phải. Các em không quen và thường nói chuyện với nhau. Đó là thế hệ sinh ra đã có “ống nghe ở tai”. Im lặng là quá trình học hỏi, để không còn nghe tiếng ồn bên ngoài, để đối thoại với chính mình và để gặp Chúa. “Ngay cả trước khi tạo nên con trong bụng mẹ, Ta đã biết con” (Gr, 1). Sau đó là giờ thảo luận về mối quan hệ của các em với thinh lặng, đó là cả một phong phú khi làm nổi bật các nét đẹp chưa bao giờ được các em nói ra.
Bà nhận được phản ứng nào?
Lúc đầu các em cười, nhưng sau khi thực tập, các em rất thích, tôi nhớ các em đã vỗ tay: “Thưa cô, cô là người duy nhất làm chúng con chịu im lặng!” Các em tự hào về mình: “Thinh lặng giúp chúng con yên nghỉ, cho chúng con bình an, bắt chúng con phải suy nghĩ.” Trong một chuyến đi trên thuyền, một trong các em thường có hành vi hung bạo đã quay qua người bên cạnh nói: “Téma, nhìn kìa, im lặng… thật đẹp.”
Im lặng giúp các em nói về những chủ đề cá nhân hơn. Cũng đáng lo và cũng thật đẹp khi các em lên tiếng chia sẻ các kinh nghiệm sống mạnh như quấy rối, sức khỏe, bị ngược đãi. Thinh lặng tạo tin tưởng, tạo lắng nghe chăm chú. Trải nghiệm im lặng là cảm thấy mình được sinh ra trong chính mình. Tôi xúc động nhớ lại Christopher, một thanh niên sống thu mình, cuối cùng đã viết và đọc lời cầu nguyện trên một tấm vải: “Hãy tồn tại”.
Tổng Giám mục Jose Gomez của Los Angeles đã viết: “Có một sự thức tỉnh thiêng liêng đang diễn ra ở Mỹ, ẩn dưới tất cả các tranh cãi về chính trị, những đám mây của đại dịch vẫn đang ám ảnh và tất cả sự bất định về hướng đi của đất nước chúng ta.” Những lời của Tổng Giám mục đã gây ấn tượng với tôi. Tôi phải thú thật rằng tôi đồng ý với ông.
Những lời trong sách Khôn Ngoan hiện lên trong tâm trí của tôi:
“Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được ân huệ lớn lao. Quá thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu.” (Kn 3, 5-6).
Điều đó không phải là lạc quan vô lý nhưng đã được chứng minh hết lần này đến lần khác: thử thách và khổ đau dẫn đến sự đổi mới, cũng giống như vàng trong lửa vậy.
Sau khi phản tỉnh, tôi muốn mở rộng một chút tư tưởng đó của Đức tổng giám mục cùng cung cấp một số bằng chứng mà tôi đã thấy. Vừa qua, Giáo hội đã chứng kiến những cuộc trở lại đạo kỳ diệu. Những việc trở lại này thường diễn ra lặng lẽ, không được tổ chức rộng rãi hoặc bàn luận. Chẳng hạn, tại nhà nguyện của cộng đồng tôn giáo của tôi ở Washington, D.C., một phụ nữ đã được đón nhận vào Giáo hội. Những cuộc trở lại đạo khác thì được thảo luận rộng rãi hơn, mang đến cho chúng ta hy vọng! Ở Anh, Giáo hội đã chứng kiến lễ truyền chức của linh mục Michael Nazir-Ali, một cựu Giám mục Anh giáo từng được xem xét là ứng cử viên cho vị trí Tổng Giám mục Canterbury! Nazir-Ali đã chính thức hiệp thông với Giáo hội Công giáo vào ngày 29 tháng 9.
Tôi cũng thấy một làn sóng ngầm ủng hộ phong trào bảo vệ sự sống. Với những cuộc chiến pháp lý quan trọng chuẩn bị diễn ra, việc phong trào bảo vệ sự sống không ngừng được lan rộng và lớn mạnh đang thu hút sự quan tâm của người dân về quyền căn bản của mỗi con người: quyền được sống.
Twitter, Facebook và Instagram đã tràn ngập hình ảnh của những đứa trẻ hóa trang thành các thánh! Thật tuyệt vời khi thấy rất nhiều gia đình học hỏi, miêu tả và chia sẻ câu chuyện về sự thánh thiện và lòng dũng cảm của các thánh. Tôi ước mạng xã hội sẽ luôn tràn ngập hình ảnh của các thánh!
Nói về các thánh, chúng ta có những gương mặt tuyệt vời hoàn toàn mới đang thu hút sự chú ý của công chúng. Nếu bạn bỏ lỡ lễ phong chân phước của Chân phước Sandra Sabbatini, bạn nên tìm hiểu về câu chuyện của cô. Cuộc đời cô (cô đã qua đời vào năm 1984 trong một vụ tai nạn xe hơi) là một câu chuyện đáng kinh ngạc về một Kitô hữu sống Tin Mừng trong thế giới hiện đại. Một vị thánh tuyệt vời khác, linh mục người Mỹ, cha Michael McGivney, đã được phong chân phước cách đây đúng một năm! Và gần đây, chúng ta vừa kỷ niệm ngày lễ của Chân phước Carlo Acutis, vị thánh tuyệt vời đầu tiên của thiên niên kỷ! Hãy xem cuộc phỏng vấn với mẹ của cậu bởi Aleteia diễn ra gần đây.
Khi ngày lễ Giáng Sinh đang đến gần, một thời gian được biết đến với lòng bác ái và việc quyên góp từ thiện, chúng ta có lý do để tin rằng chúng ta sẽ tiếp tục thấy những hành động tử tế và sự hỗ trợ dành cho những người dễ bị tổn thương nhất. Năm ngoái, quyên góp từ thiện tại Mỹ tăng 3,8% (sau khi điều chỉnh lạm phát), đạt mức kỷ lục 471,44 tỷ USD.
Bất ổn chính trị và kinh tế, thậm chí những thử thách mà Giáo hội phải chịu đựng cũng không thể cản trở ân sủng và lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô. Tổng Giám mục Gomez nói rằng: “Những lợi lộc của xã hội thế tục và nền kinh tế tiêu thụ của chúng ta luôn trống rỗng và giả dối. Nó không bao giờ có thể thỏa mãn những khao khát sâu xa nhất của chúng ta hoặc trả lời cho những câu hỏi mà tất cả chúng ta đều giữ trong lòng: Tôi là ai? Tôi nên là người như thế nào? Tôi nên sống vì điều gì và tại sao? Điều gì sẽ xảy ra khi tôi chết?” Khi những câu hỏi này được đặt ra, chúng ta hãy sẵn sàng với những câu chuyện về những điều tốt đẹp mà chúng ta đã thấy. Chúng ta có, và sẽ luôn có, bằng chứng về công việc của Chúa quanh ta. Trong ngày Lễ Các Thánh này, chúng ta hãy cầu nguyện với toàn thể thiên quốc, để đôi mắt chúng ta có thể mở ra và thấy rõ hơn.”
Fr. Patrick Briscoe, OP
Linh mục Laurent Stalla-Bourdillon, Thần học gia, Giám đốc Cơ quan thông tin của các chuyên gia giáo phận Paris
Jean-Louis de La Vaissière, cựu nhà báo AFP, được Vatican công nhận từ năm 2011 đến năm 2016, tác giả của một số tác phẩm về giáo hoàng.
Ngày 24 tháng 10, Đức Phanxicô công bố Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta, Dilexit nos dành riêng cho Thánh Tâm. Một thông điệp ít được ngoài phạm vi công giáo chú ý, ngược với sự quan tâm chính trị-truyền thông của Thông điệp Laudato si’ năm 2015 và Thông điệp Fratelli Tutti năm 2020.
“Tuy Thông điệp này ít được chú ý nhưng vẫn có một tương lai” – Linh mục Laurent Stalla-Bourdillon, Thần học gia, Giám đốc Cơ quan thông tin của các chuyên gia của giáo phận Paris
Việc tiếp nhận một thông điệp cần có thời gian. Năm 2015, Thông điệp Laudato si’ ở trong khuôn khổ của Hội nghị COP21 Paris nên đã được đón nhận mạnh mẽ. Nhưng với Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta thì không có một hy vọng nào. Cũng không giống Thông điệp Fratelli Tutti là thông điệp nói đến vấn đề di cư và sự hiệp nhất của gia đình nhân loại, nhưng Thông điệp về Thánh Tâm không có một đối tượng xác định và gần như giới truyền thông không nắm được nội dung. Thông điệp không được chú ý, cho thấy giới truyền thông không quan tâm đến đời sống Giáo hội. Giáo hội cần xem lại vấn đề này. Thêm nữa, Thông điệp công bố khi Thượng Hội đồng kết thúc làm mờ đi sự chú ý.
Ngoài ra, Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta có thể làm chúng ta bối rối. Hai thông điệp cuối cùng của Đức Phanxicô mang tính xã hội, ngài gần như được cho là nhà lãnh đạo chính trị hơn là nhà lãnh đạo tôn giáo. Dư luận quần chúng quan tâm nhiều đến quan điểm chính trị và xã hội của ngài nhiều hơn là quan điểm thiêng liêng để họ có thể dựa vào. Với Dilexit nos, một số người ngạc nhiên, thậm chí thất vọng. Nhưng khi suy gẫm về tình yêu con người, ngài đã nối kết được các liên kết xã hội quan trọng nhất, kết thúc bằng trái tim của trái tim: nơi của tình yêu. Thông điệp rất sâu sắc, phù hợp với logic của những gì ngài đã nói từ đầu triều.
Tôi không nghĩ chúng ta có thể nói Thông điệp này chỉ dành cho người công giáo. Nếu chúng ta đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy ngài đưa ra các giải pháp để đương đầu với các cuộc khủng hoảng của thời đại này. Theo tôi, Thông điệp này đi sau Thông điệp Laudato si’ và Thông điệp Fratelli tutti là một bộ ba hoàn hảo các Thông điệp của ngài. Trước hết ngài nói về môi trường sống của nhân loại, bị suy thoái về sinh thái; sau đó là nói về cơ thể bị chiến tranh và chia rẽ tàn phá và bây giờ là quả tim con người. Nếu con người không giữ lại được tình yêu là sức mạnh của trái tim, họ sẽ không tìm ra giải pháp cho nỗi đau khổ của họ trong hai thông điệp đầu tiên.
Nếu thông điệp chưa đánh thức được tâm hồn con người thì tôi tin chắc, thông điệp này có tương lai. Đức Phanxicô nhấn mạnh thế giới chỉ có thể thay đổi từ trái tim. Tình yêu là liều thuốc giải độc cho một thế giới đang ngày càng lạnh lẽo và tê liệt. Vì thế tùy thuộc ở chúng ta để hiểu và giải thích ý của ngài.
Không có gì ngạc nhiên khi Thông điệp này ít được giới truyền thông chú ý, họ còn bận chú ý đến các vấn đề gây tranh cãi như vụ Abbé Pierre, chúc phúc cho các cặp đồng tính, chức phó tế nữ, các vấn đề liên quan đến sức khỏe của ngài, ngài sắp từ nhiệm hay chưa, ngoài ra họ chẳng quan tâm gì khác.
Sau 11 năm làm giáo hoàng, sự chú ý dành cho ngài đã giảm sút, chúng ta đã thấy qua thời điểm quan trọng ở Marseille tháng 9 năm 2023, khi ngài nói về vấn đề nhập cư, xã hội đã không đón nhận. Cũng vậy với chuyến đi Châu Á của ngài tháng 9, chuyến đi cảm động này cũng bị giới truyền thông không để ý đến nhiều, chuyến đi Bỉ cũng vậy, giới truyền thông chỉ nói về việc phá thai.
Các phương tiện truyền thông và xã hội Pháp phần lớn thờ ơ với các chủ đề mang tính tôn giáo như Thánh Tâm. Thông điệp Laudato si’ về môi trường, Thông điệp Fratelli Tutti về tình liên đới được quan tâm nhiều vì chạm đến các chủ đề nhạy cảm của xã hội. Trước đây các thông điệp của Đức Gioan-Phaolô II được đón nhận nhờ sức thu hút và nhờ các lời nói mạnh mẽ của ngài. Cũng vậy với Đức Bênêđíctô XVI, dù chiều cao thần học của ngài vượt quá sự hiểu biết với quần chúng.
Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta có nội dung của một lòng đạo đức cổ kính, bình dân nên giới truyền thông có phần xem thường. Đây cũng là một trong những nghịch lý của ngài, ngài yêu thế giới ngày nay nhưng ngài cũng dựa vào truyền thống. Người ngày nay không đi tìm chiều sâu của mầu nhiệm ở đây, thế giới đương đại đã mất trọng tâm của mình. Nói về trái tim, Đức Phanxicô kêu gọi quay về với điều thiết yếu, với tình cảm, với kết nối… Đây là thông điệp đi ngược với các giá trị giả của ngày nay – tốc độ, hiệu quả, lợi nhuận.
Đức Phanxicô là giáo hoàng có văn hóa, quan tâm đến các thần học gia Pháp, được văn hóa thần bí phong phú Châu Âu nuôi dưỡng. Nhưng những tài liệu tham khảo này không còn được chia sẻ. Tôi cũng thấy có một điều gì đó sâu xa hơn trong sự thờ ơ này: ngài đã làm thất vọng vì ngài không đi theo các tiêu chuẩn của chủ nghĩa tiến bộ mà người dân có về ngài. Đúng là thông điệp của ngài mang tính nghịch lý, đôi khi rất táo bạo, nhưng đôi khi lại bảo thủ. Những tuyên bố rất mạnh của ngài chống việc phá thai ở Bỉ và trên chuyến bay từ Bỉ về Rôma đã làm người Pháp bị sốc vì họ muốn đưa việc phá thai vào Hiến pháp, vì thế có thể đã góp phần tạo phản ứng của giới truyền thông: ngài như ở một hành tinh khác, như các giáo hoàng tiền nhiệm của ngài, chúng ta đặt nhiều hy vọng ở ngài, nhưng ngài chỉ là người của quá khứ.
Liên quan đến thẩm quyền và thánh chức trong Giáo hội, trong bài thuyết trình, nhân cuộc hành hương Roma, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng Mười này của các giám mục, linh mục và giáo dân theo tinh thần tự sắc “Summorum Pontificum”, Các Giáo hoàng Roma, do Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI ban hành, ngày 07 tháng Bảy năm 2007, nới rộng việc cho phép cử hành thánh lễ theo sách lễ tiền Công đồng chung Vatican II, Đức Hồng y Gerhard Müller, người Đức, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, nhắc nhở rằng: Các giám mục sẽ phản bội sứ mạng Chúa trao nếu không rao giảng đức tin Công giáo, phản bội bằng cách tương đối hóa đạo lý và không giữ vững đức tin chân chính.
Đức Hồng y nói: “Chúng ta không được chiều theo cám dỗ này là: nếu bạn muốn đi đến với con người ngày nay và được mọi người yêu mến, thì hãy làm như Philatô, gạt chân lý sang một bên, và như vậy, bạn sẽ tránh bị bách hại, bị đau khổ, thánh giá và cái chết! Nói theo kiểu thế gian, quyền bính chính trị, các cơ quan truyền thông và tài chánh là những điều chắc chắn, trong khi sự thật thì kéo theo chống đối, và những lời hứa đau khổ với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh!”
Trong chiều hướng này, Đức Hồng y Müller nhấn mạnh hai sai lầm trầm trọng:
1. Thứ nhất khi một vị Giáo hoàng, với quyền tông đồ tối cao (plenitudo apostolica) dám thay đổi cơ cấu phẩm trật của Giáo hội và quyền Chúa ban (ius divinum) cho Giáo hội, ví dụ ủy quyền tài phán của mình cho các giáo dân.
2. Sai lầm thứ hai là dạy rằng Chúa Thánh Thần có thể linh hứng cho Đức Giáo hoàng một đạo lý hoàn toàn mới mẻ mà các tín hữu phải chấp nhận một cách mù quáng, dù rằng đạo lý mới ấy trái ngược rõ ràng với giáo huấn của Kinh thánh, với Tông truyền và với các tuyên định tín lý trước đó của các vị Giáo hoàng và các Công đồng chung.
Sau gần ba năm thảo luận cách tiếp cận mới trong Giáo hội công giáo, vào cuối Thượng Hội đồng về tính đồng nghị kết thúc tại Rôma tối thứ bảy 26 tháng 10 năm 2024, Giám mục Georg Bätzing, giáo phận Limburg, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức (DBK) tuyên bố có “một thuận lợi” cho con đường đồng nghị của Giáo hội Đức”, nhưng ngài không hoàn toàn hài lòng với Tài liệu cuối cùng về chức phó tế nữ.
Ngài nghĩ quan điểm của Thượng Hội đồng về chức phó tế nữ là quan trọng nhưng chưa đủ. Trong cuộc họp báo ngày chúa nhật 27 tháng 10 tại Rôma, ngài cho biết quyết định bỏ ngỏ việc phong phó tế nữ có vẻ rụt rè. Nhưng ít nhất quyết định đã được lặp lại: “Đó là những gì chúng tôi yêu cầu.”
Giữ vấn đề chức phó tế nữ luôn mở
Quyết định tiếp tục để vấn đề chức phó tế nữ mở được ghi ở mục 60 của Tài liệu cuối cùng đã có số phiếu phản đối lớn nhất (97), nhưng lại có được đa số 2/3 cần thiết. Vì thế chúng ta có thể hiểu vấn đề phụ nữ được cho là vấn đề lớn nhất của Giáo hội công giáo và đã làm Giám mục Georg Bätzing “buồn lòng”.
Theo ngài, điều này làm suy yếu nhu cầu cấp thiết phải giải quyết vai trò của phụ nữ trong Giáo hội để họ được “tham gia vào mọi cấp độ”, tuy có hơn 72% phiếu ủng hộ, nhưng ngài cho rằng Giáo hội công giáo Đức có thể đóng góp trong việc suy tư về chủ đề này, về mặt thần học cũng như về kinh nghiệm riêng trong đời sống Giáo hội Đức.
Để mở rộng sự tham gia của người công giáo không được phong chức thánh
Trong Tài liệu cuối cùng, các đại diện đã bỏ phiếu ủng hộ việc mở rộng sự tham gia của người công giáo không được thụ phong (giáo dân) vào quá trình ra quyết định của Giáo hội. Chẳng hạn, các hội đồng cố vấn phải được thành lập trên toàn thế giới. Cho đến nay, chỉ những người được phong chức mới có quyền quyết định trong Giáo hội công giáo, vì thế không có tham khảo ràng buộc về mặt pháp lý của giáo dân với các giáo sĩ.
Ngài cho biết ngài sẽ xem xét khả năng giáo dân có thể là thành viên của Hội đồng Giám mục: “Là Hội đồng Giám mục, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào trong tương lai? Chúng ta sẽ khép kín giữa chúng ta hay Hội đồng Giám mục chúng ta sẽ mở ra với giáo dân trong tư cách họ là khách có quyền phát biểu?” Theo ngài, Tài liệu cuối cùng về Thượng Hội đồng về tính đồng nghị giúp cho đường hướng suy nghĩ này. Cho đến nay, không có ràng buộc nào về mặt pháp lý của giáo dân với các giáo sĩ.
Các linh mục và giám mục giữ quyền quyết định trong Giáo hội
Theo Giám mục Stefan Oster, giáo phận Passau, Đức, Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng cho thấy các linh mục và giám mục vẫn giữ quyền ra quyết định trong Giáo hội công giáo. Trong tuyên bố sáng chúa nhật 27 tháng 10, ngài nhấn mạnh đây là những điểm quan trọng của Tài liệu cuối cùng: “Tiến trình ‘quyết định’ sẽ có sự tham gia của càng nhiều người càng tốt, nhưng tiến trình ‘ra quyết định’ vẫn dành cho hàng giáo phẩm.” Trong Giáo hội công giáo, chỉ nam giới mới có thể làm linh mục, vì vậy phụ nữ không có quyền đưa ra quyết định cuối cùng trong Giáo hội. Ngài cho biết, Tài liệu cuối cùng được để mở. Việc Đức Phanxicô công bố ngay tài liệu này làm cho việc sử dụng sau này “thành khó khăn”. Ngay từ đầu, Thượng Hội đồng được soạn thảo trong ý tưởng sẽ trình lên Giáo hoàng những đề xuất trong Tài liệu, từ đó ngài sẽ đưa ra một văn bản chính thức.
Quy chế giáo luật của Tài liệu cuối cùng không được chính xác
Trong phiên họp bế mạc tối thứ bảy 26 tháng 10, Đức Phanxicô đã bất ngờ tuyên bố ngài sẽ trực tiếp công bố Tài liệu cuối cùng của các thành viên tham dự Thượng Hội đồng soạn thảo và ngài sẽ không công bố Tông huấn tóm tắt và có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Ngài nói: “Những gì chúng ta áp dụng là đủ. Tài liệu này đã có những chỉ dẫn rất cụ thể có thể làm kim chỉ nam cho sứ mệnh của các Giáo hội trên các lục địa khác nhau và trong các bối cảnh khác nhau.” Ngài không nêu rõ tình trạng kinh điển của Tài liệu này.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha quảng diễn ý nghĩa trình thuật Tin mừng về việc Chúa Giêsu chữa lành anh Ba-ti-mê, người mù bẩm sinh, ngồi bên vệ đường hành khất. Khi nghe Chúa Giêsu đi qua, anh đã kêu to lên, xin Chúa cứu chữa. Và trong khi tất cả những người khác trách cứ anh, vì đã làm phiền họ do tiếng kêu của anh. Chúa Giêsu dừng lại, vì Thiên Chúa luôn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo khổ và không có tiếng kêu đau khổ nào không được Ngài lắng nghe”.
Áp dụng vào Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Thánh cha nói:
“Kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục này, mang trong tâm hồn lòng biết ơn bao la vì những gì chúng ta đã có thể chia sẻ với nhau, chúng ta dừng lại những gì xảy ra cho người mù trong Tin mừng hôm nay. Đầu tình thuật, “ông ngồi bên vệ đường ăn xin” (Mt 10.46), và cuối trình thuật, sau khi được Chúa Giêsu kêu gọi và được phục hồi thị giác, ‘anh theo Chúa trên đường Người đi” (v.52).
Điều đầu tiên Tin mừng nói với chúng ta về anh Ba-ti-mê là: anh ngồi ăn xin. Vị trí của anh là tiêu biểu của một người từ nay đang khép kín trong đau khổ của mình, ngồi cạnh vệ đường như thể chẳng còn gì khác để làm ngoài việc nhận cái gì đó từ bao nhiêu lữ khách ở thành Giê-ri-khô, nhân lễ Vượt Qua. Nhưng như chúng ta biết, để sống thực sự nhận lãnh, ta không thể ngồi mãi: sống luôn luôn là chuyển động, bước đi, mơ ước, đề ra dự phóng, cởi mở đối với tương lai. Vì vậy, người mù Ba-ti-mê cũng tượng trưng cho sự mù nội tâm làm cho chúng ta, bất động ở bên lề cuộc sống, không còn hy vọng nữa.
Và điều này có thể làm cho chúng ta suy nghĩ sâu hơn về đời sống bản thân của chúng ta, nhưng cả về cách thức chúng ta là Giáo hội của Chúa. Bao nhiêu điều, dọc đường, có thể làm cho chúng ta mù quáng, không có khả năng nhận ra sự hiện diện của Chúa, không sẵn sàng đương đầu với những thách đố của thực tại, nhiều khi không thích hợp trong việc trả lời cho bao nhiêu vấn đề đang kêu tới chúng ta, như anh mù Ba-ti-mê với Chúa Giêsu. Nhưng đứng trước những yêu cầu của bao nhiêu người nam nữ ngày nay, trước những thách đố của thời đại chúng ta, những điều cấp thiết trong việc loan báo Tin mừng, chúng ta không thể ngồi yên. Một Giáo hội ngồi yên, hầu như không nhận thấy mình đang rút lui khỏi cuộc sống và khép mình ở ngoài lề thực tại, thì đó là một Giáo hội có nguy cơ tiếp tục mù quáng và rơi vào tình trạng bất ổn của mình và tiếp tục ngồi trong sự mù quáng của mình, chúng ta sẽ tiếp tục không thấy những nhu cầu mục vụ cấp thiết của chúng ta và bao nhiêu vấn đề của thế giới chúng ta đang sống”.
Trái lại, chúng ta hãy nhớ điều này: Chúa đi qua, luôn đi qua và dừng lại để chữa lành sự mù quáng của chúng ta. Và thật là đẹp nếu Thượng Hội đồng thúc đẩy chúng ta trở thành Giáo hội như anh Ba-ti-mê: là cộng đồng các môn đệ, khi nghe Chúa đi qua, thì cảm thấy hân hoan vì ơn cứu độ, để cho mình được sức mạnh của Tin mừng đánh thức và bắt đầu kêu lên cùng Chúa. Giáo hội làm như vậy, khi đón nhận tiếng kêu của những người muốn khám phá niềm vui Tin mừng và của những người, thay vì đã quay lưng lại, tiếng kêu âm thầm của người dửng dưng, tiếng kêu đau khổ của những người nghèo và ở ngoài lề; tiếng kêu nghẹn ngào của người không còn sức lực để kêu lên Thiên Chúa, vì họ không có tiếng nói hay vì cam chịu. Chúng ta không cần một Giáo hội ngồi lỳ và từ khước, nhưng một Giáo hội đón nhận tiếng kêu của thế giới và dấn thân để phục vụ.
Sang đến khía cạnh thứ hai: ban đầu anh Ba-ti-mê ngồi, nhưng sau cùng chúng ta thấy anh đứng phắt dậy và theo Chúa trên đường Người đi. Đó là một kiểu nói tiêu biểu của Tin mừng và có nghĩa là ông trở nên môn đệ của Chúa, và bước theo Ngài.
Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta ngồi thoải mái, cả khi Giáo hội không tìm được sức mạnh, cần có can đảm và sự táo bạo để trỗi dậy và tiếp tục hành trình. Chúng ta luôn nhớ trở về với Chúa và Tin mừng của Ngài.
Tôi muốn lặp lại rằng Tin mừng nói về anh Ba-ti-mê theo Chúa trên đường. Đó là một hình ảnh của Giáo hội tiến bước: Chúa kêu gọi chúng ta, nâng chúng ta dậy khi chúng ta ngồi hoặc sa ngã, làm cho chúng ta tái phục hồi thị giác, để, dưới ánh sáng của Tin mừng, chúng ta có thể thấy những lo âu và đau khổ của thế giới, và như thế chúng ta được Chúa giúp đứng lên, chúng ta cảm nghiệm niềm vui đi theo Chúa. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta không tiến bước cho mình hoặc theo các tiêu chuẩn của thế gian, nhưng cùng nhau đi theo Chúa và với Chúa.
Cuối bài giảng, Đức Thánh cha cũng nhắc đến thánh tích ngai tòa của thánh Phêrô được trùng tu kỹ lưỡng. Đức Thánh cha nói: “Chúng ta hãy chiêm ngắm, với sự kinh ngạc của đức tin, và nhớ đó là ngai tòa của tình thương, hiệp nhất và thương xót, theo mệnh lệnh Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô tông đồ, đừng thống trị những người khác nhưng phục vụ họ trong tình bác ái”.
Đức Thánh cha cũng nói đến mái che hùng vĩ trên bàn thờ thánh Phêrô, sáng ngời hơn bao giờ hết, để mọi người khám phá nơi đó là điểm hội tụ đích thực của toàn thể Vương cung thánh đường, nghĩa là vinh quang của Chúa Thánh Linh. Đó là Giáo hội hiệp hành: một cộng đoàn với quyền tối thượng là ở nơi hồng ân của Chúa Thánh Linh, làm cho tất cả chúng ta trở thành anh chị em trong Chúa Kitô nâng chúng ta lên Ngài”.
Phần lời nguyện chung được những người đại diện từ một số quốc gia, dâng lên Chúa những ước nguyện: cho Giáo hội, cho Đức Thánh cha, cho Thượng Hội đồng Giám mục và cho mọi thành phần dân Chúa.
Thánh lễ tạ ơn bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI đã kết thúc với phép lành của Đức Thánh cha.
Ngai tòa Thánh Phêrô là một ngai cổ xưa bằng gỗ, được đưa đến Roma vào thế kỷ thứ 9, như một món quà của vua Pháp Carlo II il Calvo tặng Đức Giáo Hoàng Gioan VIII. Vào thế kỷ 13, Ngai toà được bọc thêm một khung kim loại bên ngoài để có thể vận chuyển trong các cuộc rước long trọng ở Đền thờ Thánh Phêrô.
Trong quá trình trùng tu tán che trên bàn thờ Tuyên xưng Đức tin, để chuẩn bị cho Năm Thánh 2025, thánh tích Ngai tòa thánh Phêrô được chuyển đến phòng thánh Ottoboni và được lưu giữ tạm thời ở đó. Và chính Đức Thánh Cha trước khi cử hành Thánh lễ khai mạc phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về Hiệp hành, sáng ngày 2/10/2024, đã đến phòng thánh Ottoboni của Đền thờ Thánh Phêrô để chiêm ngắm thánh tích Ngai tòa. Sau đó ngài đã cho phép trưng bày Ngai toà để các tín hữu chiêm ngắm trong thời gian từ Chúa nhật 27/10 đến 08/12/2024, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Đức Hồng Y Mauro Gambetti, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô giải thích, Đền thờ thánh Phêrô muốn trưng bày thánh tích cổ - Ngai toà Tình yêu, bởi vì Ngai toà chỉ cho chúng ta thấy chỉ có tình thương mới có thể sinh ra cộng đoàn Kitô. Thực vậy, Ngai toà kể cho chúng ta về một cuộc gặp gỡ, quy tụ trong một cộng đoàn, của một Giáo hội quy tụ quanh vị mục tử, nơi mỗi người được mời gọi đích thân đi theo Chúa Giêsu, nhưng trên một con đường không bao giờ mang tính cá nhân, nhưng luôn được chia sẻ và soi sáng bởi anh chị em.
Giáo hội cử hành lễ kính nhớ Ngai tòa Thánh Phêrô vào ngày 22/2 hàng năm nhằm tôn vinh quyền tối thượng của Thánh Phêrô và những người kế vị ngài. Việc cử hành này tưởng nhớ quyền năng được Chúa Kitô trao ban cho người đại diện cho Người trên trái đất, là người đứng đầu Giáo hội và là Đức Giáo Hoàng, như được viết trong các Tin Mừng đã chỉ ra: “Con là Đá và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được”
Đức Thánh cha thông báo quyết định trên đây, vào chiều thứ Bảy, ngày 26 tháng Mười vừa qua, trong lời chào kết thúc khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục, về chủ đề: “Tiến tới một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng”, sau tiến trình dài bốn năm.
Sau khi nêu một số lý do, trong đó có tình trạng “Trong thời kỳ các cuộc chiến tranh này, chúng ta phải là những chứng nhân về hòa bình, kể cả bằng cách học mang lại một hình thức cụ thể cho sự sống chung giữa những khác biệt.”
Đức Thánh cha nói: “Vì lý do đó, tôi không có ý công bố “một tông huấn”, những gì chúng ta đã thông qua là đủ rồi. Trong Văn kiện (chung kết) đã có những chỉ dẫn rất cụ thể có thể là hướng đạo cho sứ mạng của các giáo phận, tại các đại lục khác nhau, trong bối cảnh khác nhau. Vì thế, tôi đặt ngay văn kiện này do mọi người sử dụng, nên tôi nói hãy công bố. Qua đó, tôi muốn nhìn nhận giá trị của hành trình công nghị đã thực hiện, mà qua văn kiện này, tôi trao gửi cho dân trung thành của Thiên Chúa”.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Về một số khía cạnh của Giáo hội được nêu lên trong Văn kiện chung kết, cũng như về những đề tài được ủy thác cho 10 “nhóm nghiên cứu”, mà họ phải làm việc trong tự do để trình cho tôi những đề nghị, thì cần thời gian, để đạt tới những chọn lựa có sự can dự của toàn thể Giáo hội. Do đó, tôi sẽ tiếp tục lắng nghe các giám mục và các giáo phận đã được ủy thác cho các vị”.
“Điều này không phải là cách thức cổ điển để hoãn lại các quyết định đến vô tận. Đó là điều tương ứng với kiểu đồng nghị mà sứ vụ Phêrô cũng phải thực thi qua thể thức: lắng nghe, triệu tập, phân định, quyết định và đánh giá. Trong các giai đoạn đó, cần có sự tạm ngưng, thinh lặng, cầu nguyện. Đó là đường lối chúng ta đang cùng nhau học hỏi, mỗi lần một ít. Chúa Thánh Linh kêu gọi và nâng đỡ chúng ta trong cuộc học hỏi này, và chúng ta phải hiểu như tiến trình hoán cải”.
“Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục và tất cả các Bộ của Giáo triều sẽ giúp tôi trong công tác này”.
Quyết định trên đây của Đức Thánh cha được coi là điều gây ngạc nhiên nhất về Thượng Hội đồng Giám mục này. Như vậy, tất cả những gì được ghi trong Văn kiện chung kết này đều hội đủ hai phần ba số phiếu.
Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI dài khoảng 52 trang, với 28.000 từ, gồm 155 đoạn, có kèm theo kết quả cuộc bỏ phiếu, với số phiếu thuận và phiếu chống, cho thấy rõ đề nghị ấy được thông qua với số phiếu thế nào.
Đoạn số 60, về vai trò của các phụ nữ trong Giáo hội, bị phiếu đen nhiều nhất, 97 phiếu, so với 258 phiếu thuận. Đoạn 60 này khẳng định rằng:
“Do bí tích Rửa tội, người nam và người nữ được bình quyền về phẩm giá trong dân Chúa. Tuy nhiên, phụ nữ tiếp tục gặp những chướng ngại trong việc đạt được một sự nhìn nhận trọn vẹn hơn về các đoàn sủng của họ, ơn gọi và chỗ đứng của họ trong các lãnh vực khác nhau của đời sống Giáo hội, gây thiệt hại cho việc phục vụ sứ mạng chung. Kinh thánh làm chứng về vai trò hàng đầu của nhiều phụ nữ trong lịch sử cứu độ. Một phụ nữ là Maria Madalena được ủy thác việc loan báo đầu tiên về sự sống lại; trong ngày lễ Ngũ Tuần, tại nhà Tiệc Ly có sự hiện diện của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa cùng với nhiều phụ nữ khác, những người đã theo Chúa. Điều quan trọng là những đoạn liên quan của Kinh thánh tìm được chỗ đứng thích hợp trong các sách phụng vụ. Một số mấu chốt của lịch sử Giáo hội khẳng định sự đóng góp thiết yếu của phụ nữ do Chúa Thánh Linh thúc đẩy. Các phụ nữ chiếm đa số những người đi nhà thờ, và thường là những chứng nhân đức tin đầu tiên trong các gia đình. Họ tích cực hoạt động trong đời sống của các cộng đoàn Kitô nhỏ và trong các giáo xứ; họ quản trị các học đường, nhà thương và các trung tâm tiếp đón; họ dẫn đầu các sáng kiến hòa giải và thăng tiến phẩm giá con người và công bằng xã hội. Phụ nữ góp phần vào việc nghiên cứu thần học và hiện diện trong các vị trí trách nhiệm trong các tổ chức liên hệ với Giáo hội, trong các Tòa giám mục giáo phận và trong Giáo triều Roma. Có những phụ nữ giữ vai trò cai quản hoặc đứng đầu cộng đoàn. Đại hội này mời gọi hãy hoàn toàn thực hiện tất cả những cơ hội được luật pháp hiện hành trù định liên quan đến vai trò của phụ nữ, đặc biệt tại những nơi chưa được thực hiện. Không có lý do ngăn cản phụ nữ đảm nhận vai trò lãnh đạo trong Giáo hội: không thể ngăn chặn điều đến từ Chúa Thánh Linh. Cả vấn đề phụ nữ đảm nhận thừa tác vụ phó tế cũng mở ngỏ. Cần tiếp tục thực hiện sự phân định về vấn đề này. Ngoài ra, Đại hội này mời gọi hay chú ý hơn đến ngôn ngữ và những hình ảnh dùng trong việc giảng thuyết, giáo dục, dạy giáo lý và trong việc soạn thảo các văn kiện chính thức của Giáo hội, dành chỗ nhiều hơn cho sự đóng góp của các thánh nữ, các nữ thần học gia và các nữ thần bí gia”.
Có một chuyện cười ngày xưa: lạc đà là con vật bạn có trong tay khi bạn nhờ một họa sĩ vẽ con ngựa!
Tôi đến Rôma khuya thứ tư tuần trước, đúng khi Thượng Hội đồng nghỉ họp ngày thứ năm, một Ủy ban đang chuẩn bị Tài liệu cuối cùng, nhưng đây không phải là ngày nghỉ hoàn toàn, vì chiều thứ năm, Hồng y Víctor Manuel Fernández, bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin gặp các đại diện và trả lời các câu hỏi của Nhóm 5 của Hồng y được giao nghiên cứu chủ đề phó tế nữ.
Tôi không hình dung làm sao việc viết Tài liệu cho các cuộc thảo luận trong một tháng giữa gần 400 người từ khắp mọi nơi trên thế giới, bằng nhiều ngôn ngữ, lại diễn ra suôn sẻ như vậy. Viết một bài xã luận trên trang America với sự cộng tác của toàn ban biên tập cũng đã căng thẳng, mà ban biên tập chỉ có một ít người và tất cả chúng tôi đều làm việc bằng tiếng Anh.
Với tất cả dè dặt, tôi vẫn bị cuốn hút và đầy hy vọng khi thấy cách Thượng Hội đồng làm việc để công bố Tài liệu cuối cùng, được Đức Phanxicô thông qua, được đưa vào giáo huấn bình thường của ngài thay vì phải viết một Tông huấn để tổng hợp.
Một đoạn có thể dùng như một hình ảnh nhỏ về lý do vì sao Tài liệu này làm tôi hy vọng dù bề ngoài giống như con lạc đà đang được Ủy ban soạn thảo.
Đoạn 60, về vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, hơi dài và khó hiểu. Đoạn này bắt đầu bằng việc công nhận “phụ nữ vẫn tiếp tục gặp trở ngại” khi thực hiện vai trò lãnh đạo và mục vụ trong Giáo hội, đoạn giới thiệu chủ đề có nguồn gốc từ Kinh Thánh cho đến kinh nghiệm đương đại. Nhưng trong suốt thời gian họp, các vai trò này được đưa ra như một cách để nói “không” với chức phó tế nữ, như thể nói, “phụ nữ đã làm rất nhiều rồi!” để giải quyết câu hỏi liệu Chúa có kêu gọi một số phụ nữ phục vụ với tư cách là phó tế hay không.
Nhưng đoạn này tiếp tục đi ra ngoài danh mục. Đoạn kêu gọi “thực hiện đầy đủ” tất cả các khả năng lãnh đạo của phụ nữ đã có trong luật giáo luật, rằng “không có lý do hay trở ngại nào ngăn cản phụ nữ thực hiện vai trò lãnh đạo như vậy, vì sự gì đến từ Chúa Thánh Thần thì không ngăn cản được. Vấn đề chức phó tế nữ vẫn còn mở và chúng ta cần tiếp tục phân định.”
Tôi không thể không tự hỏi đây có phải là những gì bản thảo ban đầu đề cập đến không. Gần như chắc chắn là không – dù bên ngoài hội trường, chúng tôi không biết gì về các chi tiết của bản thảo và bản sửa đổi. Nhưng chúng tôi biết ba phần tư đại biểu bỏ phiếu thuận và đoạn này có nhiều phiếu ”phủ nhận” hơn bất kỳ đoạn nào trong Tài liệu (258 phiếu thuận, 97 phiếu chống ).
Đoạn này cũng không làm tất cả mọi người hài lòng (cho bất cứ ai). Những người cho rằng bất kỳ việc phong chức nào cho phụ nữ, kể cả chức phó tế là điều không thể về mặt thần học đều thất vọng, vì vấn đề vẫn chưa giải quyết dứt điểm, còn những người ủng hộ, những quan sát viên bên ngoài thì cho đây chỉ là “cú đánh cược” của vấn đề, theo ngôn ngữ của báo New York Times.
Nhưng khi nghe các đại biểu phát biểu, tôi thấy có một cái gì đó hoàn toàn khác. Không đủ thống nhất chung quanh vấn đề chức phó tế nữ để giải quyết vấn đề. Ngay cả nếu có, Giáo hoàng vẫn nói “không” với chức phó tế nữ, và Hồng y Fernández đã nhiều lần nói, về mặt thần học, vấn đề này chưa “chín muồi”.
Vì Thượng Hội đồng không phải là nghị viện nên không thể giải quyết bằng bỏ phiếu, dù đa số tuyệt đối đã bỏ phiếu thuận. Tuy nhiên, vì tính đồng nghị là “chiều kích cấu thành” của Giáo hội, nên việc Thượng Hội đồng tiếp tục đặt vấn đề cũng không thể bị các thần học gia hoặc chính Giáo hoàng bác bỏ hoàn toàn. Hồng y Jean-Claude Hollerich đã trình bày trong cuộc họp báo, Tài liệu cuối cùng được thông qua như một giáo huấn thông thường và Giáo hoàng vẫn còn để mở vấn đề này.
Ngoài ra, chủ đề được Thượng Hội đồng tham khảo nhiều lần là sự khác biệt giữa hiệp nhất và đồng nhất, nhắc chúng ta Giáo hội được mời gọi để hướng đến hiệp nhất chứ không đồng nhất. Hiệp nhất là mục tiêu cao cả, đòi hỏi phải được duy trì ở những nơi đã đạt được, kiên trì làm việc ở những nơi chưa rõ ràng. Nhưng đồng nhất không phải là con đường tắt đưa đến hiệp nhất, vì không đơn thuần áp đặt hiệp nhất khi hiệp nhất chưa được nuôi dưỡng và trải nghiệm.
Về chủ đề phó tế nữ và các chủ đề phức tạp khác như thẩm quyền giảng dạy của các Hội đồng Giám mục, chức thánh cho những người bị loại trừ vì “tình trạng hôn nhân, qua hình thức hoặc qua khuynh hướng tình dục” của họ, Thượng Hội đồng đang đi tìm hiệp nhất, thừa nhận kinh nghiệm và phán đoán về những vấn đề này chưa được thống nhất trên toàn Giáo hội. Tài liệu cuối cùng đã lên danh sách các thực tế này, không cho rằng có thể giải quyết các vấn đề này bằng sắc lệnh thần học, giáo hội hoặc thượng hội đồng.
Một số người sẽ bực mình hoặc cho rằng đây là kết quả quá nhỏ sau nhiều năm cố gắng làm việc và tham vấn. Nhưng khi ngồi trong Đền thờ Thánh Phêrô để dự lễ bế mạc Thượng Hội đồng, tôi thấy đó là nguồn hy vọng và lý do để biết ơn. Thực tế phức tạp này chính là nơi Giáo hội và Chúa Thánh Thần đang làm việc.
Điều này giống như khi chúng ta nghĩ đến con ngựa mà thấy con lạc đà, Lạy Chúa may quá, con ngựa đi qua sa mạc sẽ chết khát.
Đức Hồng y Sean O'Malley, Tổng giám mục Boston và là Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Bảo vệ Trẻ vị thành niên, nhấn mạnh rằng “độc thân linh mục không phải là nguyên nhân gây ra nạn ấu dâm” nhưng nhấn mạnh nhu cầu cần có nhiều cải cách hơn trong Giáo hội nhằm bảo vệ trẻ em tốt hơn.
Tại cuộc họp báo ngày 29/10/2024, trả lời câu hỏi của một nhà báo về “mối liên hệ tiềm ẩn giữa độc thân linh mục và lạm dụng tình dục”, Đức Hồng y O'Malley tuyên bố rằng ngài “chưa bao giờ thấy bất kỳ nghiên cứu nghiêm túc nào chỉ ra rằng độc thân linh mục và lạm dụng tính dục có liên quan”. Ngài nói: “Chúng tôi nhận thức được thiệt hại to lớn mà [ấu dâm] đã gây ra cho uy tín của Giáo hội và khả năng ngôn sứ của chúng ta trong xã hội. Và điều đó chỉ nhấn mạnh thêm tính cấp thiết của Giáo hội trong việc cải cách chính mình để chúng ta có thể tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô và trở thành dấu chỉ tình yêu của Người. Và vương quốc của Chúa là về công lý và sự thật, và đây là những giá trị cốt lõi mà chúng ta đang nói đến ở đây”.
Bà Maud de Boer-Buquicchio, một luật gia và người bảo vệ quyền trẻ em đã được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm thành viên của Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên vào năm 2022, cũng tuyên bố rằng bà không thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa việc độc thân linh mục và tội lạm dụng tính dục trẻ em.
Bà nói: “Tôi không thấy bất kỳ mối liên hệ nào. Lạm dụng tình dục trẻ em là một tội ác và những người phạm tội này có vấn đề, liên quan đến trạng thái tâm lý của họ”. “Không có ngoại lệ nào cho điều này, không có lý do gì để bào chữa cho tội ác này. Trẻ em phải được tôn trọng về sự toàn vẹn của chúng - cả về thể chất và đạo đức. Vì vậy, dù có độc thân hay không, điều đó không quan trọng. Trẻ em phải được bảo vệ”.
Đức Hồng y O’Malley tuyên bố rằng mục tiêu của ủy ban Tòa Thánh mà ngài đã đứng đầu kể từ khi thành lập vào năm 2014 là “làm mọi việc có thể” để giải quyết tình trạng thiếu công lý và sự công nhận từ những người trong Giáo hội.
Ngài nói trong cuộc họp báo: “Nỗi đau khổ và vết thương của các bạn đã mở mắt chúng tôi ra trước thực tế rằng — với tư cách là một Giáo hội — chúng tôi đã không chăm sóc các nạn nhân, và chúng tôi đã không bảo vệ các bạn, và chúng tôi đã không hiểu các bạn khi các bạn cần chúng tôi nhất”.
“Chúng tôi hy vọng rằng báo cáo này — và những báo cáo sắp tới — được biên soạn với sự giúp đỡ của các nạn nhân, sẽ giúp đảm bảo cam kết chắc chắn rằng những sự việc này sẽ không bao giờ xảy ra nữa trong Giáo hội”.
Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã gặp gỡ với khoảng 100 người, bao gồm các thành viên, khách mời và chuyên viên tại Hội trường Phaolô VI. Trong cuộc gặp gỡ kéo dài khoảng 90 phút, ngài đã lắng nghe các câu hỏi của họ, tiếp nhận các đề xuất và đánh giá công việc của 'Nhóm 5', nhóm đang làm việc tại Bộ Giáo lý Đức tin về vấn đề các thừa tác vụ mà phụ nữ có thể lãnh nhận.
Với sự đồng ý của Ủy ban Thư ký Thượng Hội đồng và các tham dự viên cuộc họp, Đức Hồng y Fernández đã quyết định công bố bản ghi âm đầy đủ cuộc gặp gỡ, theo quy tắc của Thượng Hội đồng. Bản ghi âm được đăng trên Vatican News.
Công việc của Bộ Giáo lý Đức tin
Trong phần đầu của cuộc gặp gỡ, Đức Hồng y Fernández đã giải thích cách thức toàn Bộ của ngài, đơn vị đã được giao phó đặc biệt nhiệm vụ này ngay cả trước Thượng Hội đồng, cam kết đào sâu chủ đề về vai trò của phụ nữ và khám phá những khả năng mới về các thừa tác vụ dành cho họ.
Sau đó, ngài kể lại cách họ làm việc, bắt đầu với Consulta, tức là lắng nghe các đề xuất của nhóm đông các nữ cố vấn, một nhóm mà trong trường hợp này đã được mở rộng bằng cách xin ý kiến và lắng nghe những kinh nghiệm của cả những người không phải là các cố vấn chính thức của Bộ.
Hai Đại hội thường kỳ của các Hồng y và Giám mục của Bộ đã diễn ra (Feria quarta, vì theo truyền thống, nó được tổ chức vào thứ Tư) và công việc được điều phối bởi Cha Armando Matteo, Thư ký Ủy ban Giáo lý của Bộ.
Những trải nghiệm đang được thực hiện
Đức Hồng y Fernández nhấn mạnh rằng cách làm việc là theo tinh thần hiệp hành, và sự hiện diện của các Giám mục và Hồng y từ khắp nơi trên thế giới có nghĩa là công việc của Feria quarta có xét đến các nền văn hóa và sự nhạy cảm khác nhau.
Ngài cũng nhấn mạnh rằng các thành viên Thượng Hội đồng đã được yêu cầu gửi các đóng góp và đề xuất, cũng như xem xét đến các kinh nghiệm đã có khi thấy phụ nữ lãnh đạo các cộng đồng, ví dụ như ở Amazon, nhưng cũng ở Châu Phi và Châu Á.
Chính xác là để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bắt đầu từ thực tế, nghĩa là để tìm hiểu và đánh giá cao các kinh nghiệm đã có, những điều mà có lẽ thần học Châu Âu chưa biết đến hoặc ít biết đến.
Do đó, các thư tham vấn vẫn sẽ được gửi đến những người và tổ chức khác.
Nhìn nhận vai trò
Đức Hồng y giải thích, mục tiêu cơ bản của nhóm là vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, chứ không phải cụ thể về khả năng có chức nữ phó tế, vấn đề mà ủy ban do Đức Hồng y Giuseppe Petrocchi làm chủ tịch vẫn đang làm việc.
Đức Hồng y Fernández cho biết phụ nữ muốn được lắng nghe và coi trọng: họ yêu cầu có thẩm quyền và phát triển các đặc sủng và khả năng của họ, nhưng hầu hết họ không yêu cầu chức phó tế, nghĩa là họ không yêu cầu được "giáo sĩ hóa".
Đây là lý do tại sao công việc của Bộ tiếp tục trong thời gian này với các bước "rất cụ thể" trên con đường này.
Ngài cho biết điều cơ bản là phải khám phá sự khác biệt giữa các Chức thánh và quyền lực, để có thể ủy thác cho giáo dân và do đó cho cả phụ nữ các vai trò lãnh đạo trong Giáo hội - một con đường có thể đạt được sự đồng thuận đáng kể.
Sau đó, Đức Hồng y đặt câu hỏi: Nếu trong quá khứ, phụ nữ đã giảng dạy trong khi cử hành Thánh Thể hoặc thực hiện thẩm quyền mà không cần được phong chức phó tế, thì điều này có phải là không quan trọng không?
Việc nghiên cứu về chức phó tế vẫn được tiếp tục
Đức Hồng y Fernández nói tiếp rằng về chủ đề cụ thể của chức phó tế, ủy ban do Đức Hồng y Petrocchi đứng đầu sẽ tiếp tục công việc cách nỗ lực hơn, lắng nghe các đề xuất của Đại hội Thượng Hội đồng và những người khác từ khắp nơi trên thế giới: các đề xuất và hỗ trợ có thể được gửi qua Ban thư ký Thượng Hội đồng.
Đức Hồng y nhắc lại bài phát biểu của ngài tại hội trường Thượng Hội đồng, trong đó ngài tóm tắt lập trường của Đức Thánh Cha về vấn đề này. Ngài nhấn mạnh rằng nói rằng "quyết định về chức phó tế chưa chín muồi" không có nghĩa là Đức Thánh Cha Phanxicô muốn khép lại vấn đề, mà là tiếp tục nghiên cứu, bởi vì công việc của ủy ban đã không có kết luận nhất quán.
Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin cũng nhận thấy có những nhà sử học mà theo họ trong quá khứ đã có những trường hợp phụ nữ được phong chức phó tế, trong khi theo những nhà sử học khác thì đó là một chúc lành chứ không phải là một lễ phong chức thực sự.
Các bước cụ thể
Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin kết luận bằng cách nói rằng ngài tin rằng chúng ta có thể tiến bước với các bước rõ ràng và cụ thể trao quyền cho phụ nữ trong Giáo hội, bắt đầu bằng việc phân biệt điều gì không thể tách rời khỏi Thánh chức với điều gì có thể.
Cuối cùng, ngài kêu gọi những người có mặt hãy có một trái tim rộng mở "để xem Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta đến đâu".
Đức Phanxicô sốt ruột. Một nhân viên đẩy chiếc xe lăn của ngài băng qua Hội trường Phaolô VI nơi Thượng hội đồng họp. Ngài nói chuyện với Linh mục Đa Minh Timothy Radcliffe, có suy tư và hài hước của người Anh đã tham dự các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng trong tháng 10. Ngày 6 tháng 10, Đức Phanxicô tuyên bố sẽ phong Linh mục làm Hồng y và nói Linh mục vẫn có thể giữ áo trắng của Dòng, ngài được miễn mặc áo hồng y… chỉ cần mua một chiếc mũ đỏ là đủ!
Điều này tóm tắt điều Đức Phanxicô muốn thực hiện khi triệu tập Thượng Hội đồng kéo dài ba năm: một Giáo hội bớt cứng nhắc hơn, đa dạng hơn và thoải mái hơn. Chủ đề được chọn, “tính đồng nghị” có thể có vẻ mơ hồ, nhưng đọc 51 trang của Tài liệu cuối cùng, chúng tôi hiểu trước hết, đây là phương thức quản trị. Xin lưu ý, đây không phải là một cuộc cách mạng trong Giáo hội, và càng không phải là sự rạn nứt: quyền tối thượng của người kế vị Thánh Phêrô, quyền tối thượng của Giáo hoàng đối với các giám mục khác, vẫn còn. Nhưng bây giờ phải được thể hiện theo cách khác: bớt quân chủ hơn, bớt kim tự tháp hơn và bớt độc tài hơn.
Ngày thứ bảy 26 tháng 10, khi kết thúc Thượng Hội đồng, Đức Phanxicô đọc câu thơ của bà Madeleine Delbrêl, nhà thần bí người Pháp của những vùng ngoại vi đã khuyên chúng ta đừng cứng nhắc: “Tôi nghĩ có lẽ các bạn đã có đủ rồi, những người nói về bạn với phong thái của các thuyền trưởng…”
Có vẻ như Đức Phanxicô tự phê khi ngài điều hành theo chiều dọc, ngài sẽ không có Tông huấn hậu Thượng Hội đồng: “Tài liệu chúng ta phê duyệt đã có đủ chỉ dẫn có thể đóng vai trò hướng dẫn.” Nếu được Đức Phanxicô chấp nhận, Tài liệu cuối cùng sẽ là Huấn quyền thông thường của Người Kế vị Thánh Phêrô. Tóm lại: 155 điều khoản được 356 thành viên Thượng Hội đồng thông qua ngày thứ bảy 26 tháng 10 có cùng giá trị như một Tài liệu của chính Giáo hoàng.
Điều này rất quan trọng. Ngày 20 tháng 5 năm 2024, Đức Phanxicô đã trả lời “không” với nhà báo CBS Mỹ khi nhà báo hỏi ngài phụ nữ có thể trở thành phó tế hay không. Trong cuộc họp báo ngày 26 tháng 10 về khả năng mâu thuẫn với Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng – chức phó tế vẫn để “mở” – Hồng y Jean-Claude Hollerich giáo phận Luxembourg mỉm cười trả lời: “Giáo hoàng đã phê chuẩn. Đoạn ở phần mở đầu là của ngài. Tôi là ai mà có thể mâu thuẫn với ngài?”
Trong tháng vừa qua, vấn đề về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội tượng trưng cho sự gia tăng quyền lực của Thượng hội đồng với Giáo triều Rôma. Nhưng cũng có sự khác biệt dai dẳng bên trong, một giám mục trong Thượng Hội đồng phân tích: “Vì người Đức có tiếng là tiến bộ đã không thành công trong việc lãnh đạo Giáo hội theo quan điểm của họ, nên năm nay họ đã tìm ra cách để chiến đấu: quyền tự trị của các Hội đồng Giám mục.”
Khả năng các Hội đồng Giám mục đưa ra quyết định cho giáo phận của mình là một trong những điểm được tranh luận nhiều nhất trong Thượng Hội đồng tháng 10 này.
Bản thảo của Tài liệu cuối cùng được đưa ra ngày 21 tháng 10 dự kiến “tất cả các quyết định đưa ra trong các cuộc họp đều áp dụng cho các giám mục trong các giáo phận của họ”. Nhiều sửa đổi (tài liệu nhận được tổng cộng 1.135) đã buộc bốn thần học gia viết Tài liệu – hai người Ý và hai người nói tiếng Anh – phải sửa lại bản thảo của họ. Trong số những đoạn khác, đoạn này đã bị xóa và vấn đề sẽ được nghiên cứu sâu hơn.
Sự phản đối của những người bảo thủ cũng cũng được đề nghị trong việc thích nghi phụng vụ. Cử hành phụng vụ là biểu hiện của tính đồng nghị, đây không phải là thay thế linh mục bằng giáo dân, Hồng y Jean-Claude Hollerich làm rõ vấn đề này: “Làm thế nào chúng ta có thể làm cho công việc này mang tính tham gia nhiều hơn?”
Sự phản đối còn lại
Việc có nhiều ý kiến khác nhau về những vấn đề này không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, không phải là không có định hướng, Tài liệu ngày 26 tháng 10 tương đối nhất trí. Tài liệu cho biết các cuộc họp sẽ được tổ chức thường xuyên, không như dự thảo ban đầu ngày 21 tháng 10 dự trù các giáo phận sẽ tổ chức từ ba đến năm năm một lần. Các hội đồng kể cả hội đồng kinh tế – đã thành bắt buộc trong các giáo xứ và giáo phận – gồm các thành viên giáo dân không được giám mục hoặc linh mục “bổ nhiệm”. Với những thành viên tham dự Thượng Hội đồng, điều chủ yếu đã có trong Tài liệu.
Trong số những người bảo thủ được phỏng vấn, họ đón nhận một văn bản “chú ý đến bối cảnh, không làm hại đến sự hiệp nhất của Giáo hội”. Còn với những người cấp tiến, họ nhấn mạnh đến tinh thần “cởi mở”, nhưng những người LGBTQI+ không được nhắc đến. Một giáo dân tham dự Thượng Hội đồng cho biết: “Dấu hiệu cho thấy tiếng nói của các nạn nhân và những người sống sót sau bạo lực tình dục phải được lắng nghe không phải là không quan trọng.”
Trên hết, một số điểm dường như đã liên kết với nhau. Chẳng hạn khái niệm Anglo-Saxon về trách nhiệm giải trình đã được trích dẫn 19 lần. Và những đoạn xin các nhà chức trách Giáo hội – linh mục, giám mục, sứ thần, người đứng đầu thánh bộ tại Vatican – tham khảo ý kiến nhiều hơn, báo cáo thường xuyên về các vấn đề tài chính. Bảo vệ trẻ vị thành niên đã khơi dậy sự phản đối duy nhất còn sót lại trong cuộc bỏ phiếu ngày 26 tháng 10.
Nói rộng hơn, nhiều người tham dự đã nói về một thay đổi văn hóa. Thần học gia Bỉ Alphonse Borras nhiệt tình: “Theo tôi, chúng ta đang ở một bước ngoặt, trên thực tế bước ngoặt này như bước ngoặt được khởi xướng vào thời Cải cách Gregorian kéo dài gần hai thế kỷ, đã mang lại thành quả cho đời sống Giáo hội. Giáo hội có khuynh hướng nhấn mạnh vào sự thống nhất, vào tính phổ quát, lần này Giáo hội mở ra với những khác biệt về bối cảnh. Với niềm xác tín này: việc phân cấp và dân chủ hóa chính quyền sẽ không đạt được nếu không có đoàn kết, nếu không có đổi mới sâu sắc trong các mối quan hệ”.
Khi đọc tài liệu cuối cùng, chúng tôi cảm nhận vấn đề này, giống như sợi chỉ chung, chủ yếu nhắm đến các cộng đồng địa phương đang gặp khó khăn, họ bị chiến tranh, nghèo đói tác động: làm thế nào các cơ quan khác của Giáo hội, bắt đầu từ Rôma, có thể giúp họ tốt hơn?
Đức Phanxicô quyết định việc phong chức phó tế nữ sẽ không được thảo luận tại Thượng Hội đồng năm 2024. Ngài đã chỉ đạo
Ngày thứ hai 21 tháng 10, Hồng y Víctor Manuel Fernández tuyên bố: “Đức Phanxicô cho biết tại thời điểm này, vấn đề về chức phó tế nữ chưa chín muồi và đã xin chúng tôi không xem xét khả năng này vào lúc này.” Hồng y cho biết Ủy ban thứ hai Đức Phanxicô thành lập năm 2020 để nghiên cứu về chức phó tế nữ sẽ tiếp tục hoạt động và các kết luận từng phần sẽ được công bố khi đến thời điểm thích hợp.
Hồng y cho biết, Đức Phanxicô rất quan tâm đến vai trò của phụ nữ trong Giáo hội và ngay cả trước khi Thượng Hội đồng nghiên cứu vấn đề này, ngài đã xin Bộ Giáo lý Đức tin khám phá các khả năng phát triển nhưng không tập trung vào chức thánh hoặc phong chức phó tế. Như thế Bộ không thể hoạt động theo hướng khác và Hồng y đồng ý với Đức Phanxicô, vì chức phó tế cho một số phụ nữ không giải quyết được vấn đề của hàng triệu phụ nữ trong Giáo hội, họ phục vụ theo hàng trăm cách trong Giáo hội.
Hầu hết những gì được nói trong Thượng hội đồng được xem là bí mật, nhưng bài phát biểu của Hồng y tại Thượng hội đồng đã được Vatican công bố chỉ vài ngày sau khi Hồng y Fernández xin lỗi các thành viên vì đã không tham dự cuộc họp Nhóm của ngài để thảo luận về chức thánh của phụ nữ.
Hồng y sẽ tham dự cuộc họp ngày 18 tháng 10 để nói về công việc của nhóm nghiên cứu, khoảng 100 người tham dự Thượng hội đồng – các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – nghĩ rằng ông, hoặc ít nhất là các thành viên của nhóm sẽ có mặt.
Trong một thông điệp gửi đến các thành viên Thượng hội đồng sau cuộc họp, ngài viết ngài đã được thông báo về “sự không hài lòng mà một số thành viên” khi ngài không có mặt.
“Bản thân tôi lấy làm tiếc vì sự hiểu lầm này”, ngài cho biết ngài đã thông báo với Thượng Hội đồng ngày 9 tháng 10, ngài sẽ cử hai nhân viên của các Bộ đến dự. Ngài cho biết ngài sẽ đến gặp các thành viên Thượng Hội đồng ngày 24 tháng 10 “để lắng nghe những suy tư và nhận các tài liệu của họ”.
Theo những người có mặt tại cuộc họp ngày 18 tháng 10, các thành viên Thượng Hội đồng không bằng lòng, họ cho biết hai người Hồng y cử đến không phải là thành viên của nhóm nghiên cứu và họ không có kế hoạch đối thoại với những người tham gia.
Cuộc họp cũng như các thảo luận là bí mật nên những người phát biểu đã xin không nêu tên họ.
Một người tham dự cho biết thất vọng chủ yếu tập trung vào phương pháp luận của nhóm làm việc và sự thiếu minh bạch, đặc biệt là việc Hồng y không xác định bất kỳ thành viên nào của nhóm.
Tiếp theo phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng năm 2023, Đức Phanxicô đã thành lập 10 nhóm nghiên cứu để suy nghĩ sâu hơn về một số câu hỏi gây tranh cãi hoặc phức tạp nhất được nêu ra trong quá trình Thượng Hội đồng, trong đó có vấn đề chức thánh của phụ nữ và vai trò ra quyết định trong Giáo hội.
Trong một thư gởi cho Hồng y Mario Grech, tổng thư ký của Thượng hội đồng vào tháng 2, Đức Phanxicô cho biết “điều quan trọng là các nhóm nghiên cứu phải làm việc theo phương pháp đồng nghị đích thực, với đối thoại và tham gia rộng rãi. Ngài xin các nhóm lập báo cáo sơ bộ cho Thượng Hội đồng vào năm 2024 và nộp báo cáo cuối cùng cho ngài tháng 6 năm 2025.
Sau khi các người đứng đầu của mười nhóm đưa ra báo cáo ngắn gọn cho Thượng Hội đồng ngày 2 tháng 10, các thành viên cho biết họ sẵn sàng đối thoại với các người đứng đầu nhóm, cuộc họp được lên lịch ngày 18 tháng 10. Các cuộc họp đã được sắp xếp và nhóm của Hồng y Fernández thu hút nhiều người ghi tên nhất.
Phát biểu tại phiên họp ngày 21 tháng 10, Hồng y Fernández cho biết phụ nữ được bổ nhiệm làm giáo lý viên đã có thể lãnh đạo các cộng đồng công giáo khi không có linh mục, nhưng rất ít giáo phận tận dụng khả năng này, và chỉ có một tỷ lệ nhỏ các giáo phận trên thế giới bổ nhiệm phụ nữ làm thừa tác viên đọc sách và giúp lễ, đó là chưa kể có nhiều giáo phận chưa có phó tế vĩnh viễn và khi có cũng chỉ được giúp lễ. Một vài ví dụ giúp chúng ta hiểu, việc vội vàng xin phong phó tế nữ không phải là cách quan trọng nhất để thăng tiến phụ nữ trong Giáo hội.
Hồng y nói: “Tôi tin chúng ta có thể tiến lên từng bước và đạt được những điều rất cụ thể để mọi người hiểu rằng không có gì trong bản chất của phụ nữ ngăn cản họ có những vai trò rất quan trọng trong việc lãnh đạo các giáo xứ. Những gì thực sự đến từ Chúa Thánh Thần không thể bị ngăn cản.”
Lập trường này được Đức Hồng y bày tỏ trong buổi gặp gỡ, hôm thứ Sáu, ngày 25 tháng Mười vừa qua, với 100 tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục thế giới thứ XVI, kết thúc Chúa nhật, ngày 27 tháng Mười này.
Đức Hồng y Tổng trưởng cho biết các phụ nữ cũng tham dự vào các cuộc tham vấn của Tòa Thánh về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội Công giáo. Ngài nhắc đến tên của 5 phụ nữ tư vấn của Bộ Giáo lý đức tin, là Claudia Leal Luna, Nuria Calduch-Benages, Michelina Tenaca, Benedetta Rossi và Sandra Mazzolini. Họ tham dự vào các nghiên cứu về vấn đề của Bộ. Cùng tham dự các cuộc họp nghiên cứu này, cũng có các thành viên của Bộ, gồm các hồng y và giám mục.
Đức Hồng y Fernández cũng cho biết: về vấn đề vai trò của phụ nữ trong Giáo hội Công giáo, Đức Hồng y Gianfranco Ghirlanda, 82 tuổi, vốn là một nhà giáo luật, từng là Khoa trưởng giáo luật và Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Gregoriana ở Roma, cũng góp phần vào việc nghiên cứu. Đức Hồng y nhấn mạnh sự phân biệt giữa thánh chức và quyền điều hành. Điều này rất quan trọng khi nói đến thẩm quyền mà các giáo dân nam nữ có thể có.
Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng nêu lên khả năng mở rộng: giáo dân có thể rửa tội và cử hành hôn nhân trong khuôn khổ “mục vụ giáo dân”, điều khoản đã được quy định trong Bộ Giáo luật trên cơ sở ngoại lệ.
Sau một tháng thảo luận, phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị kết thúc ngày 26 tháng 10 năm 2024, 356 thành viên đã bỏ phiếu Tài liệu cuối cùng. Sẽ không có Tông huấn hậu Thượng Hội đồng vì thế Tài liệu cuối cùng được trực tiếp đưa vào huấn quyền. Tài liệu này bao gồm 155 điều, phác thảo những đường nét của Giáo hội ngày mai. Có ba mong muốn chính trong Tài liệu cuối cùng: phân quyền lớn hơn trong các quyết định của Giáo hội, tiếp tục cuộc chiến chống lạm dụng và nâng cao trách nhiệm của giáo dân trong việc quản lý giáo xứ và giáo phận.
Một số đề xuất được nghiên cứu để thu hút giáo dân nam nữ tham gia nhiều hơn vào việc điều hành Giáo hội, bắt đầu bằng suy tư về chức phó tế nữ, đã có hiệu lực trong đại hội lần thứ hai này. Đây là vấn đề có nhiều phản đối nhất với 97 phiếu phản đối. Tài liệu khẳng định: “Không có lý do hay trở ngại nào có thể ngăn cản phụ nữ thực hiện vai trò hướng dẫn trong Giáo hội: không thể ngăn cản những gì đến từ Chúa Thánh Thần và chúng ta cần tiếp tục phân định vấn đề này.” Ngoài ra, Thượng Hội đồng quy định “bắt buộc” tổ chức các hội đồng giáo xứ với sự tham gia của giáo dân, thúc đẩy “mục vụ giáo dân” nhiều hơn như mục vụ đọc sách, giáo lý và giáo lý viên. Trong chiều hướng này, Thượng Hội đồng đề xuất “khả năng mở rộng và ổn định” việc cử hành bí tích rửa tội và hôn nhân của giáo dân: “Giáo luật của các Giáo hội theo nghi lễ la-tinh và đông phương đã quy định, trong một số trường hợp, nam nữ giáo dân có thể là thừa tác viên ngoại thường để làm mục vụ giáo dân.” Một ngoại lệ hiện được cho phép trong một số điều kiện nhất định.
Hướng tới khái quát hóa một ngoại lệ?
Bộ Giáo luật quy định: “Chỉ những hôn nhân thành sự được ký trước Bản quyền địa phương, trước linh mục, hoặc phó tế được ủy quyền với hai nhân chứng” (Điều 1108). Nhưng Giáo lý cũng đề cập đến những trường hợp ngoại lệ, đặc biệt là việc giáo dân tham dự đám cưới. Chúng ta nói “tham dự” vì bí tích hôn nhân là giữa hai vợ chồng hiện diện trước thừa tác viên và nhận được sự đồng ý của họ nhân danh Giáo hội. Tuy nhiên, một khả năng có thể có với một số điều kiện: thiếu linh mục và phó tế, giáo dân sẽ được Giám mục giáo phận và Tòa thánh ủy quyền. Giáo luật quy định: “Nơi nào không có linh mục hay phó tế, Giám mục giáo phận dựa trên ý kiến thuận lợi của Hội đồng Giám mục và với sự cho phép của Tòa thánh, có thể ủy quyền cho giáo dân đã được chọn lựa phù hợp, có khả năng đào tạo cho những người phối ngẫu tương lai và có khả năng cử hành phụng vụ hôn nhân một cách đúng đắn” (Điều 1112).
Cũng vậy với phép rửa tội, “thừa tác viên bình thường của phép rửa tội là giám mục, linh mục và phó tế (Điều 861), trong trường hợp cần thiết, bất kỳ giáo dân nào hành động với ý hướng này đều có thể rửa tội”.
Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh, công bố ngày 25 tháng Mười cho biết lễ truyền chức đã diễn ra lúc 9 giờ ban sáng cùng ngày, tại nhà thờ chính tòa Chúa Cứu Độ và Đức tân Giám mục đã được Đức Thánh cha bổ nhiệm ngày 28 tháng Tám trước đó, nhưng nay Phòng Báo chí Tòa Thánh mới thông báo, một ngày sau khi có tin hiệp định tạm thời giữa hai bên về việc bổ nhiệm giám mục được gia hạn thêm bốn năm nữa.
Đức tân giám mục Chân Tuyết Bân năm nay 54 tuổi, sinh quán tại Trường Trị (Changzhi) tỉnh Thiểm Tây, theo học triết và thần học tại Đại chủng viện Bắc Kinh và sau đó học bổ túc cho đến năm 1997, tại Đại học thánh Gioan, ở Mỹ và đậu Cao học thần học về Thần học phụng vụ, trước khi về nước để thụ phong linh mục. Rồi sau đó làm Phó giám đốc Đại chủng viện Bắc Kinh cho đến năm 2007. Cha cũng làm mục vụ tại một số giáo xứ, và cũng từ năm 2007, làm Chưởng ấn Tòa giám mục Bắc Kinh.
Với nhiệm vụ mới, Đức cha Matthêu Bân phụ giúp và sẽ kế nhiệm Đức cha Giuse Lý Sơn, 59 tuổi, Giám mục chính tòa tại thủ đô Bắc Kinh từ 14 năm nay (2007).
Theo hãng tin Asia News, việc chọn một giám mục Phó cho Giáo phận Bắc kinh là một sự kiện đáng kể, nếu ta để ý rằng Đức cha Lý Sơn được bổ nhiệm trước khi có hiệp định năm 2018 giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, những hồi đó ngài được Tòa Thánh phê chuẩn. Đức Cha Lý Sơn tuy mới 59 tuổi, nhưng có vấn đề về sức khỏe và vì nhiều trách nhiệm khác trong tư cách là Chủ tịch Hội Công giáo yêu nước Trung Quốc.
Tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XVI sắp kết thúc, có hai giám mục Trung Quốc được Đức Thánh cha bổ nhiệm tham dự. Đức cha Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), Giám mục Giáo phận Hàng Châu, trong bài tham luận, đã mô tả Giáo hội tại Trung Quốc: “Chúng tôi theo đuổi tinh thần Tin mừng “Trở nên mọi sự cho mọi người”; chúng tôi thích ứng với thực tại xã hội, phục vụ và gắn bó với sự Hoa hóa (sicicizzazione) Giáo hội Công giáo và rao giảng Tin mừng. Chúng tôi cố gắng là “ánh sáng và muối” cho hòa bình thế giới và thăng tiến một cộng đoàn, trong đó con người có thể được hưởng vận mệnh chung; sau cùng là thăng tiến sự phát triển qua những loại dự án khác nhau”.
Đức cha Giuse Cường cũng tuyên bố “chào đón các cộng đoàn và các nhóm tôn giáo từ mọi nước muốn viếng thăm Giáo hội tại Trung Quốc”.
Bên cạnh cuộc chiến bom đạn còn có cuộc chiến khác mà thường dân phải trả giá đắt. Đó là cuộc chiến gây ra những ảnh hưởng kinh tế đối với người dân Palestine do không có nguồn thu nhập. Phần lớn người dân Palestine ở Bêlem và Giêrusalem làm việc trong lĩnh vực du lịch khách sạn. Do đó, việc đình chỉ các chuyến hành hương và đình chỉ giấy phép xuất cảnh đối với người đi làm ở Israel đã khiến phần lớn người dân rơi vào tình trạng nghèo đói.
Ngành du lịch tại Thánh Địa gặp khó khăn
Chia sẻ với báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh, Bộ trưởng Bộ Du lịch và Di sản Văn hóa của Nhà nước Palestine cho biết: “Du lịch là nguồn thu nhập chính của người Palestine, nhưng cuộc tấn công của Israel vào Gaza, Bờ Tây và Libăng từ ngày 7/10/2023 đang tác động khủng khiếp đến nền kinh tế ngành du lịch và người lao động. Cả lượng khách đến từ nước ngoài và du lịch trong nước đều ghi nhận sự sụt giảm hoàn toàn. Các ước tính của chúng tôi cho biết rằng chúng tôi đang mất hơn 2,5 triệu đô la doanh thu mỗi ngày; riêng Bêlem mất 1,4 triệu. Ít nhất 12.000 nhân viên hoạt động du lịch đã bị sa thải, tại Bêlem ít nhất 6.000 nhân viên du lịch khách sạn mất việc. Nhưng cần phải bổ sung thêm hàng ngàn công nhân vào số này, những người mà chúng ta có thể định nghĩa là các ngành công nghiệp liên quan, thương nhân, tài xế taxi và nghệ nhân chế tạo các đồ vật tôn giáo bằng gỗ ô liu”.
Số Kitô hữu trong vùng suy giảm
Hậu quả, theo ông Hani al-Hayek, là nhiều gia đình rời bỏ Palestine để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và con cái họ. Vì phần lớn người lao động tham gia vào lĩnh vực du lịch và hành hương là Kitô hữu, cuộc di cư này sẽ bao hàm sự giảm bớt hơn nữa số Kitô hữu trong khu vực.
Bộ trưởng Bộ Du lịch và Di sản Văn hóa của Nhà nước Palestine cho biết thêm rằng Bộ của ông đang hợp tác với các cộng đồng Kitô giáo nghiên cứu các dự án sẽ hỗ trợ người dân khởi động lại hoạt động sau khi chiến tranh kết thúc. Những người hành hương Kitô giáo chiếm 70% tổng số người hành hương đến thăm Palestine, do đó họ là nhân tố quan trọng trong sự phát triển của ngành du lịch trong khu vực.
Dư luận tại Mêhicô vẫn còn xúc động về vụ cha Marcelo Pérez, 51 tuổi, bị sát hại trong tuần qua tại bang Chiapas, miền nam Mêhicô, vì tranh đấu bênh vực các quyền con người.
Báo chí địa phương cho biết, vụ sát hại xảy ra sau một thánh lễ tại Cuxtitali, Chiapas. Vị linh mục cùng với người bênh vực nhân quyền bị những kẻ giết mướn sát hại trong lúc đang đi trên xe. Hình của báo chí cho thấy có những lỗ đạn trên mặt kiếng của xe hơi.
Bài xã luận đăng trên báo Desde la Fe, (Từ đức tin), tiếng nói chính thức của Tổng Giáo phận Mêhicô, viết rằng: “Có nhiều câu hỏi: Bao nhiêu những linh mục khác thì sao? Nếu mỗi lần một linh mục tranh đấu cho sự thật thì bị nguy hiểm đến tính mạng, thì linh mục ấy càng bị đe dọa trong một cộng đoàn khác, bị các tổ chức bất lương đe dọa, bao nhiêu linh mục và các công dân khác sẽ bị giết trước khi tiếng kêu của họ đòi công lý và hòa bình được lắng nghe? Cách đây hơn hai năm, cha Joaquín Mora và cha Javier Campos, hai linh mục Dòng Tên, đã bị giết và điều này vẫn còn làm cho chúng ta đau lòng. Giờ đây, trong tuần lễ này, đến lượt cha Marcelo Pérez. Trong một môi trường sự sống và phẩm giá con người liên tục bị đe dọa, bao nhiều người khác sẽ phải ngã gục, trước khi các chính phủ và xã hội phản ứng lại?
Trưa Chúa nhật vừa qua, ngày 27 tháng Mười, trong buổi đọc kinh Truyền tin, Đức Thánh cha cũng nhắc đến vụ sát hại cha Pérez và nói rằng:
“Tôi hiệp với Giáo hội yêu quý tại San Cristobal de las Casas, thuộc bang Chiapas, đang khóc thương linh mục Marcello Pérez Pérez, bị ám sát hôm Chúa nhật, ngày 20 tháng Mười vừa qua. Cha là người nhiệt thành phục vụ Tin mừng và dân trung thành của Thiên Chúa. Ước gì sự hy sinh của cha cũng như của các linh mục khác bị giết vì trung thành với sứ vụ, là hạt giống hòa bình và cho đời sống Kitô”.
Cha Peter Egielewa, Giám đốc truyền thông của Giáo phận Auchi, cho biết cha Thomas Oyode bị bắt cóc khoảng 7 giờ tối, trong lúc nguyện Kinh Chiều và chầu Thánh Thể ở nhà nguyện. Một số người võ trang đã tấn công và bắt cha, rồi dẫn vào rừng. Cha phó giám đốc cùng với các chủng sinh và nhân viên Tiểu chủng viện bình an và tạm thời được di chuyển đến nơi an toàn, vì tình hình địa phương vẫn còn bị coi là bất an. Tuy nhiên, cha Egielewa lấy làm tiếc vì Tòa giám mục vẫn chưa nhận được thông tin nào về nơi vị linh mục bị bắt cóc hiện đang ở đâu. Trong khi đó, vụ này đã được trình báo cho nhà chức trách an ninh của Nigeria. Cha nói: “Chúng tôi chờ đợi sự giúp đỡ của chính quyền để linh mục của chúng tôi được trả tự do. Ngoài ra, Tòa giám mục Auchi cũng kêu gọi mọi người thiện chí hiệp với các tín hữu của Giáo phận Auchi trong kinh nguyện để những kẻ bắt cóc cha Oyode trả lại tự do và bình an vô sự cho cha Oyode”.
Tiểu chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm được Đức cha Gabriel Ghiakhomo Dunia, Giám mục Giáo phận Auchi, thành lập năm 2006 và cho đến nay hơn 500 tiểu chủng sinh đã tốt nghiệp. Tiểu chủng viện hiện đang ở tại một trong những vùng ở Nigeria, ngày càng chứng kiến những vụ bắt cóc người để đòi tiền chuộc mạng.
Chúa nhật, ngày 27 tháng Mười vừa qua, Nhà Tạm giữ Mình Thánh Chúa, tại nhà thờ Notre-Dame à Vire ở miền Normandie, tây bắc Pháp, đã bị xúc phạm. Nhiều đồ phụng tự, trong đó có các chén thánh và Mình Thánh Chúa đã được thánh hiến, bị lấy trộm.
Đức cha Jacques Harbert, Giám mục Giáo phận Bayeux và Lisieux, tuyên bố trong một thông cáo rằng: “Bầu không khí xã hội chúng ta hiện đang sống khiến chúng ta chứng kiến sự gia tăng bạo lực chống lại con người và tài sản”.
Cũng ngày Chúa nhật, 27 tháng Mười trước đó, khoảng 3 giờ 30 chiều, những người qua đường đã vào nhà thờ Saint-Gilles ở Chamalières-sur-Loire, thuộc địa phận Le Puy-en-Velay, đã thấy những khói đen dầy đặc. Hơn 10 cuốn sách hát và nến đã bị thiêu hủy một phần. Một hộp đựng diêm đã được tìm thấy gần lửa.
Trong vòng hai tháng tới đây, những máy thu hình video canh chừng sẽ được gắn tại nhà thờ. Cảnh sát đã mở cuộc điều tra.
Tuần báo “Gia đình Kitô” (Famille Chrétienne), xuất bản hồi trung tuần tháng Mười này cho biết ngày càng có các thánh đường Công giáo bị đốt và phá hoại: nguyên trong năm nay, có 14 vụ cố ý đốt phá như vậy và theo “Viện quan sát gia sản tôn giáo” tại Pháp, xu hướng ngày liên tục gia tăng.
Năm ngoái, tại nước Pháp, trong số 27 vụ hỏa hoạn các nhà thờ Công giáo, có 8 vụ do những kẻ gian ác gây ra. Nhưng năm nay, chưa đầy mười tháng qua, đã có 26 vụ hỏa hoạn nhà thờ, trong đó 14 vụ là do thủ phạm cố tình đốt.
Mặc dù phải mang căn bệnh lão hoá sớm trong 28 năm, Sammy vẫn luôn sống tích cực, đối diện với mọi khó khăn, luôn mỉm cười. Bí quyết của Sammy là đức tin, chính đức tin Công giáo đã giúp anh vượt qua tất cả để sống và làm chứng cho niềm xác tín của mình.
Cha mẹ, người thân và bạn bè đã làm chứng về Sammy Basso, về cuộc sống đức tin giữa nhiều khó khăn do căn bệnh gây ra. Không ngại ngùng với khuôn mặt bị lão hoá sớm, anh sẵn sàng tham gia các cuộc phỏng vấn, các buổi gặp gỡ nhằm đem lại niềm vui cho mọi người về đức tin của người Công giáo.
Trong Thánh lễ an táng, Đức cha Giuliano Brugnotto, Giám mục Vicenza đã đọc di chúc của Sammy Basso, được viết vào ngày 22/9/2017. Dưới đây là một số đoạn của di chúc đức tin này:
Tôi viết thư này bởi vì có hai điều tôi không thể làm được trong tang lễ của tôi: không thể nói những lời sau cùng, và không thể an ủi những người thân. Vì vậy, tôi quyết định viết những lời cuối cùng. Tôi không muốn để lại cho mọi người điều gì ngoài những gì tôi đã trải qua, và vì đây là lần cuối cùng tôi có cơ hội nói, tôi sẽ chỉ nói những điều cần thiết.
Trước hết, tôi muốn mọi người biết rằng tôi đã có một cuộc đời hạnh phúc, và tôi sống đời mình như một người bình thường, có những lúc vui vẻ và những lúc khó khăn, với mong muốn làm điều tốt, đôi khi thành công và đôi khi thất bại thảm hại.
Tôi không thể phủ nhận rằng căn bệnh đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống hàng ngày và những chọn lựa của tôi. Tôi đã cố gắng sống tràn đầy nhất có thể, tuy nhiên tôi đã phạm sai lầm như mọi người. Tôi mơ ước trở thành một nhân vật được nói đến nhiều trong sách ở trường học, một người xứng đáng được mọi người nhớ đến sau này. Tôi đã làm điều tốt với ý định trở thành một người vĩ đại của lịch sử, một phần cũng vì ích kỷ. Ích kỷ của một người đơn giản muốn hơn người khác. Tôi đã chiến đấu rất nhiều với ước muốn không lành mạnh này, biết rõ rằng Chúa không yêu thương người làm việc chỉ vì chính mình, mặc dù vậy không phải lúc nào tôi cũng thành công với cuộc chiến này.
Giờ đây, trong lúc viết thư, hình dung giây phút sau cùng trên mặt đất, tôi thấy thật là dại dột khi có những mong muốn đó. Vinh quan cá nhân, vĩ đại, nổi tiếng, tất cả chỉ thoáng qua. Trái lại, tình yêu được tạo dựng trong cuộc sống là vĩnh cửu, vì chỉ có Thiên Chúa là vĩnh cửu, và tình yêu đến với chúng ta từ Thiên Chúa. Có một điều tôi không hối tiếc là đã yêu thương nhiều người trong cuộc sống của tôi. Nhưng tôi vẫn thấy còn quá ít. Những ai biết tôi hiểu rằng tôi không phải là người thích đưa ra lời khuyên, nhưng đây là cơ hội sau cùng của tôi. Vì thế tôi xin các bạn, hãy yêu thương những ai đang ở gần mình, chúng ta đừng bao giờ quên rằng những người đồng hành với chúng ta trong hành trình dương thế này không bao giờ là một phương tiện nhưng là mục đích. Thế giới này tốt đẹp nếu chúng ta biết chọn điểm bắt đầu nhìn.
Như tôi đã nói với các bạn, tôi đã sai lỗi trong nhiều chuyện. Trong phần lớn cuộc đời tôi từng nghĩ rằng không có những sự kiện hoàn toàn tích cực hoặc tiêu cực hoàn toàn, tuỳ thuộc nơi cái nhìn của chúng ta. Đây là một triết lý đúng. Nhưng thực tế, một sự việc có thể tích cực hoàn toàn và cũng tiêu cực hoàn toàn. Điều cần nơi chúng ta là không tìm cách để thấy được điều tích cực nhưng tốt hơn là hành động đúng đắn, chịu đựng, và vì tình thương người khác, chuyển một điều tiêu cực thành tích cực. Ở đây không có nghĩa là tìm ra điểm tích cực nhưng là tạo ra chúng, và theo tôi, đây là khả năng quan trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, khả năng chỉ con người mới có.
Tôi muốn nói thẳng thắn với mọi người về bước mà tôi đã thực hiện và tất cả sớm hay muộn cũng phải cũng phải đối diện: cái chết
Chỉ nhắc đến tên, đôi khi khiến tôi rùng mình. Tuy nhiên, đó là một điều tự nhiên, điều tự nhiên nhất trên thế giới. Nếu chúng ta muốn sử dụng một nghịch lý, cái chết là điều tự nhiên nhất trong cuộc sống. Vậy mà lại làm chúng ta sợ hãi. Điều này là bình thường, chính Chúa Giêsu cũng đã sợ hãi.
Đó là nỗi sợ của điều chưa biết, bởi vì chúng ta không thể nói rằng mình đã trải nghiệm nó. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến cái chết theo cách tích cực: nếu không có cái chết có lẽ chúng ta sẽ không kết luận bất cứ điều gì trong cuộc sống chúng ta, bởi vì dù sao luôn có một ngày mai. Trái lại, cái chết cho chúng ta biết không phải lúc nào cũng có ngày mai. Nếu chúng ta muốn làm điều gì đó, thời điểm thích hợp là “bây giờ”.
Tuy nhiên đối với một Kitô hữu cái chết còn là một điều khác. Từ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, như một của lễ hy sinh cho tất cả tội chúng ta, cái chết là cách duy nhất để sống thực sự, là cách duy nhất để cuối cùng trở về nhà Cha, là cách duy nhất để nhìn thánh nhan Người
Là Kitô hữu tôi đã đối diện với cái chết. Tôi không muốn chết, chưa sẵn sàng chết, nhưng tôi đã chuẩn bị.
Điều duy nhất làm cho tôi u sầu là không có thể thấy thế giới thay đổi và phát triển. Tuy nhiên với phần còn lại tôi hy vọng có thể thấy được cái chết như thánh Phanxicô, những lời của thánh nhân đã đồng hành với tôi trong suốt cuộc đời. Tôi hy vọng cũng có thể đón nhận cái chết như “người chị”, không ai có thể thoát khỏi người chị này.
Nếu trong cuộc sống tôi đã vác thập giá như được yêu cầu, giờ đây tôi thuộc về Đấng Tạo Hoá. Giờ đây tôi ở với Chúa của tôi, Thiên Chúa của các tổ phụ, trong Nhà không thể bị phá huỷ
Ngài, Thiên Chúa chân thật duy nhất, là nguyên nhân đầu tiên và kết thúc mọi sự. Khi đối diện với các chết tất cả sẽ vô nghĩa nều không có Người. Vì vậy, mặc dù không cần phải nói điều này, bởi vì Người biết tất cả, như tôi đã cám ơn mọi người, tôi cũng muốn tạ ơn Người. Tôi nợ Chúa cả cuộc đời, tất cả đều tốt đẹp. Đức tin đã đồng hành với tôi và tôi sẽ không phải là tôi nếu không có đức tin. Đức tin đã thay đổi đời tôi, đã làm một điều phi thường, và làm điều này một cách đơn giản trong đời sống hàng ngày của tôi.
Đừng bao giờ mệt mỏi trong việc phục vụ Thiên Chúa và cư xử theo giới răn Người, bởi vì không có Chúa thì không có ý nghĩa gì và vì mọi hành động của chúng ta sẽ bị phán xét và sẽ quyết định ai sẽ tiếp tục sống đời đời và ai sẽ phải chết. Tôi không phải là Kitô hữu tốt nhất, tôi là một tội nhân, nhưng điều đó không còn quan trọng nữa: điều quan trọng là tôi đã cố gắng hết sức và tôi sẽ làm lại.
Đừng bao giờ mệt mỏi khi vác thập giá mà Thiên Chúa đã giao phó cho mỗi người, và đừng ngại được giúp vác thập giá đó, như Chúa Giêsu đã được giúp đỡ. Và đừng bao giờ từ bỏ mối quan hệ trọn vẹn và thân mật với Chúa, hãy sẵn lòng đón nhận ý muốn của Người, vì đó là nghĩa vụ của chúng ta, nhưng cũng đừng thụ động, và hãy lên tiếng, hãy để ý muốn của bạn được Chúa biết đến, giống như Giacóp, người đã chứng tỏ mình mạnh mẽ được gọi là Israel: Người chiến đấu với Chúa.
Chắc chắn Thiên Chúa, là cha, là mẹ, là Đấng nơi con người Chúa Giêsu đã trải qua mọi yếu đuối của con người, và là Đấng luôn sống trong chúng ta trong Chúa Thánh Thần, là Đền Thờ của Người, sẽ đánh giá cao những nỗ lực của các bạn và sẽ giữ chúng trong trái tim Người.
Giờ đây tôi xa mọi người. Tôi không bao giờ có thể hình dung cuộc sống tôi nếu thiếu mọi người. Và nếu được chọn, một lần nữa tôi sẽ chọn ở bên mọi người. Tôi vui vì ngày mai mặt trời sẽ tiếp tục chiếu sáng.
Chính phủ nước này ý thức về việc phá thai trễ có thể là một gánh nặng và khó khăn lớn đối với người mẹ, vì thế đã cấp cho họ quyền được hai lần tham khảo miễn phí các bác sĩ tâm lý.
Hồi tháng Ba năm nay, Hội đồng Giám mục Na Uy đã lên tiếng chống phá thai và nay lại lên tiếng, nhân dịp cuộc tham khảo ý kiến mới của chính quyền với dân chúng. Các giám mục nhắc lại rằng các tín hữu Công giáo là cộng đồng tôn giáo lớn thứ hai tại Na Uy và vì thế, khi bày tỏ lập trường các vị không nói nhân danh bản thân, nhưng là nhân danh cộng đồng Công giáo tại Na Uy: “Chúng tôi nói để bênh vực những người yếu thế nhất, trong trường hợp này là các thai nhi, với một lịch sử riêng 4, 5 tháng. Chúng tôi bênh vực các em trước những người mạnh nhất, trong trường hợp này là các nhà chính trị tại quốc hội, những người được ủy thác quyết định sinh tử về các thai nhi ấy”.
Các giám mục Na Uy cũng nhắc nhở rằng có những thời kỳ, trong đó cả các triết gia và thần học gia Công giáo, dựa trên triết học Hy Lạp để đặt nhân tính của một bào thai tùy thuộc mức độ tiến triển của thai. Nhưng Giáo hội không chấp nhận tiêu chuẩn đó, vì nó hoàn toàn là tưởng tượng và không có căn bản khoa học. Vậy mà dự luật được quốc hội bàn thảo hoàn toàn dựa trên tưởng tượng. Nhà lập pháp không để ý đến những căn bản khoa học, theo đó sự sống con người bắt đầu ngay từ lúc thụ thai. Vì thế, Hội đồng Giám mục Na Uy thỉnh cầu Quốc hội bác bỏ dự luật mới, vì “phá thai là điều không xứng đáng với một xã hội con người đích thực, trong đó mỗi người đáng được tôn trọng”.
Các giám mục Na Uy cũng nhận định rằng dự luật mới tránh nói về trẻ em, nhưng chỉ “bảo đảm cho phụ nữ quyền được phá thai an toàn và chữa trị, qua đó họ có thể đưa ra những quyết định độc lập về thân thể của họ”. Thế là, thay vì nói về trách nhiệm của xã hội giúp phụ nữ sinh con, như trong luật cũ, dự luật mới có những lời lẽ duy tiêu thụ như một yêu cầu và là những bảo đảm bình quyền. Quyết định của phụ nữ là điều hoàn toàn riêng tư và họ được yêu cầu thực hiện phá thai trên một trang mạng, điền một mẫu đơn trên đó.
Sau cùng, các giám mục cũng nhắc lại rằng Hiến pháp Na Uy bảo vệ các trẻ em chưa sinh ra và cả thai nhi cũng được kể vào số những người có quyền hưởng gia tài.
⛪⛪⛪⛪⛪
Chính phủ Uzbekistan coi râu là dấu hiệu của chủ nghĩa khủng bố
Từ tháng 3 vừa qua trở đi, những người đàn ông Hồi giáo trên khắp Uzbekistan để râu dài đã bị bắt giữ, bị cạo râu cưỡng bức và bị phạt tiền. Những người Hồi giáo muốn giấu tên vì sợ bị nhà nước trả thù đã nói với Diễn đàn 18 rằng họ bị cảnh sát bắt giữ trong và xung quanh các nhà thờ Hồi giáo và chợ đường phố.
Trên toàn quốc, những người đàn ông Hồi giáo có râu dài đã bị bắt trong các cuộc đột kích do cảnh sát mật của Cơ quan Mật vụ Nhà nước, gọi tắt là SSS và các sĩ quan cảnh sát bình thường “Sở Đấu tranh với Chủ nghĩa Cực đoan và Khủng bố” chỉ huy. Những người đàn ông này sau đó đã bị đưa đến đồn cảnh sát, bị cạo râu cưỡng bức và sau đó bị cảnh báo rằng họ sẽ bị phạt tiền hoặc nhận án tù ngắn hạn nếu họ để râu dài trở lại. Mức phạt áp dụng dao động từ khoảng một tháng đến hơn một tuần lương trung bình của những người đi làm.
Một số người đàn ông Hồi giáo đã chia sẻ với Diễn đàn 18 rằng kể từ tháng 3, họ đã “cắt tỉa và để râu thật mỏng” để tránh những hình phạt như vậy.
Các viên chức chế độ đã đưa ra nhiều lý do bào chữa cho hành động của họ. Trong một cuộc đột kích vào một nhà thờ Hồi giáo ở Tashkent vào tháng 3 trong buổi cầu nguyện thứ Sáu, các viên chức đã buộc 15 người đàn ông tham dự nhà thờ Hồi giáo có râu vào một căn phòng tại nhà thờ Hồi giáo. Sau đó, cảnh sát tuyên bố với những người đàn ông này rằng những người trẻ tuổi đang trở nên cực đoan và bị ảnh hưởng bởi những gì được mô tả là “mọi loại phong trào tôn giáo”. Sau đó, cảnh sát tuyên bố rằng, do đó, tất cả râu phải được cạo sạch.
Một viên chức cảnh sát “Sở Đấu tranh với Chủ nghĩa cực đoan và Khủng bố” tuyên bố với Diễn đàn 18 rằng “đôi khi chúng tôi tìm kiếm những người đàn ông có râu khi chúng tôi đang truy tìm những kẻ khủng bố. Lúc đầu rất khó để xác định họ là ai, và đôi khi họ trông giống nhau. Nhưng”, ông nói tiếp, “khi không có râu hoặc râu rất ngắn, chúng tôi có thể xác định được người đó”
Nhiều cảnh sát, Bộ Nội vụ, cảnh sát mật SSS và quan chức tòa án đã từ chối giải thích với Diễn đàn 18 lý do tại sao những người đàn ông Hồi giáo để râu dài trên toàn quốc đã bị bắt giữ, bị cạo râu cưỡng bức và bị phạt tiền từ tháng 3.
Người Hồi giáo và những người bảo vệ nhân quyền, những người muốn giấu tên vì sợ bị nhà nước trả thù, đã nói với Diễn đàn 18 rằng họ nghĩ chế độ này có thể đang lên kế hoạch tấn công những phụ nữ đội khăn trùm đầu theo cách tương tự như tấn công những người đàn ông để râu dài.
Một nhóm các nữ đan sĩ Cát Minh ở Texas bị trục xuất khỏi đời tu trì
Carmelite Monastery of the Most Holy Trinity, Arlington, Texas
Quyết định trên đây kết thúc cuộc tranh chấp lâu dài giữa các đan sĩ này với Đức giám mục giáo phận và với Tòa Thánh.
Hôm 28 tháng Mười vừa qua, trang mang của Giáo phận Fort Worth đã đăng thông cáo của Mẹ Marie Nhập thể, Chủ tịch Hiệp hội Chúa Kitô Vua, gửi toàn thể giáo phận địa phương để thông báo quyết định rằng các nữ đan sĩ Đan viện Cát Minh nhặt phép, quen gọi là dòng kín Cát Minh, ở Arlington, Texas, bị trục xuất khỏi dòng và hồi tục, sau hơn một năm bất chấp các mệnh lệnh của cấp trên. Sự trục xuất này kết thúc một cuộc tranh chấp đau thương và phân rẽ giữa các nữ đan sĩ này với giáo quyền, từ Đức cha Michael Olson, giám mục sở tại cho tới Tòa Thánh.
Cuộc tranh chấp bắt đầu năm ngoái khi Đức cha Olson mở cuộc điều tra về Đan viện ở Arlington, sau những vụ tố cáo Mẹ Bề trên Teresa Agnes Gerlach của Đan viện Chúa Ba Ngôi gian díu với một linh mục.
Các nữ tu thuộc Đan viện đã đệ đơn kiện hồi tháng Năm năm ngoái để chống lại cuộc điều tra của Đức cha Olson, với lời cáo buộc Đức cha đã vi phạm cuộc sống riêng tư và gây hại cho an sinh thể lý, tâm lý của các nữ tu. Đức cha Olson đã trục xuất nữ tu Gerlach khỏi đời tu.
Tháng Tư năm nay, Bộ các Dòng tu tuyên bố rằng Hiệp hội Chúa Kitô Vua ở Mỹ có thẩm quyền giám sát việc “cai quản, kỷ luật, học vấn, tài sản, các quyền và đặc ân” của Đan viện Chúa Ba Ngôi. Nhưng các nữ tu bất chấp lệnh của Tòa Thánh và tuyên bố đi theo Huynh đoàn thánh Piô X, một nhóm thủ cựu không hiệp thông với Giáo hội Công giáo.
Trong thông cáo ngày 28 tháng Mười nói trên, Mẹ Marie Nhập Thể khẳng định rằng các nữ đan sĩ Cát Minh ở Arlington liên tục bất chấp thẩm quyền của Bộ các Dòng tu, phủ nhận thẩm quyền của Đức giám mục bản quyền và của chính Mẹ Marie Nhập Thể, trong tư cách là Bề trên hợp pháp, đồng thời theo Huynh đoàn thánh Piô X bất hợp pháp. Ngoài ra, các nữ tu đã tự ý giao nữ Đan viện và tài sản của Đan viện này, vốn là tài sản của Giáo hội Công giáo theo giáo luật, cho một tổ chức đời. Vì thế, chính những hành động đã biến các nữ tu này không còn là tu sĩ Công giáo nữa.
“Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,5).
Tôi cứ suy nghĩ hoài lời Thánh Vịnh trên đây khi thời gian điểm vào tháng 11. Có lẽ nhiều người cho rằng tháng 11 rất u ám khi ra nghĩa trang. Không ít người cho rằng đây là nét đẹp của đức tin Công giáo, khi hướng về những linh hồn đã khuất. Giữa hai cảm xúc này, tôi tự hỏi: “Con người là gì?” Bạn cũng có thể trả lời rằng con người được tạo thành từ linh hồn và thân xác. Khi chết, thân xác sẽ trở về cát bụi, còn linh hồn bất tử. Đây không chỉ là quan niệm triết học mà còn là một điểm then chốt trong niềm tin Kitô giáo, được củng cố qua mặc khải của Thiên Chúa và giáo huấn của Hội Thánh Công giáo.
Từ xa xưa, các triết gia như Socrates và Plato đã đề cập đến vấn đề linh hồn. Socrates luôn kêu gọi con người “chăm sóc linh hồn” và xem nó là phần quan trọng hơn thân xác. Plato, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thầy mình là Socrates, cũng luôn hối thúc con người cần chăm sóc linh hồn hơn là thân xác. Trong triết học của họ, linh hồn được xem là yếu tố cao quý, trường tồn và đáng để chúng ta dành trọn sự quan tâm, ngay cả khi phải hy sinh thân xác.
Trong giáo lý Công giáo, ngay trong trình thuật Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng con người từ bụi đất và thổi hơi thở (linh hồn) vào thân xác để làm cho con người sống động, theo hình ảnh của Ngài (Imago Dei). Theo đó, Giáo hội đặc biệt nói với người trẻ rằng:
“Linh hồn là cái làm cho ta thành một con người. Nó là nguyên lý linh thiêng của sự sống, và là cái sâu thẳm nhất trong con người.” (Sách Youcat số 62).
Khi thân xác phải đối diện với sự chết, linh hồn cũng đối diện với những thực tại thiêng liêng mà giáo lý Công giáo phân biệt thành ba trạng thái: Thiên đàng, Luyện ngục và Hỏa ngục. Hỏa Ngục là nơi dành cho những linh hồn đã chết trong tình trạng tội lỗi chết người, không ăn năn hối cải. Những linh hồn này sẽ phải chịu hình phạt vĩnh viễn, tách biệt hoàn toàn khỏi Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc và sự sống [1]. Trái lại, những linh hồn trung thành và yêu mến Chúa, chết trong ân sủng, sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong Nước Trời. Thiên Đàng hay Nước Trời là nơi cư ngụ của những người được chúc phúc, nơi họ được nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt và sống trong sự hiệp thông với Ngài, Đức Maria, các thiên thần và các thánh [2]. Trong khi đó, Luyện Ngục là trạng thái trung gian dành cho những người chết trong tình bạn với Thiên Chúa nhưng vẫn cần thanh tẩy để có thể vào Thiên Đàng. Những người này được đảm bảo về sự cứu rỗi vĩnh cửu nhưng cần trải qua một quá trình thanh tẩy để đạt được sự thánh thiện cần thiết [3]. Nơi đó, các linh hồn đang chờ đợi sự thanh luyện cuối cùng nhờ lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta.
Hẳn nhiên chúng ta không biết các linh hồn đã khuất đang ở trong tình trạng nào. Do đó, nhất là trong suốt tháng 11, Hội Thánh Công giáo đặc biệt mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện ngục. Giáo hội khẳng định rằng:
“Bởi vì khi chết rồi con người không thể làm gì cho chính mình nữa, thời gian thử luyện đã qua rồi. Nhưng khi ta còn sống, ta có thể làm được việc gì đó giúp họ, vì tình yêu của ta vẫn hoạt động vươn tới cả đời sau, chẳng hạn ăn chay, cầu nguyện, làm các việc lành, nhất là dâng thánh lễ để xin ơn cho họ.” [4]
Việc viếng nghĩa trang, tham dự Thánh Lễ, và dâng những lời cầu nguyện cho các linh hồn đã khuất không chỉ là nghĩa cử yêu thương đối với người đã ra đi, mà còn mang lại nhiều phúc lành cho chính chúng ta. Thánh Gioan Kim Khẩu khuyến khích rằng:
“Bạn đừng ngại ngùng cứu giúp những người đã ra đi và dâng lời cầu nguyện cho họ.”
Nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, khi các linh hồn được cứu rỗi, họ cũng cầu bầu với Chúa cho chúng ta, để Thiên Chúa ban nhiều ơn lành xuống cho những người còn sống.
Tháng 11 còn là dịp để chúng ta suy nghĩ về thân phận con người. Thế giới thiêng liêng không phải là điều xa lạ, nhưng là một thực tại mà mỗi chúng ta đều sẽ đối diện. Ai cũng tin rằng con người phải chết, nhưng không ai tin rằng chính mình phải chết! Chúng ta không nên bám víu vào vật chất, nhưng biết chuẩn bị cho cuộc sống đời sau. Cầu nguyện cho các linh hồn trong tháng này là một cách để chúng ta thể hiện tình yêu, lòng trắc ẩn, và niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu.
Hội Thánh mời gọi các tín hữu thực hành việc viếng nhà thờ và nghĩa trang trong những ngày đầu tháng 11 để nhận được Ơn Đại Xá [5] cho các linh hồn. Điều kiện bao gồm xưng tội, rước lễ, và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng [6]. Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, người tín hữu cùng hiệp thông với linh mục dâng lời cầu nguyện: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa.” (Kinh Nguyện Thánh Thể II). Lời nguyện này không chỉ làm nhẹ đi những đau khổ của các linh hồn, mà còn là cách chúng ta tham gia vào mầu nhiệm tình thương và sự sống lại của Thiên Chúa. Như lời Thánh Phaolô chia sẻ: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1Cr 12,26).
Với vài ý nghĩa trên đây, hy vọng chúng ta không còn nhìn Tháng 11 với gam màu buồn bã, u uẩn hay chết chóc. Thay vào đó, đây là tháng của niềm hy vọng, của lòng trắc ẩn và tình yêu thương Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta cũng đang củng cố niềm tin của mình vào sự sống đời sau, vào mầu nhiệm các thánh thông công, và vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
Cầu mong rằng, qua những lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta trong tháng 11 này, các linh hồn nơi Luyện ngục sớm được thanh tẩy và được đón nhận vào Nước Thiên Đàng. Nơi đó, họ sẽ sống đời đời trong hạnh phúc và vinh quang Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta cũng biết sống hy vọng vào sự sống đời sau, không chỉ cho những linh hồn đã khuất, mà còn cho chính chúng ta, những người đang hành trình về nhà Thiên Chúa. Dù sống hay chết, chúng ta vẫn luôn được Thiên Chúa quan tâm. Ngài bận tâm đến từng người, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
Xin chúc mỗi người, đặc biệt khi đứng trước mộ phần, luôn vững tin và tràn đầy hy vọng vào cuộc sống vĩnh hằng mà Thiên Chúa đang mở rộng đón chờ linh hồn chúng ta!
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.
[1] GLHTCG số 1035
[2] Compendium of the Catechism of the Catholic Church, số 209.
[3] Compendium of the Catechism of the Catholic Church, số 210
[4] X. Youcat số 160
[5] Ơn Đại Xá, hay còn gọi là indulgence, là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù những tội đó đã được tha thứ. Để hưởng nhờ ân xá, Kitô hữu phải hội đủ những điều kiện được thẩm quyền của Hội Thánh quy định, vì với tư cách là thừa tác viên của Ơn cứu chuộc, Hội Thánh có thẩm quyền phân phát và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức Kitô và các Thánh …Tín hữu nào cũng có thể hưởng các ân xá cho chính mình, hay cho những người đã qua đời. (X. GLHTCG số 1471).
[6] Xem thêm: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cac-dieu-kien-de-lanh-nhan-an-xa-46688
Ngày 8/12, lễ trọng Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội, thường là ngày lễ buộc. Năm nay lễ này rơi vào Chúa Nhật trong Mùa Vọng, do đó lịch phụng vụ năm 2024 của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã dời lễ này sang Thứ Hai, ngày 9/12, và nói rằng việc buộc tham dự lễ không chuyển sang thứ Hai, nghĩa là không buộc tham dự Thánh lễ vào thứ Hai ngày 9/12..
Đức Cha Paprocki, Chủ tịch Ủy ban về các vấn đề Giáo luật và Quản trị Giáo hội của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đã viết thư cho Tòa Thánh để xin chỉ dẫn rõ liệu luật giữ lễ buộc có dời khi chính ngày lễ buộc được dời hay không.
Đức Tổng Giám mục Filippo Iannone, Tổng trưởng Bộ các Văn bản luật, đã trả lời rằng việc giữ ngày lễ buộc phải được tuân theo vào ngày lễ đó được dời”. Ngài lưu ý trong thư rằng một số ngày lễ nhất định được giáo luật thiết lập là những ngày buộc. Những ngày này “phải được tuân giữ” và “giáo luật không đưa ra ngoại lệ”, trừ vì "lý do nghiêm trọng".
Sau thông báo này, một số giáo phận Hoa Kỳ đã quy định rằng việc tham dự Thánh lễ lễ Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội là luật buộc vào ngày 9/12 năm nay. Riêng Đức Hồng y Daniel DiNardo của Tổng giáo phận Galveston-Houston đã miễn trừ luật buộc cho ngày lễ vì thời gian thông báo về sự thay đổi trước ngày lễ quá ngắn trong khi nhiều giáo xứ và gia đình đã có lịch trình cho Mùa Vọng và Giáng sinh. Tuy nhiên, ngài kêu gọi các tín hữu cố gắng tham dự Thánh lễ vào ngày 9/12 mặc dù năm nay không buộc. Giáo phận Tulsa cũng ban luật "miễn trừ" tham dự Thánh lễ vào ngày 9/12.
Phá thai đã là một vấn đề quan trọng đối với các cử tri tôn giáo trong cuộc bầu cử vừa qua. Trong khi bà Harris cổ võ tự do hoàn toàn về phá thai, thì ông Trump để vấn đề này cho mỗi tiểu bang quyết định, như phán quyết hồi năm 2022 của Tối cao pháp viện và không thể rút từ Hiến pháp liên bang quyền phá thai áp dụng cho toàn quốc. Nơi những người chống phá thai, ứng cử viên Donald Trump nhận được 90% phiếu ủng hộ.
Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh nói tiếp rằng tổng thống đắc cử sẽ phải nỗ lực "trên hết là trở thành tổng thống của toàn bộ đất nước" để vượt qua sự phân cực ngày càng gia tăng trong thời đại của chúng ta. Đồng thời, ngài bày tỏ hy vọng rằng ông Trump sẽ là "một yếu tố xoa dịu căng thẳng và hòa giải trong các cuộc xung đột hiện tại đang làm đẫm máu thế giới".
Kết thúc chiến tranh
Được hỏi về lời hứa của ông Trump về việc kết thúc một số cuộc chiến đang diễn ra, Đức Hồng y Parolin trả lời, "Chúng ta hãy hy vọng", đồng thời thừa nhận, "Tôi không nghĩ ông ấy có cây đũa thần". Ngài nhấn mạnh rằng việc kết thúc chiến tranh đòi hỏi sự khiêm nhường, sẵn sàng và mong muốn theo đuổi lợi ích của toàn thể nhân loại, thay vì tập trung vào các lợi ích cụ thể.
Liên quan đến các cuộc xung đột ở Ucraina và Thánh Địa, Quốc vụ khanh Tòa Thánh lưu ý rằng ông Trump chưa giải thích cụ thể cách ông sẽ hành động để chấm dứt chiến tranh. Ngài nói: "Chúng ta hãy xem ông ấy sẽ đề xuất gì sau khi nhậm chức".
Quan điểm của Tòa Thánh về di dân
Trả lời các câu hỏi về việc ông Trump hứa trục xuất khỏi Hoa Kỳ "hàng triệu" người nhập cư, Đức Hồng y Parolin cho biết, "Với tôi, có vẻ như quan điểm của Đức Thánh Cha và Tòa Thánh rất rõ ràng về vấn đề này. Chúng tôi ủng hộ một chính sách khôn ngoan đối với người nhập cư và do đó không đi đến những thái cực này". Ngài nói thêm rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra những chỉ dẫn "rất chính xác, rất rõ ràng" liên quan đến vấn đề di cư, đồng thời nói thêm "Tôi tin rằng đây là cách duy nhất để giải quyết các vấn đề và giải quyết chúng theo cách nhân đạo".
Bảo vệ sự sống
Đức Hồng y Parolin đồng ý rằng có một số vấn đề mà chính sách của ông Trump phù hợp hơn với lập trường của Tòa Thánh, ví dụ như vấn đề "bảo vệ sự sống". Tuy nhiên, Đức Hồng y nhận định: "Tôi tin rằng đây phải là chính sách chung; nó phải cố gắng thu thập sự đồng thuận xung quanh vấn đề này và không trở thành chính sách phân cực và chia rẽ một lần nữa". Ngài nhấn mạnh về nhu cầu lắng nghe lẫn nhau và cho biết ngài hy vọng những lời hứa bảo vệ sự sống của Trump "cũng sẽ mở rộng sự đồng thuận theo nghĩa này".
Đối thoại về công ích
Quốc vụ khanh Tòa Thánh cho biết ngài không nghĩ rằng mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ sẽ thay đổi với chính quyền mới; ngài lưu ý: "Chúng tôi vẫn duy trì quan hệ với Tổng thống Trump ngay cả trong nhiệm kỳ trước của ông, vì vậy ít nhiều chúng tôi sẽ tiếp tục". Thừa nhận sự gần gũi về một số vấn đề và sự khác biệt về các vấn đề khác, ngài cho biết đây sẽ là dịp để thực hiện đối thoại và cố gắng tìm ra nhiều điểm đồng thuận hơn với nhau, luôn vì lợi ích chung và hòa bình trên thế giới.
Vấn đề Trung Quốc
Cuối cùng, trả lời câu hỏi về mối quan hệ của Tòa Thánh với Trung Quốc, Đức Hồng y Parolin cho biết, “Chúng tôi đã tiến triển với Trung Quốc… cuộc đối thoại đang diễn ra, từng bước nhỏ nhưng liên tục, vì vậy chúng tôi xác nhận đường lối này”.
Trong khi thừa nhận phản ứng của Hoa Kỳ đối với chính sách này, Đức Hồng y nhấn mạnh rằng lợi ích của Tòa Thánh đối với Trung Quốc “về cơ bản là lợi ích của Giáo hội”, và việc công nhận nhiều hơn về định hướng này có thể thay đổi “đánh giá” của các quốc gia khác về mối quan hệ.
Đức Phanxicô tiếp Tổng thống Donald Trump tại Vatican ngày 24 tháng 5 năm 2017. (ảnh: Vatican Media/L'Osservatore Romano)
Việc cựu Tổng thống Donald Trump đắc cử nhiệm kỳ thứ hai có khả năng nối lại mối quan hệ thường căng thẳng giữa Đức Phanxicô và ông.
Các tương quan giữa Vatican và nước Mỹ là mối quan tâm đặc biệt của người công giáo, nhưng vì Đức Phanxicô là người ủng hộ hòa bình và công lý xã hội được thế giới công nhận nên quan hệ giữa Washington và Rôma cũng là quan tâm của cộng đồng quốc tế.
Phần lớn căng thẳng giữa hai bên có khả năng tập trung vào vấn đề di cư, một vấn đề cả hai đã có những xung đột công khai trong quá khứ. Trong chiến dịch tranh cử vừa qua, Tổng thống Trump hứa sẽ trục xuất hàng triệu người nhập cư không có giấy tờ, một chính sách gần đây Đức Phanxicô cho là tội nghiêm trọng “chống lại sự sống”.
Nhưng Vatican và Nhà Trắng có thể có được tiếng nói chung trong nhiệm kỳ thứ hai này của Tổng thống Trump trong cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine. Đức Phanxicô và Tổng thống Trump đã bất đồng quan điểm về vấn đề di cư ngay cả trước khi ông Trump nhậm chức. Tháng 2 năm 2016, trong một phỏng vấn, Đức Phanxicô nói với các phóng viên lời hứa trục xuất hàng triệu người nhập cư và xây tường dọc theo biên giới phía nam là kẽ hở của một người không có “tinh thần kitô giáo”. Ông Trump trả lời, thật xấu hổ khi Giáo hoàng đặt câu hỏi về đức tin của ông.
Nhưng hai người đã gần gũi hơn về vấn đề phá thai, trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông Trump cương quyết phản đối việc phá thai, ông nêu tên ba thẩm phán Tòa án Tối cao đã tiếp tục bãi bỏ phán quyết năm 1973 Roe kiện Wade, thiết lập quyền phá thai theo hiến pháp. Đức Phanxicô thường lên án phá thai với những lời lẽ mạnh mẽ, ngài xem việc này như việc thuê người sát thủ.
Kể từ khi rời nhiệm sở, Tổng thống Trump có lập trường tự do hơn về phá thai, trong chiến dịch tranh cử, ông tuyên bố sẽ phủ quyết lệnh cấm phá thai của liên bang nếu ông đắc cử. Ông ủng hộ việc thụ tinh trong ống nghiệm, một thủ tục thường liên quan đến việc phá hủy phôi thai của con người và bị cấm trong giáo lý đạo đức công giáo.
Một lãnh vực có khả năng đưa hai bên gần nhau: đó là “ý thức hệ giới tính”, theo Đức Phanxicô, đây là ý thức hệ đáng lo ngại của thời đại chúng ta khi xóa bỏ sự khác biệt giữa nam và nữ. Đầu năm nay, Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố: “Bất kỳ sự can thiệp nào vào việc chuyển đổi giới tính đều có nguy cơ đe dọa đến phẩm giá duy nhất mà con người nhận được ngay khi thụ thai.” Các vấn đề chuyển giới, bao gồm vấn đề chuyển giới của các vận động viên nữ, đó là vấn đề nổi bật trong chiến dịch của Tổng thống Trump. Tuy nhiên, đây là vấn đề tế nhị, vì Đức Phanxicô có cách tiếp cận mục vụ với người chuyển giới, ngài đã nhiều lần gặp họ ở Vatican.
Chính sách môi trường là lãnh vực Đức Phanxicô và Tổng thống Trump bất đồng quan điểm. Trong thông điệp Chăm sóc ngôi nhà chung Laudato Si năm 2015, ngài kêu gọi giảm dùng nhiên liệu hóa thạch để chống lại tình trạng nhiệt độ toàn cầu nóng lên, mối đe dọa lớn cho sự sống trên trái đất, nhưng Tổng thống Trump lại hứa sẽ thúc đẩy sản xuất nhiên liệu hóa thạch.
Tuy nhiên lãnh vực bất đồng rõ ràng nhất vẫn là vấn đề di cư. Tháng 9 vừa qua, khi trả lời các nhà báo, Đức Phanxicô cho rằng “đuổi người di cư đi, từ chối khả năng làm việc của họ, từ chối lòng hiếu khách là một tội nghiêm trọng”. So sánh quan điểm này với việc Phó Tổng thống Kamala Harris hợp pháp hóa phá thai, Đức Phanxicô cho biết, cuộc bầu cử đặt ra cho người công giáo Mỹ phải lựa chọn “cái ác ít hơn”, ngài để cho lương tâm của mỗi cử tri quyết định đó là gì.
Lãnh vực đối ngoại cũng tạo căng thẳng giữa ngài và tân tổng thống. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Trump, Vatican đã phản đối khi Hoa Kỳ công nhận Giêrusalem là thủ đô của Israel, sau đó Ngoại trưởng Mike Pompeo đã cáo buộc Vatican không quan tâm đến việc Trung Quốc vi phạm nhân quyền khi theo đuổi mục tiêu xích lại gần Bắc Kinh. Các vấn đề này có khả năng là những điểm đau đầu trong quan hệ Hoa Kỳ-Tòa thánh trong bốn năm tới.
Nhưng vấn đề địa chính trị Ukraine là vấn đề mà cả Đức Phanxicô và Tổng thống Trump thường có lập trường gây tranh cãi, có thể là một lãnh vực hợp tác và thậm chí là hòa hợp giữa họ.
Kể từ đầu năm 2022 khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, Đức Phanxicô không ngừng kêu gọi chấm dứt xung đột, ngài luôn đau buồn cho số phận của người dân Ukraine. Nhưng ngài tránh đổ lỗi trực tiếp cho Nga hoặc cho Tổng thống Vladimir Putin về cuộc chiến, ngài cho rằng lý do có thể là do sự mở rộng về phía đông của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương NATO. Ngài cũng lên án việc chi tiêu vũ khí để đáp trả hành động xâm lược của Nga và việc áp dụng các lệnh trừng phạt Matxcơva. Lập trường trung lập này đã làm cho người công giáo và các cấp cao của Ukraine và Đông Âu thất vọng. Ngài nói, sự trung lập của Vatican về các vấn đề chính trị, thương mại và quân sự là cần thiết để có được uy tín của một trung gian tiềm năng.
Tổng thống Trump công khai ngưỡng mộ Putin, ông nói ông có khả năng chấm dứt chiến tranh chỉ trong một ngày, một chiến công sẽ phải đòi hỏi Ukraine nhượng bộ. Phó Tổng thống đắc cử James David Vance đưa ra một kế hoạch hòa bình cho phép Nga giữ lại lãnh thổ mà họ đã chinh phục và đảm bảo sự trung lập của Ukraine, loại trừ tư cách thành viên NATO mà quốc gia này mong muốn.
Nếu Hoa Kỳ, nước ủng hộ Ukraine lớn nhất áp dụng chính sách như vậy dưới thời chính quyền tiếp theo, liệu họ có thể nhờ đến Vatican để được hỗ trợ về mặt đạo đức cho lập trường của mình không? Liệu Đức Phanxicô hay các nhà ngoại giao của ngài có tán thành một kế hoạch như vậy, một cách rõ ràng hay không?
Một liên minh như vậy có vẻ không có khả năng xảy ra, nhưng chính trị quốc tế đã biết đến những người bạn đồng hành xa lạ hơn.
Đức Tổng Giám Mục lưu ý rằng Giáo hội Công giáo không liên kết với bất cứ đảng phái chính trị nào, và các mục tử của Giáo hội mong muốn làm việc với các đại diện được bầu để thúc đẩy công ích. Ngài nói: “Là Kitô hữu và là người Mỹ, chúng ta có nghĩa vụ đối xử với nhau bằng lòng bác ái, sự tôn trọng và văn minh, ngay cả khi chúng ta có thể không đồng tình về cách thực hiện các vấn đề chính sách công. Quốc gia được ban tặng nhiều ân huệ, vì thế chúng ta phải quan tâm đến nhiều người ở ngoài biên giới chúng ta và mong muốn hỗ trợ tất cả mọi người”.
Chủ tịch Hội đồng Giám mục kêu gọi người dân Hoa Kỳ cầu nguyện cho tổng thống đắc cử Trump và tất cả những người được bầu, để họ có thể hoàn thành trách nhiệm được trao phó. Ngài viết: "Chúng ta cùng cầu xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ, Đấng Bảo Trợ quốc gia, để Người hướng dẫn chúng ta bảo vệ công ích của tất cả mọi người và thúc đẩy nhân phẩm, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất, gồm cả trẻ em chưa chào đời, người nghèo, người nước ngoài, người già và người ốm yếu, và người di cư”.
Về phần Tổng Giám Mục Washington, trong một tuyên bố được đưa ra sau cuộc bầu cử tống thống, ngày 06/11/2024, Đức Hồng Y Wilton Gregory viết: “Hôm nay, khi đất nước chúng ta đang chuẩn bị thực hiện một hướng đi mới trong việc điều hành, điều rất quan trọng cho mỗi người trong chúng ta là phải nhớ rằng, với tư cách là những người có đức tin và thiện chí, chúng ta được kêu gọi cùng nhau làm việc tìm kiếm sự thật, công bằng và bình an trong gia đình, cộng đoàn và quốc gia của chúng ta”.
Tổng Giám Mục Washington nhận xét, với kết quả bầu cử ở các cấp, một số người thở phào nhẹ nhõm, nhưng cũng có một số lo lắng về tương lai phía trước. Theo ngài, “con đường phía trước của chúng ta nằm ở sự tôn trọng lẫn nhau và phẩm giá do Chúa ban tặng mà chúng ta chia sẻ, được trao tặng một cách tự do với lời cầu nguyện, sự kiên nhẫn, lòng tốt và hy vọng”.
Một ngày sau chiến thắng của Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, giáo sư Massimo Faggioli giải thích sự đột phá phiếu bầu của cử tri công giáo trong kết quả các cuộc thăm dò, cho thấy đạo công giáo ở Mỹ đã chuyển sang chủ nghĩa truyền thống dân tộc đầy đe dọa như thế nào.
Khẩu hiệu “Làm cho nước Mỹ cầu nguyện lại” được trưng bày ở Hội nghị truyền thông Kitô giáo của Hiệp hội Truyền thông Tôn giáo Quốc gia năm 2024 tại Nashville, Tennessee, nơi chờ đón cựu Tổng thống, ứng cử viên Đảng Cộng hòa Donald Trump ngày 22 tháng 2 năm 2024. Seth Herald / REUTERS
Chiến thắng của Tổng thống Donald Trump năm 2024 đã chôn vùi di sản của Tổng thống Joe Biden, sự rút lui của người công giáo cấp tiến về khuôn viên trường đại học của họ, về các tạp chí trí tuệ và bong bóng truyền thông xã hội. Chiến thắng của Trump đã đưa Phó Tổng thống trẻ tuổi J. D. Vance lên sân khấu thế giới, một triệu phú 40 tuổi trở lại đạo công giáo năm 2019, theo chủ nghĩa truyền thống được các nhân vật khổng lồ của chủ nghĩa tự do công nghệ ở Thung lũng Silicon ủng hộ: một kết hợp giữa Charles Maurras và Elon Musk.
Cuộc bầu cử này kết thúc theo phong cách của văn hào Anh Shakespeare, sử thi về hai người công giáo đứng đầu Đảng Dân chủ: Tổng thống Joe Biden và cựu Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi, người đã thuyết phục ông rời khỏi cuộc tranh cử mùa hè năm 2024. Việc Tổng thống Trump trở lại chính trường cho thấy sự phục tùng của nhiều giám mục Mỹ trước các chuyện chính trị mang tính đảng phái về “các cuộc chiến tranh văn hóa”, khuyến khích các nhà tài chính lớn đánh đồng đạo công giáo thể chế với hệ thống guồng máy cai trị Hoa Kỳ.
Sự thay đổi trong cuộc bỏ phiếu của người công giáo
Nhưng việc Tổng thống Trump tái đắc cử không chỉ là câu chuyện của giới tinh hoa. Đó cũng là lịch sử của người công giáo. Một thăm dò gần đây cho thấy phần lớn 56% người công giáo đã bỏ phiếu cho Donald Trump, so với 41% cho Kamala Harris. Năm 2020, Joe Biden suýt giành được phiếu của người công giáo (52% so với 47%). Trump và Vance đã đầu tư vào cuộc bỏ phiếu tôn giáo và công giáo, và đã làm được điều này mà không có quan điểm trực tiếp về vấn đề phá thai. Cả hai đảng chính trị hiện nay đều có quan điểm ủng hộ quyền lựa chọn, nhưng theo những cách khác nhau. Tính phi đạo đức đáng tự hào của Trump đã giúp các cử tri tôn giáo vượt qua điểm này: trong nhiều trường hợp, họ bỏ phiếu cho ông trong khi vẫn duy trì sự ủng hộ quyền phá thai.
Bà Harris và ông Walz đã thất bại trong việc thu hút cơ sở bầu cử, họ có những nỗ lực dàn dựng một cách bề ngoài. Do quyết định năm 2022 của Tòa án Tối cao cho phép hạn chế phá thai, Đảng Dân chủ ủng hộ các vấn đề phá thai và giới tính. Một sự cực đoan hóa, nếu nói đến giới tinh hoa trí thức và học thuật, họ sẽ bị các cử tri không ủng hộ. Như nhà văn kitô giáo người Anh G. K. Chesterton đã nói, nước Mỹ vẫn là “một quốc gia có linh hồn của một Giáo hội”.
Tái định nghĩa đạo công giáo Hoa Kỳ
Không rõ sẽ như thế nào và bằng cách nào Trump và Vance sẽ thực hiện lời đe dọa của họ với nhiều người công giáo (trục xuất 12 triệu người). Các khu vực được Giáo hội công giáo tài trợ sẽ tiếp tục có được ảnh hưởng sau nhiệm kỳ đầu tiên của Trump: sau khi giành được đa số tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, mục tiêu là khôi phục các thông tin xác thực của cánh hữu công giáo ở Mỹ – trong đó tính từ “người Mỹ” đóng góp phần lớn để xác định lại khái niệm “công giáo”.
Chỉ trong tám năm, người công giáo cấp cao nhất đã đi từ đạo công giáo Mỹ tự do theo Vatican II của Joe Biden sang chủ nghĩa truyền thống dân tộc của Phó Tổng thống Vance, loa phóng thanh của Tổng thống Trump trong việc truyền bá những lời dối trá tuyên truyền theo chủ nghĩa bản địa (từ ngữ căm thù người Haiti, người nhập cư, nhưng đó chỉ là một ví dụ). Chúng ta sẽ xem các giám mục công giáo sẽ phản ứng thế nào sau khi cố gắng tước quyền rước lễ của Joe Biden năm 2020-2021 vì lập trường ủng hộ sự lựa chọn của ông – trước khi bị Vatican can thiệp.
Đạo công giáo ở Hoa Kỳ tiêu biểu cho văn hóa Mỹ hiện tại. Câu hỏi quan trọng đối với tất cả người công giáo, không chỉ ở Hoa Kỳ, là đạo công giáo Mỹ có điểm gì chung với đạo công giáo được tin và được giữ ở các nơi khác. Hay chỉ là một hiện tượng được hướng dẫn bởi một chủ nghĩa bảo thủ của miền đất bị cháy không. Đây không chỉ là vấn đề của công giáo. Liên minh của Trump có nghĩa là rất ít cộng đồng tôn giáo và nhóm nhân khẩu học không bị ảnh hưởng theo một cách nào đó. Nhưng Trump và Vance đã thành công trong việc khai thác cuộc bỏ phiếu tôn giáo và công giáo theo cách buộc cộng đồng kitô giáo phải đáp trả tương ứng.
Theo bước chân đạo tin lành của những năm 1970
Một số người nói rằng một quốc gia có xu hướng phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính và bài ngoại đã rơi vào ách thống trị của chính sách mị dân. Đây là một phần sự thật, nhưng còn nhiều điều hơn thế nữa, đặc biệt với đạo công giáo. Những gì chúng ta đã chứng kiến trong những thập kỷ gần đây là sự suy sụp về mặt trí tuệ diễn ra theo dấu chân của đạo tin lành trong những năm 1970 và 1980. Đây là một phần của quá trình hậu Âu hóa tôn giáo ở Mỹ, làm cho tôn giáo ở Mỹ ngày càng ít có khả năng đương đầu với các giá trị Khai sáng, thế tục hóa và chủ nghĩa đa văn hóa. Đây là một trong những tác động của “sự giải mã văn hóa”, như tác giả Olivier Roy đã trình bày trong tác phẩm gần đây của ông.
Đạo công giáo Mỹ gần gũi với đạo tin lành, không chỉ đạo tin lành của người da trắng. Điều này thể hiện rõ trong hành vi chính trị của các cử tri gốc Latinh, cả công giáo và tin lành, những người đang rời bỏ Đảng Dân chủ bất chấp mọi tấn công dữ dội của Tổng thống Trump nhằm vào người nhập cư. “Đó là kinh tế, đồ ngu,” nhưng đó cũng là một quan điểm khác về chính trị và lãnh đạo chính trị. Nhiều đảng viên Đảng Dân chủ cho rằng, dựa trên chủng tộc, “một nước Mỹ ít da trắng hơn và đa dạng hơn” có nghĩa là một nước Mỹ tiến bộ hơn: giả định này đã bị bác bỏ dứt khoát trong các cuộc bầu cử này. Sự đa dạng về văn hóa và sắc tộc của đạo công giáo Hoa Kỳ không có nghĩa là họ tự nhiên bỏ phiếu cho đảng “công bằng, đa dạng và hòa nhập”.
Cuộc bầu cử năm 2024 đánh dấu một bước ngoặt đã được nhìn thấy từ lâu trong đạo công giáo ở Mỹ: ngày càng có ít người công giáo ở Hoa Kỳ giống Kennedy, Biden và Pelosi. Đó là sự rạn nứt thế hệ báo hiệu một sự rạn nứt sâu sắc hơn trong truyền thống của người công giáo trong nền chính trị Hoa Kỳ. Nhưng đó cũng là một sự phá vỡ văn hóa. Biden trở thành nhà lãnh đạo công giáo cuối cùng trong một Giáo hội Hoa Kỳ được hình thành từ Thế chiến II và công đồng Vatican II. Trump và Vance là những người đầu tiên của một kỷ nguyên mới, cũng trong đạo công giáo Hoa Kỳ.
Đức ông Marco Frisina, Ca trưởng của Ca đoàn giáo phận, sẽ linh hoạt buổi lễ với những thánh ca do Đức ông sáng tác cho dịp kỷ niệm này.
Hôm trước đó, thứ Sáu, ngày 08 tháng Mười Một này, sẽ có cuộc gặp gỡ đầu tiên trong một loạt “các cuộc lắng nghe nhà giáo”. Ban tổ chức muốn gợi lại những biến cố quan trọng nhất và những nhân vật trong 1.700 năm lịch sử của Đền thờ này.
Đền thờ thánh Gioan tại khu Laterano là thánh đường đầu tiên của Giám mục Roma, và cũng là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Roma. Thánh đường này được gọi là “Mater et Caput”, là Mẹ và là Đầu của tất cả các nhà thờ trên thế giới.
Đền thờ thánh Gioan ở Laterano cũng tượng trưng sự chiến thắng của Kitô giáo trên ngoại giáo: thực vậy, tại đây, lần đầu tiên, sau chiếu chỉ tha đạo của Hoàng đế Costantino ở Milano, một cộng đoàn Kitô được xuất đầu lộ diện, công khai cử hành đức tin. Đền thờ này tượng trưng cho chính Giáo hội, Giáo hội không loan truyền những lời riêng của mình, nhưng tiếp tục rao giảng Lời Chúa, trong lịch sử, qua tiếng nói và chứng tá của các thừa tác viên và các tín hữu.
Cũng vì tầm quan trọng này, nên lễ Cung hiến Đền thờ thánh Gioan ở Laterano này, vào ngày 09 tháng Mười Một, hằng năm được cử hành với bậc lễ kính (bậc hai), quan trọng hơn lễ Cung hiến Đền thờ thánh Phêrô và Phaolô, cử hành với bậc lễ nhớ (bậc ba), vào ngày 18 tháng Mười Một. Đền thờ thánh Phêrô được xây 13 năm sau Đền thờ thánh Gioan ở Laterano.
Trong mười thế kỷ, từ thứ tư tới thứ mười bốn, Đền thờ thánh Gioan ở Laterano, cũng như tòa nhà cạnh đấy là trung tâm của Giáo hội Roma, là trụ sở và là biểu tượng của Đức Giáo hoàng. Các nhà nguyện, đan viện, nhà trọ và khách sạn được thiết lập chung quanh trung tâm này, như là con tim của đời sống Giáo hội thời đó, giống như Vatican hiện nay.
Đền thờ thánh Gioan ở Laterano hiện nay dài 130 mét, ở mặt tiền có ghi dòng chữ: “Sacrosancta Lateranensis ecclesia omnium urbis et orbis ecclesiarum mater et caput”, có nghĩa là “Mẹ và Đầu của tất cả các nhà thờ ở Roma và trên thế giới.”
Ở giữa mặt tiền đền thờ, có ban công chính, các vị Giáo hoàng thường ban phép lành cho dân chúng trong dịp Năm Thánh. Cũng tại đây, Đức Hồng y Gasparri, nhân danh Đức Piô XI, ký hiệp định Laterano với Italia, thành lập nước Vatican vào năm 1929, tái lập sự độc lập pháp lý và lãnh thổ của Tòa Thánh. Từ lúc đó, vị Giáo hoàng mới long trọng nhận Đền thờ, Nhà thờ chính tòa của mình, trong tư cách là Giám mục Roma.
🌍 Từ phiên họp thứ hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra vào tháng 10 năm 2024, chúng ta đã lắng nghe những tiếng vọng của niềm vui và nỗi đau của thế giới: những khuôn mặt trẻ thơ sợ hãi, những bà mẹ rơi nước mắt, những giấc mơ tan vỡ… Hành trình hiệp hành không chỉ là lý thuyết mà là những bước chân lên đường, cùng nhau tiến về phía trước, xây dựng một Giáo hội sống động và gần gũi hơn với mọi người.
✝️ Giữa những đụng chạm của cuộc sống, Đức Kitô mời gọi chúng ta cùng nhau bước tới, lắng nghe và thực hiện sứ vụ của mình trong tình hiệp nhất. Những người tham dự Thượng Hội Đồng đã cam kết trở thành sứ giả của tính hiệp hành trong chính cộng đoàn mà họ phục vụ. Họ đã đối diện với thách thức từ việc thay đổi tâm thức đến các công việc cụ thể như đào tạo, truyền thông và đổi mới cơ cấu, nhưng vẫn không ngừng vun trồng lòng thương xót và sự cảm thông.
🤲 Hãy cùng chúng tôi lắng nghe tiếng gọi của niềm vui và hy vọng trong cuộc gặp gỡ giữa các môn đệ với Chúa Kitô Phục Sinh, để mỗi chúng ta đều góp phần vào một Giáo hội hiệp hành truyền giáo.
🌾 Truyền giáo không chỉ là giảng đạo, lại càng không phải dụ ai vào đạo! Văn kiện Chung kết của Thượng Hội Đồng là nhịp cầu kết nối trái tim chúng ta với thế giới – một thế giới đang chờ đợi những dấu chân hiệp hành, nơi Giáo hội không chỉ là lý tưởng mà còn là người bạn đồng hành giữa đời sống, cùng chia sẻ niềm vui và khổ đau của con người.
Con đường Công nghị được Ủy ban trung ương giáo dân Công giáo Đức và Hội đồng Giám mục nước này đề ra từ năm 2019 để cải tổ Giáo hội sau những phúc trình về những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trong gần 70 năm qua. Cải tổ trong bốn lãnh vực, là dân chủ hóa Giáo hội để giáo dân và phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo Giáo hội, thay đổi luật độc thân giáo sĩ và luân lý tính dục của Giáo hội. Mặc dù có sự cảnh giác của Tòa Thánh chống việc thành lập Hội đồng Công nghị (Synodal Rat), trong đó giám mục và giáo dân cùng cai quản Giáo hội, nhưng ủy ban chủ trương vẫn tiếp tục tiến hành và khóa họp tới dự kiến vào tháng Mười Hai tới đây của “Ủy ban Con đường Công nghị” (Synodal Ausschuss), hầu chuẩn bị cho việc thành lập Hội đồng Công nghị và bắt đầu hoạt động vào năm 2026.
Trong thông cáo chung, công bố hôm mùng 04 tháng Mười Một, bốn giám mục đã lên tiếng về vấn đề này là: Đức Hồng y Rainer Maria Woelki, Tổng giám mục Giáo phận Koeln, Đức cha Gregor Maria Hanke, Giám mục Giáo phận Eichstaett, Đức cha Stephan Oster, Giám mục Giáo phận Passau và Đức cha Rudolf Voderholzer, Giám mục Giáo phận Regensburg. Các vị khẳng định rằng các mục đích của Con đường Công nghị Đức và của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới ‘không đi đôi với nhau’. Vấn đề độc thân linh mục và luân lý tính dục không hề được nói tới trong Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng thế giới; tình trạng vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ cũng không có gì mới. Vấn đề quyền bính trong Giáo hội bị Đức Giáo hoàng Phanxicô tố giác là “duy giáo sĩ”, clericalismo, và đã được trả lời trong Văn kiện chung kết bằng một “dự án chung về con đường thiêng liêng của toàn Giáo hội”.
Bốn giám mục cũng phê bình Con đường Công nghị Đức về sự kiện khóa họp gần đây nhất ở thành phố Frankfurt trái ngược với điều mà Thượng Hội đồng Giám mục ở Roma thực hiện: bốn giám mục và nhiều vị khác có cảm tưởng Con đường Công nghị có cách thức hành động giống như một nghị viện chính trị, theo tiêu chuẩn đa số quyết định, mà không theo phương pháp phân định tinh thần, như Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục thúc giục thực hiện.
Trong cuộc họp báo, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã giải thích chi tiết hơn về cách Tòa thánh sẽ làm việc đối với các sự kiện ở Mễ Du.
Theo lời của Đức Hồng Y Victor Manuel Fernández, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin (DDF), trong cuộc học báo ngày 19 tháng 9 năm 2024, Tòa Thánh cho phép các thực hành sùng kính liên quan đến Đền thánh Đức Mẹ Mễ Du ở Bosnia-Herzegovina. Tuy nhiên, bất kỳ “thông điệp” trong tương lai nào đến từ những cuộc hiện ra được cho là của Đức Maria đều phải được phê duyệt trước khi công bố. Các quan sát viên cho rằng quyết định này là để giám sát địa điểm vốn đã gây tranh cãi trong suốt 40 năm qua.
Từ những cuộc được cho là hiện ra đầu tiên với sáu đứa trẻ vào năm 1981, danh tiếng của Đền thánh Đức Mẹ Mễ Du đã lan rộng khắp thế giới và nơi này cũng phải đối diện với những ý kiến trái chiều từ hàng giáo phẩm Công giáo. Ngoài những cảnh báo từ các Giám mục địa phương thuộc Giáo phận Mostar, một ủy ban điều tra được thành lập dưới thời Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng bày tỏ sự thận trọng về tính xác thực của hiện tượng này và đời sống cá nhân của những “thị nhân.”
Mặc dù các cuộc hành hương đã được Giáo hội Công giáo chính thức cho phép vào năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô không ít lần phê phán ý tưởng về Đức Maria giống như một “người đưa thư”. Một số người được cho là thị nhân từ Mễ Du nói rằng họ vẫn sẽ tiếp tục được chứng kiến các cuộc hiện ra của Đức Mẹ, thậm chí còn xảy ra hàng ngày.
Hiện nay, Tòa Thánh đã bật đèn xanh cho việc sùng kính “Nữ vương Hòa bình”, đánh giá các thông điệp của Mễ Du nhìn chung là “tích cực và mang tính xây dựng”, nhưng không khẳng định rằng đó là lời của Đức Trinh Nữ.
Tuy nhiên, DDF cũng nhấn mạnh rằng vẫn cần phải cảnh giác. Vatican không bình luận về bản chất siêu nhiên của những cuộc hiện ra được cho là của Đức Trinh Nữ Maria.
Tòa Thánh nói rằng ngay từ đầu “độc giả nên biết rằng bất cứ khi nào Ghi chú này đề cập đến “các thông điệp” (messages) từ Đức Mẹ, thì nó có nghĩa là “các thông điệp được cho là của Đức Mẹ (alleged messages)”.
Vatican cũng chỉ ra sự dè dặt đối với một số thông điệp cụ thể, kêu gọi hãy thận trọng trong việc giải thích chúng.
Cảnh giác cho tương lai
Đức Hồng Y Fernández nói trong cuộc họp báo trình bày ghi chú của Bộ: “Xác quyết không gì ngăn trở (nihil obstat) không giải quyết hay khép lại mọi vấn đề trong tương lai”. Chẳng hạn, ngài nhấn mạnh rằng Roma sẽ can thiệp “nếu có một vụ bê bối, hoặc một sự kiện công khai khiến các tín hữu bối rối”.
Trên thực tế, Bộ trưởng đã giải thích rằng các văn bản trong quá khứ mà vẫn chưa được công bố và bất kỳ văn bản nào trong tương lai cũng cần phải được “đánh giá” và phê duyệt bởi “Thanh Tra Tông tòa (apostolic visitor)” do Đức Thánh Cha bổ nhiệm vào năm 2018 – hiện là Tổng Giám mục Aldo Cavalli – trước khi công bố: “Trước khi được xem xét, các tín hữu được khuyến cáo không nên coi chúng là những bản văn hướng dẫn. […] Có thể có sai lầm trong các thông điệp mới”, ngài cho biết thêm.
Nếu Thanh Tra Tông Tòa “thấy có điều gì đáng nghi ngờ, không rõ ràng, có thể khiến các tín hữu bối rối, ngài sẽ gửi câu hỏi hoặc gọi điện cho chúng tôi và chúng tôi sẽ cố gắng trả lời […] nội trong một tuần,” Đức Hồng Y Fernández giải thích.
Thận trọng với các thị nhân
Trả lời câu hỏi của các nhà báo, Đức Hồng Y Fernández cho biết DDF đã không liên lạc với những người được cho là có thị kiến khi soạn ghi chú này. Ngài nói rằng ngài đã gửi cho họ một “bức thư ngắn” với “một vài gợi ý”, sẽ được Thanh Tra Tông tòa truyền đạt lại cho họ và nội dung đó được giữ “bí mật”.
Ngài Bộ trưởng cũng tuyên bố rằng các mối quan hệ với những thị nhân là “không bị cấm” nhưng cũng không được “khuyến khích”. Ngài giải thích rằng sự thận trọng này là chính đáng để đảm bảo sự cân bằng tâm lý cho các thị nhân, những người thường bị vây quanh bởi khách hành hương.
Đức Hồng Y Fernández lưu ý rằng nhiều chỉ trích đã nhắm vào những người được cho là thị nhân. Họ bị buộc tội nói dối hoặc làm giàu từ việc này. Nhưng ngài nhấn mạnh rằng ngay cả khi những cuộc hiện ra thực sự có nguồn gốc thiêng liêng , thì điều này cũng không đảm bảo cho “sự thánh thiện” của các thị nhân. “Họ có thể phạm tội trọng. […] Tất cả những điều này sẽ không khiến những sự tốt đẹp của Mễ Du trở nên xấu xa hay tà ác, và Nữ vương Hòa bình sẽ tiếp tục làm điều tốt. […] [Những thị nhân] cũng yếu đuối và bị tội lỗi cám dỗ như mọi người khác.”
Sáu người được cho là đã nhìn thấy thị kiến ở Mễ Du “cũng phần nào bị bỏ rơi trong một hoàn cảnh vượt quá khả năng của họ,” Đức Hồng Y Fernández thừa nhận. Ngài đề cập đến nhân vật có vấn đề là vị linh hướng đầu tiên của họ, cựu tu sĩ dòng Phanxicô Tomislav Vlasic người Croatia, người bị
Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin nhận xét rằng các thị nhân trẻ, những người có thể đã chịu ảnh hưởng từ vị linh hướng này, đã không được hưởng lợi từ việc “đồng hành thực sự”. Tuy nhiên, ngài kêu gọi không nên hạ thấp các sự kiện ở Mễ Du vì những vấn đề này.
Khoảng cách lành mạnh
Đức Hồng Y Fernández cũng đồng ý rằng Mễ Du không đặt ra “vấn đề giáo lý” như những nơi khác được cho là có sự hiện ra, nhưng luôn có nguy cơ “quá cuồng tín về thông điệp.”
Ngài nói thêm: “Ngay cả khi Đức Mẹ ban cho bạn một thông điệp, điều đó không có nghĩa là bạn là một con rối […], bạn vẫn giữ được khả năng phân định, trách nhiệm của bạn”.
Đức Hồng Y người Argentina đã từng đến thăm đền thánh và nói rằng ngài cảm thấy đây là nơi “của cầu nguyện, bình an và những khát khao thay đổi cuộc sống”, cũng loại trừ khả năng Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ công nhận tính chất siêu nhiên có thể có của hiện tượng này.
Theo các quy định mới về việc điều tra hiện tượng siêu nhiên, chỉ có Đức Giáo hoàng mới có quyền quyết định đưa ra phán quyết về vấn đề này. “Đức Giáo hoàng đã nói rõ ràng với tôi, […] ‘không, không sao (no not at all’ và ngài cho rằng việc tuyên bố ‘không gì ngăn trở’ đã là quá đủ rồi (absolutely sufficient),” ngài Bộ trưởng giải thích.
Các tu sĩ Phanxicô nổi loạn
Đức Hồng Y Fernández cũng khẳng định rằng việc công nhận lòng sùng kính tại Mễ Du không hợp pháp hóa nhóm “tu sĩ Phanxicô nổi loạn” đang sống tại đó, một cộng đồng đã có xung đột quyền lực với Giáo phận từ những năm 1970.
Tác giả: I.Media
Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Anh chị em đã tự hỏi mình đang đi đâu và tại sao lại làm những điều mình đang làm chưa?” Ngài nói tiếp: “Cần phải biết mình đang đi đâu mà không đánh mất tầm nhìn về đường chân trời kết nối con đường của mỗi người với mục đích hiện tại và cuối cùng”.
Lấy ví dụ về Thánh Phanxicô Xaviê, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến nhu cầu “trở thành những nhà truyền giáo vì tình yêu thương dành cho anh chị em mình và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa”.
Ngài thúc giục cộng đồng học thuật tránh “những giả định biến dự án của Thiên Chúa thành thứ gì đó quan liêu, cứng nhắc và thiếu sự ấm áp khi áp đặt các chương trình nghị sự và tham vọng lên trên các kế hoạch của sự quan phòng”.
Tiếp đến, Đức Thánh Cha kêu gọi đưa “trái tim” vào công tác đào tạo, cảnh báo rằng nếu không có nó, giáo dục sẽ trở thành “chủ nghĩa duy lý trí khô khan hoặc chủ nghĩa ái kỷ lệch lạc”.
Ngài kêu gọi một trường đại học có “mùi của người dân”, nơi thúc đẩy trí tưởng tượng và thể hiện tình yêu của Thiên Chúa, “Đấng luôn đi đầu trong một thế giới dường như đã đánh mất trái tim mình”.
Ngài than thở rằng “thế giới đang bốc cháy” do “sự điên rồ của chiến tranh, bao phủ mọi hy vọng bằng bóng tối của cái chết”.
Đức Thánh Cha cũng thúc giục cộng đồng học thuật “mở rộng tầm nhìn của trái tim” và tìm kiếm sự thống nhất trong sự đa dạng thông qua việc trao đổi khả năng, kêu gọi nghiên cứu sâu hơn về các truyền thống Đông phương. Ngài thúc giục tránh những ý tưởng trừu tượng nảy sinh trong các văn phòng và cổ võ “tiếp xúc với cuộc sống của người dân, biểu tượng của các nền văn hóa và tiếng kêu đau khổ của người nghèo”.
Chuyến thăm đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử của đại học Gregoriana, mới hợp nhất ba tổ chức giáo dục - Collegium Maximum, Học viện Kinh Thánh và Học viện Đông phương - theo chỉ thị của Đức Thánh Cha.
Được thành lập vào năm 1551 bởi Thánh Inhaxiô thành Loyola với tên gọi là Học viện Roma, Đại học Giáo hoàng Gregoriana hiện có 2.952 sinh viên từ 121 quốc gia đang theo học thần học, triết học, giáo luật, tâm lý học và nhân chủng học, cùng nhiều chuyên ngành khác.
Nhân dịp Giáng Sinh năm 2024, các tem thư, tập sách nhỏ, bưu thiếp và tem có dấu bưu điện đặc biệt được Vatican phát hành. Trong sự kiện này sẽ có lễ Giáng Sinh và mở Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô nhân dịp Năm Thánh 2025; Năm Thánh sẽ kết thúc một năm sau. Do đó, các yếu tố đồ họa điển hình của Lễ Giáng Sinh được đi kèm với các yếu tố đồ họa khác gắn liền với Năm Thánh, bao gồm cả logo chính thức của Năm Thánh 2025.
Tem thư thứ nhất có giá 1,25 euro, với hình thiên thần Giáng Sinh mang theo dải chữ "Gloria a Dio e Pace in terra" (Vinh danh Thiên Chúa và Bình an dưới thế), lời thiên thần hát mừng Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, lời loan báo vui mừng về vòng tay ôm giữa trời và đất. Đó là lời cầu nguyện chân thành vang lên trong những năm gần đây từ nhiều nơi trên thế giới bị tàn phá bởi bạo lực và chiến tranh.
Tem thư thứ hai có giá 1,30 euro, có hình Chúa Giêsu nằm trong máng cỏ và dòng chữ "Spes non confundit" (Hy vọng không làm thất vọng) (Rm 5,5), đề cập đến sắc chỉ công bố Năm Thánh và khẩu hiệu của Năm Thánh Những Người Hành hương của Hy vọng.
Trọng tâm được quy chiếu vào máng cỏ, một đồ vật khiêm tốn nhưng có ý nghĩa to lớn, và như Đức Thánh Cha đã nói trong bài giảng Thánh lễ ngày 24/12/2022: “để tái khám phá ý nghĩa của Lễ Giáng sinh, chúng ta phải nhìn vào đó. Nhưng tại sao máng cỏ lại quan trọng đến thế? Bởi vì đó là dấu hiệu, không phải ngẫu nhiên, mà Chúa Kitô bước vào thế giới. Đó là mặc khải qua đó Người trình bày cách Thiên Chúa sinh ra trong lịch sử để làm cho lịch sử được tái sinh. Máng cỏ muốn nói với chúng ta ít nhất ba điều: sự gần gũi, sự nghèo khó và sự cụ thể”. Giống như Lễ Giáng Sinh, Năm Thánh cũng sẽ cống hiến cho chúng ta một cơ hội cụ thể để đổi mới đức tin và tái khám phá, nơi Chúa Kitô, niềm hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng.
Các bưu thiếp được phát hành còn có chủ đề các chuyến tông du của Đức Thánh Cha trong năm 2023 (CHDC Congo và Nam Suđan, Hungary, Lisbon, Mông Cổ và Marseille), và một số ngày kỷ niệm khác.
Đầu tiên, quan tâm đến tình huynh đệ giữa các Giáo hội, Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự cần thiết hỗ trợ lẫn nhau trong các cộng đoàn Giáo hội và lưu ý đôi khi các thế lực chính trị và kinh tế áp đặt các giá trị như lòng tham, ích kỷ, thờ ơ và bóc lột; những điều này bóp méo các quan hệ giữa các quốc gia và dân tộc.
Tuy nhiên, ngài bày tỏ hy vọng mối quan hệ giữa Giáo hội Pháp và các giáo hội châu Phi có thể được truyền cảm hứng từ “một tinh thần trong Chúa Kitô”, phản ánh sự hiệp nhất của các cộng đoàn Kitô giáo.
Sứ điệp viết: “Cầu mong tình bác ái và sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các Giáo hội địa phương của anh chị em không chỉ tạo điều kiện cho việc canh tân truyền giáo của các cộng đoàn, nhưng còn góp phần xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn qua chứng tá của họ”.
Đức Thánh Cha khen ngợi các cuộc thảo luận liên quan đến các vấn đề loan báo Tin Mừng, như sự hiện diện của các linh mục trong các vùng lãnh thổ, các chủng viện, việc dạy giáo lý Công giáo, tổ chức các giáo phận. Ngài mời gọi các giám mục nỗ lực trong sự phong phú và kinh nghiệm của quá khứ, cũng như sẵn sàng đón nhận, không lo sợ những dấu chỉ đến từ Thánh Thần để đối diện với những thách đố và thấy trước những biến đổi và cải cách mà Thánh Thần đề nghị.
Sứ điệp còn nhấn mạnh đến niềm hy vọng không lay chuyển: chủ đề của Năm Thánh sắp tới. Và đối với Giáo hội tại Pháp, việc mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà là một dấu hiệu ngôn sứ. Đức Thánh Cha khẳng định rằng như tòa nhà tuyệt vời, được phục hồi này, được củng cố bởi đức tin, tự hào về lịch sử của mình và dấn thân với vai trò không thể thay thế trong sự phát triển của quốc gia, Giáo hội Pháp tiếp tục vui mừng loan báo Tin Mừng cứu độ.
Đề cập đến thông điệp về Thánh Tâm Chúa Giêsu “Dilexit Nos”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự cần thiết “tái khám phá hoặc khám phá” tình yêu Thánh Tâm, được ngài mô tả là “là chìa khóa duy nhất cho tương lai”.
Trích dẫn từ thông điệp, ngài nói “Cạnh sườn bị thương tích của Chúa Kitô tiếp tục tuôn trào dòng suối không bao giờ cạn, không bao giờ mất đi, nhưng luôn cống hiến hết lần này đến lần khác cho tất cả những ai muốn yêu như Người đã yêu. Vì chỉ có tình yêu của Người mới có thể mang lại một nhân loại mới”. Và theo ngài, các thánh người Pháp được công nhận vì vai trò quan trọng của các vị trong việc phát triển và đào sâu lòng sùng kính này.
Nhờ các tình nguyện viên và các Linh mục, ít nhất 2 Giáo xứ ở Tây Ban Nha bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cơn bão đã có thể cử hành Thánh lễ Chúa nhật giữa bùn đất và đống đổ nát.
Tổng Giáo phận Valencia chia sẻ rằng, nhờ sự cộng tác của các Giáo xứ và các tình nguyện viên, Giáo xứ Đức Mẹ Ban Ơn (La Torre) và Giáo xứ Đức Maria Mẹ Hội Thánh (Catarroja) đã có thể cử hành Thánh lễ Chúa nhật, ngay cả trong bối cảnh hậu quả thảm khốc của trận lũ lụt tấn công Valencia, Tây Ban Nha, vào ngày 29 tháng 10 năm 2024.
Cha José Vicente Alberola, Cha sở của Giáo xứ Đức Maria Mẹ Hội Thánh, bình luận rằng “cả hai Giáo xứ đều có thể cử hành Thánh lễ Chúa Nhật, trong đó có sự tham dự của các tình nguyện viên, nhờ lễ phục được mang đến từ các Giáo xứ khác” vì mọi thứ trong nhà thờ của họ đều đã mất hết. Khi công việc dọn dẹp nhà thờ vẫn đang được tiến hành, Cha Alberola đã cử hành Thánh lễ bên ngoài, nơi vẫn còn bùn đất và những đống mảnh vỡ.
Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần
Cả hai Giáo xứ đều trở thành trung tâm hỗ trợ về vật chất và tinh thần. Hội đồng thành phố và lực lượng bảo vệ khẩn cấp quốc gia, cũng như các tình nguyện viên (phần lớn là thanh niên), đã tham gia vào công tác vệ sinh và hậu cần và đã phối hợp các hoạt động cần thiết để cung cấp mọi sự hỗ trợ có thể.
Trước khi tiếp nhận và phối hợp việc chuyển giao thực phẩm và nhu yếu phẩm, cần phải vệ sinh các tòa nhà, việc này được các Giáo xứ khác nhau cùng phối hợp thực hiện.
“Khi mọi người đến xin thức ăn, họ cũng nhân cơ hội này để cầu nguyện”, vị Linh mục Chánh xứ giải thích trong thông tin do Tổng Giáo phận công bố.
Tại Giáo xứ Đức Mẹ Ban Ơn, các tín hữ đã tự tổ chức cùng với các thành viên của nhóm Emmaus và Effetá và các tình nguyện viên khác đi bộ từ Valencia.
Ngoài những tình nguyện viên này, còn có các doanh nghiệp và những người sống lân cận đã tự tổ chức chuẩn bị và phân phát thực phẩm cho tất cả các tình nguyện viên đến giúp đỡ, không chỉ ở các Giáo xứ mà còn ở các gia đình xung quanh.
Sự hỗ trợ liên tục
Mặc dù nhiều Giáo xứ đang nỗ lực đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nhất, chẳng hạn như thuốc men cho các bệnh nhân và chăm sóc đặc biệt cho người cao tuổi, có những gia đình đã mất hết tất cả mọi thứ.
Vì lý do này, Cha Francisco Furió, Cha sở của Giáo xứ Aldaia, đã nhắc nhở chúng ta rằng sẽ cần sự giúp đỡ trong một thời gian dài sắp tới. Do đó, ngài kêu gọi sự liên đới và hợp tác trong khi những người bị ảnh hưởng phải thay thế đồ đạc cơ bản và nguồn lao động của họ.
“Chúng tôi trân trọng những dấu chỉ của sự liên đới của những người đang cung cấp cho chúng tôi thực phẩm và quần áo, giờ đây rất cần thiết. Nhưng chúng ta phải nhận thức rằng vấn đề sẽ xảy ra khi những người đã mất tất cả phải mua những thứ thiết yếu cho cuộc sống”.
Tượng Chúa Giêsu lấm lem đầy bùn đất
Trong bối cảnh này, bức tượng Chúa Giêsu đã trở thành biểu tượng mạnh mẽ cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong quá trình phục hồi sau lũ lụt.
“Bức tượng Chúa Giêsu, với khuôn mặt đầy bùn, khiến chúng ta nhớ đến hơn một trăm người đã thiệt mạng ở Paiporta, và con số người mất tích cùng gia đình của họ vẫn chưa thể thống kê được”, Cha Gustavo Riveiro, Linh mục Chánh xứ Giáo xứ San Jorge, cho biết.
Bức tượng chịu nạn phủ đầy bùn đất giống như lớp bùn đất đã chôn vùi hàng trăm nạn nhân của thảm họa thiên nhiên chưa từng có này ở Tây Ban Nha.
Tác phẩm điêu khắc này đã tự nhiên trở thành biểu tượng của tất cả những sinh mạng bị cuốn trôi bởi dòng nước lũ điên cuồng. Chính Cha Riveiro đã kéo bức tượng ra khỏi đống bùn. Paiporta, nơi Giáo xứ của ngài tọa lạc, là một trong những thị trấn bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi trận lũ tàn phá cộng đồng Valencia vào đêm ngày 29 tháng 10. Đây là nơi có nhiều người thiệt mạng nhất.
Bức ảnh được chụp bởi Aguilera Juan, người đã đăng nó lên X bên cạnh một câu trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, gợi nhớ rất nhiều đến thảm kịch này: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).
Theo số liệu mới nhất, ít nhất 217 người đã thiệt mạng trong trận lũ kinh hoàng này. Hiện tại, bờ biển Barcelona đang trong tình trạng báo động đỏ vào thứ Hai, ngày 4 tháng 11, do mưa lớn, chính quyền lo ngại rằng số người thiệt mạng vốn đã cao sẽ tiếp tục tăng
Đại diện của trường Đại học nói: “Chúng tôi tự hào là trường đại học Công giáo Luân Đôn, và sẽ ra mắt trường y khoa đầu tiên tại một trường đại học Công giáo ở Vương quốc Anh. Đây là một sáng kiến thú vị và là ưu tiên chiến lược của trường đại học”.
Người này cho biết thêm: “Sứ vụ Công giáo của chúng tôi là một phần không thể thiếu trong các giá trị của trường, và chúng tôi sẽ đảm bảo rằng sinh viên của chúng tôi có thể phát triển với sự hỗ trợ tốt nhất có thể, phù hợp với một trường đại học Công giáo. Chúng tôi cũng sẽ giúp sinh viên tốt nghiệp trở nên có nhận thức về mặt đạo đức trong quá trình hành nghề”.
Tin về các kế hoạch của trường đại học được đưa ra khi tình trạng an tử và phá thai ở Vương quốc Anh tiếp tục gia tăng, và khi quốc gia phải đối diện với nhu cầu cấp thiết cần nhiều bác sĩ và chuyên gia y tế. Vì thế, trường đại học mong muốn đóng góp cho tương lai của dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại Anh bằng cách giúp cung cấp cho các thế hệ bác sĩ tiếp theo tận tâm, toàn diện, những người ưu tiên sức khỏe của bệnh nhân và sử dụng công nghệ y tế mới nhất, được hỗ trợ bởi sự hiểu biết toàn diện về các cuộc tranh luận về đạo đức sinh học tác động đến cộng đồng y tế.
Trong một thông cáo báo chí về trường y mới, đại học cho biết họ đã nhận được sự đảm bảo rằng trường “đang đi đúng hướng và đang đạt được tiến triển tốt hướng tới các tiêu chuẩn bắt buộc đối với giáo dục y khoa”.
Theo thông cáo, trường hiện ở trong top 10 quốc gia về trải nghiệm của sinh viên và top 5 về chất lượng giảng dạy.
Phó viện trưởng của trường Saint Mary, giáo sư Anthony McClaran, cho biết trong thông báo: “Trường không chỉ đóng góp vào nhu cầu phát triển lực lượng lao động tại Vương quốc Anh đối với nhiều bác sĩ và chuyên gia y tế, nhưng còn đào tạo các chuyên gia toàn cầu có khả năng làm việc ở mọi nơi trên thế giới”.
Giáo sư nói: “Phương pháp tiếp cận của chúng tôi nhằm phát triển con người toàn diện trong suốt thời gian sinh viên theo học ở trung tâm. Điều này sẽ giúp các bác sĩ tương lai khi rời khỏi trường đại học với các kỹ năng chuyên môn và cá nhân cần thiết để cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện, tận tâm và lấy bệnh nhân làm trung tâm”.
Đức Hồng Y viết: “Đối với chúng ta, các Kitô hữu, hoà bình không chỉ là một trong những khía cạnh của đời sống Giáo hội, nhưng đúng hơn hoà bình và việc theo đuổi hoà bình là điều thiết yếu đối với căn tính và sứ vụ của Giáo hội. Trên hết, trước khi trở thành hành động mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta, hoà bình nói với chúng ta về căn tính của Chúa. Sứ vụ của Giáo hội là loan báo Thiên Chúa, và khuôn mặt của Chúa trên hết là khuôn mặt của hoà bình”.
Về sứ vụ của Giáo hội tại Thánh Địa, Đức Hồng Y đề cập đến hai hình ảnh trong sách Khải Huyền: lều và Tân Nương. Theo một nghĩa nào đó, đây là căn tính của Giêrusalem. Ngài nhấn mạnh: “Giêrusalem từ trời xuống là thành nơi Thiên Chúa hiện diện, được tượng trưng bằng căn lều, và có sự gần gũi mật thiết với Đấng Tạo Hoá, được miêu tả là Tân Nương”.
Theo Đức Thượng Phụ, điều này cho chúng ta biết đôi điều về cuộc sống ở Giêrusalem cần phải như thế nào. Thành Giêrusalem, Giáo hội Giêrusalem, phải là nơi mà sự hiện diện của Chúa được nhìn thấy rõ ràng, và sự gần gũi của Chúa thể hiện rõ trong hành động của chúng ta. Vì thế, cầu nguyện cho hòa bình ở Giêrusalem cũng là cầu nguyện cho hòa bình giữa mọi quốc gia. Vì ở Giêrusalem, trái tim của mọi quốc gia thổn thức.
Đức Hồng Y nhắc lại tiếng gọi của người dân ở Thánh Địa là làm chứng cho một cuộc sống gần gũi với Chúa và mang lại sự sống cho những người khác nhờ tình yêu Chúa. Ngài kết luận: “Chúng ta cầu nguyện cho điều này và cố gắng trở thành một ví dụ nhỏ về điều đó. Tôi ý thức giới hạn của mình, nhưng chúng ta phải luôn nhớ chứng tá của chúng ta là chứng tá của cư dân Giêrusalem".
La Maison des Sœurs missionnaires a été saccagée puis incendiée par des hommes d'un des nombreux gangs qui règnent sur Port-au-Prince
Tối ngày 26 tháng Mười vừa qua, nhóm võ trang do tên cầm đầu là Jimmy Chérizier chỉ huy, đã phá tường và đột nhập tu viện của các nữ tu Thừa sai bác ái, cướp phá tu viện và bệnh xá, lấy các ghế dài, giường và vật dụng y khoa, trước khi nổi lửa thiêu rụi. Một số vật dụng đó được bán chợ đen sau đó, ở Port-au-Prince.
Không có nữ tu nào bị thương. Hồi cuối tháng Chín vừa qua, cảnh sát đã kêu gọi các nữ tu rời bỏ khu phố Bas Delmas và đóng cửa tu viện, vì cuộc xung đột giữa các băng đảng võ trang trở nên nguy hiểm đối với sinh mạng của các chị.
Các nữ tu Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đến hoạt động tại khu vực này từ 47 năm nay (1977), tại trung tâm do chính Mẹ Têrêsa khánh thành sau đó, vào năm 1979. Trong các năm qua, các chị đón nhận khoảng 1.500 bệnh nhân mỗi năm tại bệnh xá và săn sóc miễn phí cho họ. Gần 30.000 bệnh nhân cũng được khám bệnh miễn phí.
Đây là lần đầu tiên các nữ tu Thừa sai bác ái bị tấn công tại Haiti. Cho đến nay cả các băng đảng bất lương cũng tôn trọng sứ vụ thiết yếu của các chị đối với dân chúng.
Toàn khu vực Delmas ở Port-au Prince được coi là “sào huyệt” của Jimmy Chérizier, quen gọi là “Barbecue”, một cựu cảnh sát viên, cầm đầu các băng đảng bất lương đang hoành hành tại Haiti. Tên này bị cáo là thủ phạm những vụ tàn sát trong các khu xóm nghèo ở Port-au-Prince, và hiện nay bị coi là kẻ hùng mạnh và đáng sợ nhất nước. Ông ta đã bác bỏ kế hoạch của Mỹ nhắm chấm dứt tình trạng hỗn loạn tại Haiti và quả quyết là muốn giải thoát đất nước khỏi “những chính trị gia truyền thống và những tên đầu sỏ tham nhũng tại đất nước này”.
Haiti tiếp tục ở trong tình trạng an ninh rất bấp bênh mặc dù đoàn quân quốc tế do Liên Hiệp Quốc tổ chức (MMAS) và do 700 binh sĩ Kenya, bên Phi châu đảm trách. Các quốc lộ ở Haiti tiếp tục do các băng đảng võ trang chiếm đóng và kiểm soát phần lớn thủ đô.
Haiti là nước nghèo nhất ở tây bán cầu và từ lâu phải chịu nạn bạo lực do các băng đảng bất lương. Các nhóm này bị cáo về nhiều tội: giết người, hãm hiếp, cướp bóc và bắt cóc người để đòi tiền chuộc mạng.
Hơn 700.000 người, trong đó một nửa là các trẻ em, đã phải di tản vì bạo lực băng đảng. Từ tháng Sáu năm nay, con số những vụ bạo lực gia tăng gần 25%, theo tin của Tổ chức quốc tế về di dân, có trụ sở tại Genève, Thụy Sĩ.
Vụ bắt cóc xảy ra, hôm mùng 05 tháng Mười Một vừa qua, trong lúc cha trở về giáo xứ. Theo thông cáo của Giáo phận Okigwe, cha Azukuike thụ phong linh mục cách đây 10 năm, ngày 27 tháng Chín năm 2014.
Ngoài ra, cha Thomas Oyode Giám đốc Tiểu chủng viện Agenegabole, thuộc bang Edo, ở miền nam Nigeria, bị bắt cóc ngày 27 tháng Mười mới đây. Cha bị bắt cóc vào lúc khoảng 7 giờ tối, trong lúc nguyện Kinh Chiều và chầu Thánh Thể ở nhà nguyện. Một số người võ trang đã tấn công và bắt cha, rồi dẫn vào rừng. Cha phó giám đốc cùng với các chủng sinh và nhân viên Tiểu chủng viện bình an và tạm thời được di chuyển đến nơi an toàn, vì tình hình địa phương vẫn còn bị coi là bất an.
Giữa những vụ tai tiếng, lạm dụng và tham nhũng, ngày nay Giáo hội như muốn cố gắng trút bỏ hình ảnh đen tối. Tuy nhiên, Giáo hội có lý do vững vàng để hy vọng và để tự hào về lịch sử của mình. Việc thành lập các bệnh viện, các trường đại học, các tiến bộ trong khoa học… Qua nhiều thế kỷ, Giáo hội đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của xã hội ngày nay. Tiến sĩ lịch sử Christophe Dickès quả quyết: “Lịch sử Giáo hội cho thấy, không có lãnh vực nào mà Giáo hội không phát huy ảnh hưởng của mình.” Ông là tác giả quyển sách “Những gì thế giới nợ Giáo hội” (Ce que le monde doit à l’Église). Thoạt nhìn chủ đề có vẻ quá tham vọng, khoa trương hay lạc lõng để có thể là chủ đề của một quyển sách. Trên thực tế, từ nhiều năm nay, Giáo hội bị nhận chìm trong các vụ tai tiếng, những lời chỉ trích chống Giáo hội vang lên tứ phía. Nhưng… sự đóng góp của Giáo hội cho xã hội rất đáng kể trong nhiều lãnh vực: giáo dục, khoa học, y học, nghệ thuật… Giáo hội đã định hình các xã hội như chúng ta biết ngày nay. Christophe Dickès, tiến sĩ lịch sử, chuyên gia về lịch sử công giáo thẳng thắn lên tiếng: “Trong nhiều năm, tôi rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta tiếp tục nói về những trang đen tối của lịch sử Giáo hội mà không đề cập đến sự đóng góp đáng kể và những gì thế giới nợ Giáo hội. Với tôi, khi Giáo hội Tây phương bị mắc kẹt trong cuộc khủng hoảng không bao giờ kết, việc quan trọng là phải nhớ lại những gì Giáo hội đã làm tốt trong lịch sử của mình. Không phải chỉ vì hiếu kỳ để chứng tỏ Giáo hội có cơ sở để hy vọng, triết gia Cicero ở thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, bậc thầy về cuộc sống và sự thật đã nói: ‘Quá khứ soi sáng hiện tại để hình dung rõ hơn về tương lai’”.
Vì sao lịch sử Giáo hội không được báo chí quan tâm?
Tiến sĩ Christophe Dickès: Trên hết, có sự thiếu hiểu biết hoặc thậm chí thiếu văn hóa lịch sử ảnh hưởng đến cả những người có thẩm quyền cao nhất của Giáo hội. Điều này đã được ông Andrea Riccardi (chính trị gia Ý, đồng sáng lập Cộng đồng Sant’Egidio) nhấn mạnh trong tác phẩm Giáo hội cháy. Sự thiếu hiểu biết về lịch sử dẫn đến sự hiểu biết nghèo nàn về thực tế, đặc biệt với cuộc khủng hoảng Giáo hội đang trải qua ngày nay. Hơn nữa, thật kỳ lạ, Giáo hội đã áp dụng những lời chỉ trích theo đạo tin lành và thậm chí phản giáo sĩ đối với lịch sử của chính mình trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên ăn năn, dù hợp pháp đến đâu cũng không được làm lu mờ thiện ích lịch sử của chính mình. Năm 2000 Đức Gioan Phaolô II đã hiểu rất rõ điều này: một mặt nhìn nhận những lỗi lầm của người công giáo trong quá khứ, nhưng ngài không rơi vào những kế hoạch đơn giản hóa hoặc theo phái phân biệt thiện ác manikêô. Ngài khuyến khích nghiên cứu lịch sử. Là người Ba Lan, ngài gắn bó sâu sắc với danh tính của mình, ngài hiểu đất nước của ngài mắc nợ Giáo hội những gì. Tuy nhiên, ăn năn đã có tác dụng lớn lao trên điều ác đã làm, nhưng lại không xét đến điều tốt Giáo hội đã mang lại.
Giáo hội đã cấu trúc các xã hội như chúng ta biết ngày nay như thế nào?
Lịch sử của Giáo hội cho thấy không có lãnh vực nào mà Giáo hội không có ảnh hưởng. Từ nhận thức về thời gian đến các công việc chăm sóc tại bệnh viện, tại các cơ sở từ thiện; từ việc tổ chức Nhà nước hiện đại và luật pháp quốc tế thông qua vai trò trí tuệ hoặc đơn giản qua giáo dục; cả ở lãnh vực khoa học hay vị trí của phụ nữ trong xã hội… ảnh hưởng của Giáo hội rất đáng kể mà chúng ta không thực sự biết. Giáo hội đã vun trồng trên mọi lãnh vực của xã hội. Và rõ ràng nhất là vai trò của Giáo hội trong nghệ thuật. Tôi có thể nói, đó là điều dễ thấy nhất nhưng không thể giản lược Giáo hội chỉ chừng đó.
Giáo hội thường bị chỉ trích vì phản đối khoa học, nhưng giáo sư nói ngược lại. Những đóng góp và hỗ trợ của Giáo hội cho khoa học là gì?
Mọi người đều biết vụ Galilêô nổi tiếng: năm 1633, tòa án dị giáo đã kết án nhà khoa học Galilê khi ông nói Trái đất quay chung quanh mặt trời. Galilêô là cái cây che khuất rừng khoa học kitô giáo. Hơn nữa, Copernicus, Galilêô, Descartes và nhiều người khác đều là những người được đào tạo trong môi trường kitô giáo. Chúng tôi rất ấn tượng trước số lượng người trong Giáo hội đã nổi bật nhờ khoa học của họ, việc này đã có từ thời Trung cổ với sự xuất hiện của các trường đại học: Tôi đưa ra một danh sách không thể đầy đủ trong quyển sách của tôi.
Thậm chí còn tốt hơn: cách chúng ta nghĩ về khoa học liên kết mật thiết với kitô giáo. Thật vậy, sách Khôn Ngoan thưa với Thiên Chúa “Ngài đã quy định mọi sự bằng thước đo, số lượng và trọng lượng” (Kn 11,20). Vì thiên nhiên là tạo vật thiêng liêng, nên con người của Giáo hội đã tìm cách hiểu và biết những bí mật thiên nhiên. Do đó, kitô giáo đặt ra những trụ cột của trí tuệ khoa học: đặt ra sự nghi ngờ dẫn đến nghiên cứu; sự cần thiết phải chứng minh những gì chúng ta đang nói; ý tưởng cho rằng kiến thức là giải phóng; cuối cùng là hương vị của sự rõ ràng và trật tự. Vì thế Oppenheimer có câu nói nổi tiếng: “Kitô giáo là cần thiết để khai sinh ra khoa học hiện đại”. Thật sai lầm, xã hội đương đại của chúng ta phản đối khoa học và đức tin. Chắc chắn, mối liên kết giữa Giáo hội và khoa học đã bị đứt quãng bởi những do dự, căng thẳng và đôi khi là khủng hoảng. Tuy nhiên, ý tưởng về một Giáo hội chống lại khoa học là một trong những huyền thoại dai dẳng nhất trong nhận thức chúng ta.
Chăm sóc người anh em là một trong những trụ cột của kitô giáo. Giáo hội đã nuôi dưỡng kỷ luật này như thế nào?
Vào nửa sau của thế kỷ thứ 4, thời điểm chứng kiến sự chuyển đổi Đế chế la-mã sang kitô giáo, cái mà chúng ta gọi là vương cung thánh đường xuất hiện, được đặt theo tên của giám mục Basil của Caesarea (329-379). Giám mục đã thành lập các bệnh viện và các cơ sở trợ giúp: bệnh viện, nhà hưu dưỡng, viện mồ côi, nơi tạm trú cho người nước ngoài, v.v. Dưới thời Đế quốc, chăm sóc chỉ dành cho những người có đặc quyền, kitô giáo đã thay đổi mô hình. Giáo hội không chỉ chăm sóc người nghèo, người bệnh tật mà còn đòi hỏi Nhà Nước phải tham gia vào công việc này. Vì Đế quốc đã theo đạo nên giờ đây Nhà Nước có nghĩa vụ hỗ trợ về mặt đạo đức. Đó là cuộc cách mạng lương tâm mà ở phương Tây đã phát triển với sự xuất hiện của Hôtel-Dieu gắn liền với Nhà thờ Chính tòa. Giáo hội đã thực hiện điều mà dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu đã dạy: giúp đỡ người khác, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hay quốc gia.
Giáo sư dành một chương để nói về mối liên hệ giữa Giáo hội và chính trị. Xin giáo sư nói thêm về chủ nghĩa thế tục. Ở đây một lần nữa chúng ta có xu hướng chống lại Giáo hội và chủ nghĩa thế tục.
Về mặt lịch sử, chính Giáo hội thiết lập sự phân biệt giữa Giáo hội và Nhà Nước, giữa quyền lực tinh thần và quyền lực thế tục. Sự phân biệt này dựa trên câu nói nổi tiếng của Chúa Giêsu nói người Pharisêu: “Của Xêda trả lại cho Xêda; của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Vào cuối thế kỷ thứ 5, Gelasius là giáo hoàng đầu tiên đưa ra giả thuyết về mối quan hệ giữa hai bên. Ngài làm như vậy theo truyền thống của Thánh Ambrose thành Milan (thế kỷ thứ 4). Chắc chắn, lịch sử giữa Nhà Nước và Giáo hội sẽ không dễ dàng, nhưng chính Kitô giáo, bằng cách tạo ra sự khác biệt này, đã làm cho xã hội chúng ta trở nên khác biệt. Về vấn đề này, sử gia người Pháp René Rémond lưu ý: “Bản đồ của các quốc gia nơi nguyên tắc chủ nghĩa thế tục được công nhận và ít nhiều được tôn trọng trên thực tế gần như trùng khớp với bản đồ của các quốc gia thấm nhuần kitô giáo.”
Chúng ta thường có hình ảnh về một Giáo hội ra lệnh cho hành vi mà không thực sự dành chỗ cho lương tâm. Ngược lại, có phải giáo sư đang ám chỉ lương tâm rất thân thiết của xã hội chúng ta ngày nay phải chịu ơn Giáo hội rất nhiều?
Vấn đề lương tâm của mỗi người gắn liền với sự phát triển của việc xưng tội cá nhân có từ Công đồng Lateran IV năm 1215. Đây là cuộc cách mạng thực sự vì, đứng trước lỗi lầm, Giáo hội đã không còn thiết lập các thang bậc ăn năn nhưng quan trọng là ý chí ăn năn của người phạm tội. Ở đây chúng ta ở rất xa hình ảnh thường gắn liền với Giáo hội: hình ảnh của một thể chế không thể thay đổi, bị lên án bằng mọi giá. Nói cách khác, Giáo hội yêu cầu các cha giải tội phải tính đến hoàn cảnh đặc biệt của mỗi người: điều mà chúng ta gọi theo thuật ngữ pháp lý là nố lương tâm, nghĩa là tùy từng trường hợp. Cuộc cách mạng này cũng báo trước một hình thức chủ nghĩa cá nhân, theo thời gian, phát triển nhờ những hình thức tâm linh mới như lòng đạo đức hiện đại. Từ nay giáo dân qua việc giữ đạo cá nhân, có thể bảo đảm sự cứu rỗi của họ ở bên ngoài các tu viện. Thánh I-Nhã là ví dụ điển hình nhất về những thực hành cá nhân mới này. Tất cả những điều này làm cho lương tâm của mỗi người là nơi tôn nghiêm và cho phép, trong một số trường hợp cụ thể, không tuân theo chính quyền: mọi phản kháng của người công giáo trong Thế chiến thứ hai là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài về lương tâm, từ thời trung cổ đến thời hiện đại.
Liệu Giáo hội ngày nay có còn để lại dấu ấn tích cực trong Lịch sử không?
Có, tôi nghĩ có, nhưng Giáo hội phải muốn. Chúng ta không thể yêu người khác nếu chúng ta không yêu chính mình, nếu chúng ta không cảm thấy ít nhất một chút tự hào về những gì đã đạt được trong quá khứ. Vì thế Giáo hội phải có khả năng dựa vào lịch sử của mình để xây dựng tương lai, nếu không, Giáo hội sẽ bị kết án là một hình thức bất động. Nói cách khác, không kiêu hãnh nhưng cũng không mặc cảm, Giáo hội có thể và cũng phải tự hào về lịch sử của mình.
Ngày tận thế: Bí ẩn chỉ có Chúa Cha biết
Câu hỏi về ngày tận thế thường gợi lên sự tò mò, lo lắng trong lòng mỗi người, nhất là khi người ta đối diện với sự bất định và lo ngại về tương lai. Câu hỏi đặt ra: “Khi nào đến ngày tận thế?” không chỉ là thắc mắc của các nhà thần học mà còn là trăn trở của mọi tín hữu. Tin mừng thường niên cuối cùng 33 hôm nay, Chúa Giêsu cũng tiết lộ một chút về ngày cánh chung này. Thánh Kinh cho viết: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.” (Mc 13,32).
Những lời trên của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng ngày cánh chung nằm trong kế hoạch và sự quan phòng của Thiên Chúa. Như vậy, thay vì lo sợ và đoán xét, chúng ta được mời gọi phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa và sống một đời sống đạo đức ngay trong hiện tại.
Trong dòng lịch sử, con người không ít lần đặt ra những giả thuyết cho ngày tàn của vũ trụ: từ khả năng chiến tranh hạt nhân, dịch bệnh toàn cầu, cho tới các va chạm thiên thạch. Thế nhưng, Giáo hội không nhìn nhận ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai như một “Ngày thịnh nộ” hay đe dọa, mà là ngày vui mừng. Bởi Chúa đến với con người trong vinh quang hạnh phúc. Ngôn ngữ Tin mừng gọi là ngày “Con Người quang lâm”.
Thời gian tận thế được Chúa Giêsu mô tả bằng một khoảng thời gian: “Trong những ngày đó”. Theo lối nhìn của nhà thần học Teilhard de Chardin, Thiên Chúa là điểm khởi đầu và cũng là đích đến của thế giới. Ngài là Anpha và Ômêga. Thánh Gioan đã ghi nhận rằng: “Người là đầu và là cuối, là khởi nguyên và là tận cùng” (Kh 21,6).
Thực ra Chúa Giêsu không hù dọa con người với những cảnh tượng hãi hùng. Thay vào đó, Lời Chúa khẳng định rằng cuộc sống của chúng ta không phải là chuỗi thời gian trống rỗng mà là một hành trình dẫn tới Chúa Kitô, Đấng ban sự sống vĩnh cửu. Bằng niềm tin vào Chúa Giêsu là sự sống, chúng ta được mời gọi đón nhận tất cả với lòng tín thác và hy vọng.
Dù khoa học hay lý thuyết nhân loại đưa ra dự đoán về tận thế, nhưng chỉ Thiên Chúa mới quyết định số phận của vũ trụ. Thay vì lo lắng cho ngày kết thúc, chúng ta nên tập trung vào lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em đừng sợ hãi… Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống” (Ga 11,25-26). Nhờ đó, chúng ta được thôi thúc sống với tâm thế của những người sẵn sàng cho Nước Trời ngay bây giờ. “Anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi.” (Mt 13,29).
Vinh quang hay sợ hãi?
Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI khuyến khích chúng ta nhìn vào ngày Chúa quang lâm như một thời điểm vinh quang, niềm vui cho tín hữu. Đó là ngày Chúa đến trong quyền năng để thiết lập trời mới, đất mới. Lời Kinh Thánh an ủi chúng ta: “Bấy giờ, Con Người sẽ ngự trong đám mây mà đến, đầy quyền năng và vinh quang” (Mc 13,26). Nếu ước ao gặp Thiên Chúa mỗi ngày, thì chúng ta không thể sợ giây phút huy hoàng ấy. “Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.” (Mc 13,27)
Những hình ảnh này nhắc nhở chúng ta rằng ngày Chúa đến không phải là lời cảnh báo để làm chúng ta sợ hãi, nhưng là sự khích lệ để chúng ta sẵn sàng đón nhận Chúa trong yêu thương và tin tưởng. Đó là ngày mà Thiên Chúa sẽ lau sạch mọi nước mắt và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Bằng trái tim khao khát, chúng ta cùng nhau cầu nguyện: “Maranatha, Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Kh 22,20). Như vậy, ngày tận thế không phải là lúc khiếp sợ, mà là giây phút hạnh phúc khi được trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa.
Sống với niềm tin
Dù biết rằng cuộc đời có ngày kết thúc, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1,7). Lời này mời gọi chúng ta chú trọng vào hiện tại, cống hiến và sẵn sàng cho sự trở lại của Chúa bất cứ lúc nào. Thay vì bận tâm về tương lai mơ hồ, chúng ta được mời gọi dấn thân sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Chính cuộc sống yêu thương, tha thứ và hy sinh trong đời sống hằng ngày là hành trang cần thiết để đón Chúa khi Ngài đến.
Với tâm thế đón chờ ngày Chúa đến, chúng ta hãy để trái tim tràn đầy niềm hy vọng và tin tưởng rằng dù cuộc đời này qua đi, Thiên Chúa vẫn hiện diện và bảo vệ chúng ta. Chẳng phải Chúa Giêsu thường khích lệ mỗi người, khi nói: “Ta đây, đừng sợ!” (Mc 6,50). Hãy nhìn về tương lai không phải bằng nỗi lo sợ, mà bằng ánh mắt vui mừng khi biết rằng Thiên Chúa sẽ “lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21,4). Đây là khung cảnh và thời gian của trời mới đất mới, ngày vinh quang của Thiên Chúa và của mỗi người chúng ta nữa. Ngày này chỉ có Thiên Chúa Cha biết.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào sự quan phòng của Ngài. Từ đó chúng con sống mỗi ngày trong niềm vui, không lo sợ trước những điều chưa biết của tương lai. Xin hãy đến và củng cố niềm tin của chúng con. Chúng con luôn sẵn sàng đón nhận Ngài trong bình an và hân hoan, với trái tim tràn đầy hy vọng vào ngày vinh quang của Chúa. Amen.
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.
Đức cha Nguyễn Xuân Thinh năm nay 51 tuổi, sinh ngày 03 tháng Giêng năm 1973, tại Sài Gòn, là người con thứ mười một trong gia đình gồm mười ba anh chị em. Đức cha di cư sang Australia năm 13 tuổi, theo học tại Đại học Victoria và đậu Cử nhân ngành kỹ sư, năm 1995.
Sau đó, thầy Nguyễn Xuân Thinh gia nhập Đại chủng viện Corpus Christi, năm 1999 và thụ phong linh mục ngày 16 tháng Chín năm 2006, khi được 33 tuổi. Cha lần lượt làm cha phó tại hai xứ đạo, trước khi làm tuyên úy Đại học Melbourne, rồi làm cha sở giáo xứ Bennettswood, từ năm 2020; năm 2022, cha làm điều hợp viên Văn phòng về đời sống và sứ vụ giáo sĩ.
Tại Australia, đã có một giám mục người Việt, là Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, 63 tuổi, Dòng Phanxicô Viện Tu, đã từng làm Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Melbourne, từ năm 2011 đến 2016, rồi làm Giám mục Giáo phận Parramatta.
Đức Phanxicô: “Thượng hội đồng có biến đổi Giáo hội giống như Công đồng Vatican II đã biến đổi Giáo hội không?”
Linh mục Gilles Routhier, chuyên gia tại Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, nhà giáo hội học, giáo sư thần học tại Đại học Laval, Québec, Canada. Linh mục nói về mối liên hệ của linh mục với “kinh nghiệm” Công đồng Vatican II.
Đức Phanxicô và các thành viên tham dự Thượng Hội đồng ngày 26 tháng 10 tại Vatican.
Vào cuối Công đồng Vatican II, nhiều tiếng nói vang lên: “Công đồng kết thúc…; công đồng bắt đầu!” Chúng tôi ý thức có rất nhiều điều phải được tiếp nhận và thực hiện nếu muốn Giáo hội có một khuôn mặt trẻ, mới như Đức Gioan XXIII mong muốn. Cuộc cải cách phụng vụ là một trong những cuộc đổi mới được thực hiện một cách có hệ thống nhất. Nhưng còn rất nhiều điều khác cần được thực hiện.
Dù có những thay đổi bất thường, những chống đối, những chệch hướng, Công đồng đã để lại những dấu vết sâu sắc trong đời sống Giáo hội, trong các thực hành, trong các mối quan hệ với người khác, giữa các tín hữu (giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân), giữa các tín hữu không công giáo thuộc các giáo phái khác và của Giáo Hội với thế giới đương thời. Điều này là do những gì Công đồng đã giảng dạy, cũng như thực tế Công đồng là một sự kiện.
Một giám mục tham dự Công đồng đã kể cho tôi nghe sự kiện này đã biến đổi ngài như thế nào. Đây cũng là kinh nghiệm mà nhiều người đã có được trong tiến trình Thượng Hội đồng và thách thức ngay từ đầu là làm cho hành trình này là kinh nghiệm có khả năng biến đổi cách chúng ta hiểu và sống Giáo hội. Vào năm 2021, khi trình bày cách tiếp cận đồng nghị đang bắt đầu, Tài liệu chuẩn bị đã nói lên những gì chúng ta mong chờ từ Thượng Hội đồng, đó không phải là đọc một tài liệu, nhưng là biến đổi trong cách thực hành của chúng ta, về cách chúng ta ở bên nhau, và đó là Giáo hội của Chúa, mục tiêu cuối cùng là đổi mới Giáo hội thông qua kinh nghiệm học hỏi và biến đổi này.
Hiện nay chúng ta vẫn chưa dễ dàng để đánh giá kết quả dù chúng ta phải làm, chúng ta phải đánh giá Thượng Hội đồng sắp kết thúc chứ không phải chỉ từ việc xem xét tài liệu cuối cùng. Chúng ta đã học cách trở thành Giáo hội cùng nhau, trong sự đa dạng về nguồn gốc văn hóa, sự đa dạng về đoàn sủng của các thành viên trong tổ chức này chưa?
Một quá trình đáng lo ngại
Những gì được đề xuất là một kinh nghiệm học tập, “vừa học vừa làm”, đòi hỏi nhiều thời gian hơn là ban hành chỉ thị hoặc thông qua luật và trên hết là đòi hỏi sự tham gia của càng nhiều người càng tốt. Chính qua một tiến trình cụ thể mà tất cả giáo dân được mời gọi tìm hiểu Giáo hội là gì: một dân đang chuyển động, cùng nhau tìm ý Chúa, tiến về phía trước dù có những giới hạn và xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong khi nhiều người muốn ngài đưa ra phán quyết về một số vấn đề gây tranh cãi, nhưng ngài lại đưa ra một quy trình làm bối rối.
Quy trình không bắt đầu bằng một đại hội lớn ở Rôma, nhưng bằng thì giờ lắng nghe trong các Giáo hội địa phương, nơi hiện thực hóa Giáo hội. Chúng ta không đi từ Rôma đến các Giáo hội địa phương, nhưng từ các Giáo hội địa phương đến Rôma, điều này đã là một đảo ngược đáng kể. Vào cuối giai đoạn đầu tiên, Văn phòng Thư ký Thượng Hội đồng đã nhận được sự đóng góp của 112 trong số 114 Hội đồng Giám mục và 15 Giáo hội Công giáo Đông phương cũng như các nhóm khác. Trong giai đoạn giáo phận đầu tiên này, hàng triệu tín hữu trên khắp thế giới đã tham gia vào các nhóm đồng nghị.
Để đánh giá kinh nghiệm này có thực sự là kinh nghiệm biến đổi có khả năng tạo được thay đổi lâu dài trong cách thức trở thành Giáo hội hay không, chúng ta nên áp dụng cách tiếp cận và phương pháp giúp chúng ta quan sát những gì đang diễn ra trên thực tế chứ không chỉ đọc văn bản cuối cùng. Chúng ta biết, điều này đã thay đổi một số thực hành nào đó trong các giáo phận, giáo xứ, hoạt động của các Hội đồng Giám mục mặc dù vẫn còn nhiều việc phải làm, và tài liệu cuối cùng khẩn thiết kêu gọi chúng ta làm như vậy.
Chúng ta không chỉ xem xét những gì đã được nói mà còn xem xét những gì mọi người đã học được qua kinh nghiệm này, những gì đã thay đổi kể từ đó và những gì vẫn có thể thay đổi trong giai đoạn tiếp nhận đang bắt đầu. Cuộc họp thứ 16 của Thượng Hội đồng kết thúc, nhưng men phân tán của Thượng Hội đồng trong các Giáo hội vẫn được kêu gọi để hoạt động trong cơ thể giáo hội. Việc canh tân Giáo hội do Thượng Hội đồng khởi xướng (thái độ, thực hành, thể chế, linh đạo) được mời gọi tiếp tục thực hiện và không được dừng lại.
Đã bắt đầu chuyển đổi
Tài liệu Tổng hợp giai đoạn đầu, chắc chắn là bản văn gần gũi nhất với kinh nghiệm cho thấy trên đường đi, các kitô hữu được trải nghiệm được niềm vui thấy mình giữa các anh chị em trong Chúa Kitô, được chia sẻ những gì vang vọng trong họ khi lắng nghe Lời Chúa để cùng nhau suy ngẫm về việc phục vụ Tin Mừng mà Giáo hội được kêu gọi để loan truyền cho thế giới. Điều này thúc đẩy ước muốn về một Giáo hội ngày càng có tính đồng nghị, và đối với nhiều người, tính đồng nghị không còn là một khái niệm trừu tượng mà trở thành một trải nghiệm cụ thể; họ đã nếm được hương vị và muốn tiếp tục hưởng hương vị này.
Điều này cũng đã được trải nghiệm trong giai đoạn lục địa và trong hai kỳ đại hội ở Rôma. Thành quả này phải ngày càng phát triển. Khi đưa vào huấn quyền các thành quả của các cuộc thảo luận, Đức Phanxicô cho chúng ta biết, việc điều hành Giáo hội và huấn quyền của giáo hoàng không thể tách rời khỏi cuộc thảo luận của toàn thể dân Chúa. Thượng Hội đồng đã kết thúc. Thượng Hội đồng bắt đầu. Tài liệu cuối cùng là lời kêu gọi hoán cải Giáo hội Công giáo, một cuộc hoán cải đã được tiến hành nhưng vẫn còn tiếp tục.
Đức Hồng y Müller bày tỏ lập trường trên đây, trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Il Tempo, Thời Báo, số ra ngày 12 tháng Mười Một vừa qua, tại Ý.
Trả lời câu hỏi: Phải chăng là điều phản Kitô việc trả về nước những người di dân bất hợp pháp? Đức Hồng y Müller đáp: “Tuyệt đối là không. Đứng trước việc di cư bất hợp pháp, nhà nước có quyền gửi những người ấy về quốc gia nguyên quán, nếu họ không bị nguy cơ mất mạng tại đó. Chúng ta phải giúp đỡ các nước đang phát triển, nhưng chúng ta không thể nghĩ, ví dụ như toàn thể dân chúng tại Phi châu có thể di cư tới Âu châu để giải quyết các vấn đề hiện nay. Nhà Nước có quyền bảo vệ biên giới của mình và tái lập chế độ pháp trị. Những người chết trên biển và ở trong tình trạng nguy hiểm cần phải được cứu giúp, nhưng những quy luật để ấn định việc di cư hợp pháp là vấn đề hoàn toàn khác”.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Müller cũng cho biết ngài không phật lòng vì ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ và tin rằng các phiếu của các cử tri Công giáo ở Mỹ đã giúp ông trở lại Nhà Trắng. Đức Hồng y nói: “Điều rõ ràng đối với tôi là lập trường luân lý đạo đức là điều quyết định đối với các cử tri Công giáo, vì ứng cử viên Kamala Harris hiển nhiên là người chống sự sống. Tiêu chuẩn còn lại là bỏ phiếu cho các chính trị gia ủng hộ sự sống”.
Trong bối cảnh này, Đức Hồng y Müller đánh giá tiêu cực về sự kiện Tổng thống Biden, tổng thống thứ hai là người Công giáo ở Mỹ, tuy tự xưng là Công giáo, nhưng lại theo đuổi những chính sách phản Kitô giáo.
Trong bài giảng thánh lễ hôm Chúa nhật, ngày 10 tháng Mười Một vừa qua, tại Tòa Thượng phụ Maronite, ở Bkerké, gần Beirut, Đức Hồng y nói: “Tôi hân hoan chúc mừng nước Mỹ về việc bầu Tổng thống mới Donald Trump, và đích thân chúc mừng ông đắc cử, chúng tôi hy vọng việc bầu cử này có thể mang lại tin vui cho Liban và toàn vùng. Hy vọng ông Trump, qua đường ngoại giao, sẽ đạt tới một cuộc ngưng bắn trường kỳ giữa Israel và Hezbollah.”
Đức Thượng phụ tái kêu gọi các giới chức chính trị tại Liban bầu được một vị tổng thống mới, có thể hướng dẫn tất cả những cuộc thương thuyết liên quan đến Liban và bình thường hóa các cơ cấu của đất nước”.
Liban không có tổng thống từ cuối tháng Mười năm 2022, tức là đã hơn hai năm, sau khi Tổng thống Michel Aoun mãn nhiệm kỳ. Các đảng phái chính trị tại quốc hội nước này không thỏa thuận được với nhau để bầu một vị tổng thống mới cho đất nước.
Các diễn giả tại cuộc họp báo đã giải thích rằng việc tạo bản sao kỹ thuật số của Đền thờ Thánh Phêrô cho phép thực hiện các chuyến tham quan ảo và triển lãm kỹ thuật số chuyên sâu, giúp tái hiện rõ nét hơn sự vĩ đại của Đền thờ, một kỳ quan thời Phục hưng.
Đức Hồng y Mauro Gambetti, Giám quản Đền thờ, đã bày tỏ sự vui mừng trong buổi họp báo, so sánh trải nghiệm này với việc ngắm nhìn “bầu trời đầy sao vào một đêm hè”. Ngài nói: “Các công cụ mới hoạt động như một kính viễn vọng hoặc tàu vũ trụ để quan sát tốt hơn”.
Chủ tịch Microsoft Brad Smith phát biểu tại buổi họp báo rằng quan hệ đối tác giữa Vatican và Microsoft đáng chú ý không chỉ vì tham vọng mà còn vì việc sử dụng công nghệ sáng tạo để phục vụ đức tin và di sản.
Giúp tiếp cận di sản thiêng liêng
Trong một cuộc phỏng vấn của Vatican News, ông đã suy tư về vai trò độc đáo mà công nghệ có thể đóng góp trong việc kết nối quá khứ và hiện tại. Ông tin rằng nó bổ sung vào trải nghiệm thiêng liêng của những người hành hương đến Roma. Ông giải thích rằng trải nghiệm ảo mang đến một góc nhìn mới, cho phép người xem “nhìn thấy những phần của Đền thờ mà chúng ta không thể nhìn thấy” và thông qua triển lãm kỹ thuật số, du khách có thể tiếp cận những không gian thường nằm ngoài tầm với, như các lăng mộ thời đế quốc Roma bên dưới và các tác phẩm nghệ thuật phức tạp trên mái vòm cao của Đền thờ.
Khi trình bày sáng kiến này, ông giải thích rằng bản sao ảo được tạo ra bằng công nghệ máy bay không người lái, máy ảnh và công nghệ quét laser tiên tiến để ghi lại mọi chi tiết của Đền thờ, sau đó là các thuật toán AI tiên tiến để ghép nối dữ liệu lại với nhau. Điều này nhằm mục đích cho phép thế hệ mới tham gia vào sự tráng lệ của Đền thờ theo một định dạng phù hợp với họ.
Chủ tịch Microsoft nói rằng dự án này cho thấy rõ sự sẵn lòng của Vatican trong việc áp dụng công nghệ mới như một phương tiện thăng tiến đức tin và giúp kho báu của mình dễ tiếp cận theo những cách trước đây không thể tưởng tượng được.
Đức tin và công nghệ
Đề cập đến những lo ngại rằng các công nghệ mới như AI có thể xung đột với đức tin, ông nói: “Thông thường, người ta có thể bắt đầu bằng cách cho rằng công nghệ mới có sự căng thẳng với tôn giáo hoặc đức tin”, nhưng ông kết luận rằng dự án này cho thấy có một cách để hòa giải sự căng thẳng này. Dự án giải quyết vấn đề theo cách loại bỏ sự căng thẳng và “mang đến cho mọi người cơ hội làm điều gì đó lớn lao hơn những gì họ có thể tưởng tượng”.
Đức Tổng giám mục Welby năm nay 68 tuổi, từ 12 năm nay (2012) là thủ lãnh tinh thần của 85 triệu tín hữu Anh giáo trên thế giới. Cao điểm trong nhiệm kỳ của Đức Tổng giám mục là đã chủ sự lễ phong vương cho Vua Charles III của Anh quốc, vào ngày 06 tháng Năm năm 2023, tại thánh đường Đan viện Westminster ở Luân Đôn.
Đức Tổng giám mục nguyên là một doanh nhân về dầu hỏa và có gia đình với sáu người con. Biến cố một người con gái nhỏ bị thiệt mạng vì tai nạn đã đưa doanh nhân này đến gần tôn giáo hơn và sau đó, đã đi học thần học, rồi năm 2011, thụ phong mục sư lúc 37 tuổi và năm 2011 thăng Giám mục Giáo phận Durham, năm sau đó, tháng Mười Một năm 2012 được Nữ hoàng Elizabeth II phong làm Giáo chủ Anh giáo tại Anh, kế nhiệm Đức Tổng giám mục Rowan William.
Hôm 12 tháng Mười Một vừa qua, Đức Tổng giám mục Welby đã đệ đơn từ chức và bày tỏ đau lòng về vụ luật sư John Smyth, một người hoạt động thiện nguyện, đã lạm dụng tính dục, tâm lý và thể lý, của khoảng 30 người ở Anh quốc và 85 người ở Phi châu, trong năm thập niên. Một phúc trình dài 250 trang, kết quả của một cuộc điều tra độc lập, cho thấy những hành động “kinh khủng” của Smyth đã được biết đến trong thập niên 1980, nhưng các vụ tố giác ấy chỉ được báo cho cảnh sát từ năm 2013 trở đi, năm mà Giám mục Welby được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Giáo phận Canterbury, Giáo chủ Anh giáo.
John Smyth không bị xét xử và bị trừng phạt vì ông chết năm 2018, trong thời gian điều tra. Và theo báo the Guardian, Đức Tổng giám mục Welby có tương quan với John Smyth thời còn trẻ, vì đã làm việc trong một trại hè do ông này tổ chức.
Theo phúc trình, Đức Tổng giám mục Welby đã tháp tùng Đức Thánh cha Phanxicô trong cuộc tông du tại Nam Sudan, và sau khi biết những tội ác của Smyth, Đức Tổng giám mục đã không thông báo cảnh sát và cũng không mở các cuộc điều tra phải phép.
Ban đầu, chính các thành viên Thượng Hội đồng của Anh giáo ở Anh quốc đã gửi thư thỉnh nguyện yêu cầu Đức Tổng giám mục Welby từ chức, vì cho rằng Đức Tổng giám mục đã mất sự tín nhiệm của Hàng giáo sĩ thuộc quyền. Tính đến trưa thứ Hai, ngày 11 tháng Mười Một, thỉnh nguyện đã thu được hơn 1.800 chữ ký trên trang mạng Change.org. Sau khi xin phép Vua Charles III, Đức Tổng giám mục Welby đã từ nhiệm.
Trong thông báo, Đức Tổng giám mục bày tỏ đau lòng với tất cả các nạn nhân và những người sống sót sau những vụ lạm dụng, và lấy làm tiếc và xấu hổ vì đã thất bại trong việc cứu vãn Giáo hội Anh giáo tại Anh quốc, và ngài viết rằng: “Tôi tin rằng việc tôi rút lui là điều tốt nhất cho Giáo hội tại Anh, Giáo hội mà tôi rất yêu mến và được vinh dự phục vụ. Tôi cầu nguyện để quyết định này đưa chúng ta trở lại tình yêu của Chúa Giêsu Kitô đối với mỗi người chúng ta”.
Nếu báo cáo cho rằng “có khả năng” Tổng giám mục Justin Welby không biết về những nghi ngờ đè nặng trên luật sư John Smyth – điều mà ông hết sức bảo vệ – nhưng cách quản lý vụ việc năm 2013 của ông bị đặt vấn đề. Năm đó, Justin Welby được thông báo chính thức về cáo buộc chống lại cựu luật sư. Báo cáo Makin rất rõ ràng: tổng giám mục “có thể và lẽ ra phải” báo cáo sự việc cho cảnh sát. Vụ việc chỉ được đưa ra ánh sáng công khai năm 2017, sau cuộc điều tra của Kênh 4 tiết lộ hành vi lạm dụng trẻ em. Việc Justin Welby không hành động đã cho phép ông John Smyth (qua đời năm 2018), thoát khỏi công lý.
“Tôi phải chịu trách nhiệm”
Tổng giám mục Justin Welby giải thích về việc ông từ chức: “Rõ ràng là tôi phải đảm nhận trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm cơ quan của tôi trong giai đoạn đau thương lâu dài và mới này từ năm 2013 đến năm 2024.” Nếu Tổng Giám mục Canterbury phủ nhận việc che đậy sự việc thì với việc từ chức này, ông xác nhận ông không còn đủ thẩm quyền cần thiết để đảm nhận chức vụ và cuộc chiến chống bạo lực tình dục trong Giáo hội Anh. Trên thực tế, một bản kiến nghị yêu cầu ông ra đi được ba thành viên thuộc thượng hội đồng của Giáo hội Anh đưa ra vào ngày 9 tháng 11, đã có được hơn 5.000 chữ ký.
Tổng giám mục Justin Welby nói: “Tôi hy vọng quyết định này cho thấy rõ ràng Giáo hội Anh hiểu rõ sự cần thiết phải thay đổi và cam kết sâu sắc của chúng tôi trong việc tạo ra một Giáo hội an toàn hơn như thế nào. Khi rời nhiệm sở, tôi đau buồn cùng với tất cả các nạn nhân và những người sống sót sau vụ lạm dụng.” Nói rộng hơn, vụ việc này một lần nữa làm suy yếu tổ chức Anh giáo, trong một báo cáo bốn năm trước, họ đã bị cáo buộc đã cho phép thủ phạm bạo lực tình dục với trẻ vị thành niên “ẩn náu” và thoát khỏi công lý. Theo báo cáo này, một phần của cuộc điều tra rộng hơn về các tổ chức khác nhau trong nước, 390 người có liên hệ với Giáo hội Anh đã bị kết án về tội phạm tình dục từ những năm 1940 đến năm 2018.
Justin Welby là Tổng Giám mục Canterbury từ năm 2013, đứng đầu Giáo hội Anh giáo và Cộng đồng Anh giáo trên thế giới. Kể từ khi đứng đầu Giáo hội Anh giáo, Tổng giám mục Justin Welby được biết đến với những quan điểm tiến bộ, đã thực hiện một dự án truyền giáo với quy mô chưa từng có.
Việc từ chức của Tổng giám mục Justin Welby, gương mẫu khi đối diện với các vụ tai tiếng tình dục
Ngày 15/4/2019, trong quá trình trùng tu, một đám cháy đã bùng phát trên mái Nhà thờ Đức Bà Paris. Đám cháy đã phá hủy phần mái và kết cấu mái, một phần của các hầm và tháp giao cắt. Theo Điện Elysée, tổng chi phí tu sửa nhà thờ lên đến khoảng 700 triệu euro. Tuy nhiên, các công trình tiếp theo vẫn đang được lên kế hoạch xung quanh nhà thờ. Khu vực ngoài trời cũng sẽ được thiết kế lại.
Nghi thức mở cửa lại nhà thờ
Cha Guillaume Normand, người chịu trách nhiệm về cử hành phụng vụ vào ngày 7/12/2024, đã giải thích với báo “La Croix” rằng vào ngày 7/12, sau bài phát biểu của Tổng thống, Đức Tổng Giám mục Laurent Ulrich của Paris sẽ gõ cửa Nhà thờ Đức Bà bằng cây gậy của ngài “để nhà thờ mở ra và chào đón chúng ta”. Sau đó, tiếng đàn organ sẽ lại vang lên. Cử hành khai mạc sẽ kết thúc với thánh thi Te Deum, một thánh thi chúc tụng, tạ ơn và cầu xin. Sau đó, vào khoảng 9:30 tối, dự kiến có buổi biểu diễn của các diễn viên, vũ công và nhạc công tại sân trước của nhà thờ.
Thánh lễ thánh hiến bàn thờ
Thánh lễ thánh hiến bàn thờ sẽ được cử hành vào lúc 10:30 sáng ngày hôm sau, 8/12/2024, lễ trọng Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội, với sự tham dự của hơn 170 giám mục từ Pháp và các quốc gia khác, cũng như một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số 106 giáo xứ của giáo phận Paris, và một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số bảy Giáo hội Công giáo Nghi lễ Đông phương. Tổng thống Pháp sẽ có mặt tại Thánh lễ. Dự kiến sẽ có 2.000 người bên trong nhà thờ trong hai ngày mở cửa trở lại này.
Hoạt động thăm viếng nhà thờ
Các du khách cá nhân có thể thăm viếng nhà thờ từ tối ngày 8/12/2024, theo thời gian cụ thể của tuần bát nhật. Trong tám ngày sẽ có các Thánh lễ cho người dân Paris và những người đóng góp vào việc trùng tu: lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, lễ cho các tu sĩ, cho các nhà bảo trợ và các nhà tài trợ, các hiệp hội từ thiện, nhân viên và tình nguyện viên giáo phận, giới trẻ, lính cứu hỏa Paris và những người đồng hành.
Từ thứ Hai ngày 16/12/2024, công chúng sẽ có thể viếng thăm nhà thờ trong thời gian được kéo dài.
Dự kiến mỗi năm sẽ có 15 triệu du khách đến thăm Nhà thờ Đức Bà.
Khi được hỏi, Đức Tổng giám mục Ulrich một lần nữa từ chối đề xuất của Bộ trưởng Văn hóa Pháp Rachida Dati về việc thu phí thăm viếng nhà thờ.
Nghi phạm người Singapore, 37 tuổi có tiền án về tội gây thương tích người khác và sử dụng ma tuý trái phép, đã bị các tín hữu đang tham dự Thánh lễ khống chế và sau đó cảnh sát bắt giữ.
Theo điều tra ban đầu của cảnh sát, nghi phạm hành động một mình và vụ tấn công không phải là hành động khủng bố.
Đức Hồng Y Goh, Tổng Giám Mục Singapore, cho biết ngài “bị sốc và vô cùng đau buồn” khi hay tin cha Christopher Lee Colpito bị tấn công bạo lực trong khi đang cử hành Thánh lễ.
Lo ngại về tác động tâm lý mà vụ việc này có thể gây ra cho trẻ em và tất cả những người chứng kiến vụ tấn công này, ngài yêu cầu các tín hữu bình tĩnh, không suy đoán về vụ việc hoặc đưa ra phán đoán mà không biết tất cả sự thật. Cần để chính quyền điều tra vấn đề này.
Thủ tướng Lawrence Wong cũng kêu gọi mọi người bình tĩnh, hỗ trợ nhau trên tinh thần hoà hợp và kiên cường, đồng thời tuyên bố “trong đất nước, không có chỗ cho bạo lực”.
Ông viết trên mạng xã hội: “Tôi rất sốc và đau buồn khi hay tin cha Christopher Lee bị đâm trong nhà thờ Thánh Giuse trong lúc đang cử hành Thánh lễ. Chúng ta cầu nguyện để linh mục được mau chóng bình phục. Trên hết, chúng ta phải bảo vệ an ninh và sự thánh thiêng của các nơi thờ phượng, những nơi mọi người tìm kiếm bình an, an ủi và tình cộng đoàn”.
Singapore được biết đến là một trong những thành phố an toàn nhất thế giới và không ai có thể ngờ điều này lại có thể xảy ra trong một nhà thờ, vốn được xem là một nơi an toàn hơn những đường phố bên ngoài.
Với 395.000 người Công giáo, Singapore là một Giáo hội năng động nhất ở Đông Nam Á, với số tín hữu ngày càng tăng. Theo số liệu chính thức mới nhất từ năm 2023, dân số Singapore đứng ở mức 5,92 triệu người, trong đó người Trung Quốc, Mã Lai và Ấn Độ là các nhóm chính. Trong số 5,92 triệu người này, có 4,15 triệu người là cư dân, trong đó có 3,61 triệu công dân và 540.000 thường trú nhân. 1,77 triệu người còn lại sống ở Singapore được phân loại là người không cư trú, chủ yếu là người lao động thường trú không có quyền chính trị và thường không được tính vào số liệu thống kê.
Một trong hai cậu bé chết ngay lập tức, trong khi em thứ hai được đưa vào bệnh viện. Theo báo chí địa phương, hai thiếu niên này là lễ sinh của nhà thờ. Trong một bài đăng trên mạng xã hội, giáo xứ yêu cầu thể hiện tình liên đới với mẹ của các nạn nhân.
Một vụ thảm sát nghiêm trọng khác xảy ra vào cuối tuần qua ở Quretaro, miền trung Mexico, phía bắc Mexico City. 10 người thiệt mạng bên trong quán bar Los Cantaritos.
Đức Cha Enrique Díaz Díaz, Giám mục giáo phận Irapuato (một thành phố không xa nơi xảy ra vụ việc), nói với báo chí địa phương: “Chúng tôi tự đặt ra nhiều câu hỏi xem ai là người đang làm việc này. Họ không phải là con cái của chúng ta, họ không phải là những người trẻ của chúng ta sao; tại sao lại đến mức này? Chúng ta sẽ phải tiếp tục nỗ lực chăm chỉ về giáo dục, nhưng cũng phải có phản ứng an ninh và sự quan tâm từ chính quyền đối với tất cả những tình huống đang xảy ra ở các bang khác nhau”.
Cha bị bắt cóc ngày 27 tháng Mười vào khoảng 7 giờ tối, trong lúc nguyện Kinh Chiều và chầu Thánh Thể ở nhà nguyện. Một số người võ trang đã tấn công và bắt cha, rồi dẫn vào rừng. Cha Phó giám đốc cùng với các chủng sinh và nhân viên tiểu chủng viện bình an và tạm thời được di chuyển đến nơi an toàn, vì tình hình địa phương vẫn còn bị coi là bất an.
Trong thông cáo hôm mùng 07 tháng Mười Một vừa qua, cha Peter Egielewa, Giám đốc truyền thông của Giáo phận Auchi, nói rằng cha Oyode đã được trả tự do, lúc 7 giờ tối, ngày 06 tháng Mười Một trước đó. Đức cha Gabriel Dunia, Giám mục bản quyền của giáo phận, cảm ơn tất cả những người đã cầu nguyện và hỗ trợ tinh thần trong những ngày cha Oyode bị giam giữ, kể cả các tín hữu Công giáo ngoài giáo phận, cũng như những người Nigeria, các thân hữu và những người khác trên thế giới. Đức cha không quên cảm ơn các cơ quan an ninh của Nigeria, cũng như những người đã truy lùng, làm việc ngày đêm để tìm kiếm linh mục bị bắt cóc.
Trong thông cáo, Đức cha Dunia kêu gọi chính phủ Nigeria gia tăng nỗ lực để đối phó với tình trạng an ninh bị suy thoái tại miền bắc bang Edo và toàn bang này, để bảo đảm cho người dân được an toàn khi trở về nhà, đến nông trại hoặc khi đi qua bang này.
Từ lâu Nigeria phải chiến đấu với nạn bạo lực do các băng đảng võ trang chuyên bắt cóc người gây ra để đòi tiền chuộc mạng và trong một số trường hợp, chúng sát hại các nạn nhân.
Nhóm khủng bố Hồi giáo Boko Haram là thách đố lớn nhất từ năm 2009 đối với Nigeria, quốc gia đông dân nhất ở Phi châu, với mục đích biến nước này thành một quốc gia Hồi giáo.
Bishop Wilfred Anagbe
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo ACI Phi châu, hôm mùng 08 tháng Mười Một vừa qua, bên lề hội nghị quốc tế về thần học lần thứ VII, do Học viện về đời sống thánh hiến ở Phi châu tổ chức, Đức cha Anagbe kêu gọi chính phủ Nigeria ưu tiên tái lập an ninh để mang lại hy vọng và để những người di tản được hồi hương. Đức cha nói: “Bang Benue giống như trung tâm của những gì đang xảy ra. Trong Giáo phận Makudi của tôi, tôi đã mất mười bốn, mười lăm giáo xứ. Khi nói giáo xứ, thì cũng phải hiểu mỗi giáo xứ có khoảng từ hai mươi họ lẻ, trong khu vực đường kính từ 20 đến 25 cây số. Do bạo lực, dân số của bang và giáo phận cũng giảm sút”.
Đức cha cho biết cả Giáo phận Otukpo và Katsina-Ala cũng lâm vào tình trạng bất an, vì ở trong khu vực có bạo lực và xung đột. Ngài bày tỏ lo âu vì những tin tức liên tục về những vụ giết người, bắt cóc, đồng thời ngài nhấn mạnh vai trò của chính phủ là bảo vệ sinh mạng và tài sản của dân chúng. Đức cha nói: “Chúng tôi bị lâm vào tình trạng cơ cực khôn tả, không những tại Makudi này nhưng cả nước. Khi di chuyển, bạn không biết mình có được an toàn không cho đến khi tới nơi!”
Đức cha Anagbe 59 tuổi, thuộc Dòng thánh Claret, hay là “Nam tử Khiết Tâm Đức Mẹ”. Ngài cũng cảnh giác rằng việc đóng cửa lâu dài các trường học cũng ảnh hưởng tới tương lai của người trẻ, góp phần tạo nên những kẻ cướp và khủng bố. Các trường học này bị đóng cửa hơn 10 năm rồi!”
Đức cha Anagbe cũng tố giác tình trạng bất an về lương thực ở Nigeria, quốc gia đông dân nhất ở Phi châu, vì chính phủ không bảo đảm được môi trường an ninh để các nông dân trở lại canh tác tại các đồng ruộng của họ.
Trong một lệnh hạn chế chưa từng có đối với quyền tự do tôn giáo, chính quyền Nicaragua, theo chỉ thị của Tổng thống Daniel Ortega và Phó Tổng thống Rosario Murillo, được cho là đã cấm các Linh mục Công giáo vào bệnh viện để thực hiện Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Bí tích này, một nghi lễ vô cùng quan trọng đối với các tín hữu đang phải đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo hoặc gần cuối đời, hiện nay phần lớn không thể tiếp cận được tại các bệnh viện công của đất nước, theo luật sư và tác giả Martha Patricia Molina.
Luật sư Molina, tác giả của báo cáo “Nicaragua: Một Giáo hội bị đàn áp?”, đã mô tả tình hình với LA PRENSA như một sự tấn công trực tiếp vào Giáo hội và khả năng làm công việc mục vụ cho các tín hữu. “Là người Công giáo, chúng tôi thường mời các Linh mục đến để được xức dầu khi đối mặt với các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, để có được sự bình an về mặt thiêng liêng”, luật sư Molina nói. “Tuy nhiên, các Linh mục hiện đang bị từ chối tại các bệnh viện, nơi họ được thông báo rằng họ bị cấm vào”. Lệnh cấm này, luật sư Molina cho biết thêm, áp dụng cho mọi khu vực trong nước, khiến nhiều người Công giáo Nicaragua không thể lãnh nhận Bí tích thiết yếu này vào thời điểm nguy kịch trong cuộc đời họ.
Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, trước đây được gọi là Bí tích Xức Dầu Sau Cùng, được thực hiện để cung cấp sức mạnh tinh thần và ân sủng trong thời gian bệnh nặng hoặc tuổi già. Nghi thức này bao gồm việc xức dầu lên trán và tay của bệnh nhân, kèm theo lời cầu nguyện do một Linh mục chủ sự. Dành riêng cho những người đang đối mặt với những thách thức đáng kể về sức khỏe, Bí tích này mang lại sự bình an và sự sẵn sàng cho “cuộc chuyển tiếp đến nhà Cha”, như được mô tả trong Sách Giáo lý Công giáo. Với chính sách mới này, nhiều người Công giáo Nicaragua hiện có thể bị từ chối Bí tích này trong những giây phút cuối đời, một vấn đề mà luật sư Molina gọi là điều “tàn khốc”.
Mặc dù bề ngoài có vẻ êm đềm, nhưng cuộc đàn áp Giáo hội Công giáo của chính quyền Nicaragua vẫn nghiêm trọng như mọi khi, luật sư Molina nhấn mạnh. Bà chỉ ra việc giám sát liên tục, quấy rối và đe dọa các Linh mục là bằng chứng cho thấy sự thù địch đối với Giáo hội vẫn chưa giảm bớt. Bà cho biết “Cảnh sát liên tục theo dõi các Linh mục, đặt câu hỏi và thu thập thông tin cá nhân chi tiết, từ số điện thoại cho đến tên họ”. Theo luật sư Molina, sự cảnh giác này đã khiến nhiều Linh mục tìm cách lưu vong thay vì phải đối mặt với sự đe dọa và trong một số trường hợp là mối đe dọa bị cầm tù.
Một Linh mục từ Giáo phận Siuna, do Đức Giám mục Isidoro del Carmen Mora Ortega quản lý, gần đây đã gia nhập hàng ngũ các giáo sĩ lưu vong. Sau khi nhận được những lời đe dọa và lệnh triệu tập ra hầu tòa, vị Linh mục đã đưa ra quyết định khó khăn là rời khỏi Nicaragua, vì lo sợ bị giam giữ và bị đàn áp thêm. Bản thân Đức Giám mục Mora Ortega trước đó đã bị trục xuất khỏi đất nước, một nạn nhân khác của điều mà nhiều người gọi là chiến dịch đe dọa của chính quyền Ortega.
Với trường hợp mới nhất này, tổng cộng 67 giáo sĩ đã phải lưu vong để thoát khỏi sự đàn áp, gia nhập nhóm 255 nhân vật tôn giáo khác buộc phải rời khỏi Nicaragua. Trong số những người được tính trong báo cáo của luật sư Molina có 98 Nữ tu, cùng với các Giám mục, Linh mục và Chủng sinh. Ngoài ra, 34 người đã bị ngăn cản trở về Nicaragua, và ít nhất 9 người đã bị trục xuất hoàn toàn.
Sự di cư ngày càng tăng của các nhà lãnh đạo tôn giáo và khả năng phục vụ cộng đoàn của Giáo hội ngày càng giảm sút đã khiến nhiều người Công giáo ở Nicaragua cảm thấy dễ bị tổn thương. “Có thể có vẻ ngoài êm đềm, nhưng sự áp bức vẫn tiếp diễn”, luật sư Molina nhận xét. Việc tiếp tục giám sát và các biện pháp hạn chế áp đặt lên Giáo hội là lời nhắc nhở nghiêm túc về cách tiếp cận không khoan nhượng của chế độ đối với những tiếng nói bất đồng chính kiến, đặc biệt là những tiếng nói trong các cộng đồng tôn giáo.
Trong khi các tín hữu Nicaragua đang phải vật lộn với sự đàn áp đang diễn ra, cộng đồng quốc tế ngày càng được thúc giục phải giải quyết và lên án những hành vi xâm phạm tự do tôn giáo ngày càng gia tăng này. Quyền được chăm sóc về mặt tinh thần trong thời điểm bệnh tật và cận kề cái chết được nhiều người coi là quyền cơ bản, và lệnh cấm gần đây của chính phủ đã làm dấy lên mối lo ngại trên toàn thế giới về đường hướng của quyền tôn giáo dưới thời chính quyền Ortega.
Đức cha Carlos Herrera, Giám mục Giáo phận Jinotega, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua, đã lên tiếng tố giác thị trưởng thành phố Leónidas Centeno và nhà chức trách khác tại địa phương đó, đã bố trí các loa phóng thanh và mở thật lớn trước nhà thờ chính tòa Leónidas Centeno, trong lúc thánh lễ được cử hành. Đức cha gọi hành động này là một “sự phạm thánh, vì họ biết giờ cử hành thánh lễ.”
Tin này được phổ biến trên mạng xã hội tên là Despacho 505 và các cơ quan truyền thông độc lập khác.
Thật ra, những vụ phá rối thánh lễ vẫn là điều thường xảy ra dưới chế độc của nhà cầm quyền Ortega và vợ là Rosario Murillo.
Ngoài ra, nữ luật sư Martha Patricio Molina, tác giả Phúc trình tựa đề “Nicaragua: Phải chăng là một Giáo hội bị bách hại?”, cho biết nhà nước tại đây cấm cản các linh mục không được vào nhà thương để ban bí tích xức dầu cho các bệnh nhân. Khoảng mười linh mục thuộc các giáo phận khác nhau xác nhận tình trạng này. Bà Molino nói: “Có vài linh mục được phép vào các nhà thương, nhưng đó là những linh mục thiện cảm với chế độ độc tài này. Thỉnh thoảng, họ có thể làm phép xức dầu nhưng không phải là điều thường xảy ra”.
Trong khi đó, Bộ nội vụ Nicaragua đã ra lệnh giải tán thêm mười hai tổ chức từ thiện, phi chính phủ, trong đó có một tổ chức Tin lành và tổ chức Flavio Galo, một tổ chức cơ bản để huấn luyện cho hàng ngàn trẻ em về âm nhạc.
Đức cha Herrera đã lên tiếng tố cáo chính quyền địa phương ở Jinotega cố tình gây ồn ào, làm gián đoạn buổi cử hành phụng vụ vào Chúa nhật, ngày 10/11, tại Nhà thờ chính tòa Thánh Juan Bautista. Trong Thánh lễ, ngài tuyên bố: “Những gì chính quyền địa phương đang làm là phạm thánh... Chúng ta cầu xin Chúa tha thứ cho họ và cho chính chúng ta”.
Trước khi bị trục xuất, vào thứ Tư, trang Facebook chính thức của Giáo phận Jinotega đã bị đóng. Trang này được sử dụng để phát trực tiếp các Thánh lễ Chúa Nhật, chầu Thánh Thể thứ Năm và các sự kiện tôn giáo khác, đặc biệt là các sự kiện do Đức cha Herrera chủ sự.
Đức cha Herrera, 75 tuổi, là Giám mục thứ ba của nước này bị trục xuất. Trước ngài, hai giám mục khác cũng đã bị chính quyền Nicaragua trục xuất: Đức cha Rolando José Álvarez Lagos của Giáo phận Matagalpa và Đức cha Isidoro del Carmen Mora Ortega của Giáo phận Siuna.
Truyền thông địa phương cũng đưa tin các linh mục bị cấm vào các bệnh viện để ban Bí tích Xức dầu cho bệnh nhân. Mặc dù không có văn bản chính thức nào xác nhận điều này, nhưng các báo cáo cho biết biện pháp này đã gây ra sự đau khổ cho gia đình và bệnh nhân.
Chính phủ lâm thời của Bangladesh do Thủ tướng Yunus lãnh đạo, sau khi bà Thủ tướng Sheik Hasina phải bỏ chạy ra nước ngoài, hồi tháng Tám vừa rồi. Chính phủ gồm có hai mươi mốt thành phần, nhưng ngoại trừ hai thành viên thuộc cộng đồng chủng tộc Chakma và Ấn giáo, các cộng đồng chủng tộc và tôn giáo khác không có đại diện, không có người nào thuộc cộng đồng Kitô.
Các tôn giáo thiểu số có 17 triệu người, trong tổng số hơn 170 triệu dân cư, đa số theo Hồi giáo. Cộng đoàn Ấn giáo có gần 14 triệu người, trong khi đó có nửa triệu người là tín hữu Kitô, trong số này 400.000 là tín hữu Công giáo.
Đức Tổng giám mục D’Cruz nói với Thủ tướng Yunus rằng “Vì có một nỗ lực cải tổ hiến pháp, nên điều thiết yếu là hội nhập các ý tưởng về quốc gia, sự trung lập về tôn giáo, và không duy phe phái, ý tưởng về các quyền con người và những yếu tố để trở thành công dân tốt’.
Chính phủ lâm thời của Bangladesh đã thành lập mười ủy ban để đề nghị những thay đổi hiến pháp năm 1972 của nước này hầu làm cho việc cai quản đất nước có tính cách bao gồm và dân chủ hơn. Các Ủy ban có nhiệm vụ đưa ra những đề nghị để cải tổ hành chính, tuyển cử, tư pháp, cảnh sát, hệ thống chống tham nhũng, các vấn đề phụ nữ, các phương tiện truyền thông, sức khỏe, và các quyền của giới lao động.
Trong cuộc gặp gỡ, phái đoàn Hội đồng Giám mục Bangladesh cũng trình bày cho Thủ tướng Yunus về sự hiện diện của Giáo hội Công giáo tại tám giáo phận toàn quốc, đảm trách 1.000 trường Công giáo, học viện, đại học, các trường kỹ thuật, nhà thương và viện cô nhi.
Các giám mục đã trao cho thủ tướng tấm ngân phiếu hai triệu rưỡi đồng Taka, tương đương với 21.000 Mỹ kim để cứu trợ các nạn nhân bị lụt mới đây ở Bangladesh.
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ (ACN) lên tiếng cảnh báo về sự gia tăng các cuộc bách hại chống Kitô hữu trên toàn thế giới. Cứ 7 Kitô hữu thì có một người bị ảnh hưởng bởi cuộc bách hại này, và 75% cuộc bách hại chống các tôn giáo thiểu số liên quan đến các Kitô hữu.
Trong một phúc trình có tựa đề “Bị bách hại và bị lãng quên?” được công bố vào ngày 22/10/2024, thực hiện từ tháng 8/2022 đến tháng 6/2024, Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết, tại 18 quốc gia được khảo sát, các vi phạm quyền tự do tôn giáo đối với các Kitô hữu đã đạt đến ngưỡng nghiêm trọng.
Phúc trình không những cho thấy quy mô mà còn cho biết tính đa dạng của các hành động chống các tín hữu. Tác giả của những hành vi này là các tổ chức nhà nước hoặc công cộng, nhưng cũng có thể là các nhóm, những kẻ cực đoan tôn giáo, các băng nhóm tội phạm, v.v.
So với các khu vực khác thì tình hình ở Trung Đông vẫn đặc biệt bi thảm. Ở Syria, Kitô hữu có hơn 1,5 triệu người vào năm 2011, ngày nay chỉ còn 250.000 người. Ở Iraq, Kitô hữu chưa đến 0,5% dân số và cộng đoàn chỉ còn dưới 200.000 người. Những con số này chứng tỏ nguy cơ tuyệt chủng thực sự của các Kitô hữu ở những khu vực này, hậu quả trực tiếp của chiến tranh, bách hại và lạm dụng do các nhóm cực đoan gây ra. Các Kitô hữu ở những khu vực này sống trong tình trạng bị đe dọa thường xuyên, giữa việc phá hủy nhà thờ, tàn sát dân thường và buộc phải di dời.
Châu Phi cũng đang chứng kiến sự gia tăng bạo lực tôn giáo. Burkina Faso, Mali, Niger, Nigeria và Mozambique bị ảnh hưởng đặc biệt bởi các cuộc nổi dậy của người Hồi giáo. Các nhóm thánh chiến thực hiện các cuộc tấn công bạo lực chống lại các cộng đoàn Kitô giáo. Những cuộc tấn công này không chỉ phá hủy các nhà thờ hay giết các tín hữu, nhưng cũng dẫn đến sự di dời của các Kitô hữu đến những khu vực an toàn hơn.
Ở châu Á, Kitô hữu thường bị coi là công dân hạng hai. Tại Ấn Độ và Pakistan, sự gia tăng bất khoan dung tôn giáo đang dẫn đến sự gia tăng các cuộc tấn công chống các Kitô hữu và Giáo hội của họ. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở Ấn Độ, nơi các phong trào dân tộc theo Ấn giáo thường phát động các chiến dịch bạo lực chống các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt là Kitô hữu. Ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, sự đàn áp vẫn mang tính hệ thống.
Châu Mỹ Latinh, mặc dù có truyền thống Công giáo, nhưng không thoát khỏi sự bách hại tôn giáo. Phúc trình lưu ý mặc dù ở Nicaragua đa số dân theo Kitô giáo, nhưng chính phủ vẫn gia tăng bách hại các Giáo hội. Hàng chục linh mục đã bị trục xuất, và hàng trăm tổ chức phi chính phủ Kitô giáo đã bị đóng cửa vì lý do chính trị.
Trước thảm trạng này, Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ kêu gọi quốc tế hỗ trợ các Kitô hữu bị bách hại, nhấn mạnh sự cần thiết phải công khai các cuộc bách hại, tố cáo những hành vi vi phạm quyền tự do tôn giáo và thúc đẩy các chính phủ thực hiện các biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền của các tôn giáo thiểu số.
Đức Thánh Cha nói nên thánh không chỉ cần nỗ lực của con người hay sự dấn thân cá nhân hy sinh và từ bỏ, nhưng trước hết chúng ta phải để cho mình được biến đổi bởi sức mạnh tình yêu Thiên Chúa, tình yêu lớn lao hơn chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng yêu thương vượt xa những gì chúng ta nghĩ mình có khả năng làm.
Đề cập đến chủ đề của hội nghị, Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em đã suy tư về hai hình thức thánh thiện được phong thánh: tử đạo và hiến mạng sống. Từ xa xưa, những người tin vào Chúa Giêsu đã đánh giá cao những người đã trả giá bằng chính mạng sống của mình cho tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo hội. Các ngôi mộ của các vị tử đạo thành nơi cầu nguyện. Mọi người tụ họp trong ngày các vị tử đạo được sinh ra trên trời để củng cố mối liên kết của tình huynh đệ mà trong Chúa Kitô Phục Sinh vượt quá giới hạn của cái chết, cho dù phải đổ máu và đau khổ”.
Ngài nhắc lại ba nền tảng của tử đạo: Đầu tiên, vị tử đạo là một Kitô hữu, vì không muốn chối bỏ đức tin, đã chấp nhận một cái chết đau đớn; Thứ hai, người giết Kitô hữu là kẻ bách hại, thù ghét đức tin; Thứ ba, nạn nhân có một thái độ bác ái, kiên nhẫn và hiền hành, noi gương Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Khái niệm của tử đạo không thay đổi theo thời gian, nhưng cách thức cụ thể trong bối cảnh lịch sử cụ thể thì thay đổi.
Theo nghĩa này, ngày nay, trên thế giới, có nhiều vị tử đạo đã hiến mạng sống vì Chúa Kitô. Trong nhiều trường hợp, người Kitô hữu bị bách hại vì được thúc đẩy bởi niềm tin vào Thiên Chúa, bảo vệ công lý, sự thật, hòa bình và phẩm giá của con người.
Liên kết với Năm Thánh, Đức Thánh Cha giải thích, trong Sắc chỉ Năm Thánh ngài đã xác định các vị tử đạo là những chứng từ thuyết phục nhất về niềm hy vọng. Chính vì lý do này mà trong Bộ Phong Thánh, ngài đã thành lập Ủy ban các vị Tử đạo mới - Chứng nhân Đức tin, để thu thập ký ức của các Kitô hữu cả trong các hệ phái Kitô giáo khác, những người đã hiến mạng sống để không phản bội Chúa.
Ngày Liên đới bắt đầu từ lúc 7 giờ sáng, với thánh lễ trọng thể tại Đền thánh Lòng Chúa Thương Xót, ở Lagiewniki, gần thành phố Cracovia và trong thánh lễ, các tín hữu đặc biệt cầu nguyện cho các tín hữu Kitô bị bách hại.
Các buổi lễ với ý nguyện đặc biệt cũng được cử hành tại hơn 10.000 giáo xứ toàn quốc Ba Lan, và ban chiều, nhiều tín hữu tụ họp tại Đền thánh Đức Mẹ Jasna Góra, Nữ Vương Ba Lan.
Trong một sứ điệp gửi các tín hữu Công giáo toàn quốc nhân ngày này, Đức Tổng giám mục Tadeusz Wojda, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, viết: “Chúng ta hãy cố gắng nghĩ đến các tín hữu tại Thánh địa và nâng đỡ họ bằng kinh nguyện, hy sinh và trợ giúp tài chánh. Chúng ta hãy biến ngày này thành một ngày trách nhiệm của chúng ta đối với Thánh địa”.
Đức Tổng giám mục cũng nhắc đến những người phải chiến đấu hằng ngày tại Thánh địa để sống còn trong những điều kiện khó khăn.
Cha Bernard Maria Alter, cựu Viện phụ Đan viện Biển Đức Đức Mẹ An nghỉ ở núi Sion, Jerusalem, lưu ý đến ý nghĩa biểu tượng thánh giá trong đời sống của các tín hữu Kitô ở Trung Đông. Cha nói: “Chúng tôi là một Giáo hội dưới bóng Thánh Giá, và điều này thật là rõ ràng ở Thánh địa. Đời sống hằng ngày của chúng tôi là một cuộc sống giữa những khó khăn, nhưng gần gũi với hy vọng rằng thánh giá dẫn đến phục sinh”.
Các tín hữu Kitô ở Thánh địa, đặc biệt những người sống bằng nghề sản xuất các đồ thủ công bằng gỗ ô-liu, để bán cho các tín hữu hành hương và du khách, gặp khó khăn rất nhiều, vì Thánh địa không còn người hành hương. Chiến tranh, thất nghiệp, điều này có nghĩa là họ phải chiến đấu để có thể sống còn.
Cha Jan Witold Zelazny, Giám đốc phân bộ Ba Lan của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ, nói rằng: “Nhiều khi các tín hữu Kitô bị bách hại ấy là những anh chị em bị lãng quên của chúng ta. Họ là những người cùng chia sẻ niềm tin của chúng ta nơi Chúa Kitô, chia sẻ hy vọng của chúng ta nơi sự phục sinh, nhưng chúng ta quên lãng họ, tuy rằng nhiều khi chỉ cần một ít cũng đủ để giúp đỡ họ”. Ví dụ, mua một đồ kỷ niệm, một tràng hạt làm bằng gỗ ô-liu, cũng đủ để góp phần giúp đỡ các gia đình làm nghề này ở Thánh địa. Những cử chỉ bé nhỏ như thế có một ảnh hưởng lớn.
Trong bài Tin mừng Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta chiêm ngắm cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và Phi-la-tô [1]. Ngài đã bị bắt và bị điệu đến trước quan tổng trấn của Rô-ma, là người đại diện cho quyền lực thế gian. Mặc dù, Đức Giê-su đang bị tổn thương nhưng vẫn ngẩng cao đầu, khi đứng trước quan tổng trấn Phi-la-tô. Thật ngạc nhiên khi thấy sự bình thản, ung dung và tự tại ở nơi Đức Giê-su. Chắc hẳn, cái phong thái ấy đã gây ấn tượng sâu sắc đối với người quyền thế như Phi-la-tô.
Bên cạnh đó, vào những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội luôn mời gọi chúng ta suy ngẫm về mục đích sau cùng của thế giới này. Thế giới được tạo dựng, nhưng không phát triển một cách ngẫu nhiên, mà luôn có một đích nhắm tới. Mục đích tối hậu của thế giới là đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nói một cách, thời khắc cuối cùng của lịch sử sẽ là vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa. Và trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ nói cho chúng ta biết về vương quốc ấy.
Khi Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su có phải là vua dân Do thái hay không. Đức Giê-su trả lời rõ ràng Ngài là Vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Vậy vương quốc của Ngài ở đâu?
Về cơ bản, Nước Thiên Chúa không giống như các vương quốc của người cai trị. Trong vương quốc của những người cai trị, họ thường dùng sức mạnh để đàn áp người khác, trong khi đó, Đức Giêsu đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người [2]. Bên cạnh đó, nhiều người mong muốn Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a theo kiểu chính trị. Họ hy vọng Ngài sẽ giúp người Do-thái thoát khỏi sự áp bức của ngoại bang và dùng sức mạnh để đáp trả bạo lực [3]. Ngược lại, Đức Giêsu lại tự nguyện chấp nhận đau khổ và chịu đóng đinh [4]. Khi người ta nghĩ rằng sự giàu có, quyền lực và sự nổi tiếng sẽ làm cho một người trở nên vĩ đại, thì Đức Giêsu lại dạy và sống theo tinh thần nghèo khó của các mối phúc, và lấy tình yêu làm nền tảng cho luật pháp của Nước mình. Ngài nhấn mạnh vương quốc của Thiên Chúa lấy tình yêu, lòng thương xót và sự phục vụ làm tiêu chuẩn.
Như vậy, chúng ta thấy rõ vương quốc của Thiên Chúa không cạnh tranh với chính quyền La-mã, hay bất cứ chính quyền dân sự nào khác. Cho nên, qua câu trả lời của Đức Giê-su, Phi-la-tô hiểu rõ Đức Giê-su không có ý định lật đổ chính quyền La-mã.
Thực vậy, trong suốt cuộc đời của mình, Đức Giê-su không có tham vọng làm chính trị. Sau khi thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tuyên xưng Ngài là vua, và hy vọng Ngài sẽ giúp họ lật đổ quyền lực của người La-mã và khôi phục vương quốc Is-ra-el. Tuy nhiên, Đức Giê-su biết rõ vương quốc của Ngài không thể đạt được bằng sự nổi loạn, bạo lực hay vũ lực. Đó là lý do tại sao Người đã rút lui, một mình lên núi để cầu nguyện với Chúa Cha [5]. Và giờ đây, khi trả lời Phi-la-tô, Ngài thẳng thắn nói rõ:
“Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.”
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng có một sức mạnh lớn hơn quyền lực chính trị. Đức Giê-su nói với Phi-la-tô: Tôi đến thế gian này để làm chứng cho sự thật. Sự thật ấy cũng là thông điệp cốt lõi của Tin Mừng: “Thiên Chúa là tình yêu.” [6] Thiên Chúa muốn thiết lập vương quốc của mình dựa trên tình yêu, hòa bình và công lý.
Trong vương quốc ấy Đức Giêsu là Vua, và Nước của Ngài tồn tại mãi. Lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng những vương quốc dựa trên sức mạnh bạo lực và gieo rắc lòng hận thù, thì các vương quốc ấy đều mong manh và đã bị sụp đổ. Còn vương quốc của Thiên Chúa dựa trên tình yêu, hòa bình và công lý, nó sẽ tồn tại mãi và bén rễ sâu trong trái tim con người. Tất cả những ai mở lòng đón nhận Nước Thiên Chúa, thì trái tim họ sẽ đầy ắp bình an, tự do và sự sống vĩnh cửu.
Nếu chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô là Vua, thì cần phải để cho Ngài là Vua trong đời sống cá nhân, trong gia đình và trong cộng đoàn của mình. Chúng ta hãy thành thật và tự hỏi chính mình: Chúa Kitô có thực sự là Vua của tôi hay không? Tôi đã để cho Ngài ngự trị trong tâm hồn, để cho Ngài bước vào và hướng dẫn cuộc sống của tôi hay chưa? Thực vậy, Đức Kitô chỉ thực sự là Vua của chúng ta, nếu mỗi người chúng ta để cho Ngài hướng dẫn mọi ước muốn, suy nghĩ và hành động của mình.
Nước của Thiên Chúa sẽ mau trị đến trên thế gian này, nếu trước tiên, Nước Thiên Chúa được phát triển trong tâm hồn và ý chí của mỗi người. Tiếp đến, vương quốc của Thiên Chúa sẽ được lan tỏa đến mọi khía cạnh trong cuộc sống xã hội. Lúc ấy, mọi điều chúng ta suy nghĩ và hành động đều theo ý muốn của Thiên Chúa. Và trong tất cả mọi việc chúng ta làm, Thiên Chúa thực sự là Vua, Ngài điều khiển và hướng dẫn mọi sự.
Hôm nay, khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta được nhắc nhớ về lời cầu nguyện: xin cho Nước Cha mau trị đến. Chúng ta cũng được mời gọi dành thời gian để duyệt xét lại đời sống của mình:
Lm Giuse Trần Văn Ngữ, S.J.
[1] Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Kitô Vua Vũ Trụ (Ga 18,33b-37).
[2] Xem Mt 20, 24-28.
[3] Xem Mt 26,51; Lc 9,54; Ga 18,10-11; Cv 1,6.
[4] Xem Mc 8,31; Mt 26,52; Lc 9,55-56.
[5] Xem Ga 6, 5-15.
[6] Xem 1 Ga 4,8.
Số nạn nhân
Về số nạn nhân, vào tháng 9, The Wall Street Journal, trích dẫn các nguồn tin tình báo, đã viết rằng kể từ ngày 24/2/2022, khoảng một triệu người đã chết, cả người Ukraina và người Nga. Hầu hết trong số đó là binh lính của cả hai bên, tiếp theo là thường dân Ucraina. Cùng tháng đó, BBC và trang web độc lập Mediazone ước tính có 70.000 binh lính Nga đã chết ở Ukraine, trong đó 20% là lính tình nguyện.
Khoảng 6,7 triệu người Ukraine đã chạy trốn khỏi đất nước, trong khi khoảng 4 triệu người phải di tản nội địa.
Cơ sở hạ tầng bị phá hủy
Cơ sở hạ tầng bị phá hủy khi tên lửa đã nhắm vào 3.798 trường học, phá hủy 356 trường trong số đó.
Kể từ khi chiến tranh nổ ra, 1.619 cơ sở y tế đã bị hư hại và 214 cơ sở bị xóa sổ, trong đó các cơ sở ở Kharkiv, Donetsk, Mykolaiv, Kyiv, Kherson và Zaporizhzhia là những nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Kinh tế suy thoái
Tất cả những điều này đều tác động đến nền kinh tế của Ukraine, vốn trước đây dựa trên nông nghiệp. Cho đến vài năm trước, nước này được coi là “vựa lúa mì của thế giới”, xuất khẩu 20% lúa mì và 45% dầu hướng dương của thế giới. Do các cuộc tấn công vào các cảng ở Biển Đen, Ukraine gần như mất toàn bộ sức mạnh thương mại của mình. Nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh, lạm phát lên đến 8,6% do giá lương thực tăng, chi phí sản xuất tăng và áp lực liên tục từ việc tiền tệ bị phá giá. Mặc dù dân số Ukraina đang giảm, tỷ lệ thất nghiệp vào tháng 10 vẫn ở mức trên 15% và chỉ số nghèo đói vẫn ở mức 20%. Doanh thu ngân sách nhà nước ở Ukraine đã được sử dụng để tài trợ cho quốc phòng. Trong khi đó, chi phí dân sự đã được hỗ trợ bởi viện trợ bên ngoài.
Các nạn nhân trẻ em
Trong số các nạn nhân của chiến tranh, hàng triệu trẻ em Ukraine tiếp tục bị đảo lộn cuộc sống do các cuộc tấn công đang diễn ra. Đặc biệt, trẻ em ở vùng Donbass ở phía đông Ukraine đã phải sống cảnh chiến tranh hơn 10 năm.
Trong một thông cáo ngày 18/11, bà Catherine Russell, tổng giám đốc Unicef tuyên bố: “Gánh nặng đối với trẻ em thật kinh khủng và không thể chấp nhận được. Trẻ em đã bị giết trên giường, trong bệnh viện và trên sân chơi, khiến các gia đình bị tàn phá bởi sự mất mát của tuổi thơ hoặc những vết thương làm thay đổi cuộc đời”. Bà cũng nói thêm: “Hàng triệu trẻ em thường xuyên phải sống trong nỗi sợ hãi, nhiều em phải sống khoảng 6 giờ mỗi ngày trong ngục tối dưới còi báo động không kích. Nếu không có sự hỗ trợ nhiều hơn và liên tục cho trẻ em, những vết sẹo tâm lý của cuộc chiến này sẽ để lại hậu quả cho nhiều thế hệ”.
Do đó, bà Russell nói: “Trẻ em Ukraina phải được bảo vệ khỏi nỗi kinh hoàng kéo dài của cuộc chiến này. Thế giới không thể im lặng khi các em phải chịu đau khổ”
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, nhân kỷ niệm một ngàn ngày chiến tranh tại Ucraina, giữa ảo tưởng nơi khả năng giải quyết của các tổ chức quốc tế và sự tín thác qua các hoạt động của một Giáo hội không ngừng vun trồng và phổ biến niềm hy vọng, cũng như gần gũi dân chúng đang đau khổ từ quá lâu vì sự gây hấn của quân Nga. Cuộc phỏng vấn diễn ra hôm trước ngày Nga tấn công ồ ạt trên toàn nước Ucraina bằng các tên lửa và máy bay không người lái, đánh vào các cơ cấu hạ tầng, và làm cho nhiều người chết và bị thương.
Đức Sứ thần Tòa Thánh nhìn nhận rằng nhiều khi chỉ còn phương thế cầu nguyện là sức mạnh duy nhất, nhưng ngài rất tin tưởng lời cầu nguyện có thể làm phép lạ. Các mục tử ở cạnh các tín hữu của mình và điều này là một hồng ân của Giáo hội Công giáo cũng như của các Giáo hội khác, và các cộng đồng tín ngưỡng. Đức Tổng giám mục Kulbokas nói: “Tôi đã sống điều đó tại thành Kherson, khi nghe các câu chuyện của các linh mục ở lại với dân, như điểm tham chiếu cho dân chúng và vì thế, dân rất biết ơn các linh mục. Do vậy, việc ở lại với nhau là điều rất quan trọng. Ngoài ra, hoạt động của các linh mục tuyên úy quân đội cũng rất quan trọng, vì các quân nhân không biết ngày mai mình có còn sống hay không, và chính trong những trường hợp đó, câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống là rất quan trọng. Tôi đã nghe kể những người thiện nguyện mang thuốc men cho binh sĩ và thường nghe các quân nhân này nói rằng anh chị đối với tôi giống như Chúa Giêsu, vì anh chị đến tận đây để mang thuốc men cho tôi. Vì thế, tại những nơi đó có một cảm thức tình nhân đạo rất mạnh”.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha nói thêm chính vì “hoà bình” mà ngài cầu nguyện để một ngày nào đó “hoà bình” một lần nữa vang lên trong các ngôi nhà, gia đình và đường phố của Ucraina.
Trong thư gửi đến vị đại diện của mình tại đất nước này, Đức Thánh Cha cũng nhắc đến “phút mặc niệm toàn quốc” mà mỗi ngày vào lúc 9 giờ sáng người dân Ucraina thực hiện để tưởng nhớ các nạn nhân chiến tranh: trẻ em và người lớn, dân thường và binh lính, cũng như các tù nhân bị giam giữ trong những điều kiện khủng khiếp.
Nghĩ đến những người này, Đức Thánh Cha cầu nguyện với Thánh vịnh 121 “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”, đồng thời nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta rằng sự giúp đỡ của Chúa đến ngay cả trong những thời điểm đen tối. Ngài viết: “Nguyện xin Chúa an ủi tâm hồn chúng ta và củng cố niềm hy vọng rằng, khi Người gom hết mọi giọt nước mắt đã rơi và sẽ xét xử mọi sự, Người vẫn luôn ở bên chúng ta, ngay cả khi những nỗ lực của con người dường như không mang lại kết quả và những hành động không đủ”.
Trong thư gửi Sứ thần Toà Thánh, Đức Thánh Cha nhắc lại lời cầu nguyện cho hoà bình, điều mà từ khi được bầu chọn làm Giáo hoàng, ngài không ngừng lặp lại. Ngài xin cho mọi trái tim được hoán cải để thúc đẩy đối thoại và hoà hợp.
Kết thúc thư, Đức Thánh Cha ban phép lành cho các giám mục, linh mục, những mục tử vẫn kiên định trong sứ vụ đồng hành và hỗ trợ các tín hữu tại Ucraina. Ngài cũng gửi lời chúc lành cho toàn thể người dân Ucraina, bày tỏ tin tưởng rằng “Chúa sẽ có lời cuối cùng đối với thảm kịch to lớn này”.
Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh cho biết ngài có cảm giác “buồn sâu sắc” trước tin tức chúng ta nhận được hàng ngày về cái chết và sự hủy diệt ở Ucraina. Ngài đau lòng trước “sự hy sinh của cả thế hệ nam giới, người trẻ cũng như người không còn trẻ, bị kéo ra khỏi việc học tập, công việc và gia đình” để bị đưa ra mặt trận. Ngài khẳng định Ucraina “là một quốc gia bị tấn công và tử đạo”.
Nga cần đi bước trước
“Phải làm gì để ít nhất ngăn chặn được cuộc đụng độ vũ khí?”, theo Đức Hồng y Parolin, “chúng ta cần những người cam kết hòa bình chứ không phải chiến tranh” và những người “nhận ra trách nhiệm to lớn mà việc tiếp tục xung đột gây ra” với những hậu quả khủng khiếp đối với Châu Âu và toàn thế giới. Theo ngài, Nga có lẽ cần đi bước trước bởi vì Nga là nước đã khởi xướng xung đột và nên chấm dứt hành động xâm lược”.
Đàm phán với sự tin tưởng
Ngài nói: “Cần biết bao những chính khách có tầm nhìn xa, có khả năng thực hiện những cử chỉ khiêm tốn can đảm, có khả năng nghĩ đến lợi ích của người dân mình”. Ngài khẳng định rằng “ngay cả khi các dấu hiệu không tích cực, một cuộc đàm phán luôn có thể thực hiện được và đáng mong muốn đối với tất cả những ai quan tâm đúng mức đến sự thánh thiêng của sự sống con người. Đàm phán không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối mà là sự can đảm”. Ngài nói thêm rằng đối thoại chỉ có thể diễn ra khi có sự tin tưởng tối thiểu giữa các bên. Và điều đó đòi hỏi thiện chí của mọi người.
Cầu nguyện và trợ giúp cho Ucraina
Để giúp Ucraina, theo Đức Hồng y, là các Kitô hữu, chúng ta có thể và phải cầu nguyện. Hãy cầu xin Chúa hoán cải tâm hồn của các “chúa tể chiến tranh”. Chúng ta cũng cần tiếp tục dấn thân liên đới với những người đau khổ, những người cần được chăm sóc, những người phải chịu đựng cái lạnh, những người cần mọi thứ.
“Chúng ta không thể đầu hàng trước sự tất yếu của chiến tranh!"
Kết thúc cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y bày tỏ: “Chúng ta không thể đầu hàng trước sự tất yếu của chiến tranh! Tôi chân thành hy vọng rằng ngày đau buồn này, ngày thứ một ngàn kể từ khi bùng nổ cuộc xâm lược quân sự chống lại Ucraina, sẽ gây ra một cú sốc trách nhiệm nơi mọi người và đặc biệt là những người có thể ngăn chặn cuộc tàn sát đang diễn ra”.
Đi từ mục đích của Hội nghị: Thư viện Vatican muốn mở ra đối thoại với thế giới, Đức Thánh Cha nói với các tham dự viên Hội nghị gồm các ân nhân, các đại diện của 23 thư viện lớn trên thế giới rằng, Thư viện Vatican muốn đối thoại với các tổ chức thân hữu về một số điểm chính, đưa ra các bản nghiên cứu mà ngài hy vọng có thể tiếp tục làm phong phú lẫn nhau.
Với thực tế công nghệ phát triển, giúp hoạt động thư viện mau chóng hơn, nhưng cũng có nguy cơ khó kiểm soát, chi phí cao cho việc quản lý các bộ sưu tập bằng giấy, Đức Thánh Cha khích lệ những người làm việc trong các thư viện tiếp tục làm việc để những nơi này trở thành một nơi bình an, ốc đảo gặp gỡ và tự do thảo luận.
Để nâng đỡ sự dấn thân này, Đức Thánh Cha nói ngài muốn giao phó cho mọi người bốn tiêu chí mà ngài đã đề xuất trong Evangelii Gaudium-Niềm Vui Tin Mừng (số 222-237).
Thứ nhất: thời gian vượt không gian. Những người làm việc trong lĩnh vực thư viện gìn giữ kho tàng kiến thức to lớn. Những kho tàng này có thể trở thành những nơi dành thời gian suy ngẫm, mở ra chiều kích tâm linh và siêu việt. Và do đó, họ có thể khuyến khích các nghiên cứu dài hạn mà không bị ám ảnh về kết quả ngay lập tức, khuyến khích sự phát triển của một chủ nghĩa nhân văn mới trong thinh lặng và suy tư.
Thứ hai: sự thống nhất chiếm ưu thế hơn xung đột. Nghiên cứu hàn lâm chắc chắn sẽ nảy sinh những khoảnh khắc gây tranh luận, điều này phải được thực hiện trong một cuộc tranh luận nghiêm túc, để không dẫn đến lạm quyền. Thư viện phải mở cho tất cả các lĩnh vực kiến thức, thể hiện mục đích chung giữa các quan điểm khác nhau.
Thứ ba: thực tế quan trọng hơn ý tưởng. Điều tốt là tính cụ thể của các lựa chọn và sự quan tâm đến thực tế phát triển trong mối liên hệ chặt chẽ với cách tiếp cận phê bình và suy lý, để tránh bất kỳ sự đối lập sai lầm nào giữa suy nghĩ và kinh nghiệm, giữa sự kiện và nguyên tắc, giữa thực hành và lý thuyết. Có một tính ưu việt của thực tại mà sự suy tư phải luôn tôn trọng nếu muốn chân thành tìm kiếm sự thật.
Thứ tư: toàn thể lớn hơn bộ phận. Chúng ta được mời gọi hòa giải sự căng thẳng giữa địa phương và toàn cầu, nhớ rằng không ai là cá nhân cô lập, nhưng mọi người đều là người sống với các mối quan hệ và mạng lưới xã hội, để tham gia một cách có trách nhiệm.
Sau cùng Đức Thánh Cha khích lệ mọi người đừng sợ sự phức tạp của thế giới trong đó chúng ta được mời gọi làm việc. Ngài cầu chúc những gì mọi người đã chia sẻ sẽ giúp phát triển, trong thư viện, những “kinh sư” khôn ngoan được Chúa Giêsu ca ngợi, những người biết rút ra những điều mới và cũ từ kho tàng của mình, vì lợi ích của mọi người (Mt 13, 52).
Nhiều tín hữu sống kinh nghiệm đau đớn sâu đậm này, với họ hướng đi của Giáo hội bây giờ là vô cùng quan trọng. Với một số người, kể cả các nạn nhân bị lạm dụng, nỗi đau là lời nhắc nhở Giáo hội không phải là nơi mọi người có thể tin tưởng để được an toàn, vì thế một số tín hữu cảm thấy nhẹ nhõm khi Tổng giám mục Canterbury Justin Welby từ chức vì đã mất uy tín trong việc quản lý các vụ lạm dụng.
Nhưng cũng có một số tín hữu buồn vì họ cảm thấy Tổng giám mục Welby đã làm nhiều điều tốt và, dù chậm nhưng cố gắng điều khiển Giáo hội theo một hướng tốt hơn.
Là nhà quan sát vô tư của nhiều cộng đồng đức tin, tôi cảm thấy có ít tổ chức phù hợp với Giáo hội Anh trong quan điểm rộng lớn này. Giáo hội Anh có giám mục nữ và cũng có các giám mục nam từ chối phong chức cho phụ nữ.
Trong một lãnh vực khác, Giáo hội đã bỏ phiếu thuận để chúc phúc cho các cặp đồng tính và nếu các giáo sĩ nào không cảm thấy thoải mái khi chúc phúc thì họ không buộc phải làm. Qua Hội nghị quốc gia của Giáo hội, Thượng Hội đồng chung cho thấy Giáo hội Anh bị phân cực trên nhiều vấn đề. Sau các cuộc tranh luận, cuối ngày họ đến với nhau trong giờ thờ phượng. Tổng giám mục Welby xem đây là phần quan trọng trong công việc của ngài để tập hợp các phe phái rất khác nhau trong Giáo hội Anh và thậm chí còn khó khăn hơn, trong Giáo hội toàn cầu rộng lớn hơn Hiệp thông Anh giáo của 85 triệu người.
Theo ngài, đây là sự sống còn của một Giáo hội đã suy giảm rất nhiều, lần đầu tiên giảm xuống dưới 50%, với con số của những người không liên kết với một tôn giáo nào ngày càng tăng.
Trong suốt 12 năm tại chức, Tổng giám mục đã nỗ lực tìm những điểm chung trong lúc có những thay đổi xã hội quan trọng khác, ngài chứng tỏ cho thấy ngài là nhà điều hành chính trị sắc sảo.
Đầu nhiệm kỳ với tư cách là Tổng Giám mục Canterbury, ngài đã mở cuộc bỏ phiếu cho phép phụ nữ trở thành giám mục, ủng hộ việc chuyển đổi trong sự chia rẽ thường xuyên đầy sóng gió.
Về vấn đề tình dục và kết hợp đồng tính, ngài đã có một hành trình gay go – chuyển từ một vị trí rất bảo thủ sang một vị trí mà cuối cùng ngài thông qua cuộc bỏ phiếu để cho phép chúc phúc cho các kết hợp đồng giới.
Nhưng các nhà quan sát xem đây là một chút lừa dối của Giáo hội và của Tổng giám mục Welby. Cuộc tranh luận đã không bắt đầu với tiền đề người đồng tính bình đẳng trong Giáo hội và xứng đáng được bình đẳng hôn nhân (một điều không được đưa ra bỏ phiếu) và kết quả không đại diện cho một sự thay đổi đáng kể trong giáo huấn của Giáo hội.
Nhưng các nhà lãnh đạo Giáo hội cũng không lên án các kết hợp đồng tính như một số người theo chủ nghĩa truyền thống mong muốn. Giáo hội đã làm rõ, với các Giáo hội Châu Phi, lời cầu nguyện chúc phúc đã được bỏ phiếu thông qua là để chúc phúc cho các cá nhân trong kết hợp đồng tính chứ không phải chúc phúc cho chính kết hợp này.
Đó là chủ đề mà khi quá tập trung vào việc giữ mọi thứ lại với nhau, đôi khi lại như cố gắng trở thành tất cả mọi thứ cho tất cả mọi người, trên nguyên tắc, Tổng giám mục Welby đã bị nhiều người ở cả cánh hữu và cánh tả cho là không có lập trường.
Ngài đã ứng xử như một chính trị gia và theo một cách nào đó đã phải đối diện với sự sụp đổ của một chính trị gia hoặc giám đốc điều hành, chứ không phải là nhà lãnh đạo tinh thần.
Điều mà giáo dân Anh giáo đang kêu gọi bây giờ là có một thần học gia để lãnh đạo Giáo hội hơn là nhà điều hành, nhưng trong thế giới hiện đại với những trách nhiệm hiện đại, nhà lãnh đạo cần có những yếu tố cần thiết để điều hành.
Chủ nghĩa bộ tộc và phân cực thường thấy rõ trong Giáo hội làm cho một số người nhận thấy nên có một chính trị gia tài năng, đó là cách duy nhất để thể chế không bị rạn nứt.
Dù Tổng giám mục Welby có thể có kỹ năng gì, nhưng đã không xử lý đúng các trường hợp lạm dụng khi vấn đề đã được mọi người chú ý đến và bảo đảm để mọi người tuân thủ thì ngài đã đánh mất niềm tin của người tín hữu vào Giáo hội.
Giải quyết dứt khoát vấn đề quan trọng này có thể đã giúp ích trong sứ mệnh của ngài để xây dựng sự hiệp nhất và để ngăn chặn tình trạng giáo dân ngày càng đi xuống.
Giáo hội Anh đang trải qua giai đoạn gần như chưa từng có. Trong hơn một trăm năm qua, chỉ có sự kế vị của Tổng giám mục William Temple, qua đời năm 1944 mới tạo ra mức độ bất ổn như vậy.
Kể từ năm 1975, Giáo hội và Quốc hội Anh đã thông qua đạo luật các giáo chủ phải nghỉ hưu ở tuổi 70. Năm 2022, trong một phỏng vấn với báo Times, Tổng giám mục Justin Welby cho biết ngài sẽ tiếp tục tại vị cho đến giới hạn tuổi năm 2026.
Một Tổng giám mục lâm thời cho giáo phận York?
Việc ngài bất ngờ từ chức ngày 12 tháng 11 đã làm xáo trộn lịch sinh hoạt bình thường của Giáo hội, việc bổ nhiệm Giám mục thay thế vẫn chưa được ấn định, nên chưa ai có thể nói chính xác những gì sẽ xảy ra trong vài tháng tới. Ngày 20 tháng 11, Tổng giám mục Justin Welby thông báo ngài sẽ chấm dứt chức vụ của ngài ngày 6 tháng 1 năm 2025. Có tin đồn Tổng giám mục Stephen Cottrell, giáo phận York sẽ tạm thời thay thế.
Tất cả đều hướng về tương lai. Cho đến năm 1976, Tổng Giám mục Canterbury được Thủ tướng trực tiếp lựa chọn. Giáo hội Anh mong muốn có được độc lập vì các việc bổ nhiệm đều phải được Ủy ban Bổ nhiệm của Hoàng gia thông qua. Ủy ban này có 16 thành viên: Tổng Giám mục Canterbury, người sẽ được thay thế bởi một giám mục khác, Tổng Giám mục York, sáu thành viên của thượng hội đồng, ba đại diện của giáo phận Canterbury và năm thành viên của Cộng đồng Anh giáo trên toàn thế giới.
Việc lựa chọn người đứng đầu Anh giáo rất cụ thể: mỗi người phải đại diện cho một lục địa khác nhau, ít nhất hai người trong số này là phụ nữ và tối đa có hai người “da trắng”. Sau khi phỏng vấn các ứng viên, Ủy ban sẽ đề xuất một nhân vật lên Vua Charles III, Vua sẽ phê chuẩn ứng viên này.
Suy nghĩ về việc đề cử một phụ nữ
Hiện tại, danh sách có 7 người thường được báo chí nhắc đến. Ông Stephen Cottrell, 66 tuổi tuyên bố trên nhật báo Guardian, ông không nghĩ mình là ứng viên vì Giáo hội cần người có thể cống hiến ít nhất 5 đến 10 mười năm. Ông hoan nghênh phụ nữ ở chức vụ này. đây sẽ là một cuộc cách mạng nhỏ, vì chưa bao giờ có phụ nữ nắm giữ trách nhiệm cao nhất này trong Giáo hội Anh.
Mười năm sau lần phong nữ giám mục đầu tiên, có 4 phụ nữ ở trong danh sách được mến chuộng: Bà Rose Hudson-Wilkin, 63 tuổi, người phụ nữ da đen đầu tiên làm giám mục ở Dover; Guli Francis-Dehqani, 58 tuổi, giám mục Chelmsford; Sarah Mullally, 62 tuổi, giám mục Luân Đôn và Rachel Treweek, 61 tuổi, giám mục Gloucester.
Tuy nhiên, sự hiện diện của năm đại diện không phải người Anh có thể làm rắc rối cho việc bầu cử. Linh mục thần học gia Martyn Percy giải thích: “Đa số các Hiệp hội nước ngoài vẫn phản đối giám mục nữ. Nếu bạn tham khảo ý kiến của những người từ các châu lục khác, bạn sẽ ít có khả năng chọn được một ứng viên ủng hộ LGBTQ hoặc một phụ nữ ở giáo phận Canterbury vì bạn sẽ phải cố gắng làm vừa lòng mọi người. Như thế có thể có lợi cho Giám mục Martyn Snow, 56 tuổi hoặc Giám mục Graham Usher, 54 tuổi.”
Ngoài vấn đề giới tính, người đứng đầu sẽ phải giải quyết các vấn đề lớn trong những năm gần đây. Giáo dân mong Giáo hội chú ý nhiều hơn đến thần học và đời sống thiêng liêng, được các nhà lãnh đạo là thần học gia dẫn dắt rõ ràng, chứ không phải các nhà quản lý.”
Vụ dàn xếp trị giá 880 triệu đô la của Tổng giáo phận Los Angeles được công bố ngày 16 tháng 10, nâng tổng số tiền các giáo phận Mỹ thanh toán để giải quyết các vụ lạm dụng kể từ năm 2004 lên hơn 4,4 tỷ đô la. Đây là con số được trang thông tin OSV News công bố ngày 8 tháng 11-2024, tổng cộng hai thập kỷ báo cáo của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ. Thông báo cho biết các giáo phận và giáo phận đông phương của đất nước đã trả khoảng 3,7 tỷ đô la để giải quyết các vụ khiếu nại từ năm 2004 đến năm 2023. Việc giải quyết 776 triệu đô la của Tổng giáo phận Los Angeles và 284 triệu đô la của giáo phận Rockville Center (New York) công bố ngày 26 tháng 9, gần 1 tỷ đô la trong thời gian chưa đầy một tháng. Hai con số này cộng với tổng số tiền của Hội đồng Giám mục Mỹ từ năm 2004 đến năm 2023 lên đến 4,8 tỷ đô la.
Tổng số tiền Hội đồng Giám mục Mỹ trả cho giai đoạn 2004-2023 không tính đến 660 triệu đô la được Tổng giáo phận Los Angeles công bố năm 2007, cùng với khoản giải quyết ngày 16 tháng 10, nâng tổng số tiền của Tổng giáo phận này lên 1,1 tỷ đô la chi phí liên quan đến lạm dụng trong 20 năm qua.
Số tiền bồi thường lên đến 5,4 tỷ đồng
Tổng số tiền thanh toán của các giáo phận Mỹ trong 20 năm qua có thể vượt quá 6,24 tỷ đô la nếu các dữ liệu Hội đồng Giám mục Mỹ bao gồm khoản thanh toán do Tổng Giáo phận Los Angeles thực hiện năm 2007.
Để tính toán tổng số tiền bồi thường trả trong 20 năm qua, dữ liệu từ báo cáo thường niên của Hội đồng Giám mục Mỹ về việc thực hiện “Hiến chương Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên” – còn được gọi là Hiến chương Dallas – đã được kiểm tra. Kể từ khi thông qua hiến chương năm 2002, Hội đồng Giám mục Mỹ đã báo cáo tổng chi phí của các giáo phận toàn quốc đã chi trả để giải quyết các khiếu nại về lạm dụng tình dục.
Chi phí bổ sung bao gồm trong số liệu thống kê
Chi phí thể hiện số tiền “chi tiêu hoặc phát sinh” trong một năm cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên. Các khoản thanh toán, thanh toán trị liệu cho những người sống sót (nếu không được bao gồm trong thỏa thuận dàn xếp) và cho người phạm tội cũng như phí luật sư đều được bao gồm trong các số liệu.
Dữ liệu này được Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Tông đồ (CARA) tại Đại học Georgetown lấy từ các cuộc khảo sát trực tuyến và qua thư. Tỷ lệ phản hồi của các giáo phận trong giai đoạn 2004-2023 là từ 99% đến 100%. CARA cũng đưa vào báo cáo hàng năm dữ liệu tương tự về các viện giáo sĩ và các tổ chức tôn giáo hỗn hợp; nhưng tỷ lệ phản hồi của các nơi này thường từ 68% đến 72%.
Tổng số tiền các giáo phận phải trả để thiết lập và duy trì để có môi trường an toàn lên tới ít nhất 628,8 triệu đô la trong những năm 2004-2023.
Dữ liệu của USCCB-CARA không bao gồm các khoản dàn xếp mà các giáo phận đã ký kết với các nạn nhân trước năm 2004. Những số tiền này khác nhau và nhiều số tiền không được các giáo phận tiết lộ.
Đức Hồng y Eijk bày tỏ lập trường trên đây, trong bài thuyết trình tại Đại hội quốc tế lần thứ III, về hôn nhân và gia đình, tiến hành từ ngày 13 đến 15 tháng Mười Một vừa qua, tại thành phố Cracovia, bên Ba Lan. Ngài cũng cảnh giác trước ý niệm mơ hồ về người nam và người nữ trong nền văn hóa hiện đại, làm cho việc công bố đức tin Kitô trong những năm tới đây trở nên khó khăn.
Đức Hồng y Eijk nguyên là một bác sĩ y khoa trước khi đi tu làm linh mục. Trong bài thuyết trình, ngài nói về những thay đổi trong quan niệm về hôn nhân và việc làm cha làm mẹ, cũng như những hậu quả từ đó mà ra. Ngài ghi nhận rằng Giáo hội Công giáo hiện nay là tổ chức duy nhất trên thế giới còn duy trì ý niệm truyền thống về hôn nhân và các giá trị cũng như những quy luật về tính dục. Nòng cốt giáo huấn của Hội Thánh trong lãnh vực này là có một liên hệ chặt chẽ giữa hôn nhân, quan hệ tính dục và sinh sản. Chỉ được quan hệ tính dục sau khi kết hôn. Hôn nhân và quan hệ tính dục cởi mở đối với sự sinh sản con cái. Điều này đối với nhiều người trong xã hội ngày nay là điều không thể hiểu nổi, vì nhờ các phương tiện ngừa thai, bán trên thị trường từ thập niên 1960, người ta có thể tránh thai, cũng như nhờ sự thụ thai nhân tạo, người ta có thể có con ngoài hôn nhân.
Một yếu tố khác ảnh hưởng lớn trong lãnh vực này là tầm quan trọng của Thiên Chúa trong đời sống thường nhật, trong các tương quan xã hội và các tổ chức xã hội bị giảm bớt. Do đó, hôn nhân ngày càng không còn được coi như một định chế do Thiên Chúa thiết đặt. Và từ đó, các giá trị và quy luật liên quan đến kinh nghiệm tính dục và sinh sản sẽ không còn nữa.
Đức Hồng y Giáo chủ Công giáo Hòa Lan cũng nói đến những yếu tố khác ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi trong quan niệm về hôn nhân, tính dục và các quy luật đi kèm. Đó là sự thịnh vượng gia tăng làm cho con người có cơ hội tự tổ chức cuộc sống độc lập với người khác. Ngoài ra, có trào lưu nữ quyền cực đoan, theo đó phụ nữ và người trẻ tự do chọn những gì mình muốn về tính dục, từ đó dẫn tới việc đề ra lý thuyết Gender, về giống, vai trò xã hội của người nam và người nữ có thể hoàn toàn tách biệt khỏi tính dục về sinh học. Theo lý thuyết này, người ta có thể tự do chọn là người nam hay người nữ, bất luận phái tính sinh học của mình là gì.
Đức Hồng y Eijk nhận xét rằng lý thuyết về giống gây khó khăn cho Giáo hội trong việc rao giảng luân lý về hôn nhân và luân lý tính dục. Ngài cũng trưng dẫn kinh nghiệm của Giáo hội Hòa Lan, muốn thích ứng luân lý tính dục của Giáo hội với trào lưu xã hội ngày nay, nhưng kết quả là tỷ lệ sống đạo của các tín hữu Công giáo sa sút trầm trọng: ngày nay chỉ còn 2,5% người Công giáo nước này đi lễ mỗi Chúa nhật. Trong bối cảnh đó, Giáo hội cần tiếp tục công bố giáo huấn về luân lý tính dục một cách chân thành và tự do. Ngài cũng ghi nhận có những dấu hiệu hồi sinh của Giáo hội Hòa Lan: những người trẻ xin được đón nhận vào sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo qua bí tích rửa tội hoặc thêm sức, và có khuynh hướng đón nhận hoàn toàn đạo lý Công giáo.
Nuôi dưỡng mối liên kết với các thế hệ đi trước
Mở đầu lá thư được công bố trong buổi họp báo tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, Đức Thánh Cha đề cập đến nhu cầu cổ võ “ý thức lịch sử đích thực”, với việc xét đến “chiều kích lịch sử của chúng ta như là những con người”. Ngài nhấn mạnh: “Không ai có thể thực sự biết được căn tính sâu xa nhất của mình, hoặc điều họ mong muốn trở thành trong tương lai, nếu không chú ý đến những mối liên kết gắn kết họ với các thế hệ trước”.
Giáo hội là người mẹ phải được yêu mến như Giáo hội là
Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha tuyên bố rằng chúng ta phải từ bỏ quan niệm “thiên thần” về Giáo hội và chấp nhận “những vết nhơ và nếp nhăn” của Giáo hội để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự là. Ngài viết: “Giáo Hội cũng như người mẹ, phải được yêu thương như Giáo hội vốn là, nếu không chúng ta không yêu Giáo hội chút nào, hoặc chúng ta chỉ yêu một bóng ma trong trí tưởng tượng của mình”. Giáo hội học hỏi từ những sai lầm của mình và nhận ra chính mình “ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối”, chữa lành vết thương của chính mình và của thế giới nơi Giáo hội đang sống.
Nền văn hóc hủy bỏ
Nói về tầm quan trọng của việc bảo tồn lịch sử trong Giáo hội và trong xã hội, Đức Thánh Cha đã cảnh báo về “văn hóa hủy bỏ” và những câu chuyện lịch sử thiên vị bóp méo quá khứ để biện minh cho các hệ tư tưởng hiện tại. Theo ngài, chúng ta cần có sự tham gia cân bằng vào lịch sử, thừa nhận cả những chương đen tối nhất của nhân loại và những khoảnh khắc ân sủng phi thường. Ngài nhấn mạnh, ký ức “không phải là trở ngại cho sự tiến bộ mà là nền tảng cho công lý và tình huynh đệ”.
Tham chiếu các nguồn lịch sử chính yếu của Giáo hội
Đức Thánh Cha đã đề cập đến một số lĩnh vực cần đổi mới trong việc nghiên cứu lịch sử Giáo hội. Ngài chỉ trích những cách tiếp cận giản lược lịch sử Giáo hội thành những sự kiện theo trình tự thời gian đơn thuần, và nhấn mạnh đến nhu cầu nghiên cứu lịch sử một cách say mê và nhiệt huyết. Ngài cũng kêu gọi nhấn mạnh nhiều hơn vào các nguồn chính yếu, thúc giục các chủng sinh đào sâu các tác phẩm thời đầu Kitô giáo.
Sự tử đạo
Cuối cùng, Đức Thánh Cha suy tư về tính trung tâm của sự tử đạo trong lịch sử Giáo hội, nhắc nhở các tín hữu rằng Giáo hội thường tìm thấy vẻ đẹp vĩ đại nhất của mình trong những khoảnh khắc bị bách hại và đau khổ, khi chứng tá của Giáo hội về Chúa Kitô tỏa sáng nhất.
Kết thúc lá thư, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu lịch sử và nhắc nhở rằng “nghiên cứu không phải là chuyện ngồi lê đôi mách”. Nghiên cứu thực sự đòi hỏi lòng can đảm để đặt ra những câu hỏi sâu sắc và chống lại sự xao lãng của chủ nghĩa tiêu thụ về văn hóa.
Nhấn mạnh tính cấp bách của vấn đề, Đức Thánh Cha cho biết: “Dữ liệu hiện tại cho thấy, sau các phân tích chuyên sâu mới nhất do các chuyên gia độc lập thực hiện, sự mất cân bằng nghiêm trọng trong Quỹ, quy mô của Quỹ có xu hướng tăng theo thời gian nếu không có sự can thiệp”. Ngài nói tiếp, “thật không may, hệ thống hiện tại không có khả năng đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ lương hưu cho các thế hệ tương lai trong trung hạn”.
Đức Thánh Cha giải thích rằng việc quản lý Quỹ hưu trí từ lâu đã là mối quan tâm của các Giáo hoàng, được thúc đẩy bởi trách nhiệm đạo đức trong việc cung cấp lương hưu công bằng và có phẩm giá cho nhân viên của Tòa thánh và Quốc gia Thành Vatican.
Ngài thừa nhận rằng việc giải quyết vấn đề này sẽ đòi hỏi “những quyết định khó khăn đòi hỏi sự nhạy cảm, quảng đại và sẵn sàng hy sinh đặc biệt từ mọi người”.
Bày tỏ sự tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Đức Hồng y Kevin Farrell, Đức Thánh Cha thông báo quyết định bổ nhiệm Đức Hồng y Farrell làm Quản trị viên duy nhất của Quỹ hưu trí.
Ngài ca ngợi những người trước đây đã làm việc về vấn đề này nhưng nhấn mạnh đến nhu cầu “bắt đầu giai đoạn mới, rất quan trọng đối với sự ổn định và phúc lợi của cộng đồng chúng ta”. Ngài cũng kêu gọi sự đoàn kết và hợp tác giữa Giáo triều Roma và các tổ chức liên kết với Tòa Thánh, thúc giục tất cả mọi người tiếp cận các cải cách cần thiết với tầm nhìn chung.
Kết thúc lá thư, Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện và hỗ trợ trong giai đoạn chuyển đổi đầy thách thức này.
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “The Continuing Scandal of the Vatican’s China Policy”, nghĩa là “Tai tiếng vẫn đang tiếp diễn về chính sách của Vatican đối với Trung Quốc”.
Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Sáng kiến quốc tế này được hưởng ứng tại 30 thành phố tại Ý. Cao điểm trong tuần lễ này là thứ Tư, ngày 20 tháng Mười Một, với nhiều sáng kiến được thực hiện: từ các buổi cầu nguyện chung, cho tới các cuộc triển lãm, trình bày chứng từ của những người đã và đang sống trong những bối cảnh các tín hữu bị bách hại, có cả những cuộc chiếu đèn đỏ tại mặt tiền các nơi thờ phượng hoặc các đền đài, dinh thự lịch sử. Màu đỏ tượng trưng máu các Kitô hữu đổ ra vì đức tin.
Theo phúc trình mới nhất của tổ chức bác ái quốc tế này, trong số 196 nước trên thế giới, có 61 nước giới hạn mạnh quyền tự do tôn giáo. Số các tín hữu Kitô sống tại những nước có bách hại và giới hạn như thế là 307 triệu người. Các thống kê cho thấy Kitô giáo tiếp tục là tôn giáo bị bách hại nhất trên thế giới. Trong Tuần lễ Đỏ, sẽ có phần trình bày phúc trình năm 2024, với tựa đề “Phải chăng bị bách hại và quên lãng?” (Perseguitati & dimenticani?), đặc biệt nói về tình trạng 18 nước trong đó hoàn cảnh sống của các Kitô hữu đặc biệt khó khăn.
Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ là một tố chức bác ái Giáo hoàng có trụ ở tại 24 quốc gia và có những dự án tài trợ và hoạt động tại khoảng 140 nước trên thế giới. Năm 2015, tổ chức này đã đề ra sáng kiến “Tuần lễ Đỏ”, bắt đầu với việc chiếu đèn đỏ vào Tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở thành phố Rio de Janeiro, bên Brazil để gây ý thức về tình trạng các Kitô hữu ở Irak, bị các nhóm thánh chiến Hồi giáo ISIS bách hại đến độ phải bỏ quê hương đi lánh nạn.
Sáng kiến này sau đó dần dần được hàng trăm quốc gia hưởng ứng. Cả năm nay, các đền đài nổi tiếng như Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, Đền thờ Thánh Gia ở Barcelona, Đền thánh Giuse ở Mont Royal, Montréal Canada.
Cụ thể, trong năm vừa qua, có 2.444 tội ác chống Kitô hữu được cảnh sát và xã hội dân sự ghi nhận ở 35 quốc gia châu Âu, bao gồm 232 vụ tấn công cá nhân Kitô hữu, như quấy rối, đe dọa và bạo lực thể xác.
Giám đốc điều hành Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu châu, bà Anja Homann cho biết thực tế có thể cao hơn, vì có nhiều trường hợp không được báo cáo.
Pháp là quốc gia có số tội ác thù ghét chống Kitô hữu nhiều nhất, với gần 1.000 vụ vào năm 2023. Trong khi đó, tại Vương quốc Anh cũng đã tăng với 700 vụ. Ở Đức, mức tăng tới 105%, từ 135 vụ trong năm 2022 lên 277 vụ vào năm 2023. Cũng tại Đức, cảnh sát ghi nhận hơn 2.000 trường hợp tấn công gây thiệt hại tài sản các nơi thờ phượng.
Theo bà Regina Polak, đại diện Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu châu về cuộc chiến chống phân biệt chủng tộc, bài ngoại và phân biệt đối xử, các Kitô hữu là mục tiêu của tội ác thù ghét trên khắp khu vực châu Âu.
Các hình thức bạo lực phổ biến nhất được Tổ chức báo cáo: phá hoại nhà thờ (62%) bao gồm nhiều trường hợp vẽ bậy lên các tài sản của các Giáo hội (24%), chặt đầu tượng tôn giáo, tấn công đốt phá (10%) và đe dọa (8%).
Về hạn chế tự do tôn giáo, phúc trình cho biết tại Vương quốc Anh, chỉ 36% Kitô hữu dưới 35 tuổi cho biết họ cảm thấy tự do bày tỏ quan điểm Kitô giáo của mình về các vấn đề xã hội tại nơi làm việc. Năm vừa qua, người ta cũng chứng kiến một loạt các hạn chế về tự do tôn giáo của các chính phủ châu Âu, như lệnh cấm các cuộc rước kiệu tôn giáo, ngăn chặn việc thể hiện niềm tin tôn giáo một cách ôn hòa. Theo Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu châu, đây là những xu hướng mà cần phải cảnh báo để tăng cường nỗ lực bảo vệ quyền tự do tôn giáo, gồm quyền tự do thảo luận một cách cởi mở và tôn trọng các quan điểm triết học và tôn giáo khác nhau về các vấn đề nhạy cảm mà không sợ bị trả thù và kiểm duyệt. Sự gia tăng phân biệt đối xử và tội ác thù ghét chống các Kitô hữu ở châu Âu phải được các chính phủ và xã hội dân sự xem xét nghiêm túc hơn và đòi hỏi phải có nghiên cứu chuyên sâu để hiểu bản chất và nguyên nhân cụ thể của vấn đề.
By Phil Lawler | Nov 11, 2024
Nhà nguyện Saint-Ceneri-le-Gerei ở Orne, Normandy.
Các nhà thờ bị đóng cửa, các di sản phi vật thể bị hư hại, các hành vi phá hoại… Tổng cục Di sản Tôn giáo được thành lập cách đây một năm và kết thúc ngày 18 tháng 11, đây là kết quả chính của cuộc khảo sát lớn này.
1.679: là con số nhà thờ bị đóng cửa từ một năm nay ở Pháp, tuy không bị xúc phạm, nhưng gần như các nhà thờ này không có đời sống tâm linh và tôn giáo vì nhiều lý do: vấn đề sức khỏe, sa mạc hóa nông thôn, mất an ninh, nhà thờ không được dùng hoặc có những lệnh gây nguy hiểm.
Thành lập vào tháng 9 năm 2023, Tổng cục Di sản Tôn giáo có mục đích tìm hiểu rõ hơn về di sản tôn giáo của Pháp để quảng bá và duy trì di sản, đồng thời xác định “các mục đích sử dụng nào được xem là thích hợp” với việc thờ phượng của tòa nhà. Vì thế sau hơn một năm khảo sát trên 94 giáo phận, một bản tổng kết đầy đủ về di sản: vật chất và phi vật chất (các lễ hội, kiệu, hành hương…) đã được thực hiện. Tổng giám mục Éric de Moulin Beaufort, chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp vui mừng trong bài phát biểu bế mạc: “Chúng tôi vui mừng đã làm được việc này. Đây là kết quả không chỉ giới hạn trong một danh sách, nhưng là một huy động khẩn cấp và cần thiết vì phần di sản này có nguy cơ biến mất. Chúng tôi chấp nhận một phần nước Pháp sẽ chết, rất nhiều ngôi làng ở vùng quê vắng vẻ, nhà thờ là nơi phục vụ công cộng cuối cùng.”
Ai chịu trách nhiệm chính trong tình trạng này? Tổng giám mục Alain Planet, giám mục danh dự của Carcassonne và Narbonne, chủ tịch Ban Chỉ đạo Di sản giải thích: “Khi tín hữu được quyền tụ tập, họ đặt tên cho địa điểm mới này là ‘ecclesia‘ có nghĩa là ‘cộng đồng’. Không có cộng đồng thì không thể có nhà thờ. Chúng tôi chấp nhận một phần nước Pháp đang chết dần. Có rất nhiều ngôi làng ở vùng nông thôn vắng vẻ, Giáo hội là dịch vụ công cộng cuối cùng. Ngay cả khi không còn bưu điện, các trung tâm thương mại, trường học, nếu chúng tôi còn được mời cử hành lễ rửa tội, đám tang, chúng tôi sẽ đi. Nhưng chúng tôi đang thiếu nhà thờ trầm trọng, đặc biệt ở các khu vực mở rộng của thị trấn!”
Bà Rachida Dati, bộ trưởng Văn hóa cho biết: “Đã hơn một năm kể từ khi thành lập Tổng cục Di sản Quốc gia với mục đích đánh giá đầy đủ về di sản vô giá này, chúng tôi đã có thể đánh giá những gì còn phải làm để truyền bá tốt hơn di sản đặc biệt thuộc về mọi người, dù họ có tôn giáo nào, việc bảo tồn di sản tôn giáo là ưu tiên hàng đầu. Tôi muốn thu tiền vào cửa Nhà thờ Đức Bà Paris. Đề xuất này đã được tranh luận, nhưng tôi thấy nó nhất quán, tôi tin di sản của chúng ta đáng để đấu tranh.”
4.538 tòa nhà bị tấn công
Cuộc điều tra nêu lên các hành vi ác ý mà các nhà thờ và các nơi thờ phượng công giáo khác bị tổn hại từ năm 2000. Tổng cộng: 4.538 tòa nhà đã bị nhắm mục tiêu ở 69 giáo phận (có khoảng 100 giáo phận ở Pháp): 2.666 nhà thờ bị ăn trộm, 1.476 nhà thờ bị hư hại và 396 bị xâm phạm. Theo báo cáo của 87 giáo phận, 226 nhà thờ thuộc các thành phố trực thuộc trung ương bị hủy, 411 nhà thờ giáo phận bị hủy từ năm 1905 đến năm 2023. Theo giáo luật, hủy nhà thờ là nơi này không còn dùng vào việc thờ phượng. Việc ngừng hoạt động là thủ tục dân sự trong đó quyền sử dụng nhà thờ được giao lại cho chính quyền thành phố phụ trách. Trên thực tế, chính quyền không can thiệp và phải đáp ứng các tiêu chuẩn: không cử hành thánh lễ từ ít nhất sáu tháng, linh mục đề nghị chính quyền thành phố tiếp thu.
Những con số đáng lo ngại này đã thúc đẩy Ban Chỉ đạo các Di sản đưa ra các khuyến nghị để giúp các thị trưởng duy trì và bảo đảm an ninh cho các nơi thờ phượng, mở rộng lãnh vực hoạt động phù hợp để không mâu thuẫn với việc thờ phượng.
Theo Viện Mục vụ xã hội (SPI), trong năm ngoái (2023), có 67.500 người làm đơn xin ra khỏi Giáo hội Công giáo, tức là tăng gấp đôi so với năm 2022 trước đó. Tính đến cuối năm ngoái, Giáo hội Công giáo tại Thụy Sĩ có khoảng hai triệu 800.000 tín hữu.
Một trong những nguyên do chính, theo nghiên cứu của Đại học Zurich, là những vụ lạm dụng tính dục trong Giáo hội đã gây kinh hoàng tại Thụy Sĩ. Cả cuộc điều tra của Tòa Thánh đối với một số giám mục đương nhiệm hoặc về hưu, về cách xử lý những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục cũng ảnh hưởng tới dư luận.
Theo nghiên cứu, tại Thụy Sĩ có 1.002 vụ và 510 người bị kết tội lạm dụng, kể từ giữa thế kỷ thứ XX, nhưng đây chỉ là một mỏm của tảng băng.
Đức cha Felix Gmuer, Giám mục Giáo phận Bâle, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Thụy Sĩ, không ngạc nhiên về sự giảm sút tín hữu vừa nói. Đức cha cho biết có một lý do khác khiến cho nhiều tín hữu làm đơn xin ra khỏi Giáo hội, đó là môi trường Giáo hội Công giáo biến chuyển mau lẹ hoặc môi trường ấy không còn nữa. Liên hệ tới Giáo hội, đức tin không còn giữ vai trò trong đời sống thường nhật của nhiều người và do đó, đức tin không còn được thông truyền nữa. Nhiều cố gắng đã được thực hiện để phục hồi sự tín nhiệm của dân chúng.
Và Đức cha Gmuer kết luận rằng: “Rất tiếc, Giáo hội tiếp tục suy giảm và đó là một xu hướng không thể chặn đứng”.
Về phần Giáo hội Tin lành cải cách ở Thụy Sĩ, trong năm ngoái, Giáo hội này bị mất 39.000 tín hữu, tức là giảm thêm 30% số thành viên.
Cuộc nghiên cứu của Viện Mục vụ xã hội tại Thụy Sĩ được trình bày hôm 14 tháng Mười Một vừa qua, tại thủ đô Berne.
Tuy nhiên, sự suy giảm tín hữu thành viên trái ngược với sự gia tăng của những người thiện nguyện trong Giáo hội Tin lành. Trên lãnh thổ Giáo hội Tin lành cải cách ở bang Berne-Jura và Soleur, có hơn 588.000 giờ làm việc thiện nguyện được thực hiện mỗi năm, con số này tương đương với hơn 31 triệu quan Thụy Sĩ, tức là hơn 35 triệu Mỹ kim.
Cũng nên nói thêm rằng tại bốn bang nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ là Genève, Valais, Neuchâtel và Vaud, hầu như không có ghi nhận nào về số tín hữu xin ra khỏi Giáo hội. Viện Mục vụ xã hội cho biết sở dĩ có tình trạng này là vì tại bốn bang vừa nói, không có chế độ đóng thuế cho Giáo hội như tại các bang nói tiếng Đức. Tại các bang này, giống như tại Đức quốc và Áo, ai muốn khỏi đóng thuế Giáo hội thì phải làm đơn chính thức xin ra khỏi Giáo hội của mình.
"Với một quyết định tối cao và dứt khoát," Đức Giáo hoàng Phanxicô đã trục xuất Fernando María Cornet, một linh mục người Argentina, khỏi hàng giáo sĩ vì tội ly giáo. Cornet đã từng là linh mục phục vụ tại Tổng Giáo phận Sassari, Ý.
Cornet, 57 tuổi, đã viết một cuốn sách có tựa đề ¿Habemus antipapam? ("Chúng ta có một phản giáo hoàng không?"), được nhà xuất bản Edizioni del Faro phát hành vào năm 2023, tờ báo La Nación của Argentina đưa tin. Trong cuốn sách của mình, Cornet khẳng định rằng việc từ chức của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI là vô giá trị và do đó, việc bầu chọn Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng không hợp lệ.
Khi công bố quyết định này, Tổng Giám mục Sassari, Gian Franco Saba, kêu gọi cộng đồng cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Giáo hội.
“Các thành viên của Chúa Kitô không được xung đột với nhau; tất cả những ai tạo thành Thân Thể Ngài phải hoàn thành chức vụ của mình... để không có sự chia rẽ nào,” ngài nói.
Tổng Giáo phận cũng thông báo rằng cha Antonino Canu, phụ trách Khu vực Trung tâm Đô thị Lịch sử, sẽ đảm nhận vai trò quản nhiệm giáo xứ St. Donatus và St. Sixtus tại Sassari.
Ngài sẽ nhận sự hỗ trợ trong công tác mục vụ từ các linh mục của Cottolengo, những người đã làm việc tại Trung tâm Lịch sử và các linh mục khác có mặt trong khu vực mục vụ, theo thông báo của Tổng Giáo phận.
Tuyên bố, được ký ngày 13 tháng 11, do Chưởng ấn của Tổng Giáo phận, Cha Antonio Spanu, ký.
Theo báo La Nación, vào giữa tháng Năm, một bức thư từ Vatican đã yêu cầu Cornet "rút cuốn sách khỏi lưu hành, công khai tuyên bố rằng nó có sai sót, xin tha thứ và công nhận Đức Giáo hoàng Phanxicô là giáo hoàng hợp pháp."
Tuy nhiên, linh mục đã bị hoàn tục này cho biết rằng ông “không thể làm như vậy vì sự việc không như thế và cũng vì không ai từ Bộ Giáo lý Đức tin có thể giải thích cho tôi biết những sai sót trong cuốn sách của tôi là gì; không ai từng đưa ra cho tôi một lập luận nào."
Cornet đã lường trước rằng ông sẽ phải chịu bản án này và tuyên bố rằng vì viết cuốn sách của mình, "ông sẽ bị ngược đãi bởi những người đã chiếm giữ một vị trí không thuộc về họ, khiến Giáo hội lâm vào khủng hoảng với những quyết định và sự bổ nhiệm giám mục bất hợp pháp."
Tội lạc giáo là gì?
Theo Điều 751 của Bộ Giáo luật của Giáo hội Công Giáo, lạc giáo xảy ra khi một người đã chịu Phép Rửa tội “từ chối vâng phục Đức Giáo hoàng hoặc từ chối hiệp thông với các chi thể của Giáo hội thuộc quyền ngài.”
“Người bội giáo, lạc giáo hay ly giáo đều bị vạ tuyệt thông tiền kết (latae sententiae)”, theo Điều 1364 của Bộ Giáo luật, và cũng có thể bị trừng phạt bằng các hình phạt khác bao gồm, trong trường hợp của các linh mục, sa thải khỏi bậc giáo sĩ.
theo Catholic News Agency
Phụng vụ mừng lễ Các Thánh vào ngày đầu tháng 11, và ngày hôm sau, tưởng nhớ các người qua đời. Xét theo nguồn gốc lịch sử, lễ kính nào ra đời trước: việc kính nhớ các người qua đời có trước, hay lễ các thánh có trước?
Linh mục Phan Tấn Thành trả lời.
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải phân biệt nhiều vấn đề. Việc kính nhớ các linh hồn qua đời là một chuyện, còn việc dành ra một ngày trong năm để tưởng nhớ tất cả các linh hồn là chuyện khác. Một cách tương tự như vậy, kính nhớ các thánh là một chuyện, còn dành ra một ngày để kính nhớ tất cả các thánh là một chuyện khác. Chúng ta sẽ cố gắng đi từng bước một: chúng ta hãy khởi hành với thực tại ngày nay, rồi chúng ta sẽ đi lùi ngược lại dòng lịch sử.
Ngày nay lễ tưởng nhớ các người qua đời diễn ra vào ngày hôm sau lễ các thánh. Từ khi nào lịch phụng vụ ấn định việc cử hành hai ngày lễ đó?
Việc dành ngày 2 tháng 11 để tưởng nhớ tất cả các người qua đời bắt đầu từ năm 998, do sáng kiến của thánh Ôđilon, viện phụ đan viện Cluny dòng Biển Đức. Trong ý định của ngài, sau khi đã dành ngày 1/11 để kính tất cả các thánh, nghĩa là những tín hữu đang hưởng hạnh phúc bên Chúa, thì chúng ta nên dành ngày kế tiếp (2/11) để tưởng nhớ và cầu nguyện cho những tín hữu còn phải chịu đau khổ trong nơi luyện tội. Một câu hỏi đương nhiên được đặt ra là: từ khi nào có lễ kính tất cả các thánh? Câu hỏi này khá dài dòng, bởi vì lễ kính chung tất cả các thánh có sau lễ kính riêng từng vị thánh. Và nguồn gốc của việc kính các thánh bắt đầu từ việc tưởng nhớ người qua đời. Đến đây, thứ tự thời gian bị đảo ngược.
Tại sao việc tôn kính người qua đời lại có trước việc tôn kính các thánh? Nếu chưa làm thánh thì đâu được phép tôn kính?
Chúng ta cần phân biệt nhiều cấp độ tôn kính: tôn kính tổ tiên thì khác với tôn kính Thiên Chúa. Khi tôn kính các bậc tổ tiên, chúng ta không có ý đặt các ngài ngang hàng với Thiên Chúa. Tuy nhiên ở đây, chúng ta không đi sâu vào vấn đề thần học mà chỉ dừng lại ở khía cạnh lịch sử. Vào các thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu, và cụ thể là tại Rôma, cũng giữ những phong tục an táng và tưởng nhớ các thân nhân qua đời. Vào dịp ấy, người Rôma tụ họp nhau và tổ chức bữa tiệc, không chỉ để tưởng nhớ người quá cố mà còn muốn mời người quá cố tham dự. Người Kitô giáo chấp nhận tập tục này, nhưng dần dần, họ thay bữa tiệc bằng việc dâng Thánh lễ. Chúng ta sẽ bàn đến các tập tục quanh lễ an táng sau; ở đây, chúng ta chỉ muốn theo dõi sự tiến triển của việc tôn kính các thánh. Khởi đầu là các vị tử đạo. Đó là những tín hữu đã chết vì đức tin, chết vì lòng yêu mến Chúa Giêsu. Cái chết của những người này khác với những cái chết khác, do đó lễ an táng cũng khác. Thi hài của các vị tử đạo được tổ chức long trọng, và ngày qua đời của họ được cử hành như là “sinh nhật” (dies natalis): họ được sinh vào cuộc sống mới, cuộc sống vĩnh cửu. Vào dịp giáp năm ngày sinh nhật, các tín hữu tổ chức việc tưởng nhớ bên mộ, không phải để khóc than, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa. Thay vì cầu nguyện cho họ, các tín hữu xin họ hãy cầu nguyện cho mình. Đó là khởi điểm của việc tôn kính các thánh, và chính xác hơn nữa, việc tôn kính các thánh tử đạo. Mãi đến thế kỷ IV, việc tôn kính các thánh cũng được mở rộng ra đến các vị giám mục, đan sĩ, trinh nữ. Không nói ai cũng biết, vào những thế kỷ đầu tiên, việc tôn kính này mang tính địa phương, nghĩa là mỗi giáo phận chỉ kính những vị thánh của địa phương mình, nghĩa là những người mà mình quen biết. Dần dần, qua những cuộc tiếp xúc giữa các giám mục hoặc nhờ những cuộc hành hương, người ta mới thông tin cho nhau các vị thánh của mình.
Từ lúc nào có lễ kính chung tất cả các thánh?
Các sử gia đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, bởi vì nó bắt nguồn từ nhiều tập tục địa phương, rồi sau đó mới được phổ biến trong toàn thể Hội thánh. Những tài liệu sử học sớm nhất cho thấy rằng ngay từ thế kỷ IV, các giáo hội bên Đông phương đã mừng lễ tất cả các thánh tử đạo, tuy vào những ngày khác nhau. Giáo hội ở Antiokia mừng vào Chúa nhật sau lễ Ngũ tuần, và tục lệ này vẫn còn duy trì cho đến nay; ra như người ta muốn ca ngợi những tín hữu đã được kết hợp với mầu nhiệm Vượt qua bằng cái chết của mình. Bên Tây phương, lễ mừng tất cả các thánh xuất hiện muộn hơn, và có lẽ bắt nguồn từ lễ cung hiến điện Pantheon ở Rôma. Trước đây, người Rôma cất một đền thờ kính vạn thần, với hai chủ đích chính. Một đàng, họ muốn tôn kính tất cả các vị thần, vì sợ rằng nếu có thần nào không được thờ thì sẽ gây oai tác quái cho nhân dân. Đàng khác, họ muốn đem các thần của các dân đã bị chiếm đóng về thủ đô, để xoa dịu lòng căm phẫn thù hận, khi biết rằng thần của mình được tôn kính ngay tại thủ đô của Đế quốc. Sau khi Đế quốc Rôma trở lại Kitô giáo, đức thánh cha Bonifacio IV đã cung hiến đền thờ này cho Đức Mẹ Maria và các thánh tử đạo, ngày 13/5/609 (hoặc 610). Về sau, lễ này được Đức thánh cha Gregorio III (731-741) dời sang ngày 1/11, kỷ niệm ngày cung hiến một nhà nguyện trong đền thờ thánh Phêrô để kính nhớ “tất cả các thánh tông đồ, tử đạo, tuyên tín, và các người công chính trên khắp thế giới”. Từ năm 835, lễ này được tuyên bố là lễ nghỉ dân sự.
Lễ các thánh có trùng với lễ Halloween không?
Câu hỏi cũng có thể đặt ngược lại: lễ Halloween có trùng với lễ các thánh không? Các sử gia đang tranh cãi. Nếu xét theo từ ngữ, thì Halloween có nghĩa là áp lễ các thánh (ghép bởi All Hallows nghĩa là các thánh, và eve có nghĩa là bữa trước). Xét theo nguồn gốc, thì người ta đoán rằng vào ngày 1/11, dân tộc ở miền Bắc Âu có một lễ tân niên, gọi là Samhain. Hôm đó người ta tin rằng các vong hồn sẽ trở về hội ngộ với người sống; cần phải tổ chức lễ hội để đón rước. Về sau này, Giáo hội muốn thay thế lễ ấy bằng lễ các thánh. Không hiểu sự thật như thế nào, nhưng chúng ta thấy rằng trên thực tế, không ít ngày lễ của Kitô giáo được đặt ra để thay thế những lễ của ngoại giáo, điển hình là lễ Chúa Giáng sinh thay thế lễ kính thần mặt trời ở Rôma, và lễ các thánh kỷ niệm việc biến đổi đền vạn thần thành lễ kính Đức Mẹ và các thánh tử đạo.
Chúng ta đã theo dõi sự tiến triển của việc tôn kính các thánh khởi đi từ các lễ nghi tôn kính người chết ở Rôma. Còn đối với những người không phải là thánh thì sao?
Như vừa nói, trải qua lịch sử, Giáo hội lấy lại nhiều phong tục địa phương, và đồng thời loại bỏ những yếu tố mang tính cách mê tín. Điều này thấy rõ nơi lễ nghi an táng và tôn kính người chết, mà Giáo hội tiếp nhận từ phong tục Rôma. Trước khi đi vào vấn đề, ta đừng nên quên rằng người thời xưa bên Âu cũng như bên Á, không chỉ coi viện tang ma như là một hành vi xã hội, nhưng nhất là một hành vi tín ngưỡng, mang tính cách thánh thiêng, vì đụng chạm đến thế giới thần linh. Luật Rôma bảo vệ các nghĩa trang như là đất thánh, khu vực bất khả xâm phạm; chắc hẳn ý tưởng này được chấp nhận dễ dàng vào trong luật Giáo hội. Việc tôn kính dành cho người chết bao hàm nhiều hành động: từ khi tẩm liệm cho đến khi an táng, cũng như những nghi thức theo sau nữa. Chúng ta bắt đầu bằng việc tẩm liệm. Thân xác được tắm rửa và xức thuốc thơm. Giáo hội tiếp nhận tập tục này dễ dàng, vì ý thức rằng thân xác người Kitô hữu đã được thánh hóa nhờ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh thể, đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, cho nên đáng được tôn trọng. Không lạ gì mà phụng vụ đã xông hương thi hài trước khi đặt vào hòm. Sau khi đã được tắm rửa và xức dầu thơm, thi hài được khoác áo với vải quý giá, nhất là thi hài của các vị tử đạo. Tuy nhiên, vì có những sự lạm dụng xảy ra, chẳng hạn như dùng lụa là gấm vóc để phô trương, cho nên các giáo phụ đã lên tiếng cảnh cáo thói xa hoa ấy. Những nghi thức vừa rồi diễn ra trước sự chứng kiến của cộng đoàn. Cộng đoàn cầu nguyện, hát thánh vịnh, công bố Lời Chúa. Bên cạnh quan tài, người ta thắp đèn dầu, và những ngọn đèn này sẽ hộ tống quan tài ra tới huyệt. Người Rôma còn đặt trên miệng người chết một đồng tiền, để trả cho thần Caronte khi lên thuyền đi vào âm phủ. Các Kitô hữu đã thay thế tục lệ này bằng việc đặt Mình Thánh Chúa trên miệng người chết như của ăn đàng, trước khi liệm vào hòm. Mặc dù nhiều giáo phụ phản đối tục lệ này, nhưng nhiều nơi vẫn duy trì trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất, và mãi đến năm 1200, mới bị bãi bỏ hoàn toàn. Thay vì đặt Mình Thánh Chúa trên miệng, người ta đặt thánh giá trên tay của người quá cố (hoặc tràng chuỗi Mân côi). Chặng kế tiếp là việc đưa đám. Thời xưa, các tín hữu đưa đám ban đêm, vì thế họ thắp đuốc đốt đèn để soi đường. Về sau này, dù khi đưa đám vào ban ngày, người ta cũng thắp đèn, với một ý nghĩa tượng trưng: người tín hữu là đèn sáng, bởi vì họ là chứng nhân cho Đức Kitô, ánh sáng của thế gian. Một nét khác biệt của đám tang người Kitô hữu với đám tang người ngoại là niềm hân hoan. Dân ngoại thuê những bà đến khóc trong đám tang, còn người Kitô hữu thì hát Alleluia. Sang thời Trung cổ, bầu khí vui tươi dần dần biến đi, nhường chỗ cho sợ hãi tang tóc, bởi vì người ta hình dung Đức Kitô như là vị thẩm phán đáng sợ.
Thời xưa, các tín hữu đưa quan tài thẳng ra mộ, chứ không vào nhà thờ hay sao?
Trong những thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo chưa được phép xây nhà thờ. Tuy vậy, lễ an táng đã sớm được gắn liền với Thánh lễ, hiểu là tại tư gia hoặc tại nghĩa trang. Người Rôma quen tổ chức các bữa tiệc trên mộ người quá cố; các Ki-tô hữu đã sớm thánh hóa tục lệ này và thay thế bằng việc dâng Thánh lễ, hiểu là trên ngôi mộ. Thánh lễ được cử hành không chỉ vào lúc an táng mà còn vào các dịp giỗ. Người Rôma tổ chức tiệc giỗ vào ngày thứ 9 và 40 sau khi qua đời. Các Ki-tô hữu cử hành Thánh lễ vào các ngày kỷ niệm 3, 7, 30 ngày: 3 ngày để tưởng nhớ cuộc Chúa Giêsu phục sinh sau ba ngày được an táng trong mộ; 7 ngày được thánh Augustino giải thích như là tưởng nhớ tuần lễ tạo dựng, Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy; 30 ngày nhắc đến thời gian dân Israel để tang cho ông Môsê (Ds 20,30; Đnl 34,8). Sau cùng, thiết tưởng nên nêu bật một đặc trưng của người Kitô hữu là tên gọi nơi chôn cất kẻ qua đời. Người Rôma gọi nơi đó là necropolis, thành phố của người chết; các Ki-tô hữu gọi là coemeterium, có nghĩa là nơi an giấc, hiểu ngầm là chờ đợi sẽ được đánh thức, nghĩa là sống lại.
Vatican đơn giản hóa nghi thức tang lễ cho các Giáo hoàng
Vatican cập nhật nghi thức tang lễ cho các Giáo hoàng, đơn giản hóa theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô
Vatican đã cập nhật sách phụng vụ quy định nghi thức tang lễ của các Giáo hoàng, đơn giản hóa một số nghi thức theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
Các bạn thân mến!
Trong Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng I, Giáo Hội viết:
“Khi người đến lần thứ nhất, mặc lấy thân xác yếu hèn, Người đã thực hiện hồng ân mà Chúa đã dự định từ xưa và mở đường cứu độ đời đời cho chúng con, để khi Người đến lần thứ hai trong uy linh, nhờ hồng ân bấy giờ được tỏ hiện, chúng con sẽ lãnh nhận điều Chúa đã hứa mà ngày nay chúng con đang tỉnh thức vững dạ đợi chờ.”
Như thế, Kinh Tiền Tụng đã tóm tắt những điều chính yếu của Mùa Vọng. Tâm tình Mùa Vọng mang hai ý nghĩa nổi bật vừa chuẩn bị mừng Con Chúa đến lần thứ nhất, vừa trông chờ Ngài đến trong vinh quang lần thứ hai.[1] Vì vậy, Mùa vọng trả lời cho chúng ta câu hỏi về việc chúng ta chờ ai và trông chờ điều gì.
Đức Tin – Đức Cậy – Đức Mến là ba nhân đức đối thần và hướng người Ki-tô hữu trực tiếp đến Thiên Chúa. Niềm tin Kitô không chờ đợi một điều gì không có cơ sở nhưng chúng ta chờ đợi dựa vào lời hứa và niềm tin vào thẩm quyền của Đấng đáng tin. Nhờ thẩm quyền của Đấng ấy mà chúng ta tin rằng những điều Người ấy nói và hứa sẽ trở thành hiện thực. Chúng ta chờ đợi Đấng đã đến và sẽ đến. Niềm tin vào lời hứa cứu độ của con người vào Thiên Chúa đã trải dài suốt dòng lịch sử. Lời hứa ấy đã được kiện toàn nơi Ngôi Lời nhập thể. Thiên Chúa đã chọn đất Israel để làm dân riêng và biểu lộ ơn cứu độ của Ngài. Khởi từ dân tộc ấy, Ngài muốn muôn dân nhận biết Người là Đấng xót thương. Lời tiên báo của tiên tri Giê-rê-mia là một lời đầy an ủi khi ông loan báo về sự xuất hiện của Đấng Công Chính. “15Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.”[2] Sự xuất hiện của Đấng Công Chính làm thỏa mãn những khát vọng vô biên của con người. Một mặt Đấng ấy sẽ thiết lập trật tự của lòng người và trật tự trên thế giới. Mặt khác Ngài sẽ giải phóng con người khỏi muôn vàn hình thức nô lệ và đem lại sự tự do đích thực.
Tình trạng thế giới mà chúng ta đang sống, chúng ta đang đối diện với những bóng tối, chiến tranh, xung đột, bất công, nghèo đói, nô lệ. Giữa cảnh huống đó, con người mong hòa bình, khao khát được giải phóng như “lính canh mong đợi hừng đông.” Nhưng hòa bình chỉ có được khi có công lý ngự trị và công lý chỉ có được khi có sự thật làm nền tảng và sự thật chỉ có được khi con người biết mở lòng ra với Đấng là Sự Thật Tuyệt Đối.” Sự xuất hiện của Đấng được loan báo không khỏa lấp những ao ước về mặt chính trị xã hội cho bằng lấp đầy khao khát vô biên nơi lòng người và mở ra cho con người con đường đón nhận ơn cứu độ.
Người Kitô hữu sống tâm tình chờ đợi không sống trong thái độ thụ động nhưng bằng những dấn thân cụ thể. Sống tâm tình Mùa Vọng không theo nghĩa thụ động nhưng là mang một cuộc gặp gỡ với Đấng mà chúng ta chờ mong vào trong giây phút hiện tại. Cách thức cụ thể nhất để mang cuộc gặp với Đấng mà tôi chờ đợi trong giây phút hiện tại là ở trong tình yêu của Ngài, là sống giới răn của Ngài. “Yêu mến là chu toàn lề luật.”[3]
Khi chúng ta nói đến sự chờ đợi, chúng ta không nói đến một không gian khép kín nhưng là một không gian mở ra với Thiên Chúa và tha nhân. Mở ra một không gian nội tâm trước hết đó là sự thay đổi quan niệm và hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa. Kinh nghiệm quá khứ và những đau thương trong cuộc sống khiến cho tâm hồn chúng ta khép kín lại trên chính mình. Chúng ta không dám mở ra cho Chúa và cho những cuộc đối thoại. Kết quả lại tôi tạo cho tôi một không gian khép kín. Điều này tạo cho cuộc sống của tôi không được tự do và phát triển. Ngôi Lời không thể nhập thể trong lòng tôi.
Mùa Vọng là thời gian nhận ra tình trạng nội tâm của tôi. Tôi dám mở ra với Chúa và làm mới lại tương quan của tôi với Ngài.
Thay đổi nội tâm không chỉ là thay đổi về mặt quan niệm và ý nghĩ nhưng là thay đổi trọng tâm trong đời sống và dám để cho Chúa thiết lập một trật tự mới trong nội tâm của tôi. Sự xuất hiện của Con Người tạo nên sự rung chuyển của vũ trụ, trật tự tự nhiên và trật tự nội tâm. Sự xuất hiện đó chắc chắn cũng làm một sự rung chuyển “vũ trụ nội tâm.”[4] Với những người công chính, sự xuất hiện của Con Người làm lay chuyển quyền lực trên trời và là dấu chỉ của niềm hy vọng.
“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”[5]
Thực tế cuộc sống đôi khi làm cho chúng ta mất cảnh giác, thiếu đề phòng, tâm hồn mình bị nặng nề bởi những đam mê thế trần. Âm vang của Mùa Vọng mời gọi tôi “cầu nguyện và tỉnh thức.” Với những người thiếu tỉnh thức biến cố Con Người xuất hiện là biến cố làm “rung chuyển đời sống” của họ nhưng với những người luôn sống trong thái độ tỉnh thức thì đây là biến cố đầy hy vọng vì “Thầy đã thắng thế gian.”
Sống tâm tình Mùa Vọng là tôi luôn sống với tâm thế đứng thẳng, tư thế của con người tự do, tư thế của một người công chính, để bất cứ khi nào Ngài đến, tôi luôn sẵn sàng để chào đón Ngài. Chính tư thế nào giúp tôi có khả năng siêu thăng con người của tôi để vươn lên tới Ngã Siêu Việt.
Sự chờ đợi của người Kitô hữu bị đặt trong hai thái cực. Một mặt tôi hướng đời sống của tôi tới biến cố đã xảy ra trong lịch sử nhân loại khi Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Mặt khác sự chờ đợi cũng hướng tôi đến cuộc giáng lâm vinh hiển của Đấng là Vua Trời Đất. Nói cách khác việc sống trong tâm tình Mùa Vọng mời gọi tôi sống hai biến cố, tôi vừa để cho Ngôi Lời nhập thể trong lòng tôi. Tôi vừa mang con người tôi tới gần hơn với biến cố sẽ đến.
Trong thực tế đời sống của tôi cũng luôn đối diện với sự căng thẳng, sự căng thẳng giữa sự chờ đợi và kết quả, giữa vô hạn và giới hạn, giữa chân trời và những giới hạn. Một mặt tôi đang sống trong giây phút hiện tại và tôi phải đối diện với tất cả những tình huống thực tế của đời sống con người nhưng mặt khác tôi được mời gọi hướng đến cái vô hạn, những chân trời mới. Đây là một sự giằng co thuộc thân phận làm người. “Có một sự căng thẳng giữa sự viên mãn và những giới hạn, giữa từng khoảnh khắc và cái chân trời rộng mở. Điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là thời gian lớn hơn không gian.”[6]
Tuy nhiên nếu tôi nhìn biến cố này như là một sự kiện lịch sử khách quan bên ngoài tôi thì có lẽ biến cố ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì cho đời tôi. Việc chờ đời và biến cố nhập thể phải là biến cố diễn ra bên trong tôi, đụng chạm đến toàn thể con người tôi và toàn thể lịch sử này. Sự chờ đợi của tôi với Đấng là Ngôi Lời Nhập Thể mang tôi bước vào trong sự hiện diện với Đấng ấy. Mặt khác biến cố nhập thể và sự chờ đợi hướng đến biến cố quang lâm phải là một biến cố nội tâm. Nội tâm tôi là thế giới mà Ngôi Lời đang nhập thể vào.
Thiên Chúa đang nhập thể trong tâm hồn, trong những chọn lựa và trong từng biến cố của cuộc đời tôi. Sao cho mỗi chọn lựa của tôi, mỗi bước đi của tôi, những gì tôi sống và những gì tôi đụng chạm phải là những cách mà tôi làm cho khuôn mặt của Đức Ki-tô nhập thể sáng lên trong cuộc đời của tôi. Biến cố đó làm thay đổi toàn bộ định hướng và hiện hữu của tôi.
Trở về mà tôi được mời gọi là trở về với nền móng của đời tôi, với nội tâm của tôi. Tôi đặt đời tôi lên Ngài và chọn Ngài làm trung tâm. Vọng không chỉ là hướng tới nhưng thực chất là trở về, trở về với cõi sâu thẳm của lòng tôi, trở về với nền móng căn nhà tâm hồn của mình, trở về với giá trị cốt lõi nguyên thủy làm nên ý nghĩa cho đời tôi, trở về với những gợi hứng làm nên động lực cho sứ mạng của tôi, trở về với nguồn sức mạnh giúp tôi vượt qua những sóng gió của cuộc sống. Vọng là tỉnh thức, là chờ đợi, là mang sự hiện hữu của Ngài trong giây phút hiện tại, là để Ngài là tâm điểm đời tôi. Vọng không chỉ là hướng đến tương lai nhưng làm đầy giây phút hiện tại bằng sự hiện diện của Ngài.
Lm. Gioan Phạm Duy Anh, S.J.
[1] CHỈ NAM GIẢNG LỄ, Bộ Phụng tự và Kỷ Luật Bí Tích, Học Viện Đa Minh, 2015, 81-82, hoặc Sách Lễ Roma, Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng I, Tr. 22
[2] Gr 33, 15
[3] Rm 13, 10
[4] Lc 21, 25-27
[5] Lc 21, 28
[6] Evangelii Gaudium, 222
Cây thông 200 tuổi, cao 29 mét của vùng Ledro, đông bắc nước Ý, thị trấn có 5.300 người dân sinh sống giữa các ngọn núi hùng vĩ Tyrol. Cây thông được chọn vì thẩm mỹ và đến từ khu rừng được quản lý theo một số yêu cầu về môi trường, xã hội và kinh tế. Trong một kiến nghị, các nhà hoạt động môi trường đã phản đối việc chặt cây thông này, nhưng cây thông ở trong các lô đất phải bị đốn hạ để khai thác rừng một cách hợp lý.
Truyền thống dựng cây thông Giáng sinh có từ rất xưa, năm 1982 Đức Gioan-Phaolô II đã đặt cây thông Giáng sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô. Dù phong tục này đã quen thuộc ở quê hương Ba Lan của ngài, nhưng ngài mong muốn Vatican cũng có truyền thống này. 40 năm sau, mỗi mùa Giáng sinh về, cây thông sáng rực làm nung nấu tâm hồn trẻ con cũng như người lớn chuẩn bị sống mầu nhiệm Chúa Giáng sinh một cách sốt sắng.
Trong một thư ngỏ gởi Đức Phanxicô, các nhà hoạt động môi trường ở miền bắc nước Ý lo ngại cho số phận cây thông 200 năm, cao 29 mét sẽ được dựng lên ở Quảng trường Thánh Phêrô nhân dịp lễ Giáng sinh năm nay.
Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là đến Noel, mọi người đã sẵn sàng, kể cả ở Vatican, nhưng có một chút lo ngại về cây thông truyền thống. Kể từ ngày 4 tháng 11 năm 2024, các nhà hoạt động môi trường ở tỉnh Trentino miền bắc nước Ý phẫn nộ khi cây thông 200 tuổi của họ ở Ledro sẽ bị đốn, tạo sự căng thẳng cho các nhà bảo vệ môi trường, chính quyền địa phương và Tòa thánh và đã có gần 50.000 người ký bản kiến nghị gởi Đức Phanxicô.
Trong thư ngỏ, họ tố cáo “một hy sinh không cần thiết, một việc làm của chủ nghĩa tiêu dùng”. Cây thông chỉ có một mục đích: quảng cáo và để du khách chụp những bức ảnh selfie lố bịch. Họ nói: “Một lựa chọn vô lý” và lên kế hoạch phong tỏa đường đi để ngăn cây thông về Rôma!
Đức Phanxicô đối diện với những mâu thuẫn của ngài
Năm nay Quảng trường Thánh Phêrô sẽ không có cây thông Noel? Đó là điều các nhà hoạt động này hy vọng, họ nhắc Đức Phanxicô về các cam kết của ngài với khí hậu, với tạo dựng và hệ sinh thái, đặc biệt là Thông điệp Laudato Si, Tông huấn Anh em hãy rao giảng Tin Mừng và thông điệp Terra madre. Không chặt cây thông là thực hiện các cam kết của ngài: “Thật không nhất quán khi chúng ta nói về biến đổi khí hậu nhưng lại duy trì các truyền thống này, chúng ta phải bỏ việc này.”
Trước các cuộc biểu tình ngày càng tăng, ông Renato Girardi, thị trưởng thị trấn nhỏ Ledro kiên trì: chúng tôi sẽ gởi cây thông 200 tuổi về Vatican, ông nói với báo chí Ý: “Chúng tôi chỉ muốn tặng cây thông, nếu không tặng chúng tôi sẽ đưa cây thông vào xưởng cưa.”
Truyền thống cây thông Noel ở Vatican có từ năm 1982. Kể từ đó, hàng năm một cây thông của nước Ý hoặc của một quốc gia châu Âu sẽ được dựng lên vào tuần lễ thứ hai của tháng 12 tại Quảng trường Thánh Phêrô. Món quà cây thông thường là niềm tự hào của các thị trưởng. Ông Renato Girardi chỉ trích các nhà hoạt động “hủy hoại tinh thần lễ Giáng sinh chỉ vì một cái cây”, ông không ngờ có phản ứng gay gắt như vậy, ông sẽ tặng cho Vatican 39 cây thông khác để trang trí cho các tòa nhà Vatican.
Vatican chưa phản ứng trước sự việc này.
Sinh ngày 01/01/1897 tại Tân Đức, tỉnh An Giang, Việt Nam, nhưng trong lãnh thổ của hạt đại diện Tông toà Phnom Penh, phó tế Trương Bửu Diệp được chịu chức linh mục vào năm 1924.
Lúc đầu cha là cộng tác viên mục vụ trong cộng đồng người Việt ở Campuchia, tiếp đến cha được gọi về Việt Nam làm giáo sư tại Đại chủng viện, và sau đó được gửi đến tỉnh Bạc Liêu. Tại đây cha Diệp thành lập sáu cộng đoàn mới và dấn thân chăm sóc ơn gọi.
Vào cuối Thế chiến thứ hai, nhiều khu vực trên đất nước Việt Nam bị cướp bóc bởi những địa chủ giàu có với sự hỗ trợ của các băng nhóm vũ trang bạo lực. Ngay cả lãnh thổ giáo xứ của vị Tôi tớ Chúa cũng bị cướp bóc và dân chúng bị đe dọa. Mặc dù được khuyên nên ẩn náu ở một nơi an toàn, nhưng vì muốn bảo vệ quyền của người dân, không muốn từ bỏ cộng đoàn, nên vào ngày 12/3/1946, cha Diệp bị một nhóm dân quân cùng với những người khác bắt làm tù binh. Cha bị nhốt trong kho gạo, đưa đi thẩm vấn, vài ngày sau người ta phát hiện thi thể của cha, đã bị giết và biến dạng dưới mương.
Sau khi cha qua đời, rất nhiều tín hữu đã bắt đầu đến kính viếng mộ cha, xin cha chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.
Với việc nhìn nhận sự tự đạo, bị giết vì thù ghét đức tin vào ngày 12/03/1946 tại Tắc Sậy, cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp sẽ được tôn phong chân phước trong thời gian sẽ được ấn định.
Các sắc lệnh khác
Cũng trong buổi tiếp kiến Đức Hồng Y Tổng trưởng, Đức Thánh Cha đã cho phép Bộ Phong thánh ban hành các sắc lệnh liên quan đến:
Phép lạ được cho là nhờ sự chuyển cầu của Chân phước Maria Troncatti (1883-1969), nữ tu người Ý, thuộc Hội dòng Con Đức Mẹ Phù hộ các Kitô hữu, từng là thừa sai phục vụ các dân tộc bản địa ở Ecuador.
Phép lạ được cho là nhờ sự chuyển cầu của Chân phước Pier Giorgio Frassati (1901-1925), sinh viên trẻ đến từ Torino của Ý, thuộc Dòng Ba Đa Minh và là thành viên của Dòng Vinh Sơn, Fuci và Công giáo Tiến hành. Ngài là một trong những chân phước nổi tiếng nhất trong số các thế hệ tín hữu Công giáo mới, được coi là một trong những vị thánh “xã hội” người Ý. Là thành viên của một gia đình giàu có, chuyên tâm cầu nguyện và giúp đỡ những người dễ bị tổn thương, ngài cũng là một vận động viên giỏi. Đức Gioan Phaolô II đã gọi ngài là “một vận động viên leo núi… vĩ đại” và đã phong chân phước cho “cậu bé trong Tám Mối Phúc Thật” này vào năm 1990.
Kế đến là sự tử đạo của Tôi tớ Chúa Floribert Bwana Chui Bin Kositi (1981-2007), giáo dân người Congo, luật sư và là thành viên của Cộng đoàn Thánh Egidio. Vị chân phước tương lai làm việc với tư cách là ủy viên cho một cơ quan hải quan kiểm soát nguồn cung cấp thực phẩm nhập vào đất nước, một vai trò trong đó ngài phản đối một số hành vi tham nhũng. Vì điều này, ngài đã bị bắt cóc, tra tấn và giết chết vào tháng 7/2007.
Nhân đức anh hùng của Tôi tớ Chúa, Giuseppe Lang (1857-1924), người Croatia, Giám mục hiệu tòa của Alabanda và Giám mục phụ tá của Zagreb. Ngài được biết đến với việc phục vụ người nghèo và đào tạo chủng sinh.
Xác nhận việc tôn kính
Cuối cùng, Đức Thánh Cha cho phép Bộ Phong thánh ban hành sắc lệnh xác nhận việc tôn kính Tôi tớ Chúa Gioan Thánh Giá (1481-1534), thuộc Dòng Ba Phanxicô, viện mẫu của Tu viện “Đức Maria Thánh Giá” ở Cubas Madrid.
Sự chú ý đến việc nghiên cứu lịch sử này phù hợp hơn bao giờ hết, và thư của Đức Thánh Cha chỉ rõ điều này. Như thư được công bố vào tháng 8 của ngài tập trung vào tầm quan trọng của văn học, Người kế vị Thánh Phêrô trước hết nói với các linh mục về việc đào tạo, nhưng ngài cũng làm sáng tỏ một chủ đề mà mọi người đều quan tâm.
Nghiên cứu lịch sử Giáo hội là cách lưu giữ ký ức và xây dựng tương lai, cũng đây là cách tốt nhất để diễn giải thực tế xung quanh chúng ta. Giáo dục thế hệ trẻ đào sâu về quá khứ, không tin vào những khẩu hiệu quá đơn giản, giúp tìm ra hướng đi trong mê cung của hàng triệu “tin tức” vốn thường sai sự thật và không đầy đủ, là sứ vụ mà tất cả chúng ta đều phải thực hiện. Lời của Thánh Philip Neri nhấn mạnh mối liên hệ duy nhất giữa đức tin Kitô giáo và lịch sử. Sự nhập thể, cái chết và sự phục sinh của Con Thiên Chúa là một sự kiện chia tách lịch sử nhân loại thành trước và sau. Trên hết, đức tin Công giáo không phải là một ý tưởng, triết lý hay đạo đức; đó là một mối quan hệ, cuộc sống, cụ thể và lịch sử. Chúng ta là Kitô hữu vì lời chứng được truyền từ mẹ đến con trai, từ cha đến con gái, từ ông bà đến cháu chắt. Và việc quay trở lại chuỗi mắt xích này dẫn chúng ta đến những chứng nhân đầu tiên, các tông đồ, những người mỗi ngày chia sẻ toàn bộ đời sống công khai của Chúa Giêsu.
Tình yêu dành lịch sử này, cùng với cái nhìn đức tin, cho phép chúng ta khám phá những trang đen tối và kém cao quý trong quá khứ của Giáo hội. Khi mở Văn khố Mật của Vatican vào năm 1889, Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã nói: “Nghiên cứu không định kiến, vì Giáo hội không cần lời nói dối nhưng chỉ cần sự thật”.
Nghiên cứu lịch sử rõ ràng giúp chúng ta tiếp xúc với những “vết nhơ” và “nếp nhăn” của quá khứ. Đức Thánh Cha giải thích: “Lịch sử Giáo hội giúp chúng ta thấy được Giáo hội thực sự và yêu mến Giáo hội như Giáo hội thực sự là, yêu mến những gì Giáo hội đã học được và tiếp tục học hỏi từ những sai lầm và thất bại của Giáo hội”. Nhận thức được ngay cả những thời điểm đen tối nhất giúp Giáo hội hiểu được “những vết nhơ và vết thương” của thế giới ngày nay.
Quan điểm của Đức Thánh Cha không nhắm đến bất kỳ hình thức quan tâm biện hộ nào nhằm trình bày một thực tế lý tưởng, và cũng như tránh xa khuynh hướng ý thức hệ miêu tả Giáo hội như một nơi của nhiều điều xấu. Thực tế, nếu Giáo hội có thể thành thật đối diện với mọi khía cạnh trong quá khứ, thì Giáo hội sẽ có nhiều khả năng vẫn khiêm nhường hơn vì nhận ra rằng nhân loại được Chúa cứu độ, chứ không phải nhờ các chiến lược tiếp thị mục vụ hay sự nổi tiếng của bất kỳ cá nhân nổi bật nào.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi nghiên cứu lịch sử Giáo hội thoát khỏi ý thức hệ
Almudena Martínez-Bordiú của ACI Prensa, đối tác tiếng Tây Ban Nha của CNA, ngày 21 tháng 11 năm 2024, tường trình rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công bố một lá thư gửi riêng cho các linh mục đang trong quá trình đào tạo để thúc đẩy đổi mới việc nghiên cứu lịch sử Giáo hội, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này trong việc diễn giải thực tại tốt hơn.
Mở đầu lá thư, được trình bày tại Văn phòng Báo chí Vatican vào thứ Năm, Đức Thánh Cha đề cập đến nhu cầu thúc đẩy "cảm thức lịch sử đích thực" có tính đến "chiều kích lịch sử vốn là của chúng ta với tư cách là những con người".
"Không ai có thể thực sự biết được bản sắc sâu sắc nhất của mình, hoặc họ muốn trở thành gì trong tương lai, nếu không chú ý đến những mối liên kết gắn kết họ với các thế hệ đi trước", Đức Thánh Cha nói. Đức Giáo Hoàng cũng chỉ ra rằng mọi người, không chỉ các ứng viên cho chức linh mục, đều cần sự đổi mới này.
‘Yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu’
Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha tuyên bố rằng chúng ta phải từ bỏ quan niệm “thiên thần” về Giáo hội và chấp nhận “những vết nhơ và nếp nhăn” của Giáo hội để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu.
Tóm lại, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu thấy Giáo hội thực sự “để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu”, một Giáo hội đã học được “và tiếp tục học hỏi từ những sai lầm và thất bại của mình”.
Theo Đức Thánh Cha, điều này có thể “đóng vai trò như việc điều chỉnh cho cách tiếp cận sai lầm vốn chỉ nhìn nhận thực tại từ việc bảo vệ hiếu thắng cho chức năng hoặc vai trò của chúng ta”.
Nguy cơ của cách đọc lịch sử theo ý thức hệ
Trong bức thư, Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ trích việc thao túng lịch sử bằng các ý thức hệ “phá hủy (hoặc bãi bỏ) mọi sự khác biệt để chúng có thể thống trị mà không bị phản đối”. Ngài nói rằng những ý thức hệ này tìm cách dẫn dắt những người trẻ “từ chối sự giàu có về mặt tinh thần và nhân bản được thừa hưởng từ các thế hệ đi trước” và phớt lờ mọi thứ đã có trước họ.
Đối với Đức Giáo Hoàng, điều này cũng dẫn đến việc đặt ra “những vấn đề sai lầm” và tìm kiếm “những giải pháp không thỏa đáng”, đặc biệt là trong một thời đại được đánh dấu bằng xu hướng “bỏ qua ký ức về quá khứ hoặc bịa ra một ký ức phù hợp với yêu cầu của các ý thức hệ thống trị”.
“Đối diện với việc xóa bỏ lịch sử quá khứ hoặc với những câu chuyện lịch sử rõ ràng thiên vị, công việc của các nhà sử học, cùng với kiến thức và việc phổ biến công việc của họ, có thể đóng vai trò như một biện pháp kiềm chế những sự xuyên tạc, những nỗ lực phe phái trong chủ nghĩa xét lại và việc sử dụng chúng để biện minh cho” bất cứ số lượng tội ác nào, bao gồm cả chiến tranh và đàn áp, Đức Giáo Hoàng cho thấy.
Do đó, Đức Giáo Hoàng nói rằng “chúng ta không thể nắm bắt được quá khứ bằng những diễn giải vội vàng tách biệt khỏi hậu quả của chúng” và thực tại “không bao giờ là một hiện tượng đơn giản có thể giản lược thành những sự đơn giản hóa ngây thơ và nguy hiểm”.
Đức Giáo Hoàng cảnh cáo về những nỗ lực của những người hành động như “các vị thần” muốn “xóa bỏ một phần lịch sử và nhân tính”.
Sự yếu đuối của con người và việc truyền bá Tin Mừng
Đức Thánh Cha tiếp tục thừa nhận “sự yếu đuối của con người đối với những người được ủy thác Tin Mừng” và khuyên nhủ các tín hữu không nên bỏ qua những thiếu sót và “chiến đấu với chúng một cách cần cù” để chúng không cản trở việc truyền bá Tin Mừng.
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng “tha thứ không có nghĩa là quên lãng”, và ngài khuyến khích Giáo hội “khởi xướng — và giúp khởi xướng trong xã hội — những con đường chân thành và hiệu quả cho sự hòa giải và hòa bình xã hội”.
Ngài cũng kêu gọi tránh “cách tiếp cận chỉ theo trình tự thời gian” đối với lịch sử của Giáo hội, điều này “sẽ biến lịch sử của Giáo hội thành một chỗ dựa đơn thuần cho lịch sử thần học hoặc tâm linh của các thế kỷ trước”.
Đức Thánh Cha: Cần phát triển một nền thần học về hiệp hành
Trong buổi tiếp kiến các tham dự viên Khóa họp Toàn thể của Uỷ ban Thần học Quốc tế, sáng thứ Năm ngày 28/11, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự cần thiết đưa Chúa Kitô trở lại trung tâm, và phát triển một nền thần học về hiệp hành
Trước hết, đưa Chúa Kitô trở lại trung tâm, Đức Thánh Cha nói Năm Thánh sắp đến mời gọi chúng ta tái khám phá khuôn mặt Chúa Kitô và “tái tập trung” vào Người. Năm Thánh này cũng là dịp cử hành 1700 năm Công đồng Đại kết Nicea, một cột mốc lịch sử của Giáo hội và toàn thể nhân loại. Đức tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể “vì loài người chúng ta và vì ơn cứu độ chúng ta”, đã được định nghĩa và tuyên xưng như ánh sáng chiếu soi ý nghĩa thực tại và vận mệnh của toàn bộ lịch sử.
Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em được kêu gọi nuôi dưỡng một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô và đạt đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm của Người, để chúng ta có thể ‘thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Chúa Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết’ (Ep 3, 18-19)”.
Ngài nhấn mạnh thêm, đặt Chúa Kitô trở lại trung tâm có nghĩa là thắp lại hy vọng về một thế giới trong đó mọi người sống tình huynh đệ, trở thành nghệ nhân của hoà bình. Và đây chính là những gì thần học được kêu gọi thực hiện, với sự kiên trì, khôn ngoan và tầm nhìn xa, và trong cuộc đối thoại với tất cả các lĩnh vực kiến thức khác.
Đức Thánh Cha đi đến điểm thứ hai: phát triển một thần học về tính hiệp hành. Ngài nhắc lại văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục đã mời gọi các tổ chức thần học tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của tính hiệp hành (số 67). Thực vậy, đã đến lúc phải thực hiện một bước can đảm về phía trước và phát triển một nền thần học về tính hiệp hành, một suy tư thần học có thể giúp, khuyến khích và đồng hành với tiến trình thượng hiệp hành, cho một giai đoạn truyền giáo mới, sáng tạo và táo bạo hơn, được truyền cảm hứng bởi Kerygma và liên quan đến mọi thành phần của đời sống Giáo hội.
Đức Thánh Cha kết thúc bài nói chuyện, đưa ra hình ảnh Thánh Gioan Tông đồ nghiêng đầu vào ngực Chúa trong bữa Tiệc ly, và trích số 31 của Tông huấn Dilexit nos nhằm nhấn mạnh rằng “bằng cách ở gần Thánh Tâm Chúa, nền thần học của anh chị em sẽ được kín múc suối nguồn và sinh hoa trái trong Giáo hội và thế giới”.
Vatican công bố phụng vụ đơn giản hóa tang lễ Giáo hoàng
Ngày thứ tư 20 tháng 11, Văn phòng Phụng vụ Giáo hoàng công bố nghi thức phụng vụ trong tang lễ các Giáo hoàng đã được Đức Phanxicô phê chuẩn. Trong một nghi thức phụng vụ đơn giản, Đức Phanxicô cho biết ngài muốn an nghỉ tại Đền thờ Đức Bà Cả Rôma chứ không ở Đền thờ Thánh Phêrô.
Tang lễ Đức Bênêđíctô XVI ngày 6-1-2023
Tháng 12 năm 2023 ngài đã cho biết ý định ngài muốn được chôn cất ở đền thờ Đức Bà Cả, chứ không ở Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày thứ tư 20 tháng 11, Vatican công bố ấn bản mới của Ordo Exsequiarum Romani Pontificis, nghi thức hệ thống hóa tang lễ của các giáo hoàng.
Ấn bản này đã được Đức Phanxicô phê chuẩn vào tháng 4 và đã được làm lại để “đơn giản hóa” phù hợp với mong muốn của ngài. Tổng giám mục Diego Ravelli, người đứng đầu Văn phòng phụng vụ giáo hoàng lúc đó giải thích: “Nghi thức được đổi mới nhấn mạnh tang lễ của giáo hoàng là tang lễ của mục tử và môn đệ của Chúa Kitô chứ không phải tang lễ của người có quyền lực trên thế gian này.”
Một quan tài duy nhất
Nếu ba “nơi” của nghi thức an táng được giữ nguyên – trong các căn hộ giáo hoàng, trong vương cung thánh đường Vatican, trong nơi an táng – nhưng một số đặc điểm mới đã được đưa vào. Bây giờ việc thông báo cái chết của Giáo hoàng sẽ được tuyên bố ở nhà nguyện riêng của ngài chứ không ở phòng ngủ như trước đây. Sau đó thi thể được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ duy nhất, bên trong bọc kẽm và được chuyển đến Đền thờ Thánh Phêrô, thi thể được quàn trong quan tài mở nắp để giáo dân đến viếng. Trước đây thi thể được quàn tại nhà thờ trong ba chiếc quan tài làm bằng cây bách, chì và gỗ sồi. Ngoài ra, nghi lễ được cải tiến, các giáo hoàng sẽ chọn một địa điểm chôn cất khác ngoài Đền thờ Thánh Phêrô.
Phụng vụ lễ an táng cũng nhẹ hơn, phù hợp hơn với Sách lễ Rôma kể cả các bài hát và các thánh vịnh. Các nghi thức tuần cửu nhật sau tang lễ cũng được sửa đổi. Các lời cầu nguyện trong sách lễ Rôma được dùng lại, các bài đọc đã bị xóa.
Tổng giám mục Ravelli giải thích: “Đây là một Ordo theo nghĩa đen của thuật ngữ, gồm các chỉ dẫn về nghi thức, sự phát triển của các nghi thức và ý nghĩa riêng của các văn bản. Các chỉ dẫn khác đều đã có trong sách lễ, sách bài đọc, vì thế đây là bản văn chính xác, dễ dùng trong tang lễ.”
Những sửa đổi đối với Nghi thức tang lễ của Giáo hoàng có ý nghĩa gì?
Chuyên gia về Vatican, Andrea Gagliarducci của National Catholic Register, ngày 25 tháng 11 năm 2024, nhận định rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người sẽ bước sang tuổi 88 vào ngày 17 tháng 12, hiện đã biết chính xác tang lễ cuối cùng của mình sẽ như thế nào.
Các chi tiết cụ thể được nêu trong ấn bản thứ hai của Ordo Exsequiarum Romani Pontificis, do Văn phòng Lễ nghi Phụng vụ của Giáo hoàng biên soạn và công bố cho công chúng vào ngày 19 tháng 11.
Theo Vatican News, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người đã phê duyệt các nghi lễ đã được sửa đổi vào tháng 4, đã nhận được bản sao đầu tiên của tập sách in vào ngày 4 tháng 11.
Các bản sửa đổi phản ảnh mong muốn của Đức Phanxicô là đơn giản hóa các nghi lễ và trong một số trường hợp, loại bỏ các truyền thống có từ nhiều thế kỷ trước mà nguồn gốc cổ xưa của chúng đã trở nên khó giải mã ngay cả đối với các chuyên gia của Vatican.
Nhưng trong khi một số chi tiết đã thay đổi, thì bản chất của tang lễ của giáo hoàng thì không: Đây vẫn là một sự kiện công khai được đánh dấu bằng sự chú ý và các nghi thức đặc biệt mà người ta mong đợi để tôn vinh một nhà lãnh đạo thế giới quan trọng.
Đây vẫn là trường hợp, mặc dù Đức Phanxicô muốn đảm bảo rằng "lễ tang của Giám mục Rôma là của một mục tử và một môn đệ của Chúa Kitô, chứ không phải của một người quyền lực của thế giới này", như Đức Tổng Giám Mục Diego Ravelli, người dẫn chương trình nghi lễ giáo hoàng, đã giải thích.
Vậy điều gì đã thay đổi?
Trước hết, việc chứng nhận cái chết của Giáo hoàng không còn diễn ra trong căn phòng nơi ngài qua đời mà diễn ra trong nhà nguyện riêng của ngài. Trước khi chứng nhận này, thị thần [camerlengo], vị giáo phẩm điều hành Vatican trong khoảng thời gian từ khi một giáo hoàng qua đời hoặc từ chức cho đến khi bầu ra người kế nhiệm, sẽ gọi giáo hoàng bằng tên rửa tội của ngài ba lần, xác nhận rằng không có phản hồi. Tên rửa tội được sử dụng thay vì tên giáo hoàng, vì danh tính và chức năng giáo hoàng của giáo hoàng đã khuất sẽ chấm dứt sau khi ngài qua đời.
Một thay đổi khác là thi thể của giáo hoàng được đặt ngay vào bên trong một chiếc quan tài mở, thay vì một chiếc quan tài nâng cao, được gọi là canaletto ("giường chết"), như đã xảy ra với Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI. Ngoài ra, các nghi lễ được sửa đổi đã loại bỏ việc sử dụng ba chiếc quan tài — một chiếc bằng gỗ bách, một chiếc bằng chì và một chiếc bằng gỗ sồi.
Thay vào đó, thi hài được đặt trong một chiếc quan tài gỗ đơn giản có lớp lót bằng kẽm và được chuyển ngay đến Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, mà không cần phải đi qua Cung điện Tông đồ để được trưng bày thêm như trước đây.
Việc chia thành "ba chặng vẫn còn, tức là ba chặng trong hành trình của Đức Giáo Hoàng quá cố: đầu tiên là tại nhà của người quá cố, sau đó là tại Vương cung thánh đường và cuối cùng là tại nơi chôn cất".
Chặng thứ ba đánh dấu một sự sửa đổi lớn khác: Đức Giáo Hoàng có thể được chôn cất bên ngoài Vatican nếu ngài muốn. Như chúng ta đã biết, Đức Phanxicô đã làm như vậy: Ngài sẽ được chôn cất tại Santa Maria Maggiore [Nhà thờ Đức Bà Cả], cùng với năm vị giáo hoàng khác đã chọn Vương cung thánh đường đó làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình.
Người ta cũng nói về việc sửa đổi toàn diện Ordo mới liên quan đến các bản văn và bản dịch đã được hòa hợp. Ordo cũng cập nhật Kinh cầu Các Thánh. Những bài hát này được hát trong các nghi thức tang lễ trong quá trình chuyển đến Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô và trong lời cầu nguyện truyền thống của Giáo hội Rôma.
Truyền thống novemdiales vẫn còn — tức chín ngày Thánh lễ cầu nguyện cho cố giáo hoàng, mặc dù đã được sửa đổi, bao gồm các lời cầu nguyện từ Sách lễ Rôma và bỏ qua các bài đọc.
Phong tục đã có là cử hành 100 Thánh lễ để thương tiếc vị giáo hoàng đã khuất. Điều này là do trách nhiệm mà một người được kêu gọi càng quan trọng thì khả thể mắc lỗi và phạm tội càng lớn, do đó, các lời khẩn cầu và cầu nguyện càng cần thiết. Người ta không biết liệu truyền thống này có bị bãi bỏ hay không, nhưng nó không nhất thiết phải là một phần của Ordo.
Những điều chỉnh tương đối nhỏ như vậy không thay đổi một sự kiện quan trọng, theo ghi chú của Đức ông Stefano Sanchirico, một viên chức của Văn khố Tông đồ Vatican và là giáo sư lịch sử của Giáo triều Rôma: Cái chết của giáo hoàng và việc trưng bày thi hài của ngài là công khai.
“Thật vậy, cái chết và những khoảnh khắc trước đó trở thành cơ hội để đưa ra lời chứng tối cao về đức tin vào sự phục sinh”, đức ông, cựu giám mục của Phòng chờ của Đức Thánh Cha, cho biết.
Trước cuộc cải cách này, những cải cách cuối cùng đối với nghi thức tang lễ của các giáo hoàng là những cải cách được Thánh Gioan Phaolô II chấp thuận và được Đức Tổng Giám Mục Piero Marini giám sát với tư cách là người chủ trì các buổi lễ phụng vụ của giáo hoàng.
Như Đức Tổng Giám Mục Ravelli giải thích, sách nghi lễ mới “không được thiết kế như một sách lễ toàn diện, mà đúng hơn là một ordo theo đúng nghĩa — một hướng dẫn chứa các hướng dẫn nghi lễ, việc phát triển các nghi thức và bản văn chuyên biệt, trong khi tham chiếu các sách phụng vụ hiện hành như sách lễ, sách bài đọc và ca tiến cấp cho mọi điều khác”. Ngài cho biết: “kết quả là một cuốn được đơn giản hóa, dễ dàng tham khảo và chính xác trong các hướng dẫn nghi thức của nó”.
Tòa án tối cao Úc tuyên bố Giáo phận không phải chịu trách nhiệm thay thế cho các linh mục lạm dụng tình dục
Tòa án tối cao Úc trong đơn kháng cáo lên Tòa án tối cao Victoria đã ra phán quyết rằng một giáo phận Công Giáo không phải chịu trách nhiệm thay thế cho hành vi lạm dụng tình dục một bé trai năm tuổi của một linh mục từ một nhà thờ giáo xứ trong giáo phận. Nguyên đơn ở tuổi 49 đã đệ đơn kiện về những tổn thương tâm lý mà anh ta phải chịu đựng khi còn nhỏ do hai vụ tấn công tình dục riêng biệt của vị linh mục xảy ra tại nhà của đứa trẻ. Ý kiến đa số thay mặt cho năm thẩm phán đã cho biết:
Một giáo phận, thông qua giám mục của giáo phận đó, bổ nhiệm các linh mục và linh mục phụ tá cho các giáo xứ trong giáo phận đó.... Năm 1966, Coffey được Giám mục Ballarat lúc bấy giờ bổ nhiệm vào nhà thờ giáo xứ St Patrick.... Coffey không được Giáo phận tuyển dụng hoặc được Giáo phận thuê như một nhà thầu độc lập. Không có phát hiện nào cho thấy Coffey có mối quan hệ lao động với Giáo phận.
Mối quan hệ lao động luôn là tiền đề cần thiết ở quốc gia này để tìm ra trách nhiệm pháp lý thay thế và luôn cần thiết rằng các hành vi sai trái phải được thực hiện trong quá trình hoặc phạm vi lao động. Không có nền tảng vững chắc nào để mở rộng học thuyết hoặc vẽ lại ranh giới của nó.
Vatican thành lập nhóm nghiên cứu để phân loại tội phạm lạm dụng tinh thần
Elise Ann Allen của tạp chí Crux, ngày 27 tháng 11 năm 2024, tường trình rằng đối diện với một loạt vụ tai tiếng liên quan đến những người sáng lập và những cá nhân có sức thu hút khác đã phạm tội lạm dụng dưới vỏ bọc là những trải nghiệm tâm linh và thần bí sai lầm, Vatican đang thành lập một nhóm nghiên cứu để định nghĩa rõ ràng hơn về tội phạm trong luật giáo hội.
Một thông cáo do Hồng Y người Argentina Víctor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin (DDF) của Vatican ký ngày 22 tháng 11 và được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chấp thuận, đã giải quyết một cuộc tranh chấp lâu dài giữa các nhà giáo luật về khái niệm “chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo”.
Theo truyền thống, “chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo” được coi là một tội ác chống lại đức tin, thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo lý Đức tin, nhưng không có tiêu chuẩn pháp lý được xác định rõ ràng.
Điều 10 của Quy định của Bộ Giáo lý Đức tin năm 1995, do Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, tức Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tương lai, ký, nêu rõ rằng phần kỷ luật trong Bộ Giáo lý Đức tin “xử lý các tội ác chống lại đức tin, cũng như các tội ác nghiêm trọng nhất, theo phán quyết của thẩm quyền cấp trên, vi phạm đạo đức và trong việc cử hành các bí tích”.
Bộ này cho biết, họ chịu trách nhiệm về nhiều vấn đề và hành vi liên quan đến kỷ luật đức tin, chẳng hạn như "các trường hợp huyền nhiệm giả tạo, các vụ được cho là hiện ra, các thị kiến và thông điệp được cho là có nguồn gốc siêu nhiên, thuyết duy linh, ma thuật và buôn thần bán thánh".
Tuy nhiên, theo thông cáo của Bộ Giáo lý Đức tin, được công bố trên trang web của Bộ Giáo lý Đức tin, thuật ngữ "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" được giải quyết trong một bối cảnh cụ thể liên quan đến "tâm linh và các hiện tượng được cho là siêu nhiên ", và hiện được giải quyết trong phần giáo lý của Bộ Giáo lý Đức tin.
Trong bối cảnh này, ĐHY Fernández cho biết, thuật ngữ "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" ám chỉ "những cách tiếp cận tâm linh gây tổn hại đến sự hòa hợp giữa sự hiểu biết của Công Giáo về Thiên Chúa và mối quan hệ của chúng ta với Người. Theo nghĩa này, cụm từ này xuất hiện trong Huấn quyền".
Ví dụ, Bộ Giáo lý Đức tin đã trích dẫn thông điệp Haurietis Aquas năm 1956 của Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII, trong đó ngài bác bỏ khái niệm của Jansen về Thiên Chúa tách biệt khỏi sự nhập thể của Chúa Giêsu là "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo".
"Do đó, thật sai lầm khi khẳng định rằng việc chiêm ngưỡng Trái tim vật chất của Chúa Giêsu ngăn cản việc tiếp cận tình yêu thương sâu sắc của Thiên Chúa và kìm hãm tâm hồn trên con đường đạt được các nhân đức cao nhất", Đức Pi-ô XII nói, gọi đây là "học thuyết huyền nhiệm giả tạo".
Mặc dù một số nhà giáo luật cũng sử dụng cụm từ "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" liên quan đến các trường hợp lạm dụng, nhưng không có tội phạm nào được phân loại là "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" trong Bộ luật Giáo luật, ĐHY Fernández cho biết.
Mặc dù gần đây đã sửa đổi bộ luật hình sự của Vatican, bao gồm các điều khoản rộng hơn cho giáo dân và những người sáng lập giáo dân bị buộc tội lạm dụng, nhưng vẫn chưa có tội phạm nào được phân loại cho loại lạm dụng này, khiến nhiều chuyên gia giáo luật mô tả là một lỗ hổng pháp lý trong luật giáo hội.
Một số người đã chỉ ra trường hợp của Cha Francisco Javier Garrido Goitia, một người Tây Ban Nha theo dòng Phanxicô, bị tòa án giáo hội kết án vào năm ngoái về hai tội danh "huyền nhiệm giả tạo và yêu cầu được xưng tội", như một tiền lệ tiềm năng.
Tuy nhiên, các chuyên gia khác đã lập luận rằng trong trường hợp của Garrido Goitia, cáo buộc " huyền nhiệm giả tạo" được coi là một hoàn cảnh gia trọng chứ không phải là một tội ác, và nếu cáo buộc chỉ liên quan đến huyền nhiệm giả tạo, thì nó sẽ không được chấp nhận vì không có phân loại nào về nó trong Luật Giáo hội.
Trong khi một số nhà giáo luật thúc đẩy việc phân loại tội " huyền nhiệm giả tạo" liên quan đến các trường hợp lạm dụng, những người khác lại cho rằng thuật ngữ này quá chung chung vì nó đã được sử dụng trong cả bối cảnh giáo lý và kỷ luật và do đó gây nhầm lẫn.
ĐHY Fernández trong thông cáo của mình cho biết vấn đề về những trải nghiệm tâm linh và huyền nhiệm sai lầm khi phạm tội lạm dụng được giải quyết trong “Các chuẩn mực tiến hành trong việc phân định các hiện tượng được coi là siêu nhiên” mới được công bố vào tháng 5, trong đó Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố rằng “việc sử dụng những trải nghiệm siêu nhiên được cho là hoặc các yếu tố huyền nhiệm được công nhận như một phương tiện hoặc một cái cớ để kiểm soát mọi người hoặc thực hiện hành vi lạm dụng phải được coi là có tính nghiêm trọng về mặt đạo đức”.
“Việc xem xét này cho phép đánh giá tình huống được mô tả ở đây là một hoàn cảnh gia trọng nếu nó xảy ra cùng với các hành vi phạm tội”, ĐHY Fernández cho biết.
Ngài cho biết có thể đưa ra một phân loại các tội ác này dưới tiêu đề “lạm dụng tâm linh”, đồng thời tránh thuật ngữ “chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo”, một thuật ngữ bị ngài cho là một cách diễn đạt “quá rộng và mơ hồ”. Để đạt được mục đích này, ĐHY Fernández cho biết ngài đề xuất rằng Bộ Văn bản Lập pháp của Vatican và Bộ Giáo lý Đức tin thành lập một nhóm làm việc, do Bộ Văn bản Lập pháp làm chủ tịch, để tiến hành phân tích chung về loại phân loại này và đưa ra các đề xuất cụ thể.
Ngài cho biết bộ trưởng Bộ Văn bản Lập pháp, Tổng giám mục Filippo Iannone, đã chấp nhận đề xuất này “và đang tiến hành thành lập Nhóm làm việc theo kế hoạch, bao gồm các thành viên do cả hai bộ chỉ định, để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó càng sớm càng tốt”. Việc thành lập nhóm làm việc diễn ra trong bối cảnh danh sách những cá nhân bị cáo buộc có hành vi lạm dụng tình dục kết hợp các yếu tố của trải nghiệm huyền nhiệm và tâm linh sai lầm ngày càng tăng, bao gồm các trường hợp nổi bật như trường hợp của người sáng lập Sodalitium Christiane Vitae (SCV) có trụ sở tại Peru, Luis Fernando Figari và Linh mục người Slovenia Marko Rupnik, bị cáo buộc lạm dụng khoảng 40 phụ nữ trưởng thành.
Một số chuyên gia cho biết, chính lỗ hổng pháp lý xung quanh các vụ lạm dụng được thực hiện bằng cách sử dụng các trải nghiệm tâm linh hoặc huyền nhiệm sai lầm đã cho phép những kẻ bị cáo buộc lạm dụng như Rupnik tránh bị hình phạt.
ĐHY Fernández trong thông cáo của mình đã không đưa ra mốc thời gian về thời điểm nhóm làm việc sẽ được thành lập hoặc thời hạn nhiệm kỳ của nhóm.
Trong bài phát biểu trước những người tham dự phiên họp toàn thể đầu tiên của Bộ Văn hóa và Giáo dục vào ngày 21 tháng 11, Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết khát vọng, lòng dũng cảm và hy vọng Kitô giáo là những phương thuốc cần thiết để vượt qua “cái bóng của chủ nghĩa hư vô” đang phổ biến trong xã hội.
Mô tả chủ nghĩa hư vô rằng đó “có lẽ là tai họa nguy hiểm nhất của nền văn hóa ngày nay” vì nó cố gắng “xóa bỏ niềm hy vọng” trên thế giới, Đức Thánh Cha nói với các thành viên của Thánh Bộ rằng tổ chức của họ nên hướng tới mục tiêu truyền cảm hứng cho nhân loại.
“Các trường học, các trường đại học, trung tâm văn hóa phải dạy chúng ta biết mong muốn, biết khát khao, biết ước mơ, bởi vì, như Thư thứ hai của Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta, chúng ta ‘chờ đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị’”, Đức Thánh Cha nói.
“Hãy hiểu sứ mạng của anh chị em trong lĩnh vực giáo dục và văn hóa như một lời kêu gọi mở rộng tầm nhìn, tràn đầy sức sống bên trong, tạo không gian cho những khả năng vô hình, ban tặng những cách thức tặng trao những món quà vốn chỉ trở nên rộng lớn hơn khi được sẻ chia”, Đức Thánh Cha tiếp tục.
Nhắc nhở cá thính giả về di sản văn hóa và giáo dục rộng lớn của Giáo hội Công giáo, Đức Thánh Cha cho biết “không có lý do gì để phải sợ hãi”.
“Nói tóm lại, chúng ta là những người thừa kế niềm đam mê giáo dục và văn hóa của rất nhiều vị thánh”, Đức Thánh Cha nói sau khi trích dẫn tấm gương của các Thánh Augustinô, Tôma Aquinô, Edith Stein và nhà khoa học Công giáo Blaise Pascal.
“Được bao quanh bởi rất nhiều chứng nhân, chúng ta hãy gạt bỏ mọi gánh nặng của sự bi quan; bi quan không phải là tinh thần Kitô giáo”, Đức Thánh Cha cho biết thêm.
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng dựa trên các tác phẩm văn hóa của những vĩ nhân âm nhạc và văn học, bao gồm Mozart và nhà thơ người Mỹ Emily Dickinson, và đồng thời nhấn mạnh rằng họ cũng có thể là nguồn cảm hứng cho các dự án văn hóa và giáo dục khác nhau của Thánh Bộ.
Đức Thánh Cha Phanxicô phát biểu tại
Hội nghị toàn thể của Bộ Văn hóa và Giáo dục
‘Chúng ta hãy nghĩ về tương lai của nhân loại’
Xác định đói nghèo, bất bình đẳng và loại trừ là “những bệnh lý của thế giới hiện tại”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Giáo hội có “mệnh lệnh đạo đức” là phải đảm bảo mọi người — đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên — được tiếp cận với nền giáo dục toàn diện.
“Khoảng 250 triệu trẻ em và thanh thiếu niên không được đến trường”, Đức Thánh Cha tuyên bố. “Anh chị em thân mến, đó là tội diệt chủng văn hóa khi chúng ta đánh cắp tương lai của trẻ em, khi chúng ta không cung cấp cho chúng những điều kiện để trở thành những gì chúng có thể trở thành”.
Chia sẻ với các thành viên của Thánh Bộ về trải nghiệm của Antoine de Saint-Exupéry với những khó khăn của các gia đình tị nạn, Đức Thánh Cha cho biết nhà văn người Pháp cảm thấy bị tổn thương sau khi nhìn thấy những đứa trẻ.
“Tôi rất đau khổ khi thấy rằng nơi mỗi người đàn ông này đều có một Mozart nhỏ bé bị giết hại”, de Saint-Exupéry viết trong tác phẩm tự truyện “Land of Men” (Vùng đất của con người) của mình.
Kết thúc buổi tiếp kiến riêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc đến chủ đề của hội nghị toàn thể của Thánh Bộ, “Chúng ta hãy sang bờ bên kia” (x. Mc 4:35), và đồng khuyến khích các tham dự viên hãy can đảm và thực hiện công việc của mình với tinh thần hy vọng.
“Tôi nhắc lại: Chúng ta không được để cảm giác sợ hãi chiến thắng. Hãy nhớ rằng những đoạn văn về văn hóa phức tạp thường chứng tỏ là những đoạn văn có hiệu quả và sáng tạo nhất cho sự phát triển tư duy của con người”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.
“Việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô hằng sống giúp chúng ta có can đảm tiến vào tương lai”, Đức Thánh Cha cho biết thêm.
Các nghị phụ của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị thừa nhận đây là một vấn đề và trong tài liệu cuối cùng, họ mong muốn “Dân Chúa có tiếng nhiều hơn trong việc chọn lựa giám mục”.
Hiện nay quy trình chọn giám mục tập trung tại Vatican, trao cho giáo hoàng quyền tối cao trong quy trình này.
Quy trình bắt đầu với việc các giám mục trong giáo phận lập danh sách các linh mục có thể là ứng viên cho chức giám mục. Danh sách được giao cho sứ thần, sứ thần lập danh sách terna, ba ứng viên cho một giáo phận còn trống. Ngài có thể đề cử một ứng viên khác nếu ngài muốn.
Sứ thần soạn một báo cáo cho từng ứng viên với các nguồn tài liệu ngài có, kể cả bảng câu hỏi bí mật ngài gởi cho các giáo sĩ và giáo dân được chọn, những người biết các ứng viên. Bảng câu hỏi này được sửa đổi trong các triều giáo hoàng khác nhau, được giữ bí mật cho đến khi lần đầu tiên tôi công bố trên tạp chí America năm 1984.
Thông thường, sứ thần cũng hỏi ý kiến các giám mục địa phương cũng như các viên chức của Hội đồng Giám mục và các giám mục quan trọng khác trong nước.
Sứ thần viết báo cáo giáo phận cần một giám mục mới. Sứ thần Pio Laghi, đại diện giáo hoàng tại Hoa Kỳ từ năm 1980 đến năm 1990 so sánh công việc này với công việc của một kiến trúc sư cố gắng tìm một bức tượng phù hợp với một hốc trong nhà thờ chính tòa.
Chẳng hạn nếu giáo phận bị ảnh hưởng bởi nạn lạm dụng tình dục, họ sẽ tìm người có uy tín trong việc giải quyết vấn đề này. Nếu giáo phận gặp khó khăn về tài chính, họ sẽ tìm người có kỹ năng tài chính. Nếu giáo phận bị chia rẽ, họ sẽ tìm người xây dựng hòa bình.
Mỗi giáo hoàng cũng có những tiêu chuẩn riêng của các ngài để tìm ứng viên. Trước Công đồng Vatican II, nhiều phản ảnh cho rằng các giám mục Hoa Kỳ giống các nhân viên ngân hàng và xây dựng hơn là mục tử. Đức Phaolô VI muốn có nhiều giám mục mục vụ hơn. Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiệp nhất và lòng trung thành với giáo hoàng. Đức Phanxicô muốn có các giám mục gần gũi với người nghèo, “những mục tử có mùi chiên như đàn chiên của họ”
Danh sách terna và các báo cáo được gởi về Bộ Giám mục, Bộ xem xét và trình lên Ủy ban gồm các hồng y và giám mục phụ trách Bộ. Nếu Bộ không bằng lòng các ứng viên, Bộ sẽ xin sứ thần làm một danh sách khác. Cuối cùng, Ủy ban bỏ phiếu chọn ứng viên và đệ trình đề nghị của họ lên giáo hoàng, ngài sẽ chấp nhận hoặc bác bỏ đề xuất của họ.
Trong quá trình này, ý kiến đóng góp của giáo sĩ và giáo dân chiếm vị trí rất hạn chế, ngoại trừ những cá nhân được sứ thần gởi bảng câu hỏi.
Quá trình này cho phép tham khảo ý kiến giáo hội địa phương về nhu cầu của giáo phận và tính cách cần thiết nào cho một ứng viên giám mục, nhưng thường thường giáo dân muốn giám mục giống Chúa Kitô có thêm bằng Cao học của Đại học Harvard, nhưng người như thế này lại không có! Theo quy tắc hiện hành, không được thảo luận công khai về tên ứng viên, dù ủng hộ hay phản đối. Vatican cho rằng bất kỳ cuộc thảo luận công khai nào về các ứng viên đều sẽ gây chia rẽ và dẫn đến các phe phái ủng hộ và phản đối các ứng viên.
Vai trò trung ương của giáo hoàng trong việc lựa chọn giám mục là một hiện tượng hiện đại. Ở Giáo hội sơ khai, khi một giám mục qua đời, giáo dân tập trung tại nhà thờ chính tòa và bầu giám mục mới, có thể là một linh mục hoặc giáo dân. Cuối cùng, quyền bầu cử giới hạn ở giáo sĩ hoặc một phần của giáo sĩ, ví dụ tu nghị của nhà thờ chính tòa.
Nhưng điều này không nhất thiết loại bỏ giáo dân khỏi quá trình. Vào thế kỷ thứ năm, Giáo hoàng Lêô Cả cho rằng một giám mục nên được giáo sĩ bầu chọn, được giáo dân chấp nhận và được các giám mục của các giáo phận lân cận tấn phong.
Một điều đáng buồn, khi Giáo hội giàu có và quyền lực, các vua chúa và giới quý tộc can thiệp vào quá trình, họ đe dọa hoặc họ hối lộ. Vào thế kỷ 19, khi chế độ quân chủ sụp đổ, những người cải cách xem chức giáo hoàng là thể chế, họ bổ nhiệm các giám mục phục vụ lợi ích của Giáo hội thay vì mục đích chính trị của nhà nước.
Ngày nay, những người cải cách muốn Giáo hội quay về với thông lệ cổ xưa, giáo dân hoặc giáo sĩ bầu giám mục ở cấp địa phương. Dù điều này có thể có hiệu quả ở các quốc gia dân chủ tôn trọng sự độc lập của Giáo hội, nhưng lịch sử cảnh báo cho chúng ta biết, giới tinh hoa chính trị và những kẻ độc tài có thể sẽ can thiệp vào các cuộc bầu cử.
Việc bầu ông Donald Trump làm Tổng thống Hoa Kỳ nên làm cho những người theo chủ nghĩa tiến bộ phải dừng lại trước khi họ dân chủ hóa Giáo hội. Dân chủ không phải là bất khả xâm phạm.
Thượng Hội đồng về tính đồng nghị mời gọi chúng ta đối thoại để mọi người có tiếng nói nhiều hơn trong việc lựa chọn giám mục. Đối thoại này nên được thực hiện theo cách thức công nghị, chúng ta lắng nghe mọi tiếng nói để xác định Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt chúng ta đến đâu ngày nay.
Các cơ quan tư vấn giáo phận (hội đồng linh mục, hội đồng mục vụ, cộng đồng) nên được trao vai trò vì họ đại diện cho giáo dân và linh mục. Họ có thể đề cử ứng viên hoặc bỏ phiếu tư vấn về terna do sứ thần chuẩn bị không? Sự tham gia đó nên công khai hay bảo mật?
Giáo hội Công giáo cũng có thể học hỏi từ các giáo hội khác cách dùng các phương pháp khác nhau để lựa chọn các nhà lãnh đạo của họ.
Tất cả các cuộc thảo luận này có thể dẫn đến việc phát triển một mô hình lựa chọn giám mục có thể được thử nghiệm trong nhiều tình huống khác nhau theo quyết định của sứ thần.
Lịch sử cho chúng ta thấy các giám mục đã được lựa chọn theo nhiều cách trong nhiều thế kỷ và mỗi cách đều có những vấn đề riêng. Không có cách hoàn hảo nào để chọn giám mục. Ngay cả Chúa Giêsu cũng bị lầm về một trong 12 tông đồ của Ngài.
Giáo hoàng Lêô đã khôn ngoan khi đề xuất hệ thống kiểm tra và cân bằng liên quan đến giáo sĩ, giáo dân và Hội đồng Giám mục. Đã đến lúc chúng ta cần thử nghiệm những cách mới để chọn giám mục, để “Dân Chúa có tiếng nói nhiều hơn trong việc chọn giám mục của mình”.
Hình ảnh Chúa Jesus được tạo ra bởi AI.
Nhà nguyện Peter - nhà thờ lâu đời nhất ở thành phố Lucerne - gây nhiều chú ý khi thiết lập một phòng xưng tội áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI). Một bức tượng Chúa Jesus được tạo ra bằng AI, có thể nói chuyện bằng 100 ngôn ngữ, sẵn sàng lắng nghe và phản hồi chia sẻ của những người đến xưng tội.
"Đây thực ra là một thử nghiệm. Chúng tôi muốn xem mọi người phản ứng với một vị chúa AI thế nào. Họ sẽ nói chuyện về điều gì? Liệu có hứng thú khi nói chuyện không? Chúng tôi có lẽ là những người tiên phong trong lĩnh vực này", Marco Schmid, một nhà thần học của nhà thờ, cho biết.
Hệ thống AI này được gọi là Deus in Machina, ra mắt hồi tháng 8. Đây là kết quả hợp tác sau nhiều năm giữa nhà thờ và phòng nghiên cứu của trường đại học địa phương. Sau các dự án thử nghiệm với thực tế ảo và thực tế tăng cường, nhà thờ quyết định bước tiếp theo là chọn ra một nhân vật đại diện cho AI.
"Chúng tôi đã thảo luận về việc hình đại diện đó sẽ là loại hình nào, một nhà thần học, một con người hay một vị thánh? Chúng tôi nhận ra rằng hình tượng phù hợp nhất chính là Chúa Jesus", Schmid nói thêm
Nhà thờ lắp đặt một hệ thống máy tính trong buồng xưng tội, hiện thị hình ảnh của Chúa Jesus thay vì sắp đặt linh mục để tiếp chuyện người dân như thông thường. Du khách được mời đặt câu hỏi cho AI và nhận được câu trả lời ngay sau đó, hoàn toàn tự động.
Hơn 1.000 người đã tham gia trải nghiệm xưng tội với AI tại nhà nguyện Peter ở Lucerne, Thụy Sĩ.
Mọi người được khuyên không tiết lộ bất kỳ thông tin cá nhân nào và xác nhận họ chấp nhận rủi ro khi tương tác với AI. Trong suốt hơn hai tháng thử nghiệm, hơn 1.000 người bao gồm cả các khách du lịch tới từ châu Á đã trải nghiệm xưng tội với AI.
"Phản hồi từ hơn 230 người dùng cho thấy 2/3 trong số họ cho rằng đây là một trải nghiệm tâm linh. Chúng ta có thể nói rằng họ đã có một khoảnh khắc tích cực về mặt tôn giáo với cha xưng tội AI này. Đối với tôi, điều đó thật đáng ngạc nhiên.
Những người khác thì tiêu cực hơn, một số người nói họ không thể trò chuyện với máy móc. Một phóng viên địa phương từng thử thiết bị này đã mô tả các câu trả lời đôi khi 'lặp đi lặp lại và toát lên sự khôn ngoan sáo rỗng', nhà thần học Marco Schmid cho hay.
Theo Schmid, thử nghiệm này cũng phải đối mặt với sự chỉ trích từ một số người trong cộng đồng nhà thờ. Các đồng đạo Công giáo phản đối việc sử dụng phòng xưng tội AI trong khi những người theo đạo Tin lành không hài lòng với việc sử dụng hình ảnh Chúa Jesus theo cách này.
Theo luật Tự do Tín ngưỡng và Tổ chức Tôn giáo mới, được tổng thống Lukashenko ký vào tháng 12/2023, hoạt động giáo dục và truyền giáo của các Giáo hội bị hạn chế, trong khi tất cả các giáo xứ phải đăng ký lại trước tháng 7/2025 hoặc phải đối mặt với việc giải thể.
Bà Natallia Vasilevich, điều phối viên của tổ chức đại kết “Christian Vision” cho biết các cơ quan giám sát chính thức đã kiểm tra hồ sơ phương tiện truyền thông xã hội như một phần của cuộc thanh trừng phương tiện truyền thông độc lập, thường lưu giữ ảnh chụp màn hình, buộc nhiều linh mục phải đóng tài khoản của họ thay vì dành thời gian chỉnh sửa chúng.
Bà cũng cho biết các linh mục cũng bị ngăn cản thảo luận về các vấn đề với giáo dân vì biết rằng tin nhắn điện thoại riêng tư của họ có thể bị cảnh sát kiểm tra.
Belarus đã bị tổ chức “Open Doors” đưa vào Danh sách theo dõi thế giới năm 2024; đây là lần thứ hai kể từ năm 2023.
Theo tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ, “Hầu hết các quyền con người, bao gồm cả quyền tự do tôn giáo, đều bị đe dọa do bản chất độc đoán của chính phủ Belarus”.
Hai linh mục đang phải đối mặt với cáo buộc phân phối “tài liệu cực đoan” theo Điều 19:11 của Bộ luật vi phạm hành chính của Belarus.
Cha Yuri Barauniou, cha sở giáo xứ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại Krulevshchina, gần Vitebsk, đã bị giam giữ trong 10 ngày vào tháng 10 vì cáo buộc “tàng trữ và phân phối các tài liệu cực đoan”, trong khi Cha Andrei Keulich, người đứng đầu giáo hạt Mogilev, cũng bị giam giữ một ngày sau đó với cùng cáo buộc.
Báo cáo của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết 36 giáo sĩ Công giáo nghi lễ Latinh và nghi lễ Đông phương đã “phải chịu ... sự đàn áp vì lý do chính trị” kể từ năm 2020, cùng với 21 giáo sĩ Chính thống giáo và 29 mục sư Tin Lành.
Theo cha Philippe Blot, khi đất nước bị phân chia vào năm 1953, Triều Tiên sát hại tất cả linh mục và tu sĩ, trong đó có khoảng 10 tu sĩ dòng Biển Đức, người Đức và Hàn Quốc. Vào thời điểm đó, Bắc Hàn có nhiều Kitô hữu hơn Nam Hàn, nhưng tất cả đều bị cấm thực hành đạo, các tôn giáo khác cũng bị như vậy. Trong những năm qua, do áp lực kinh tế từ quốc tế, họ đã mở cửa một chút, bề ngoài dường như có vẻ tự do nhưng thực ra không phải vậy.
Như nguồn tin về việc xây một ngôi thánh đường ở Bình Nhưỡng và thành lập một hiệp hội người Công giáo ở Triều Tiên, tất cả chỉ là giả dối. Trong thời gian ở Triều Tiên, cha Philippe Blot yêu cầu được dâng Thánh lễ ở nhà thờ Bình Nhưỡng nhưng luôn bị từ chối. Buổi cử hành phụng vụ ở đó không có linh mục, mọi người tham dự đều mặc trang phục truyền thống, hát rất hay nhưng như một cuộc biểu diễn. Họ được trả tiền hoặc bị ép tham dự cuộc họp mặt. Có phần trao Mình Chúa, nhưng không ai biết bánh đã được truyền phép hay chưa. Tất cả đều giả.
Do những bất công, nghèo đói và bách hại đang diễn ra, họ sợ các linh mục, vì các linh mục lên tiếng bảo vệ người nghèo và công nhân. Ở quốc gia này, không có tự do. Họ biết Kitô giáo, và trên hết là Chúa Giêsu, ủng hộ tự do. Trong suy nghĩ của họ, Kitô giáo đại diện cho một hình thức chống quyền lực. Họ biết Kitô hữu có thể chịu đựng rất mạnh mẽ khi bị bách hại. Kitô hữu đích thực không bao giờ chối bỏ đức tin, và điều này là không thể chấp nhận được với Kim Jong-Un, người luôn cho mình ở trên Chúa. Các Kitô hữu, nếu chọn Chúa, sẽ bị đưa đến các trại, hoặc bị giết ngay tại chỗ. Cuộc bách hại rất khắc nghiệt.
Cha cho biết thêm, trước đại dịch Covid-19, một thoả thuận giữa Trung Quốc và Triều Tiên cho phép một số người sống gần biên giới được qua lại thăm người thân hai hoặc ba lần một tháng. Trong lúc ở Trung Quốc một số biết Chúa và được rửa tội. Nhưng khi về Triều Tiên họ không được phép thực hành đạo, đặc biệt họ không được phép mang Kinh Thánh về vì sẽ nguy hiểm đến tính mạng nếu bị phát hiện.
Mọi người không được công khai bày tỏ niềm tin của mình. Từ khi lên hai, ba tuổi, các trẻ em đã được dạy không nói lớn tiếng khi ra ngoài đường, ở lớp học không nói những chuyện ở nhà. Ở đất nước này, mọi người dễ dàng tố cáo nhau. Nếu bị phát hiện cầu nguyện sẽ bị bắt ngay. Luật im lặng ngự trị trong gia đình.
Trước thực trạng này, cha cho biết các tín hữu ở đây sống đạo âm thầm như các Kitô hữu thời đế quốc Roma, trong các hang toại đạo. Tất nhiên, không có giáo sĩ, không có Kinh Thánh, không có người hướng dẫn cầu nguyện. Tìm cách để không bị phát hiện khi cầu nguyện chung, nhưng nếu bị phát hiện họ rất can đảm, không chối bỏ Chúa và kiên trung cầu nguyện.
Vào ngày 20/11/2024, tại Nhà thờ Brompton ở Anh, trong Thánh lễ Thứ Tư Đỏ - cầu nguyện và thể hiện tình liên đới với các Kitô hữu bị bách hại vì đức tin trên thế giới - Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ đã trao Giải thưởng Kitô hữu Can đảm cho cô Ribqa Nevash.
Cô Nevash được biết đến với vai trò là người đấu tranh mạnh mẽ cho quyền lợi của phụ nữ và trẻ nữ Kitô hữu ở Pakistan. Cụ thể luật sư nêu bật hoàn cảnh khốn khổ của những phụ nữ và trẻ nữ bị bắt cóc, ép cải sang đạo Hồi và kết hôn với người bắt cóc.
Qua các cuộc phỏng vấn, bài viết và họp báo, cô đã đưa ra ánh sáng câu chuyện của những người sống sót sau cuộc bách hại tôn giáo, bao gồm hậu quả của các cuộc bạo loạn chống các Kitô hữu ở Jaranwala, tỉnh Punjab, vào tháng 8/2023.
Bày tỏ lòng biết ơn đối với Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ về sự công nhận này, Nevash xúc động nói: “Tôi cảm thấy rất vinh dự và biết ơn khi được trao giải giải thưởng và cam kết sẽ tiếp tục dấn thân cho hoạt động này”.
Nữ luật sư quả quyết: “Tôi sẽ làm mọi sự có thể để giúp các anh chị em đang đau khổ của tôi”. Và nói thêm rằng cảm thấy “hơn bao giờ hết có động lực nhiều để lên tiếng” cho các Kitô hữu bị bách hại, khuyến khích họ “giữ vững đức tin mặc dù phải đối diện với nhiều khó khăn và đấu tranh hàng ngày”.
Bày tỏ lòng biết ơn Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ vì sự hỗ trợ cho các Kitô hữu, cô nói: "Tôi thực sự trân trọng tất cả những gì Tổ chức làm cho các Kitô hữu ở Pakistan. Cám ơn quý vị rất nhiều vì mọi sự”.
Được thành lập vào năm 2023, Giải thưởng Kitô hữu Can đảm vinh danh những người thể hiện lòng can đảm và dấn thân đặc biệt cho đức tin của mình. Người đầu tiên nhận giải là Margaret Attah, một người sống sót sau vụ tấn công chết người của phiến quân thánh chiến vào một nhà thờ Công giáo ở phía tây nam Nigeria.
Tiến sĩ Caroline Hull, giám đốc quốc gia của Tổ chức các Giáo hội Đau khổ ở Vương quốc Anh, ca ngợi lòng dũng cảm và khả năng phục hồi của cô Nevash: "Chúng tôi rất vui mừng được trao Giải thưởng cho cô Nevash, để ghi nhận sức mạnh, lòng dũng cảm và quyết tâm phi thường của luật sư trong việc ủng hộ Giáo hội đang đau khổ ở Pakistan”.
Tiến sĩ Hull nói thêm: “Luật sư thực sự là một phụ nữ trẻ đáng chú ý, luôn kiên trung với đức tin của mình trước sự phân biệt đối xử và những khó khăn mà cô ấy đã trải qua khi lớn lên với tư cách là một cô gái Công giáo ở Pakistan”.
Là một Kitô hữu ở Pakistan, Nevash đã phải đối diện với những thách đố lớn. Không chỉ bị áp lực khi là sinh viên Kitô giáo duy nhất trong lớp tại Đại học Faisalabad, cô còn bị sự phân biệt đối xử trong các cuộc phỏng vấn xin việc chỉ vì là Kitô hữu.
Khen ngợi những nỗ lực không biết mệt mỏi của Nevash, tiến sĩ Hull nói: “Đức tin và lòng nhiệt thành của Nevash là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng ta. Luật sư này làm việc rất chăm chỉ và đã làm được rất nhiều, mặc dù còn trẻ, để giúp nâng cao nhận thức về nhiều bất công mà Giáo hội ở Pakistan phải đối diện”.
Tiến sĩ Hull bày tỏ sự lạc quan về những nỗ lực trong tương lai của Nevash, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ủng hộ hành trình của cô và lan truyền tiếng nói của cô nhằm ủng hộ các Kitô hữu đang phải chịu đau khổ trong im lặng vì đức tin của họ.
Tượng Đức Mẹ bằng đồng do điêu khắc gia Giuseppe Obici thực hiện được đặt trên đỉnh cây cột cao 12 mét do kiến trúc sư Luigi Poletti thiết kế.
Vào lúc 4 giờ chiều, Đức Thánh Cha sẽ đến Quảng trường Tây Ban Nha để tôn kính Đức Mẹ. Ngài sẽ được chào đón bởi Đức Hồng Y Giám quản Roma Baldassare Reina và thị trưởng Roma Roberto Gualtieri. Ngài sẽ cầu nguyện trước tượng đài dâng kính Đức Mẹ và đặt hoa dưới chân tượng đài.
Nhưng những người đầu tiên tôn kính Đức Mẹ tại Quảng trường Tây Ban Nha sẽ là những lính cứu hỏa, để vinh danh 220 đồng nghiệp đã khánh thành tượng đài vào ngày 8/12/1857. Vào lúc 7 giờ sáng, họ sẽ leo lên đỉnh để đặt vòng hoa lên cánh tay Đức Mẹ.
Trong ngày 8/12, nhiều nhóm và cá nhân sẽ đến cầu nguyện và đặt vòng hòa dưới chân tượng đài, trong đó sẽ có giáo xứ Thánh Anrê trong khu vực, Hội Hiệp sĩ Malta, Hội Đạo binh Đức Mẹ, Hội Thánh Phêrô, và nhiều tổ chức khác. Lực lượng Hiến binh Vatican, với ban nhạc cử hành một bài thánh ca kính Đức Mẹ. Ngoài ra còn có đoàn rước đông đảo các công nhân của các công ty quan trọng nhất của Roma, bao gồm các công ty của các thị trấn và thành phố, đại sứ Tây Ban Nha cạnh Tòa Thánh cùng với các nhóm Tây Ban Nha, Unitalsi.
Từ 5 giờ sáng và suốt cả ngày, các Tu sĩ Phanxicô Viện tu của Đền thờ Mười hai Tông đồ sẽ có mặt tại quảng trường để chào đón các nhóm và các tín hữu, hướng dẫn việc tôn kính Đức Mẹ với các bài thánh ca và lời cầu nguyện.
Với App “Giáo hội Công giáo”, người dùng có thể đọc tin tức, nghe radio hằng ngày và xem các video của Vatican News Tiếng Việt trên App.
Các thư viện audio phong phú về truyện ngắn Công giáo, Giáo huấn vui, Ciao bạn trẻ,… dễ dàng được tìm thấy và nghe ngay cả ở chế độ tắt màn hình.
Ở phần audio, người dùng có thể nghe radio online của Vatican News Tiếng Việt 24/24, trong đó ngoài chương trình hằng ngày, các chương trình trực tiếp của Đức Thánh Cha, còn có các giờ kinh bằng tiếng Latinh và nhạc không lời.
App cho Android và App cho iOS
Đặc biệt, để đào sâu đời sống thiêng liêng, người dùng có thể đọc và nghe Lời Chúa và suy niệm Lời Chúa hằng ngày. Hơn nữa, những ai muốn giữ nhịp cầu nguyện có thể đặt lịch hẹn và app sẽ nhắc Lời Chúa khi đến giờ.
Để thuận tiện cho việc tìm giờ Lễ tại các nhà thờ, App cũng tích hợp bản đồ các nhà thờ và giờ lễ tương ứng. Với chức năng này, Vatican News Tiếng Việt mời gọi người dùng trở thành những tình nguyện viên cập nhật giờ lễ của các nhà thờ mình biết, đặc biệt cho những lễ riêng khác với giờ lễ bình thường, giúp tín hữu từ nơi khác đến có thể tìm thấy giờ lễ dễ dàng và chính xác.
Điều thú vị là App “Giáo hội Công giáo” được thiết kế bởi một bạn nữ trẻ tân tòng thao thức về đời sống đạo và với lòng nhiệt huyết muốn đóng góp phần của mình cho việc đào sâu đức tin của tín hữu, đặc biệt là phần đọc và nghe Lời Chúa. Ngoài việc được thiết kế bởi một người trẻ, App cũng được thực hiện bởi một nhóm bạn trẻ của công ty Vân Tay Media. Các bạn trẻ đã nhiệt tình và cũng rất kiên nhẫn qua nhiều lần chỉnh sửa trong thời gian dài để App “Giáo hội Công giáo” có thể được chính thức ra mắt. Một bạn trẻ Công giáo trong nhóm phát triển App đã bày tỏ: “Đây là một công cụ ý nghĩa để đem Tin Mừng đến với nhiều người hơn, theo tinh thần xây dựng Giáo hội hiệp hành của Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.
App cho Android và App cho iOS
App được phát hành trên nền tảng Android và iOS, người dùng có thể tìm thấy App với tên: “Giáo hội Công giáo” với logo nền màu đỏ đậm và biểu tượng định vị bản đồ bao bên ngoài một micro và biểu tượng Giáo hoàng.
Cảm ơn mọi người
Phát biểu trước 1.200 người, bao gồm công nhân, doanh nhân, kiến trúc sư, thành viên của tổ chức "Tái Xây dựng Nhà thờ Đức Bà" và những người quy tụ tại nhà thờ Đức Bà Paris, ông Macron cảm ơn họ và nói: “Các bạn đã biến than thành nghệ thuật”.
Tổng thống Pháp nói với các công nhân quy tụ tại Nhà thờ Đức Bà: “Các bạn đã giữ lời hứa xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà trong 5 năm, các bạn đã làm được và đó là niềm tự hào to lớn cho toàn thể đất nước. Tôi vô cùng biết ơn các bạn, nước Pháp vô cùng biết ơn các bạn”.
Ông Macron nhắc đến mọi nghành nghề tham gia xây dựng nhà thờ: kỹ sư, nghệ sĩ, thợ điện, nhân viên an ninh, thợ trùng tu... Ông nói: "Ở đây chúng ta đã xây dựng công trường lớn nhất Châu Âu”. “Chúng ta chưa bao giờ thấy dự án nào như thế này, tất cả các bạn đều tham gia vào dự án thế kỷ”.
Tổng thống Pháp nhắc đến 340 ngàn người ủng hộ và tài trợ thuộc 150 quốc gia. Ông nói: “Chính sự quảng đại của các bạn đã giúp việc xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà có thể thực hiện được”, với số tiền quyên góp vài euro và số tiền quyên góp “hàng trăm triệu euro”. “Các bạn đã huy động (…) để bày tỏ tình yêu đối với Notre-Dame, nhà thờ đại diện cho đất nước, ... và tôi muốn chân thành cảm ơn các bạn vì điều này”.
Nghi thức mở cửa nhà thờ và Thánh lễ thánh hiến bàn thờ
Giáo phận Paris đã thông báo rằng sự kiện mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà Paris trong thực tế sẽ kéo dài trong cả năm, từ ngày 7/12 năm nay (2024) đến ngày 8/6 năm tới (2025), lễ Ngũ Tuần.
Tổng Giám mục Laurent Ulrich của Paris sẽ chủ trì nghi lễ mở cửa Nhà thờ vào chiều tối ngày 7/12/2024 trước sự hiện diện của Tổng thống Pháp. Thánh lễ khai mạc, với việc thánh hiến bàn thờ chính, sẽ diễn ra vào lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật ngày 8/12, do Đức Tổng Giám mục Paris chủ sự và cũng có sự hiện diện của Tổng thống Macron.
Theo lời mời của Đức Cha Ulrich, gần 170 giám mục từ Pháp và trên toàn thế giới, cũng như một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số 106 giáo xứ của Giáo phận Paris, và một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số bảy nhà thờ Công giáo Nghi lễ Đông phương, và các tín hữu từ mỗi cộng đoàn của giáo phận sẽ hiện diện tham dự.
Đức Cha nói trong thông cáo báo chí: “Hãy vui mừng vì chúng ta sẽ tái khám phá được tâm điểm của đời sống giáo phận của chúng ta, ngôi nhà chung nơi mọi người, và trên hết là những người nhỏ bé nhất và nghèo nhất, có chỗ đứng của mình”.
Đài truyền hình France Télévisions sẽ đảm bảo ghi lại và phát sóng trực tiếp tất cả những điểm nổi bật của các nghi lễ.
The restored interiors of the cathedral, Nov. 29, 2024, in Paris.
Các buổi lễ và hòa nhạc được tổ chức vào Thứ Bảy và Chúa Nhật, gồm có các nguyên thủ quốc gia, các vị giám mục và linh mục từ Pháp và các quốc gia khác sẽ tham gia lễ kỷ niệm. TT Macron sẽ phát biểu trước quan khách. Và Tổng Giám Mục Paris chủ trì Thánh lễ và làm nghi thức đập vào cánh cửa đóng kín của Nhà thờ Đức Bà để mở cửa trở lại.
Trên Truth Social, TT Trump viết là điều vinh dự được đến tham dự lễ khánh thành Thứ Bảy:
"It is an honor to announce that I will be traveling to Paris, France, on Saturday to attend the re-opening of the Magnificent and Historic Notre Dame Cathedral, which has been fully restored after a devastating fire five years ago,"
"President Emmanuel Macron has done a wonderful job ensuring that Notre Dame has been restored to its full level of glory, and even more so. It will be a very special day for all!"
Tiến trình trùng tu bắt đầu với hai năm thanh tẩy, rồi củng cố các cơ cấu của thánh đường, với kinh phí 760 triệu Mỹ kim.
Qua mạng xã hội, Hội đồng Giám mục Mỹ viết: “khi Nhà thờ Chính tòa Paris được mở lại, các Giáo hội địa phương ở Mỹ được mời gọi đánh chuông để bày tỏ tình liên đới”.
Mặt khác, Tổng thống tân cử Donald Trump cho biết thứ Bảy này, ông sang Pháp để tham dự lễ mở cửa lại Nhà thờ Chính tòa Paris. Ông cũng ca ngợi Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã thực hiện một công việc tuyệt vời để Nhà thờ Chính tòa Paris được tái lập trọn vẹn vẻ huy hoàng và còn hơn thế nữa! Đó sẽ là một ngày rất đặc biệt cho mọi người”.
Tổng thống Macron là một trong các lãnh tụ nước ngoài đầu tiên chúc mừng Tổng thống Donald Trump, sau khi đắc cử hồi tháng Mười Một vừa qua.
Tham dự lễ khánh thành Nhà thờ Chính tòa Paris, có khoảng 50 vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ. Khoảng 6.000 nhân viên an ninh được điều động để giữ an ninh, trong hai ngày 07 và 08 tháng Mười Hai này. Khu vực trung tâm Paris, quanh Nhà thờ Chính tòa chỉ có thể lui tới nếu có giấy mời. Sẽ có khoảng 40.000 tham dự dọc theo bờ sông Seine.
Lễ tái thánh hiến sẽ do Đức Tổng giám mục Laurent Ulrich của giáo phận sở tại chủ sự, với sự tham dự của Tổng thống Pháp-Macron, hàng giáo sĩ, các chức sắc khác và các ân nhân.
Thánh lễ khai mạc sẽ được cử hành vào Chúa nhật, ngày 08 tháng Mười Hai, với khoảng 170 giám mục và linh mục, 106 giáo xứ ở Paris, mỗi xứ được cử một linh mục tham dự.
Vào năm 2023, các vị lãnh đạo Giáo hội đã cùng nhau quyết định, yêu cầu các Kitô hữu ở Thánh Địa không trưng bày đồ trang trí và đèn Giáng sinh ở các nơi công cộng, như một cách thể hiện tình liên đới với nhiều người đang phải chịu đựng cuộc chiến giữa Hamas và Israel.
Tuy nhiên, trong một tuyên bố gần đây, các Giáo hội cho rằng yêu cầu này làm cho nhiều người nghĩ rằng cử hành Giáng sinh ở Thánh Địa bị huỷ bỏ, với kết quả là “chứng tá duy nhất về sứ điệp Giáng sinh đã bị giảm bớt”, không chỉ trên toàn thế giới, nhưng cũng ở trong các Giáo hội địa phương.
Vì thế, các lãnh đạo Giáo hội Kitô ở Giêrusalem đang khuyến khích các tín hữu “cử hành trọn vẹn” sinh nhật của Đức Kitô “bằng cách bày tỏ công khai các dấu hiệu hy vọng của Kitô hữu”. Đồng thời, các vị mục tử kêu gọi các tín hữu cử hành theo những cách quan tâm đến những khó khăn nghiêm trọng mà hàng triệu người trong khu vực vẫn đang phải chịu đựng.
Tuyên bố của của các vị lãnh đạo viết: “Chắc chắn các cử hành phải bao gồm cầu nguyện không ngừng, giúp đỡ bằng những cử chỉ bác ái và tử tế, và chào đón những ai đang bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột như chính Chúa Kitô đã chào đón chúng ta”. Bằng cách này, chúng ta lặp lại chính câu chuyện Giáng sinh, nơi các thiên thần loan báo cho những người chăn chiên tin vui Chúa Kitô Giáng sinh giữa thời điểm đen tối tương tự trong khu vực của chúng ta, mang đến cho họ và toàn thế giới sứ điệp về hy vọng và bình an của Chúa”.
Trong buổi họp gần đây với cha Francesco Patton, bề trên dòng Phanxicô ở Thánh Địa cùng với cha Ibrahim Falta, phó bề trên, Tổng thống Palestine, ông Mahmoud Abbas cũng kêu gọi hạn chế các cử hành Giáng sinh ở Thánh Địa, do những khó khăn của người dân. Tại buổi gặp gỡ, theo thông lệ đại diện Giáo hội Công giáo đã mời tổng thống tham dự lễ Giáng sinh. Đại diện chính phủ, tổng thống đã gửi lời chúc mừng Giáng sinh tới các Kitô hữu Palestine và nhắc lại hy vọng về hoà bình của ông.
Chủ sự nghi thức này là Đức Hồng y Mauro Gambetti, Dòng Phanxicô Viện Tu, Giám quản Đền thờ thánh Phêrô. Bắt đầu là một lời nguyện, rồi các nhân viên Đền thờ mở bức tường phía sau Cửa Năm Thánh, được niêm phong và lấy ra một hộp bằng kim loại đã được gắn vào ngày 20 tháng Mười Một năm 2016, khi kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót. Rồi Đức Hồng y hướng dẫn đoàn rước của các Kinh sĩ Đền thờ, vừa đi vừa hát Kinh Cầu các thánh, cho đến bàn thờ chính, bàn thờ Tuyên xưng đức tin, trên mộ thánh Phêrô. Các vị dừng lại để cầu nguyện một chút, rồi đến Phòng hội của Kinh sĩ đoàn. Tại đây, hộp kim loại được mở ra.
Bên trong hộp, có giấy da (pergamena) chứng thực việc đóng cửa Năm Thánh, bốn viên gạch mạ vàng và một số chiếc mề-đay, trong đó có các mề-đay của các triều đại Giáo hoàng Phanxicô, Biển Đức XVI và Gioan Phaolô II.
Tham dự các nghi thức này cũng có Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng và cũng là vị Đặc trách Năm Thánh, Đức Tổng giám mục Diego Ravelli, Trưởng ban Nghi lễ Phụng vụ của Đức Thánh cha. Đức Tổng giám mục lấy các văn kiện và đồ vật xác nhận trên đây để trình Đức Thánh cha Phanxicô.
Nghi thức nhìn nhận tương tự cũng được cử hành tại Đền thờ thánh Gioan Laterano, chiều ngày 03 tháng Mười Hai, và tại Đền thờ thánh Phaolô Ngoại thành, ngày 05 tháng Mười Hai, sau cùng là ngày 06 tháng Mười Hai, tại Đền thờ Đức Bà Cả.
Cơ quan bảo trì và quản trị Đền thờ Thánh Phêrô đã hoàn thành việc thay thế các tấm kính lớn bảo vệ pho tượng Đức Mẹ Pietà, một kiệt tác bằng đá cẩm thạch của họa sĩ và điêu khắc gia thiên tài Michelangelo, bằng 9 tấm kính chống va đập và chống đạn có chất lượng cao, để bảo vệ an toàn hơn và có độ trong suốt cao hơn.
Tượng Đức Mẹ Pietà được thực hiện từ năm 1497 đến 1499, là kiệt tác đầu tiên của nghệ sĩ Michelangelo khi ở độ tuổi đôi mươi, đồng thời là một trong những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhất mà phương Tây từng tạo ra. Đây cũng là tác phẩm duy nhất có chữ ký của tác giả. Tác phẩm được trưng bày tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Vào ngày 21/5/1972, một người đàn ông đã dùng búa đập khiến cho pho tượng bị thiệt hại rất nghiêm trọng, vỡ thành khoảng 50 mảnh, làm gãy cánh tay trái và gãy khuỷu tay; gương mặt của tượng cũng bị hư hại.
Sau quá trình phục chế kéo dài từ tháng 5 cho đến tháng 12/1972, tượng Pietà được bảo vệ bởi một lớp kính chống đạn đặc biệt vào năm 1973.
An toàn và thẩm mỹ hơn
Là một phần của công trình chuẩn bị cho Năm Thánh 2025, Cơ quan bảo trì và quản trị Đền thờ Thánh Phêrô đã thay thế các tấm kính đã được lắp đặt vào năm 1973 này bằng lớp kính bảo vệ mới gồm 9 tấm kính chống vỡ và chống đạn. Các tấm kính có chất lượng cao nhất và độ trong suốt tối đa, được thiết kế bởi đội ngũ chuyên gia Ý sau khi nghiên cứu chuyên sâu.
Công việc thay thế kéo dài chưa đầy sáu tháng và nhằm mục đích giúp các tín hữu hành hương và du khách có thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ rõ nhất, cũng như bảo đảm an toàn cho tác phẩm.
Kỹ sư Alberto Capitanucci, người chịu trách nhiệm về lĩnh vực kỹ thuật của Cơ quan bảo trì và quản trị Đền thờ Thánh Phêrô, giải thích: “Dự án không chỉ liên quan đến việc sử dụng các tấm kính trong suốt hơn mà còn liên quan đến việc sử dụng các tấm có hiệu suất cơ học cao hơn. Độ dày được áp dụng là 24,5 mm so với 19mm của hệ thống ban đầu. Các tấm kính không chỉ được xếp lớp mà còn được làm cứng bằng nhiệt. Chúng có khả năng chống được các cuộc tấn công bằng tay, có thể chịu được 26 nhát búa/rìu (gần bằng mức bảo vệ cao P6B theo tiêu chuẩn EN 356) và khả năng chống đạn vượt quá mức BR2/S (theo tiêu chuẩn EN 1063), tức là nó có thể chịu được đạn của súng ngắn cỡ nòng 9mm.
Dự án được hình thành, triển khai và hỗ trợ nhờ sự đóng góp của một nhóm doanh nhân ở miền Piemonte của Ý và chuyên gia trong lĩnh vực này.
Khóa họp lần này là khóa họp thứ tư của Hội đồng Hồng y cố vấn trong năm 2024, sau các khóa họp vào tháng 2, tháng 4 và tháng 6.
Tính đoàn thể của Giáo hội
Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết, “nhiều vấn đề khác nhau đã được thảo luận trong các phiên họp”. Trước hết, Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh đã trình bày “về tính đoàn thể trong Giáo hội”, trong đó nói về mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và các Đại hội đồng của Giáo hội, và sau đó là cuộc thảo luận chung về Thượng Hội đồng vừa kết thúc.
Vai trò của nữ giới
Trong các phiên họp, “chủ đề về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đã được đào sâu, tìm cách tổng hợp các vấn đề được nêu lên trong bốn phiên họp gần đây nhất của Hội đồng Hồng y”.
Vai trò của các Sứ thần
Thông cáo báo chí cho biết thêm rằng khóa họp cũng dành thời gian cho việc nghiên cứu và thực hiện các nguyên tắc và tiêu chí của Tông Hiến “Praedicate evangelium” (Anh em hãy rao giảng Tin Mừng) trong các ban lãnh đạo giáo phận. Khoá họp cũng thảo luận về chủ đề “Vai trò của các Đại diện của Giáo hoàng theo cái nhìn của hiệp hành truyền giáo”, với cuộc thảo luận của Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng Giám mục Bombay, Chủ tịch nhóm được Đức Thánh Cha thiết lập để nghiên cứu về vai trò của các Sứ thần Tòa Thánh.
Thông cáo báo chí nhắc lại, cuộc họp của Hội đồng Hồng y cố vấn “luôn là cơ hội để suy tư tổng thể về tình hình của Giáo hội và thế giới tại các khu vực khác nhau, những nơi xuất thân của các Hồng y, để chia sẻ những mối quan tâm và hy vọng về tình trạng xung đột và khủng hoảng đang diễn ra”.
Tiếp tục bài giáo lý hàng tuần về Chúa Thánh Thần, Đức Phanxicô khuyến khích các linh mục dựa vào Phúc âm và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để giảng, bài giảng không nên dài quá 10 phút.
Ngài suy gẫm Thư thứ nhất của Thánh Phêrô về việc xác định tiêu chuẩn đầu tiên của người tông đồ: “Tông đồ là người rao giảng Tin Mừng qua Chúa Thánh Thần. Hai yếu tố cấu thành việc rao giảng là nội dung bài giảng: Phúc âm và phương tiện rao giảng: Chúa Thánh Thần.”
Nội dung rao giảng
Trước tiên Đức Phanxicô nhắc lại từ “Phúc âm” trong Tân Ước. Từ này có hai nghĩa chính: bốn Phúc âm nhất lãm của Thánh Máttêô, Máccô, Luca và Gioan là Tin Mừng của Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Ngài.
Sau Phục sinh đầu tiên, từ “Phúc âm” có một ý nghĩa mới, đó là “mầu nhiệm Vượt qua về cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô”.
Thánh Phêrô viết: “Tôi không hổ thẹn về Phúc Âm. Đó là quyền năng của Thiên Chúa để cứu rỗi mọi người”.
Đức Phanxicô lưu ý: “Lời rao giảng của Chúa Giêsu và sau đó là của các Tông đồ bao gồm tất cả bổn phận đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm, từ Mười Điều răn cho đến Điều răn ‘mới’ về Tình yêu. Chúng ta không nên tái phạm vào sai lầm mà Thánh Phaolô đã lên án là đặt luật pháp lên trên ân sủng và việc làm lên trên đức tin, chúng ta công bố những gì Chúa Kitô đã làm cho chúng ta.” Chính vì lý do này nên Đức Phanxicô viết trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Evangelii Gaudium về kerygma, ‘lời công bố’ mà mọi việc làm đạo đức đều phụ thuộc vào đó.
Phương tiện rao giảng
Về phương tiện rao giảng, Phúc Âm phải được rao giảng qua Chúa Thánh Thần, rao giảng với dầu của Chúa Thánh Thần có nghĩa là truyền tải, cùng với các ý tưởng và giáo lý, cuộc sống và niềm tin sâu sắc, vì thế không phải là lời lẽ khôn ngoan thuyết phục nhưng phải được thể hiện qua tinh thần và sức mạnh. Đức Phanxicô xin các linh mục giảng tối đa 10 phút: “Sau 8 phút, bài giảng bị phân tán, giáo dân không còn tập trung để nghe.Xin anh em đừng bao giờ giảng quá 10 phút, không bao giờ! Điều này rất quan trọng. Quá 10 phút nhiều người ra ngoài hút thuốc lá!”
Ngài lưu ý, các linh mục phải cầu nguyện để Chúa Thánh Thần ban ơn khi giảng. Một điểm quan trọng khác, người rao giảng không được nói về mình, nhưng về Chúa Giêsu: “Không nói về mình có nghĩa không phải lúc nào cũng nhấn mạnh đến các sáng kiến mục vụ của mình, gắn tên tuổi của mình vào các công việc này nhưng hợp tác vào các sáng kiến của cộng đồng. Anh em cầu nguyện để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta giảng Tin Mừng hiệu quả cho giáo dân ngày nay.”
Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi Tổ chức An ninh châu Âu hợp tác giải quyết thách đố toàn cầu
Hướng tới việc Tổ chức đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập vào năm 2025, Đức Tổng Giám Mục phát biểu bày tỏ “mối quan ngại lớn” của Tòa Thánh về sự chia rẽ ngày càng gia tăng giữa các thành viên. Theo ngài, điều quan trọng là phải duy trì Tổ chức, đặc biệt vào thời điểm mà đối thoại và hòa hoãn là điều rất cần thiết.
Đức Tổng Giám Mục nhấn mạnh đến tầm quan trọng cốt yếu của việc duy trì các nguyên tắc của Tổ chức được ghi trong Đạo luật Helsinki năm 1975, văn kiện sáng lập của tổ chức, để giải quyết những thách đố mới mà thế giới đang phải đối diện ngày nay.
Ngài nhắc lại rằng thỏa thuận mang tính bước ngoặt được thiết kế để giảm căng thẳng chiến tranh lạnh dựa trên sự hiểu biết rằng “hòa bình không chỉ đơn thuần là không có chiến tranh hay duy trì sự cân bằng quyền lực, mà đúng ra là thành quả của quan hệ hữu nghị, đối thoại mang tính xây dựng và hợp tác giữa các quốc gia trong việc duy trì các nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế và tôn trọng mọi quyền con người phổ quát”.
Tuy nhiên, Ngoại trưởng Toà Thánh lưu ý rằng tầm nhìn đó hiện đang bị tổn thương, vì thiếu sự đồng thuận về thủ tục trong Tổ chức nhưng “trên hết là do sự đổ vỡ ngày càng lớn của lòng tin vào nhau giữa một số quốc gia tham gia, sự gia tăng xâm lược về mặt ý thức hệ và sự coi thường rõ ràng” các nguyên tắc. Ngài nói: “Tòa Thánh quan sát với sự lo ngại về sự chia rẽ và phân mảnh ngày càng tăng đang che khuất những nguyên tắc của Tổ chức, làm ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của tổ chức này”.
Đức Tổng Giám Mục đặc biệt đề cập đến cuộc chiến đang diễn ra ở Ucraina, cùng với các căng thẳng chính trị trải rộng gây ra sự chia rẽ trong Tổ chức, cũng như sự chậm trễ kéo dài trong việc bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo và thiếu tiến triển trong các quyết định, như vị trí Chủ tịch vào năm 2026.
Nhắc lại rằng “sức mạnh và tính duy nhất của tổ chức nằm ở sự đa dạng về quan điểm làm phong phú thêm quá trình đối thoại và đưa ra quyết định”, Ngoại trưởng Toà Thánh cảnh báo về việc biến tổ chức này thành một diễn đàn “chỉ dành cho các quốc gia có cùng chí hướng” và cảnh báo rằng việc từ bỏ theo đuổi sự đồng thuận có thể dẫn đến “sự tự hủy diệt” hoặc bóp méo “Tinh thần Helsinki”.
Đức Tổng Giám Mục Gallagher kết luận với việc tái khẳng định vai trò không thể thiếu của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu như một diễn đàn đối thoại và đàm phán, kêu gọi các quốc gia thành viên duy trì sứ mệnh đặc biệt của mình và kêu gọi những nỗ lực mới để thúc đẩy đối thoại, giảm leo thang và xây dựng sự đồng thuận, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng toàn cầu hiện nay.
Dự kiến Đức Phanxicô sẽ đi đảo Corse ngày 15 tháng 12 để dự Hội nghị về lòng mộ đạo bình dân, chủ đề thiết thân của ngài.
Ngày 30 tháng 9 năm 2023, Tổng giám mục François Bustillo, giáo phận Ajaccio được Đức Phanxicô phong hồng y tại Rôma. 870 giáo dân đảo Corse có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô để mừng tân hồng y của họ. Ngạc nhiên và ngưỡng mộ, Đức Phanxicô quay sang tân hồng y, hồng y nói nhỏ với ngài: “Người dân đảo Corse chúng tôi rất tích cực.” Phải chăng đây là giây phút đã thuyết phục Đức Phanxicô tham dự Hội nghị về Lòng mộ đạo bình dân được tổ chức tại Ajaccio ngày 14 và 15 tháng 12? Dù sao câu chuyện được Hồng y kể lại cho bà Stéphane Paganelli, ca sĩ của dàn hợp xướng Sartène, đã làm cho giáo sư đa âm của đảo Corse này vô cùng thích thú. Ai dám mong dàn nhạc của mình được mời đến dự các buổi lễ vào giữa tháng 12: “Chúng tôi mơ được hát trước Đức Giáo hoàng. Chúng tôi cố gắng nhiều lần nhưng cho đến nay vẫn chưa được!” Ông François-Dominique de Peretti của Hội anh em Sartène, được thành lập vào thế kỷ 16 cũng rất hào hứng, ông nói đùa: “Chúng tôi sẽ khóc với cha tổng đại diện trong sự kiện này.”
Việc Đức Phanxicô sẵn sàng đến những nơi mà lòng mộ đạo bình dân được thể hiện một cách mạnh mẽ như ở đảo Corse không phải là chuyện ngẫu nhiên. Ngài luôn nhạy cảm với những nghi thức và việc sùng kính bên lề giáo điều này. Ngài luôn chạm và hôn các bức tượng. Nước Argentina không xa lạ gì với lòng mộ đạo này. Linh mục Maximilien de La Martinière đã sống lâu năm ở Brazil phân tích: “Giáo hoàng đến từ một lục địa nơi đức tin bình dân được củng cố vững chắc. Nam Mỹ không bị chủ nghĩa thế tục hóa hoặc bị tục hóa. Ở đó chúng ta thấy biểu hiện của lòng đạo đức bình dân tương tự như ở Pháp vào thế kỷ 19.”
Tình yêu dành cho người nghèo
Trong chuyến đi Sicily năm 2018, Đức Phanxicô xác định lòng đạo đức bình dân là “hệ thống miễn dịch của Giáo hội”. Ngài viết trong quyển tiểu sử, lòng mộ đạo bình dân truyền tải đức tin một cách đơn giản và chân thực. Theo ngài, đó là một trong những quá trình thiết yếu nhất mà qua đó Thiên Chúa thể hiện chính mình. Ngài đã phát triển chủ đề này trong Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta Dilexit nos, công bố ngày 24 tháng 10, dành riêng cho một trong những kho tàng của lòng nhiệt thành đơn giản và trực tiếp này: lòng sùng kính Thánh Tâm.
Linh mục De La Martinière đánh giá: “Đức Phanxicô biến lòng đạo đức bình dân thành thần học, nơi Thiên Chúa mạc khải chính mình, đó là cuộc cách mạng gần như ít ai chú ý. Ngài mời gọi các thần học gia quan tâm đến sự việc này, vì họ sẽ khám phá ra điều gì đó của Thiên Chúa mà chúng ta không hiểu được. Sự nhạy cảm đặc biệt này xuất phát từ tình yêu ngài dành cho người nghèo: Đức Phanxicô không mấy thoải mái với chính quyền và giới thượng lưu, khi gặp họ, đôi khi ngài từ chối, như ở Đại học Louvain ở Bỉ. Điều này giải thích vì sao ngài không muốn dự lễ khánh thành Nhà thờ Đức Bà Paris. Ngài thích ở bên cạnh những người thiếu thốn nhất.”
Như chúng ta biết, Đức Phanxicô đặc biệt tôn kính Đức Mẹ. Trước và sau mỗi chuyến tông du, ngài đều mang hoa đến đền thờ Đức Bà Cả dâng chuyến đi cho Đức Mẹ và tạ ơn khi về, ngài đặt bó hoa trước ảnh Đức Trinh Nữ. Việc tôn kính xuất phát từ Argentina, nhưng cụ thể bắt đầu từ năm 1985. Lúc đó ngài dự buổi lần hạt do Đức Gioan Phaolô II đọc. Lòng mộ đạo của Giáo hoàng Ba Lan đã làm Đức Phanxicô xúc động: “Kể từ đó, mỗi ngày tôi đọc mười lăm mầu nhiệm Mân Côi.”
Lòng kính mến Đức Mẹ
Sự gắn kết với Đức Mẹ phát triển vào năm sau khi ngài đi học ở Đức: ngài nhìn tượng Đức Mẹ tháo gỡ nút thắt ở Bavaria có từ thế kỷ 18. Ngài viết trong quyển tiểu sử: “Mẹ Maria đã đến cánh cửa trái tim tôi, kiên nhẫn lắng nghe tôi phàn nàn, chỉ có lòng kiên nhẫn của một bà mẹ mới có thể kiên nhẫn nghe. Tôi có cảm tưởng như Mẹ đang giúp tôi tháo gỡ nút thắt. Việc tôn kính Đức Mẹ phải trong trẻo, đẹp đẽ, trong sạch, đơn giản.” Từ Đức, ngài mang về nhiều ảnh tượng Đức Mẹ tháo gỡ nút thắt: “Tôi đã tặng cho những người chung quanh tôi, giáo dân và các bạn của tôi.”
Ngày thứ năm 28 tháng 11, Ban tổ chức chuyến đi của Đức Phanxicô cho biết, gần 2.000 quân nhân tiếp viện sẽ được triển khai tại Ajaccio để đảm bảo chuyến đi của ngài và an ninh của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron trong sự kiện này.
Một tuần sau khi Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa lại, Đức Phanxicô không đi dự thánh lễ này nhưng ngày 15 tháng 12 ngài sẽ đi đảo Corse để dự Hội nghị về lòng mộ đạo bình dân ở Địa Trung Hải.
Ngày thứ năm 28 tháng 11, ông Jérôme Filippini, thị trưởng đảo Corse cho biết, khoảng 2.000 sĩ quan cảnh sát, hiến binh và nhân viên an ninh dân sự sẽ được trưng dụng để bảo đảm an ninh cho chuyến đi của Đức Phanxicô đến Ajaccio ngày 15 tháng 12. Chi phí chuyến đi này tốn khoảng “vài triệu âu kim”.
Thị trưởng Filippini ước tính có 35.000 người tham dự trực tiếp các giai đoạn khác nhau của chuyến đi một ngày, dự trù có 15.000 tín hữu dự thánh lễ tại Nhà hát xanh Casone và tại Place Miot, có khoảng 20.000 người đứng chào Đức Phanxicô trên tuyến đi của ngài. Thị trấn có 75.000 dân.
Hồng y François Bustillo, giám mục giáo phận Ajaccio cho biết giáo dân mong chờ để đón Đức Phanxicô, nghe thông điệp của ngài gởi nước Pháp, Châu Âu và thế giới, một thông điệp “chúng ta có khả năng cùng làm việc với nhau”.
Với tình trạng sức khỏe giới hạn, với tuổi đã cao của Đức Phanxicô, theo Hồng y Bustillo: “Việc Đức Phanxicô đi đảo Corse đánh dấu lịch sử của đảo. Vì số chỗ hạn chế nên không phải ai cũng dự thánh lễ trong nhà thờ được. Chúng tôi sẽ có hệ thống màn hình khổng lồ bên ngoài để giáo dân tham dự thánh lễ.”
Vài triệu âu kim
Ông thị trưởng cho biết, ngày chúa nhật 15 tháng 12, giao thông sẽ bị hạn chế ở trung tâm thành phố Ajaccio. Chỉ một số chuyến bay được duy trì và ông khuyên người dân nên hoãn việc mua sắm Giáng sinh vào cuối tuần này.
Trong những ngày trước chuyến đi, hãng Hàng không Air Corsica sẽ thêm 6.000 chỗ trong các chuyến đi từ Paris, Nice, Marseille đến đảo. Các công ty đường biển Corsica Linea và Corsica Ferries đã lên lịch các chuyến tàu đi từ Marseille và Bastia đến đây.
Nhà thờ của thành phố sẽ được sơn lại, các ghế dài sẽ được thay đổi. Ông Filippini nhấn mạnh: “Nhà nước, các cộng đồng dân tộc sẽ là người đóng góp chính cho chuyến đi này, ước tính chuyến đi tốn khoảng vài triệu âu kim.”
Dự kiến Đức Phanxicô sẽ đến đảo Corse ngày 14 và 15 tháng 12, nhưng ngài không đến Paris để dự lễ khai trương Nhà thờ Đức Bà một tuần trước đó. Đủ để người đứng đầu nước Pháp buồn lòng. Trong khi chờ thông báo chính thức về chuyến đi, thành phố Ajaccio đang chuẩn bị đón ngài, chủ đề được bàn tán ở cuộc họp khoáng đại của Hội đồng Giám mục Pháp ở Lộ Đức (từ 5 đến 10 tháng 11) và ở các hành lang của Điện Elysée. Điều chắc chắn, Đức Phanxicô sẽ đến Ajaccio, đảo Corse ngày 14 và 15 tháng 12. Ngài dự hội nghị “Lòng mộ đạo bình dân ở Địa Trung Hải”. Đây là chuyến đi thứ ba của ngài đến Pháp, năm 2014 ngài đi Strasbourg, năm 2023 ngài đi Marseille và năm nay ngài đi đảo Corse, nơi chưa có giáo hoàng nào đến thăm. Đủ để mọi người hào hứng? Chưa chắc.
Đã có một chút nghi ngờ về chuyến đi này, một nguồn tin thân cận Vatican cho biết: “Chúng tôi chờ thông báo chính thức, nhất là chương trình, vì kinh nghiệm cho biết, cho đến khi có thông báo chính thức, mọi thứ đều có thể xảy ra và không có gì được cho là chắc chắn”. Tình trạng sức khỏe của Đức Phanxicô, 87 tuổi vẫn là một yếu tố quan trọng. Thành phố Ajaccio, giáo phận không chính thức xác nhận tin Đức Phanxicô đến đây, nhưng tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng. Một người thân cận với Hồng y François-Xavier Bustillo, giám mục giáo phận Ajaccio từ năm 2021 cho biết: “Nếu tôi là bạn, tôi sẽ mua vé máy bay ngay!”
Hồng y Bustillo là người chủ chốt của chuyến đi này, ngài có một quan hệ đặc biệt với Đức Phanxicô. Trong công nghị phong hồng y ngày 30 tháng 9 năm 2023, ngài đi Rôma với 800 giáo dân trên ba máy bay thuê đặc biệt cho dịp này. Hai người đi trong đoàn cho biết: “Đức Phanxicô rất ấn tượng khi có một phái đoàn đông đi theo Hồng y như vậy. Ngài nói với hồng y Bustillo: ‘Anh đi với cả giáo dân của anh sao?’”
Đức Phanxicô và Hồng y François-Xavier Bustillo
Kể từ đó, ý tưởng tổ chức chuyến đi của Đức Phanxicô đến đảo Corse ra đời. Mùa hè vừa qua, nhân viên an ninh Vatican đã đến đảo, tạo sợi dây liên lạc đầu tiên. Theo một số nguồn tin, các nhóm từ Vatican và Điện Elysée sẽ đến đảo tuần lễ 11 tháng 11 để kiểm tra an ninh trước khi có thông báo chính thức của Hồng y Bustillo ngày 16 tháng 11.
“Chỉ một ngày thôi”
Ông Alexandre Farina, phụ tá thị trưởng xác nhận: “Chúng tôi nghiêm túc nghiên cứu và nếu được xác nhận, chúng tôi sẽ họp hàng ngày để suy nghĩ về cách tổ chức. Vì sẽ chỉ còn một tháng nữa thôi.” Một nhân viên ẩn danh cho biết: “Hiện tại, ngài dự kiến chỉ đến ngày 15 tháng 12 tại Ajaccio”. Ngài sẽ dự ngày thứ hai hội nghị và đến thành phố cổ Genoa để dâng thánh lễ ở Casone vào buổi chiều.
Dù chuyến đi này được người dân đảo Corse hân hoan nhưng việc ngài không đi Paris để tham dự ngày mở cửa Nhà thờ Đức Bà sau vụ cháy Nhà thờ năm 2019 đã làm cho Tổng thống Emmanuel Macron buồn lòng. Trên chuyến bay từ Á Châu về Rôma tháng 9 vừa qua, ngài xác nhận: “Tôi sẽ không đi Paris.”
Câu hỏi được đặt ra: “Trong suy nghĩ của Đức Phanxicô, đảo Corse có thực sự là nước Pháp không?” Một nguồn tin Vatican phân tích: “Chuyến đi này phù với tinh thần các chuyến tông du của ngài ở Châu Âu, ngài luôn ưu tiên các quốc gia nhỏ và những nơi giáp ranh, ngài cho rằng như thế sẽ hữu ích hơn. Đảo Corse là một phần của nước Pháp, nhưng nó cũng là hòn đảo ở Địa Trung Hải, nơi các Giáo hội trong lưu vực rộng lớn này có một vai trò quan trọng và không may nơi này lại là ngôi mộ của nhiều người di cư”, người di cư là mối quan tâm lớn của Đức Phanxicô. Logic này đã làm cho Đức Phanxicô lên tiếng vào tháng 8 năm 2023: “Tôi sẽ đến Marseille, nhưng không đến Pháp.”
“Một điều rất tích cực cho đảo Corse”
Không có gì đáng ngạc nhiên khi Đức Phanxicô ưu tiên cho hội nghị về tôn giáo đại chúng hơn là việc mở cửa Nhà thờ Đức Bà huy hoàng. Ông François Mabille, nhà nghiên cứu tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược, chuyên gia về ngoại giao giáo hoàng nhận định: “Điều này tương ứng với một trong những ưu tiên triều của ngài, nói lên sự quan tâm đặc biệt của ngài với lòng mộ đạo bình dân. Với Marseille, ngài đã mong muốn thể hiện quyền tối thượng của tôn giáo đối với chính trị. Đó là cách để nói quân bài tôn giáo của ngài thay thế quân bài chính trị.”
Ở Lộ Đức, Hồng y Bustillo trình bày chi tiết về sáng kiến này với các giám mục ngày thứ năm 7 tháng 11 vì hầu hết các giám mục sẽ có mặt tại Nhà thờ Đức Bà Paris, nhiều giám mục sẽ không đến đảo Corse vì lịch trình quá chặt chẽ. Thông báo có thể làm bất bình, nhưng bây giờ là lúc xoa dịu. Một Giám mục địa phương ẩn danh cho biết: “Thật đáng tiếc khi mọi thứ bị mắc kẹt vì ngày tháng, nhưng đó là một điều rất tốt cho đảo Corse. Nếu chúng tôi là Giám mục của Ajaccio và có thể mời giáo hoàng đến nhà thì tất cả chúng tôi sẽ làm điều tương tự.”
Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa trở lại, Đức Phanxicô từ chối không tham dự lễ mở cửa lại, nhưng ngài sẽ có chuyến đi mục vụ đến thành phố Ajaccio.
Thông báo chính thức về chuyến tông du của Đức Phanxicô đến đảo Corse ngày chúa nhật 15 tháng 12 dự kiến sẽ được Vatican thông báo trong những ngày sắp tới. Đội ngũ kỹ thuật của Tòa thánh vốn chuẩn bị tỉ mỉ cho mỗi chuyến đi sẽ có mặt tại đảo Corse vào tuần tới. Chuyến đi ngắn ngủi chỉ giới hạn ở thành phố Ajaccio ngày 14 tháng 12, lý do: ngài muốn dự hội nghị do giáo phận tổ chức về “lòng mộ đạo bình dân ở Địa Trung Hải” với một số giám mục Tây Ban Nha, Sicilia và Sardinia.
Nhiều chuyện khó hiểu
Vatican cho biết Đức Phanxicô sẽ đến sớm, dự thánh lễ, gặp các nhân vật và về Rôma vào buổi trưa. Có thể ngài sẽ mừng sinh nhật thứ 88 của ngài ngày 17 tháng 12 tại đảo Corse nhưng ngài muốn tránh tình trạng quá bận rộn của chương trình, thành phố Ajaccio chỉ cách Rôma 40 phút bay nên ngài không cần ở lại đó.
Theo thông báo chính thức, chương trình dự trù sẽ có bài phát biểu bế mạc hội nghị, thánh lễ tại nhà thờ chính tòa, gặp các nhà cầm quyền đảo Corse và sẽ không diễn ra trước khi phái đoàn Vatican về Rôma. Thông báo sẽ được loan ngày thứ sáu 14 hoặc thứ bảy 15 tháng 11, một tháng trước sự kiện.
Nếu quyết định này của Đức Phanxicô là để tôn vinh người dân đảo Corse, nhưng quyết định này làm khó hiểu về ngày được chọn: ngày 15 tháng 12, chỉ một tuần sau các lễ hội xung quanh việc mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris ngày 7 và 8 tháng 12, Đức Phanxicô được mời tham dự nhưng ngài từ chối. Ngày 13 tháng 9 năm 2024 trên chuyến bay từ châu Á về Rôma, ngài cho biết ngài sẽ không đi Paris.
Ngày 6 tháng 10, Đức Phanxicô cho biết lý do chính của việc từ chối này là vì ngài sẽ triệu tập công nghị phong 21 tân hồng y ngày 8 tháng 12, cùng ngày ngài dự lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội ở Quảng trường Piazza di Spagna truyền thống hàng năm.
Lý do không chính thức cho việc từ chối này sẽ không bao giờ được biết. Từ nhiều tháng nay ngài cho biết ngài sẽ không đến Paris dù có lời mời khẩn cấp của Điện Élysée và Giáo hội Pháp, việc mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà có sự tham dự của hàng trăm nguyên thủ quốc gia. Một Hồng y cho biết, công nghị đã chuẩn bị ít nhất trước sáu tháng, thêm nữa, Đức Phanxicô rất độc lập, ngài không cho mình là “khách mời hàng đầu” của Tổng thống Macron, theo ngài, việc mở cửa Nhà thờ Đức Bà là hành động chính trị quốc tế, nhằm tôn vinh nước Pháp nhưng cũng là vinh danh cá nhân Tổng thống Macron. Đức Phanxicô là giáo hoàng chống thế tục nên ngài không thích khía cạnh chính trị này dù ngài có thể chọn một ngày khác cho công nghị.
Các giám mục Pháp choáng váng
Chìa khóa chuyến đi đảo Corse chủ yếu ở Hồng y Pháp François-Xavier Bustillo 55 tuổi, sinh ra ở Navarre, ngài là tu sĩ dòng Phanxicô được đào tạo ở Ý, được Đức Phanxicô chú ý năm 2021 sau quyển sách của ngài về cuộc khủng hoảng chức linh mục. Hồng y được Tổng giám mục Venezuela Edgar Peña Parra, nhân vật thứ ba của Tòa Thánh hỗ trợ, ngài đã đến thăm đảo Corse ngày 18 tháng 3 năm 2024.
Ngày thứ năm 7 tháng 11, Hồng y Bustillo giải thích các chi tiết của chuyến đi bất ngờ này với các giám mục đang họp sau cánh cửa đóng kín trong phiên họp khoáng đại ở Lộ Đức. Các vị giám mục sửng sốt, có phần thất vọng khi nghe tin này, họ thấy Đức Phanxicô lạnh nhạt với nước Pháp. Trong nhiều tuần, các giám mục Pháp đã cố gắng xin Đức Phanxicô ra khỏi viễn cảnh về một sai lầm do sự kiện đặt cạnh nhau này tạo ra.
Hồng y François Bustillo, Tổng Giám mục Ajaccio, đảo Corse trả lời phỏng vấn về chuyến tông du của Đức Phanxicô ngày 15 tháng 12 đến đảo.
Đảo Corse viết trang lịch sử chưa từng có trong lịch sử của mình: Giáo hoàng Phanxicô đến thăm đảo ngày 15 tháng 12. Giữa những cuộc vận động quần chúng và những vấn đề tâm linh quan trọng, Hồng y Bustillo đưa độc giả vào hậu trường của cuộc gặp lịch sử giữa lòng mộ đạo bình dân, ký ức tập thể và các thách thức của Giáo hội hoàn vũ. Ngài nói đến lòng mộ đạo bình dân đã có một vị trí quan trọng, một động lực chính cho chủ nghĩa thế tục trong thời buổi này.
Chúng ta đang chứng kiến tinh thần năng động của người dân đảo Corse, họ nhiệt tình vui vẻ đón Đức Phanxicô. Mọi người muốn giúp nhau, muốn dự những khoảnh khắc hạnh phúc, muốn quảng đại, muốn dành thì giờ cho sự kiện. Xã hội không xấu, xã hội luôn có những người tốt.
Chuyến đi của Giáo hoàng là cuộc đối thoại giữa ngài và người dân, ngài sẽ có thông điệp nào và Hồng y muốn ngài để lại dấu ấn gì sau khi ngài ra về?
Hồng y François Bustillo: Đó là cuộc gặp giữa mục tử của Giáo hội và người dân địa phương với những đặc thù của mình. Qua Hội nghị về Lòng mộ đạo bình dân, điểm nổi bật là thúc đẩy tinh thần đơn giản, vị trí của thiêng liêng trên đường phố, nơi công cộng… Ngài sẽ thấy những gì chúng tôi làm và kinh nghiệm của chúng tôi. Ngài sẽ thấy vùng ngoại vi này với những điểm mạnh, điểm yếu và những ước mơ của chúng tôi. Chúng tôi mong chờ được chào đón nhiều người, nên sẽ có tác động mạnh trên ngài, trước hết là ngài sẽ thấy sự gắn bó của người dân với Giám mục Rôma. Người dân đảo Corse là người của ký ức, họ muốn bằng mọi giá họ và con cái họ có mặt để trong tương lai họ sẽ nói: “Khi Giáo hoàng đến đảo Corse, tôi và gia đình tôi đã ở đó. Người dân ở đây muốn giữ ký ức của sự kiện lịch sử này.”
Hồng y François Bustillo và Đức Phanxicô tại Vatican ngày 22 tháng 11 năm 2023.
Chúng ta có nên chờ ngài có một thông điệp chính trị hoặc thiêng liêng mạnh mẽ nào không?
Đó sẽ là logic của lòng đạo đức bình dân, sự hiện diện của Giáo hội, sự biểu hiện của Giáo hội nơi công cộng. Ở đảo Corse cũng như ở tất cả các đảo Địa Trung Hải, những biểu hiện công khai về tôn giáo và đức tin không tạo một trở ngại nào cho các cơ quan công quyền, vì thế khía cạnh này sẽ nổi bật và khuyến khích các nhà lãnh đạo dân sự, thị trưởng và giới chính trị cũng làm như vậy. Ở đảo Corse, chúng tôi có các nhà trẻ trong các công ty, ở mọi nơi… Đó sẽ là lý do để Đức Phanxicô khuyến khích mối liên kết bình dị, có trách nhiệm, hòa bình giữa chính quyền dân sự và chính quyền tôn giáo, không loại trừ ai nhân danh chủ nghĩa thế tục. Chủ nghĩa thế tục là cần thiết, nhưng ngài sẽ biện hộ cho một tính thế tục năng động, không cố định.
Trong Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta Dilexit Nos, Đức Phanxicô nêu lên một hình thức mộ đạo bình dân liên quan đến việc tôn kính Trái tim Thiên Chúa và việc dùng hình ảnh này. Trong triều của ngài, ngài ít nói đến lòng mộ đạo bình dân của người dân đảo Corse. Có phải đây là một chủ đề mới của ngài không?
Ngài cho rằng trên hết chúng ta cần đơn giản, cử chỉ và hành vi của chúng ta phải được thể hiện và mang tinh thần của một đời sống thiêng liêng và nội tâm. Khi chúng ta đi kiệu, chỉ đi bộ thôi thì chưa đủ, ngoài đôi chân, chúng ta phải có quả tim biết biết chuyển động. Chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể có được kinh nghiệm tâm linh tràn đầy sức mạnh và niềm vui. Ngài rao giảng tính xác thực để không rơi vào kiểu hài kịch tâm linh.
Nhiều quan sát viên thấy ngài đến gặp hồng y, như thể ngài muốn giới thiệu hồng y sẽ là ứng viên tương lai của mật nghị. Hồng y nghĩ gì về việc này?
Tôi là tân hồng y. Tôi còn rất nhiều điều để học hỏi và trưởng thành ở chức vụ này. Nhiều hồng y có nhiều kinh nghiệm hơn tôi về mặt trí tuệ và mục vụ. Tôi mới được bổ nhiệm làm giám mục ba năm. Điều quan trọng là chúng ta cần mục tử cao cả, người có kinh nghiệm. Không có chuyện chúng ta tìm người được mến chuộng ở phe này phe kia, phe phái này thắng phe phái kia, ở hiện đại thắng truyền thống, ở người Mỹ thắng người Âu châu hay châu Phi. Chúng ta chỉ nhắm đến lợi ích của Giáo hội. Đó là một trách nhiệm nặng nề.
Thông điệp nào khi Đức Phanxicô không đi dự lễ khánh thành Nhà thờ Đức Bà Paris nhưng vài ngày sau ngài lại đi đảo Corse?
Một số người xem đây là xung đột giữa Tổng thống Pháp và Giáo hoàng, nhưng khai trương Nhà thờ Đức Bà là sự kiện có tác động lớn của thủ đô Paris, của người dân Paris, của nước Pháp và của thế giới. Còn theo Giáo hoàng, đảo Corse là vùng ngoại vi. Vì thế có hai sự kiện. Tình hình chính trị và xã hội Pháp có nhiều căng thẳng, chia rẽ và bất ổn, tôi vui mừng vì tuy đảo Corse nghèo nàn và mong manh nhưng hai sự kiện này ở gần nhau đã làm xoa dịu tâm hồn. Chúng ta thiếu tự do và đơn giản để vui mừng với những gì đơn giản. Chúng ta không ở thiên đàng và chắc chắn chúng ta phải đương đầu với những khó khăn, nhưng thống khổ là chuyện không nên.
Gần đây Đức Phanxicô gởi đến chính quyền Pháp một thông điệp nói họ có nguy cơ mất quyền lực nếu không để ý đến số phận của những người dễ bị tổn thương nhất. Hồng y suy nghĩ gì về việc này?
Quyền lực gắn liền với sự gần gũi. Không có gần gũi sẽ không có quyền lực. Và khi gần gũi, mọi người chú ý đến nhau, đến sự tồn tại của người kia. Nếu có người dễ bị tổn thương, thì người có thẩm quyền không thể thờ ơ, vô cảm trước thực tế này. Đó là chuyển từ quan sát sang hành động. Có sự nghèo đói trong xã hội chúng ta, cả về kinh tế, tình cảm và tinh thần, và theo tôi, Giáo hội phải chú ý đến loại nghèo này để có thể lên tiếng khi cần. Chúng ta cần thái độ Phục Sinh theo nghĩa từ nguyên, nâng chúng ta lên, giúp chúng ta đứng vững trở lại. Đó là sứ mệnh của chúng tôi.
Như truyền thống lâu đời, ngày 29/6, Toà Thượng phụ Constantinople thường gửi phái đoàn đến Roma để mừng lễ thánh Phêrô, bổn mạng Giáo hội Công giáo; và vào ngày 30/11, Toà Thánh cũng gửi một phái đoàn đến Thổ Nhĩ Kỳ để mừng lễ thánh Anrê, bổn mạng của Giáo hội Chính Thống Constantinople.
Đức Hồng Y Kurt Koch, Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, đã dẫn đầu phái đoàn của Toà Thánh đến Thổ Nhĩ Kỳ tham dự Thánh lễ kính thánh Anrê tại nhà thờ thánh George, và gặp gỡ Đức Thượng phụ và Uỷ ban Thánh hội đồng về quan hệ với Giáo hội Công giáo. Đức Hồng Y đã trao Sứ điệp của Đức Thánh Cha cho Đức Thượng phụ và ngài đã đọc trước khi buổi cử hành phụng vụ kết thúc.
Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha đề cập đến Sắc lệnh Unitatis Redintegratio về Đại kết của Công đồng Vatican II, vừa kỷ niệm 60 năm ban hành vào ngày 21/11. Văn kiện đã mở đường cho đối thoại với các Giáo hội Kitô khác, và cuộc đối thoại của Giáo hội Công giáo với Chính thống đã và tiếp tục đạt được hiệu quả, với mong muốn sự hiệp thông trọn vẹn, cùng chia sẻ một chén Thánh Thể.
Mặc dù mong ước hiệp nhất trọn vẹn vẫn chưa đạt được, nhưng Đức Thánh Cha cho rằng những chia rẽ từ hơn một thiên niên kỷ trước không thể giải quyết trong vòng vài thập kỷ, và mục tiêu tái lập sự hiệp thông trọn vẹn có chiều kích cánh chung, vì con đường dẫn đến hiệp nhất trùng với con đường cứu rỗi đã được ban trong Chúa Giêsu Kitô, và Giáo hội chỉ tham gia trọn vẹn vào cuối thời gian. Điều này không có nghĩa là quên đi mục tiêu cuối cùng mà ai cũng khao khát, cũng không mất hy vọng rằng sự hiệp nhất có thể đạt được trong tiến trình lịch sử.
Đức Thánh Cha tiếp tục, nhắc đến kỷ niệm 1.700 Công đồng Nicea vào năm tới, cho rằng đây là cơ hội để làm chứng cho sự hiệp thông đang phát triển. Ngài mong muốn có thể được cử hành sự kiện trọng đại này với Đức Thượng phụ, và cám ơn tất cả những ai đang nỗ lực làm việc để biến điều này có thể. Theo ngài, cử hành sự kiện này chắc chắn sẽ củng cố môi liên kết đã có và khuyến khích tất cả các Giáo hội làm chứng trong thế giới ngày nay. Tình huynh đệ đã sống và chứng tá của các Kitô hữu cũng sẽ là một thông điệp cho thế giới đang bị chiến tranh và bạo lực tàn phá.
Kết thúc sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi Giáo hội Chính thống Constantinople hiệp nhất cầu nguyện cho hoà bình ở Ucraina, Palestine, Israel, Libăng và tất cả những khu vực đang có những cuộc chiến. Ngài phó thác tất cả cho sự chuyển cầu của hai thánh Phêrô và Anrê.
Ngày thứ tư 4 tháng 12, Đức Phanxicô nhận chìa khóa chiếc xe giáo hoàng mới của ngài. Đây là chiếc xe điện của hãng Mercedes-Benz. Nhà sản xuất cho biết chiếc SUV này “được điều chỉnh để phù hợp với tốc độ thấp để đi trong các buổi tiếp kiến ở Quảng trường Thánh Phêrô. Chiếc xe “không phát thải”, mẫu xe độc đáo này được hãng Mercedes-Benz sản xuất để phù hợp với tinh thần Thông điệp Laudato si’. Xe mang bảng số Vatican SCV 1 (Stato della Città del Vaticano).
Năm 1930, hãng xe Mercedes-Benz cung cấp chiếc xe đầu tiên cho giáo hoàng. Ông Marc Langenbrinck, giám đốc điều hành hãng xe giải thích: “Đó là niềm tự hào và niềm vui của các đội chúng tôi. Kể từ khi bắt đầu dự án năm 2023, tổng cộng có 100 người đã làm việc trong quá trình sản xuất, nối tiếp một truyền thống lâu đời gần cả thế kỷ, chiếc xe đầu tiên chúng tôi làm các giáo hoàng là năm 1930.”
Xe được các chuyên gia làm tại ba nơi: Rôma, Graz ở Áo và Sindelfingen ở Đức. Dự án được quản lý ở Rôma, hệ thống điện được làm ở Graz, thân xe và bên trong xe được làm ở xưởng Sindelfingen. Các công nhân và chuyên gia của ba nhóm có mặt khi giao chìa khóa xe cho Đức Phanxicô.
Bốn động cơ điện được lắp đặt để xe có thể di chuyển chậm nơi công cộng. Pin có thể dùng trong phạm vi 400 cây số, ghế ngồi và tay vịn được sưởi ấm để phù hợp với thời tiết mùa đông. Mái bằng mica có hệ thống chiếu sáng để giáo dân nhìn thấy Giáo hoàng rõ hơn. Lối vào xe được làm thuận tiện để Đức Phanxicô dễ lên xuống, ghế xoay và có thể điều chỉnh độ cao. Vì lý do bảo mật nên các chuyên gia không nói về các thiết bị an toàn. Sau vụ mưu sát Đức Gioan-Phaolô II ngày 13 tháng 5 năm 1981, khi đó ngài đi chiếc Fiat, từ đó các hình thức bảo mật quan trọng cho xe giáo hoàng đã được thiết lập.
Chiếc xe mới này không phải là chiếc xe điện đầu tiên của giáo hoàng, năm 2012, Đức Bênêđíctô XVI nhận chiếc xe hiệu Renault.
Tháng 11 năm 2023, hãng xe Volkswagen đã cung cấp 30 chiếc xe điện cho Vatican, nhằm khuyến khích quá trình chuyển đổi sinh thái.
Theo một cuộc thăm dò nội bộ ẩn danh, 80% người dân Iran giờ đây muốn một chính phủ dân chủ, và nhiều người đang rời bỏ Hồi giáo.
Đây cũng là một quốc gia có tỷ lệ nghiện ma túy cao nhất thế giới.
Một quốc gia mà tham nhũng hoành hành.
Một quốc gia mà hơn một nửa dân số sống dưới mức nghèo khổ.
Người dân Iran nhìn vào thực trạng này và tự hỏi: "Nếu đây là những gì Hồi giáo mang lại trong 45 năm qua, chúng tôi không hứng thú nữa, chúng tôi muốn tìm hiểu những lựa chọn khác."
Theo Todd Nettleton của tổ chức "The Voice of the Martyrs", một trong những lựa chọn mà nhiều người đang hướng đến là Chúa Giê-su, với ít nhất 1 triệu người Hồi giáo được cho là đã rời bỏ Hồi giáo để cải đạo sang Cơ đốc giáo.
Chính quyền phản ứng ra sao?
Chúng tôi nghe rằng 50.000 trong số 75.000 nhà thờ Hồi giáo đã đóng cửa, và chắc chắn chính quyền không dễ dàng chấp nhận điều này.
Đây không phải là điều khiến chính quyền vui vẻ, và trên thực tế, họ đang tìm cách củng cố quyền lực của mình, đồng thời đàn áp bất kỳ sự bất đồng nào. Họ chắc chắn coi sự phát triển của nhà thờ và hoạt động truyền giáo Cơ đốc như một hình thức phản kháng.
Chúng tôi đã nghe nhiều câu chuyện trong năm nay về việc các nhóm học Kinh Thánh tại nhà bị đột kích. Tất cả những người tham dự đều bị chụp ảnh, thẩm vấn, những người lãnh đạo buổi họp thường bị bắt giữ, bị giam và bỏ tù.
Sự dung thứ từ gia đình và bạn bè
Nettleton cho rằng gia đình và bạn bè thường khoan dung hơn chính quyền đối với việc rời bỏ Hồi giáo.
Họ có thái độ như: "Nếu bạn đã tìm thấy thứ gì đó phù hợp với bạn, dù là Chúa Giê-su, thuyết vô thần, hay bất cứ điều gì khác, miễn là nó có tác dụng với bạn, thì tôi vui mừng cho bạn. Tôi biết Hồi giáo không hiệu quả, nên tôi mừng là bạn đã tìm thấy điều gì đó tốt hơn."
Xu hướng trong thế giới Hồi giáo
Tôi nghĩ những gì đang diễn ra ở đó thực sự phản ánh điều đang xảy ra trên toàn thế giới Hồi giáo.
Don Shank, giám đốc điều hành của một tổ chức truyền giáo, giải thích rằng nhiều người Hồi giáo đang trải qua những giấc mơ và khải tượng, giúp họ tìm thấy mục đích và sự hiểu biết khác biệt về Chúa.
Chúng tôi nhận được phản hồi từ các thính giả, họ nói rằng: "Giờ tôi hiểu rằng Chúa yêu thương tôi. Trước đây tôi luôn nghĩ rằng Chúa muốn trừng phạt tôi". Tôi nghĩ có một sự thức tỉnh đang diễn ra, như tôi đã nói, trên khắp thế giới Hồi giáo.
Shank cho biết các chương trình phát thanh của tổ chức Tide Ministry đang nhận được phản hồi tích cực từ Afghanistan, nơi Taliban đặt ra mối đe dọa lớn đối với những người tìm kiếm thông tin từ các tín đồ Cơ đốc giáo bí mật trong nước.
Có rất nhiều sự nghi ngờ. "Nếu tôi gặp những người này và chia sẻ rằng giờ tôi đã trở thành tín đồ, liệu họ có thực sự là tín đồ hay chỉ đang cố gắng xác định tôi là ai?"
Đây không chỉ đơn thuần là việc bị xa lánh hay bị gia đình từ bỏ; đó thực sự là mối đe dọa đến tính mạng. Chấp nhận cuộc sống mới trong Đấng Christ đồng nghĩa với việc chấp nhận khả năng mất mạng trong thế giới này.
Cơ đốc giáo cũng đang lan rộng tại Yemen, nơi Joshua Project báo cáo rằng tốc độ tăng trưởng của các tín đồ Cơ đốc gần gấp đôi mức trung bình toàn cầu.
Ngay bên cạnh, Nettleton nhận thấy chế độ quân chủ Ả Rập Saudi đang trở nên khoan dung hơn đôi chút với Cơ đốc giáo và các nhà thờ của họ.
Tất nhiên, không phải là họ đón nhận một cách cởi mở, nhưng chỉ đơn giản là sự thừa nhận rằng điều này có thể xảy ra, rằng có thể có các tín đồ Cơ đốc ở đây, và có lẽ điều đó không phải là tệ nhất trên thế giới.
Đây là một sự thay đổi lớn so với những gì chúng ta đã thấy cách đây 10, 15 hoặc 20 năm.
Một làn sóng từ Thánh Linh của Chúa đang mang đến sự thay đổi, có thể cuối cùng sẽ không chỉ biến đổi Iran mà cả toàn bộ Trung Đông.
Gary Lane, CBN News
Giáo hội chính xác nói gì về những người ly dị và tái hôn: tìm hiểu để hiểu rõ hơn về cách thức một quy tắc được phát triển dưới triều Đức Phanxicô.
Họ vẫn bị cấm xưng tội rước lễ phải không? Mười năm trước chủ đề này được tranh luận nhiều trong Thượng Hội đồng Gia đình, bây giờ ít được nói đến và gần như bị lu mờ. Tuy nhiên, đây là một trong những chủ đề giúp chúng ta hiểu một tiêu chuẩn mới đang được phát triển dưới triều Đức Phanxicô. Trong ba bước.
Trong bài phát biểu trước cộng đồng học thuật của Viện Thần học Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngày thứ hai 25 tháng 11, Đức Phanxicô nhắc lại: “Logic hội nhập là chìa khóa chăm sóc mục vụ cho những người ly dị và tái hôn. Sự hiện diện của họ trong Giáo hội chứng tỏ họ mong muốn duy trì đức tin dù họ đã có những kinh nghiệm đau thương.”
Bước 1: Phân định
Trong chương VIII, điểm 300 của tông huấn Niềm vui Tình yêu, Amoris Laetitia, ngài không đưa ra “luật chung mới áp dụng cho mọi trường hợp”, ngài viết: “Các linh mục có sứ mệnh đồng hành với các đương sự, trên con đường biện phân theo giáo huấn của Giáo Hội và dưới sự hướng dẫn của Giám mục.”
Bước 2: Phiên dịch địa phương
Ngày 5 tháng 9 năm 2016, các giám mục vùng Buenos Aires, giáo phận cũ của ngài đã đưa ra cách giải thích của họ về đoạn này, đồng thời công bố “các tiêu chuẩn cơ bản để áp dụng chương VIII của Tông huấn Amoris laetitia”.
Trong tài liệu này, các giám mục Argentina tạo điều kiện cho những người ly dị và tái hôn có thể được xưng tội rước lễ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “đồng hành với giáo xứ để cộng đồng phát triển trong tinh thần hiểu biết và đón nhận, không tạo sự nhầm lẫn trong giáo huấn hôn nhân bất khả phân ly của Giáo hội”.
Bước 3: Xác nhận của Giáo hoàng
Giám mục Sergio Alfredo Fenoy, đại biểu của vùng mục vụ Buenos Aires đã viết thư cho Đức Phanxicô để trình bày những tiêu chuẩn mới này. Trong câu trả lời, Đức Phanxicô đánh giá: “Tài liệu rất hay và giải thích đầy đủ ý nghĩa chương VIII của Tông huấn Amoris Laetitia. Không có cách giải thích nào khác. Và tôi chắc chắn nó sẽ mang lại nhiều điều tốt đẹp.”
Một sắc lệnh được Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin ký ngày 5 tháng 6 năm 2017 ghi nhận: “Giáo hoàng ra sắc lệnh hai tài liệu trước đó (của các giám mục Argentina và thư của Đức Phanxicô) sẽ được đăng trên trang web của Vatican và trên Acta Apostolicae Sedis (tạp chí chính thức của Tòa thánh) như huấn quyền đích thực. Một tiêu chuẩn mới ra đời. Không cần phải thêm gì.
Năm 2023, vấn đề ly hôn và tái hôn được xóa khỏi tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị. Tài liệu ghi rõ: “Một số câu hỏi nảy sinh từ cuộc tham khảo ý kiến của giáo dân liên quan đến các chủ đề như chủ đề người ly dị và tái hôn đã được phát triển trong giáo quyền và thần học, trong ‘Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris laetitia’.”
Bước quan trọng nhất vẫn là có bản dịch cụ thể. Vào cuối buổi tiếp kiến ngày thứ hai 25 tháng 11 tại phòng Clémentine của Dinh Tông Tòa, một nhóm nhỏ người Pháp tham gia hỗ trợ những người ly hôn – trong các hiệp hội Chrétiens Divoués, Chemins d’Espère, Sedire Lyon và mạng lưới Sedire của Phái bộ Truyền giáo Pháp – đã tặng Đức Phanxicô quyển sổ vàng của các người tham dự trong đó có khoảng 50 lời chứng. Bà Nathalie Mignonat, của Sedire Lyon cho biết: “Các tiêu chuẩn của Vatican đã rõ. Chủ đề hiện nay nằm trên địa bàn “cảm thức đức tin, sensus fidei” của người được rửa tội.
“Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”.
Con đường tôi đi dù còn quanh co, chưa bằng phẳng nhưng tâm hồn tôi được lắp đầy với Lời Chúa. Lời Người là ánh sáng rọi chiếu con đường gồ ghề tôi đi, giúp tôi nhận ra những gì mình phải san bằng. Lời Chúa là niềm vui, niềm hy vọng, niềm cậy trông, là sức mạnh giúp tôi không nản lòng vượt lên trên những yếu đuối và thử thách, tiếp tục đứng dậy mỗi khi tôi vấp ngã.
Như Thánh Phanxicô thành Sales đã nói: “Con muốn bắt đầu cuộc sống thánh đức, không những con phải từ bỏ tội, song còn phải cắt tỉa khỏi lòng con mọi vương vấn tội” Xin Thần Khí Chúa ban cho con ơn khôn ngoan và bền đỗ để con luôn biết lắng nghe và sống dưới sự hướng dẫn của Thần Khí trên con đường về nhà Chúa.
Nhà thờ Đức Bà Paris luôn có mối liên hệ bền chặt với các đời giáo hoàng. Nhưng trong buổi lễ khánh thành trùng tu nhà thờ hôm nay, 07/12/2024, đức giáo hoàng Phanxicô, nay đã 88 tuổi đã vắng mặt. Một quyết định đã làm dấy lên nhiều thắc mắc.
Thông tín viên đài RFI, Eric Sénanque, từ Roma giải thích :
Sự vắng mặt của Ngài đã được bình luận rộng rãi, nhất là một tuần trước chuyến thăm đến đảo Corse, nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ không đến Paris để dự lễ mở cửa trở lại nhà thờ chính tòa. Tuy nhiên, một thông điệp được viết bằng tay của ngài sẽ được Đức ông Migliore, sứ thần tòa thánh tại Paris, đọc vào tối nay. Vị giám chức người Ý nói với truyền thông của Vatican rằng, « nếu Đức Thánh Cha đến Paris để dự lễ khánh thành, ngài sẽ là ngôi sao của ngày hôm đó, nhưng ngài muốn rằng ngôi sao đó phải là Nhà thờ Đức Bà ».
Tại Roma, người ta không ngừng nhắc lại rằng vị giáo hoàng người Argentina ưu tiên đến thăm các vùng ngoại vi, nghĩa là những nước nghèo, còn số khác thì giải thích đó là vì mong muốn không bị công cụ hóa tại một buổi lễ cũng sẽ mang tính chính trị, như Emmanuel Macron mong muốn.
Tuy nhiên, mối liên hệ giữa Nhà thờ Đức Bà Paris với các đời giáo hoàng gần đây nhất vẫn bền chặt mà bằng chứng là quảng trường phía sau nhà thờ mang tên Giáo hoàng Gioan XXIII hay các chuyến thăm của Gioan Phaolô II năm 1980 hoặc Benedicto XVI vào năm 2008.
Thêm một giai thoại, đó là dưới chân Nhà thờ Đức Bà, một bức tượng bằng sáp giáo hoàng Phanxicô đã được khánh thành vào tháng 4/2015 trước khi được chuyển đến bảo tàng tượng sáp Grévin. Lễ khánh thành hôm nay sẽ được theo dõi từ Roma, tại giáo xứ Saint-Louis của kiều dân Pháp cùng sự có mặt của bà đại sứ Pháp bên cạnh Tòa Thánh.
Việc khánh thành nhà thờ này đã được cử hành chiều ngày thứ Bảy trước đó, với sự hiện diện của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cùng với gần 40 vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ các nước, trong đó có Tổng thống tân cử Donald Trump của Mỹ, Tổng thống Zelensky của Ucraina.
Thánh lễ đồng tế hôm Chúa nhật do Đức Tổng giám mục Ulrich chủ tế cùng với gần 100 Hồng y và Giám mục từ Pháp và nhiều nước trên thế giới, trong đó có Đức Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục New York, Đức Hồng y Dominik Duka, Dòng Đa Minh, nguyên Tổng giám mục Giáo phận Praha, thủ đô cộng hòa Tiệp, Đức Hồng y Béchara Rai, Giáo chủ Công giáo Maronite bên Liban. Ngoài ra, có 106 linh mục đại diện cho 106 giáo xứ ở Paris, và mỗi Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương được một linh mục đại diện đồng tế.
Trong số các nhân vật hiện diện cũng có ông bà Tổng thống Pháp, và đại Quận công Luxemburg cùng với phu nhân.
Đức Tổng giám mục Ulrich đã làm phép nước và rảy trên mọi người cũng như trên bục giảng và bàn thờ để làm phép.
Trong bài giảng, ngài nhận xét rằng từ thế hệ này sang thế hệ khác, các tín hữu đã cảm nghiệm Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài. “Và mặc dù tai ương bất hạnh và bạo lực không ngừng xảy ra trong lịch sử nhân loại, sự sống con người là điều quý giá đối với Chúa đến độ luôn luôn và ở mọi nơi Ngài nâng các môn đệ lên để chỉ con đường dẫn đến chiến thắng của sự sống, để cùng nhau xây dựng tình huynh đệ đại đồng”. Đó cũng là điều đã xảy ra với việc tái thiết Nhà thờ Chính tòa Đức Bà này. Và ngày nay, nỗi đau do trận hỏa hoạn Nhà thờ Chính tòa, ngày 15 tháng Tư năm 2019 đã được xóa bỏ, mặc dù nó đã được vượt thắng khi kinh nguyện được dâng lên từ những bờ sông Seine và từ hàng trăm triệu tâm hồn trên thế giới trong trận hỏa hoạn.
Đức Tổng giám mục Giáo phận Paris cũng xin những người hiện diện đừng chỉ hài lòng ở trong Nhà thờ Chính tòa, trong ngày thánh đường này phục hồi vẻ huy hoàng của mình. Ngài nói: “Dù là tín hữu hay không tín hữu, anh chị em đều được mời chia sẻ niềm vui của các tín hữu đang chúc tụng Thiên Chúa và đã phục hồi được thánh đường mẹ của họ.”
Trước khi cử hành thánh lễ, sau khi hát kinh Cầu Các Thánh, Đức Tổng giám mục Ulrich đã thánh hiến bàn thờ mới bằng đồng, do nghệ nhân Guillaume Bardet thực hiện. Ngài đặt trong bàn thờ này thánh tích của năm vị thánh, gồm ba nữ và hai nam.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự dịu dàng khi Mẹ nói với Thánh Juan Diego khi hiện ra vào năm 1531 ở Mexico. “Lẽ nào Mẹ là Mẹ của con, không ở đây sao?”. Theo ngài, những lời này cho thấy tình mẫu tử của Mẹ Maria.
Đừng sợ
“Đừng sợ… Mẹ con không có ở đây sao?” Những lời Đức Mẹ nói với Thánh San Diego được Đức Thánh Cha lặp lại nhiều lần trong bài giảng. Ngài cũng lưu ý đến những ý thức hệ muốn lợi dụng mầu nhiệm Guadalupe, muốn lợi dụng thông điệp của Đức Mẹ. Và ngài nêu lên ba điều, “đơn giản” nhưng “tạo nên thông điệp” của Guadalupe. Đó là: “Áo choàng, Mẹ và hoa hồng”.
Tình mẫu tử
Tình mẫu tử của Đức Maria được in dấu trên chiếc áo choàng đó, trên chiếc áo choàng đơn giản đó. Đức Thánh Cha miêu tả tình mẫu tử của Mẹ được thể hiện qua vẻ đẹp của những bông hồng mà người thổ dân tìm thấy và mang trong chiếc áo choàng. Tình mẫu tử của Mẹ đã làm nên phép lạ mang niềm tin vào những tâm hồn có phần hoài nghi của các vị giám chức.
Ý thức hệ
Áo choàng, hoa hồng và Thánh Diego. Đức Thánh Cha nhận xét: “Tất cả những gì được nói về mầu nhiệm Guadalupe nhưng khác với điều này đều là dối trá, và muốn sử dụng mầu nhiệm này cho các ý thức hệ. Ngài nhắc lại rằng ý nghĩa của việc Đức Mẹ Guadalupe hiện ra là để “tôn kính Mẹ” và thực sự nghe Mẹ nói với chúng ta như một người mẹ.
Ghi nhớ thông điệp Guadalupe
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng thông điệp của Đức Mẹ Guadalupe có thể được tóm gọn trong dòng chữ: “Đừng sợ. Mẹ, là Mẹ của con, không ở đây sao?”. Ngài khuyến khích các tín hữu ghi nhớ những lời này, lắng nghe, thấm nhập vào tâm hồn con người “trong những khoảnh khắc của cuộc sống, trong những khoảnh khắc khó khăn khác nhau của cuộc sống, trong những khoảnh khắc hạnh phúc của cuộc sống, trong những khoảnh khắc hàng ngày của cuộc sống”.
Đây là thông điệp mà Đức Thánh Cha khuyến khích mọi người hiện diện mang theo bên mình: hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe trên tấm áo choàng tilma và lời của Mẹ nói với Thánh Juan Diego.
Lịch sử Đức Mẹ Guadalupe
Vào ngày 9/12/1531, Đức Mẹ đã hiện ra với một người nông dân tên là Juan Diego, trên ngọn đồi Tepeyac ở một ngôi làng gần Thành phố Mexico. Đức Mẹ đã xuất hiện trong trang phục của một công chúa Aztec và nói chuyện với Juan Diego bằng tiếng mẹ đẻ của anh.
Vào ngày 12/12/1531, giữa mùa đông, Juan Diego đã tìm thấy nhiều hoa hồng Castilian - không tìm thấy ở Mexico - và đã thu gom các bông hoa trong tấm áo choàng tilma của anh, và tin rằng đây là phép lạ. Khi anh mở tấm áo choàng của mình để cho một giám mục xem, một hình ảnh đầy màu sắc của Mẹ Maria đã xuất hiện một cách kỳ diệu trên đó.
Tấm áo choàng tilma vẫn được lưu giữ tại Đền thờ Đức Mẹ Guadalupe ở Thành phố Mexico và hàng năm có hơn 12 triệu người đến viếng nơi này.
Sứ điệp gồm 15 số, được chia thành 4 phần: Lắng nghe tiếng kêu của nhân loại đang bị đe dọa; Một sự thay đổi về văn hóa: tất cả chúng ta đều là những người mắc nợ; Hành trình hy vọng với ba đề xuất; và Mục tiêu hòa bình.
Lời cầu chúc hy vọng và bình an
Mở đầu Sứ điệp, Đức Thánh Cha "gửi những lời chúc hòa bình chân thành nhất đến với mọi người nam nữ, đặc biệt là những người cảm thấy chán nản bởi hoàn cảnh sống của mình, bị lên án bởi những lỗi lầm của mình, bị hủy diệt bởi xét đoán của người khác và không thể nhìn thấy một tia hy vọng nào cho cuộc sống của chính mình". Ngài gửi đến mọi người "niềm hy vọng và bình an, bởi vì đây là Năm Ân Sủng nảy sinh từ Trái Tim của Đấng Cứu Chuộc!".
Lắng nghe tiếng kêu của nhân loại đang bị đe dọa
Đức Thánh Cha nhắc lại ý nghĩa truyền thống của Năm Thánh trong Cựu Ước, là năm tha thứ và tự do cho toàn thể dân tộc. Ngài nói rằng Năm Thánh ngày nay mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng kêu của nhân loại trước nhiều tình huống bóc lột đất đai và đàn áp người khác. Mỗi người phải cảm thấy có trách nhiệm về sự tàn phá ngôi nhà chung, cách đối xử vô nhân đạo đối với người di cư, sự suy thoái môi trường, sự nhầm lẫn cố ý được tạo ra bởi thông tin sai lệch, việc từ chối bất kỳ hình thức đối thoại nào và nguồn lực to lớn được dành cho ngành công nghiệp chiến tranh. Chúng ta được mời gọi “phá vỡ xiềng xích bất công để công bố công lý của Thiên Chúa”.
Cần có những thay đổi về văn hóa và cấu trúc
Còn cần có những thay đổi về văn hóa và cấu trúc. Việc cử hành Năm Thánh, theo Đức Thánh Cha, cũng nhắc nhở chúng ta rằng “của cải trên trái đất không chỉ dành cho một số người có đặc quyền, nhưng dành cho tất cả mọi người”. Nếu chúng ta không nhận ra của cải là do Thiên Chúa ban, chúng ta sẽ không thể nhận ra những hồng ân của Người. “Khi chúng ta phớt lờ tương quan với Chúa Cha, chúng ta bắt đầu suy nghĩ theo logic của sự bóc lột, kẻ mạnh có quyền bắt nạt người yếu”.
Cuộc khủng hoảng nợ
Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến cuộc “khủng hoảng nợ” đang đè nặng một số quốc gia, và qua đó các nước giàu khai thác bóc lột vô độ tài nguyên của nước nghèo. Ngài còn nói đến nợ sinh thái, khi các nước nghèo phải chịu hậu quả của biến đổi khí hậu do các nước giàu tạo nên. Từ đó ngài đưa ra lời kêu gọi theo tinh thần của Năm Thánh: “thực hiện các hành động để xóa nợ nước ngoài, thừa nhận sự tồn tại của món nợ sinh thái giữa miền Bắc và miền Nam thế giới”. Thay đổi về văn hóa sẽ diễn ra khi chúng ta nhận ra mình là con Chúa và tất cả chúng ta đều nợ Người và chúng ta cũng cần nhau.
Ba đề xuất
Đức Thánh Cha đưa ra 3 đề xuất để khôi phục phẩm giá cho cuộc sống của toàn thể các dân tộc và đưa họ trở lại hành trình hy vọng. Trước hết, “giảm thiểu cách đáng kể, nếu không muốn nói là xóa bỏ hoàn toàn, khoản nợ quốc tế đang đè nặng lên vận mệnh” của nhiều Dân tộc. Thứ hai, “tôn trọng phẩm giá sự sống con người, từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên”, cụ thể là xóa bỏ án tử hình. Thứ ba, “sử dụng một phần số tiền đầu tư cho vũ khí để thành lập một quỹ thế giới giải quyết dứt điểm nạn đói và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giáo dục ở các nước nghèo nhất nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu”.
“Giải trừ vũ khí cho tâm hồn”
Cuối sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi “giải trừ vũ khí cho tâm hồn”: không tính toán cái gì là của tôi, sẵn sàng đi đến với người khác, thừa nhận mình nợ Thiên Chúa và sẵn sàng tha nợ cho người khác, vượt qua sự chán nản về tương lai. Và với một cử chỉ đơn giản như nụ cười, tình bạn, cái nhìn huynh đệ, sự lắng nghe, sự phục vụ vô vị lợi, chúng ta đang tiến gần đến mục tiêu hòa bình.
Xin ban bình an của Ngài cho chúng con
Đức Thánh Cha kết thúc Sứ điệp với lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin tha nợ chúng con,
như chúng con tha thứ cho những kẻ mắc nợ chúng con,
và trong vòng tròn tha thứ này, xin ban cho chúng con bình an của Ngài,
bình an mà chỉ Ngài mới có thể ban
cho những người để tâm hồn của họ được cởi bỏ vũ khí,
cho những ai có hy vọng muốn tha nợ cho anh chị em mình,
cho những người không sợ hãi thú nhận rằng họ mắc nợ Ngài,
cho những người không bịt tai trước tiếng kêu của những người nghèo nhất.
Với giọng nói khó thở, ngài xuất hiện với một khối máu tụ lớn ở dưới cằm được quấn băng. Theo các nguồn tin của Vatican, ngày thứ sáu 6 tháng 12, ngài bị té khi ra khỏi giường nhưng tin này chưa được Vatican thông báo chính thức.
Với “công nghị bình thường” lần thứ 10 kể từ đầu triều, trong vài ngày sắp tới Đức Phanxicô sẽ 88 tuổi, ngài tiếp tục củng cố di sản và định hình Hồng y đoàn theo hình ảnh của ngài. Cho đến nay ngài đã chọn hơn 78% trong số 140 “hồng y cử tri”, các hồng y dưới 80 tuổi sẽ dự mật nghị tiếp theo, mật nghị phải có đa số 2/3 để bầu giáo hoàng.
Công nghị bắt đầu chiều thứ bảy 7 tháng 12 tại Đền thờ Thánh Phêrô huy hoàng, cùng ngày Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa lại và Đức Phanxicô đã từ chối lời mời tham dự.
Như thường lệ, các “Giám mục hoàng tử Giáo hội” lần lượt quỳ xuống trước mặt ngài để nhận chiếc mũ đỏ tứ giác và nhẫn hồng y. Đức Phanxicô nói lời khuyến khích: “Tiến lên!”
Kể từ đầu triều, Đức Phanxicô luôn nhấn mạnh đến các giáo phận xa xôi, nơi ngài thường gọi là “vùng ngoại vi”, những nơi người công giáo là thiểu số, ngài muốn xóa thói quen phân biệt hệ thống các giám mục ở các giáo phận nhỏ với các giám mục ở các giáo phận lớn như Milan hay Paris.
Trong số các tân hồng y có 5 giám mục đến từ Châu Mỹ Latinh (Ecuador, Chi-lê, Brazil, Peru, Argentina), nhưng chỉ có 2 giám mục đến từ Châu Phi (Abidjan, Bờ Biển Ngà và Algers ở Algeria). Tổng giám mục Dominique Joseph Mathieu người Bỉ, giáo phận Tehran-Isfahan Châu Á-Thái Bình Dương, vùng được mở rộng nhiều nhất trong thập kỷ qua, Tổng giám mục Tokyo, Tổng giám mục cộng đồng Ukraine của Melbourne (Úc) Châu Á-Thái Bình Dương đại diện đến dự.
Trong bài phát biểu, ngài nói: “Anh em có lịch sử khác nhau, đến từ các nền văn hóa đa dạng và đại diện cho tính công giáo của Giáo hội, Chúa mời gọi anh em làm chứng cho tình huynh đệ, là nghệ nhân hiệp thông và người xây dựng sự hiệp nhất.”
Tổng giám mục Jean-Paul Vesco 62 tuổi cho biết: “Hồng y đoàn thể hiện sự đa dạng phong phú, về mặt địa lý và xã hội học, một dấu hiệu tích cực nhưng với điều kiện phải củng cố tính hợp đoàn.”
Đức Phanxicô thường lên án “tính thời thượng tâm linh”, ngài cố gắng loại bỏ thói sùng bái bề ngoài giới thượng lưu Giáo hội, cảnh báo các hồng y về nguy cơ để “bị lóa mắt bởi sự thu hút của uy quyền, của quyến rũ quyền lực”.
Việc lựa chọn hồng y hoàn toàn thuộc quyền người đứng đầu Giáo hội Công giáo, người lựa chọn họ theo tiêu chuẩn lựa chọn và ưu tiên của mình.
Nhiệm vụ của các Hồng y là hỗ trợ Giáo hoàng trong chính quyền trung ương của Giáo hội. Một số sống ở Rôma và có các chức vụ trong Giáo triều (cơ quan điều hành Vatican) nhưng hầu hết đều phục vụ trong giáo phận quê hương của họ.
Việc bổ nhiệm các hồng y được các nhà quan sát xem xét kỹ lưỡng, họ xem đây là dấu hiệu để thấy nhà lãnh đạo tương lai của Giáo hội Công giáo và của 1,4 tỷ tín hữu là người như thế nào.
Đặc biệt là kể từ khi ngài để “cánh cửa mở” cho việc từ nhiệm như Đức Bênêđíctô XVI đã làm nếu sức khỏe suy giảm biện minh cho việc từ nhiệm.
Nhạy cảm với một Giáo hội tại chỗ và tách rời khỏi chính mình, Đức Phanxicô tìm cách thăng tiến hàng giáo sĩ của các nước đang phát triển lên hàng ngũ cao nhất của Giáo hội.
Nhưng việc bầu chọn một giáo hoàng luôn không thể đoán trước được và một số hồng y do Đức Phanxicô bổ nhiệm không phải lúc nào cũng chia sẻ ý tưởng của ngài, hoặc công khai có quan điểm chống lại ngài.
Cũng có các quan sát viên nghĩ rằng, tính đa dạng lớn lao của các hồng y, những người không biết rõ nhau, ít gặp nhau sẽ làm cho mật nghị phải tìm thỏa hiệp với một nhân vật mạnh mẽ và cân đối, tạo uy tín cho niềm tin tập thể.
Trong số các vị đó, nổi bật là hai Hồng y Dòng Đa Minh, mang áo dòng màu trắng. Đó là cha Timothy Radcliffe, 79 tuổi, người Anh, nguyên là Bề trên Tổng quyền của dòng, và Đức Tổng giám mục Jean-Paul Vesco, 62 tuổi người Pháp, Tổng giám mục Giáo phận Alger, thủ đô Algéri. Hai vị đều được phép của Đức Thánh cha không mang phẩm phục màu đỏ của tước vị Hồng y. Tiếp đến là cha Georg Jacob Koovakad, 51 tuổi, thuộc Giáo hội Syro Malabar nghi lễ Đông phương, bên Ấn Độ. Ngài mặc áo chùng thâm màu đen có viền đỏ, và mũ Hồng y được Đức Thánh cha trao cũng có hình dạng khác, phần chỏm màu đỏ và bên dưới màu đen, đúng theo thói quen của Giáo hội này. Cha Koovakad đã không xin chuẩn chước và đã chịu chức Giám mục, trước khi nhận tước vị Hồng y, chiếu theo giáo luật. Sau cùng là Đức Hồng y Mykola Bychok, 44 tuổi, vị trẻ nhất, Giám mục Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương. Ngài mặc áo đen theo cách thức của các Hồng y thuộc Giáo hội này.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Áo, hôm mùng 07 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Hồng y Radcliffe nói: “Thế giới đang có những thay đổi nền tảng. Năm 1989, bức tường Berlin sụp đổ và chúng ta đã nghĩ toàn thế giới đang trên đường tiến tới một nền dân chủ Tây phương - nhưng thực tế hoàn toàn không phải như vậy. “Ngày nay, những nước như Trung Quốc, Nga và Ấn Độ đang tiến bước. Thách đố lớn nhất đối với toàn thế giới hiện nay là viễn tượng nào chúng ta đang chọn cho nhân loại - chắc chắn nó không còn là một thế giới tây phương”. Trong một thế giới đầy chiến tranh, bạo lực và bất công xã hội, Giáo hội, như một tổ chức hoàn vũ, được kêu gọi trở thành một dấu chỉ hy vọng”.
Đức Hồng y Radcliffe cho biết ngài vẫn còn ngỡ ngàng về việc Đức Thánh cha chọn ngài làm Hồng y: “Cách đây ba năm rưỡi, tôi bị ung thư nặng, và không hề nghĩ mình sẽ sống sót sau cuộc phẫu thuật. Sau khi được giải phẫu, tôi nghĩ mình có thể được hưu dưỡng yên hàn. Nhưng bất thình lình tôi trở lại tràn ngập công việc. Điều này có ý nghĩa gì đối với tương lai, tôi không biết. Tôi sẽ phục vụ Đức Giáo hoàng dưới bất kỳ hình thức nào ngài muốn”.
Sau cùng, Đức Hồng y tâm sự rằng: “Trong chiếc áo dòng màu trắng này, tôi cảm thấy tôi thực là tôi!”
Số Hồng y cử tri do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăng hiện còn 6 vị, do Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI thăng hiện còn 24 vị, và số vị được Đức Thánh Cha Phanxicô thăng hiện có 110 vị.
Nhưng đến ngày 24/12/2024, khi Đức Hồng y Oswald Gracias, Tổng Giám mục của Bombay, Ấn Độ, sẽ tròn 80 tuổi, Hồng y đoàn sẽ còn 139 Hồng y cử tri. Và sang đầu năm 2025, vào ngày 22/1, Đức Hồng y Christoph Schonborn, Tổng Giám mục của Vienna, Áo, sẽ tròn 80 tuổi, số Hồng y cử tri tiếp tục giảm xuống còn 138 vị.
10 Công nghị Hồng y dưới thời Đức Thánh Cha Phanxicô
Với Công nghị ngày 7/12/2024, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự 10 Công nghị trong hơn 11 năm ngài giữ vai trò kế vị Thánh Phêrô lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, vượt qua Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô, đã chủ sự 9 Công nghị trong 27 năm Giáo hoàng. Tuy nhiên, số Hồng y được Đức Gioan Phaolô II thăng lên Hồng y vẫn nhiều hơn Đức Thánh Cha Phanxicô, 231 vị so với 163.
Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo hoàng trong mật nghị Hồng y vào ngày 13/3/2013, sau khi Đức Biển Đức XVI chính thức từ nhiệm vào ngày 28/2/2013. Vào ngày 22/2/2014, Đức Thánh Cha đã chủ sự Công nghị Hồng y đầu tiên thăng 19 Giám mục làm Hồng y; trong số này có Đức Hồng y Pietro Parolin, hiện là Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhân vật thứ hai của Giáo hội, sau Đức Thánh Cha. Trong 10 Công nghị Hồng y này, Đức Thánh Cha đã thăng tất cả 163 Hồng y.
Các Hồng y đại diện cho Giáo hội ở khắp nơi
Một điểm đặc biệt trong việc chọn Hồng y của Đức Thánh Cha Phanxicô đó là tính phổ quát của Giáo hội. Ngài muốn các Hồng y là những vị đại diện của Giáo hội ở mọi nơi, chứ không chỉ của những giáo phận hay quốc gia quan trọng. Trong 9 Công nghị trước đây, với việc thăng 142 Hồng y, Đức Thánh Cha đã chọn các vị đến từ 70 quốc gia, trong đó có 22 nước trước đó chưa có Hồng y nào. Đó là các nước: Haiti, Cộng hòa Dominica, Myanmar, Panama (dù rằng Đức Hồng y Lacunza Maestrojuan sinh tại Tây Ban Nha), Capo Verde, Tonga, Cộng hòa Trung Phi, Bangladesh, Papua New Guinea, Malaysia, Lesotho, Mali, Thụy Điển, Lào, El Salvador, Luxembourg Rwanda, Brunei, Đông Timor, Singapore, Paraguay và Nam Suđan. Sau Công nghị ngày 7/12, danh sách các quốc gia có Hồng y đầu tiên đã tăng lên 23 khi Đức Thánh Cha chọn 1 Hồng y từ Serbia.
Sự hiện diện đông đảo của các tu sĩ trong Hồng y đoàn
Trong Công nghị ngày 7/12 vừa qua, gần một nửa số tân Hồng y được thăng là các tu sĩ thuộc các dòng: gồm 3 vị Dòng Phanxicô, 2 Dòng Đaminh, 2 Dòng Ngôi Lời, và các Dòng Chúa Cứu Thế, Scalabrini và Vinh Sơn, mỗi dòng có 1 vị.
Nhìn lại 9 Công nghị trước đây, trong số 142 Hồng y được Đức Thánh Cha Phanxicô chọn, có 44 vị thuộc 23 dòng tu khác nhau. Công nghị năm 2014 có 4 Hồng y thuộc các dòng tu trong tổng số 19 Hồng y; năm 2015 có 4 tu sĩ trên tổng số 20; năm 2016 có 6 tu sĩ trên tổng số 17; năm 2017 có 1 tu sĩ trong tổng số 5 Hồng y; năm 2018 có 3 tu sĩ trong tổng số 14; năm 2019 có 8 tu sĩ trên 13; năm 2020 có 4 trên 13; năm 2022 có 7 trên 20; và trong năm 2023, có 7 tu sĩ trên tổng số 21 Hồng y.
Hai thỉnh cầu không là thành viên của Hồng y đoàn
Trong những năm qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã hai lần chấp thuận thỉnh cầu của hai Giám mục không trở thành thành viên Hồng y đoàn. Đầu tiên là trường hợp của Đức Cha Lucas Van Looy, 80 tuổi người Bỉ, nguyên Giám mục của Ghent, và trường hợp mới nhất là thỉnh cầu của Đức Cha Paskalis Bruno Syukur, Giám mục của Bogor, người Indonesia.
Những Hồng y trẻ
Vào năm 2016 Đức Thánh Cha đã thăng vị Hồng y đầu tiên chào đời sau khi Công đồng Vatican II kết thúc vào ngày 8/12/1965. Đó là Đức Hồng y Dieudonnè Nzapalainga, Tổng Giám mục của Bangui, sinh năm 1967.
Sau vị Hồng y người Trung Phi này, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm nhiều Hồng y khác chào đời sau Công đồng Vatican II, như Đức Hồng y Giorgio Marengo, Phủ doãn Tổng tòa Ulan Bator, sinh năm 1974. Cho đến trước Công nghị Hồng y ngày 7/12/2024, ngài là Hồng y trẻ nhất Hồng y đoàn.
Trong Công nghị ngày 7/12/2024 Đức Thánh Cha đã thăng nhiều Giám mục trẻ làm Hồng y như Hồng y Giám quản Roma, Baldassare Reina, 54 tuổi; Hồng y Phó Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả, Rolandas Makrickas, 52 tuổi; Hồng y George Jacob Koovakad, người tổ chức các chuyến tông du nước ngoài của Đức Thánh Cha, 51 tuổi; và Hồng y trẻ nhất của Hồng y đoàn, Mykola Byčok, người Ucraina, chỉ mới 44 tuổi.
Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha cũng đã thăng một Hồng y cao niên nhất trong Hồng y đoàn trong Công nghị ngày 7/12 vừa qua, đó là Đức Hồng y Angelo Acerbi, 99 tuổi 79 ngày. Ngài đã phục vụ Giáo hội với tư cách là giám mục trong 50 năm, và cũng có 40 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành ngoại giao của Tòa Thánh.
Cái nhìn tổng quan về Hồng y đoàn
Theo Giáo luật điều 349, các Hồng y có nhiệm vụ hành động cách đoàn thể trong việc chọn người kế nhiệm Đức Giáo hoàng nếu mật nghị được triệu tập. Tuy nhiên, không phải tất cả các Hồng y đều có quyền bỏ phiếu trong mật nghị.
Hơn một nửa Hồng y đoàn là Hồng y cử tri
Hơn một nửa số Hồng y đoàn hiện nay sẽ là “các Hồng y cử tri”. Những Hồng y này dưới 80 tuổi và do đó đủ điều kiện để bỏ phiếu bầu Giáo hoàng mới.
Trong số 140 Hồng y cử tri, quốc gia có số đại diện đông nhất là Ý với 17 Hồng y cử tri, tiếp theo là Hoa Kỳ với 10 Hồng y cử tri, và sau đó là Tây Ban Nha với sáu Hồng y cử tri.
113 “Hồng y không phải là cử tri” là những vị đã trên 80 tuổi. Mặc dù có đủ điều kiện tham gia các cuộc họp trước khi bắt đầu mật nghị bầu Giáo hoàng, nhưng các ngài không có quyền bỏ phiếu và do đó sẽ không tham gia vào chính mật nghị.
Con số Hồng y tính theo châu lục
Số Hồng y hiện tại có mặt tại khắp các châu lục. Châu Phi có 29 Hồng y, thuộc 23 quốc gia, trong đó có 18 Hồng y cử tri; Bắc Mỹ có 28 Hồng y thuộc 3 quốc gia, với 16 Hồng y cử tri; Trung Mỹ có 8 Hồng y đến từ 8 quốc gia, 4 Hồng y cử tri; Nam Mỹ có 31 Hồng y thuộc 10 quốc gia, 18 Hồng y cử tri; Á Châu có 37 Hồng y thuộc 21 quốc gia, 25 Hồng y cử tri; Châu Âu có 115 Hồng y thuộc 25 quốc gia, 55 Hồng y cử tri; Châu Đại dương có 4 Hồng y đến từ 4 quốc gia, và tất cả đều là Hồng y cử tri.
Con số Hồng y tính theo quốc gia
Nếu xét theo quốc gia, Ý hiện tại là nước có nhiều Hồng y nhất, với 52 vị, trong đó có 17 Hồng y cử tri. Quốc gia đứng thứ hai về số Hồng y là Hoa Kỳ, với 17 vị, trong đó có 10 Hồng y cử tri. Và đứng thứ ba là Tây Ban Nha, với 13 Hồng y, trong đó có 6 Hồng y cử tri.
Hồng y tu sĩ
Hiện nay, trong Hồng y đoàn có 66 Hồng y tu sĩ, thuộc 28 hội dòng, trong đó có 36 Hồng y cử tri và 30 vị trên 80 tuổi.
Dòng có nhiều Hồng y nhất là gia đình Dòng Phanxicô, có 13 vị, trong đó có 9 Hồng y cử tri. Nhánh Phanxicô Hèn Mọn có 5 Hồng y, Phanxicô Capuchinô cũng có 5 và Phanxicô Viện tu có 3 vị. Dòng đứng thứ hai về số Hồng y là Dòng Don Bosco, với 11 vị, trong đó có 5 vị dưới 80 tuổi có quyền tham dự mật nghị bầu Giáo hoàng. Và đứng thứ ba về số Hồng y là Dòng Tên, với 9 vị, trong đó có 4 Hồng y cử tri.
Các chức vụ quan trọng trong Hồng y đoàn
Niên trưởng Hồng y đoàn
Niên trưởng Hồng y đoàn hiện nay là Đức Hồng y Giovanni Battista Re, 90 tuổi, người Ý, được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăng làm Hồng y ngày 21/2/2001. Ngày 18/1/2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn việc chọn ngài làm niên trưởng Hồng y đoàn. Phó Niên trưởng Hồng y đoàn là Đức Hồng y Leonardo Sandri, người Argentina, 81 tuổi. Ngài được Đức Giáo hoàng Biển Đức thăng lên Hồng y ngày 24/11/2007.
Niên trưởng Hồng y đoàn là Hồng y thuộc đẳng Giám mục, được các Hồng y thuộc đẳng Giám mục bầu chọn và được Đức Thánh Cha phê chuẩn.
Cho đến ngày 21/12/2019, không có luật buộc Niên trưởng Hồng y đoàn mãn nhiệm vì lý do tuổi tác. Nhưng với Tông thư dưới dạng Tự sắc về “Chức vị Niên trưởng Hồng y đoàn”, Đức Thánh Cha Phanxicô xác định nhiệm kỳ của Niên trưởng Hồng y đoàn kéo dài 5 năm và sau đó có thể tái nhiệm.
Niên trưởng Hồng y đoàn có trách nhiệm triệu tập mật nghị để bầu Giáo hoàng mới khi Giáo hoàng qua đời hay từ chức. Ngài có nhiệm vụ thông báo cho ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh và các nguyên thủ các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh về sự qua đời của Đức Giáo hoàng.
Trong những năm gần đây, khi Đức Thánh Cha Phanxicô, vì bị đau đầu gối, chỉ chủ sự các Thánh lễ, Đức Hồng y Re thường là vị thay thế Đức Thánh Cha chủ tế Thánh lễ tại bàn thờ.
Hồng y trưởng đẳng phó tế
Hồng y trưởng đẳng phó tế hiện nay là Đức Hồng y Dominique Mamberti, người Pháp, 74 tuổi, được Đức Thánh Cha Phanxicô thăng lên Hồng y vào ngày 14/2/2015. Ngày 28/2 năm nay, sau khi Đức Hồng y Renato Raffaele Martino qua đời, Đức Hồng y Mamberti đảm nhiệm chức vị Hồng y trưởng đẳng phó tế.
Đây là vị sẽ công bố kết quả bầu Giáo hoàng với công thức nổi tiếng bằng tiếng Latinh: “Habemus Papam” (Chúng ta đã có Đức Giáo hoàng). Ngoài ra, ngài cũng là vị đặt dây pallium trên vai Đức tân Giáo hoàng trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô, hay giới thiệu với Đức Thánh Cha các tân Tổng Giám mục sẽ lãnh nhận dậy Pallium trong Thánh lễ trọng kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, hoặc sẽ công bố việc Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá trong dịp Đức Thánh Cha ban phép lành “Urbi et Orbi” (cho Roma và toàn thế giới) vào lễ Phục Sinh và Giáng Sinh.
Hồng y nhiếp chính
Một Hồng y khác cũng giữ vai trò quan trọng chính là vị được gọi là Hồng y nhiếp chính (Carmerlengo), hiện nay là Đức Hồng y Kevin Joseph Farrell, người Mỹ. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Hồng y nhiếp chính sẽ là điều hành Giáo hội trong thời gian trống tòa, khi Đức Giáo hoàng qua đời hay từ nhiệm, với sự trợ giúp của các Hồng y được chọn.
Tổng giám mục Pháp Jean-Paul Vesco, 62 tuổi, người theo đường lối của Giáo hoàng Phanxicô, được phong hồng y trong Công nghị ngày 8 tháng 12 năm 2024. Là cựu luật sư, ngài vào Dòng Đa Minh khi 33 tuổi. Ngài giải thích ngài nhận chức hồng y “với tư cách là người công dân Algeria”.
Trả lời phỏng vấn của Hãng tin I.Media, ngài cho biết ngài bị sốc khi nghe tin vì như thế ngài có trách nhiệm bầu chọn giáo hoàng tương lai. Ngài phân tích các lý do có thể thúc đẩy Đức Phanxicô chọn ngài, một mục tử đứng đầu một Giáo hội nhỏ ở vùng đất hồi giáo. Trong thâm tâm, ngài không giấu sự ngưỡng mộ của mình với giáo hoàng Argentina, người mong muốn cải cách quản lý Giáo hội bằng cách thúc đẩy vai trò của giáo dân và phụ nữ.
Cha phản ứng như thế nào khi biết quyết định của Đức Phanxicô phong cha làm hồng y?
Hồng y Jean-Paul Vesco: Tôi sẽ không độc đáo cho lắm khi tôi nói tôi hoàn toàn bất ngờ, nhưng đó là cú sốc của tôi. Tôi nghe tin khi tôi đang lái xe đi làm lễ. Một nhà báo Vatican News gọi điện thoại hỏi phản ứng của tôi… Ông nói Giáo hoàng vừa đọc tên tôi trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 8 tháng 12.
Tôi có cảm giác có điều gì đó rất sâu đậm đang nhói lên trong lòng, một đổi mới, một cảm giác mình là một sáng tạo mới. Khi tôi gọi điện thoại báo tin cho người mẹ thân yêu của tôi, bà nói: “Mẹ cũng có cảm xúc giống như khi con vào chủng viện”. Khi đó tôi hiểu từ ngữ “phong hồng y” có vẻ đã lỗi thời, thực ra không phải vậy. Tôi có cơ hội để làm điều gì đó mới mẻ. Tôi không muốn bỏ lỡ.
Cha đã được Chính quyền Algeria chúc mừng?
Tôi đã được Tổng thống Cộng hòa tiếp, đó là dấu chỉ của một sự công nhận lớn lao. Dĩ nhiên phải mất thời gian để mọi người nhận thức được ý nghĩa của việc đề cử này và đó là điều bình thường: Rôma không phải là trung tâm của thế giới. Đây cũng chính là ý nghĩa việc tôi được đề cử! Có một nhận thức sâu sắc nơi Đức Phanxicô rằng Rôma không được là cái rốn của vũ trụ.
Nhưng bây giờ mọi thứ đã trở nên lớn hơn. Hồng y đoàn Algeria muốn nhắc đến hình ảnh của Hồng y Léon-Etienne Duval (1903-1996). Điều này đánh thức điều gì đó trong ký ức tập thể của người dân Algeria.
Tổng thống Cộng hòa Abdelmadjid Tebboune đã lên kế hoạch đi thăm Đức Phanxicô tháng 11 năm 2023. Cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 đã làm gián đoạn mọi việc và kế hoạch đã bị hủy bỏ. Tôi hy vọng sẽ có cơ hội lại.
Cha cảm thấy cha là Tổng giám mục Algeria, là người Pháp hay người Địa Trung Hải?
Algeria! Tôi sinh ra là người Pháp nhưng với tư cách là người Algeria, tôi nhận chức hồng y này. Tôi được biết Đức Phanxicô đã nói: “Bây giờ chúng ta phải có một Hồng y người Algeria.” Đó là cách nên được giải thích, không chỉ là lời nói: Tôi có quốc tịch Algeria. Điều này rất quan trọng vì chức hồng y này là một vinh dự cho nhiều người dân Algeria.
Cha nghĩ gì khi một ngày nào đó cha dự mật nghị?
Tin này tạo một phản ứng tê điếng trong lòng tôi. Tất cả chúng ta đều mang hình ảnh các hồng y bước vào Nhà nguyện Sixtine… Có điều gì đó hơi điên rồ khi tôi nghĩ tôi sẽ ở trong nghi thức này.
Nhưng sau cú sốc to lớn – và tích cực – của tin này là câu hỏi “để làm gì” xuất hiện. Câu hỏi này tôi đặt ra vì tôi không biết gì: ngài mong chờ gì ở tôi? Câu hỏi này làm tôi băn khoăn và tôi cũng hỏi Chúa. Tôi còn lâu mới là người giỏi nhất và tôi không thể xem đề cử này như một phần thưởng, đây không phải lúc! Tôi đã bỏ nghề luật sư để vào Dòng Đa Minh như một tập sinh, tôi từ bỏ mọi kế hoạch nghề nghiệp. Và bây giờ tôi gần như bất ngờ thấy mình là bề trên Tỉnh Dòng. Tôi cũng có cảm giác ngạc nhiên như khi tôi được bổ nhiệm làm giám mục Oran, rồi tổng giám mục Alger…
Hôm nay, tôi được tấn phong hồng y trong khi Hội đồng Giám mục chúng tôi chỉ có 10 giám mục và đã có một hồng y… Có phải Đức Phanxicô nghĩ rằng nên có một hồng y thứ hai cho khu vực của chúng tôi không! Chúa mong chờ gì ở tôi trong tất cả những chuyện này?
Trong thánh lễ Tạ ơn, Linh mục Jean-Jacques Pérennès (phải) dâng áo của Chân phước Pierre Claverie cho Giám mục Jean-Paul Vesco
Mối quan hệ của cha với Đức Phanxicô như thế nào?
Nếu ông nói mối quan hệ cá nhân thì gần như không có! Trước khi có thông báo, tôi chưa bao giờ gặp trực tiếp ngài. Mối quan hệ của tôi với ngài tóm tắt qua vài cuộc gặp thoáng qua: tôi tham gia Thượng Hội đồng về Gia đình ở Rôma năm 2015; trong buổi tiếp kiến của ngài với Tổng giám mục Alger năm 2017 khi tôi còn làm Giám mục Oran và chúng tôi chuẩn bị phong 19 chân phước Algeria; buổi nhận dây Pallium của tôi – một buổi lễ chúng tôi gần như không nói gì với nhau; một hội nghị Caritas có 300 người tham dự và ở Marseille năm 2023, nơi tôi bắt tay ngài như tất cả các giám mục khác. Và đó là tất cả…!
Vì thế mối quan hệ của tôi với ngài trên hết là thiêng liêng. Tôi chia sẻ dự án ngài làm cho Giáo hội. Đức Gioan-Phaolô II là giáo hoàng thời tuổi trẻ của tôi, Đức Bênêđíctô là người phong tôi làm giám mục và Đức Phanxicô là người ở giai đoạn trưởng thành của tôi.
“Vì vậy, mối quan hệ của tôi với Đức Phanxicô trên hết là thiêng liêng.”
Hướng dẫn mục vụ chính của cha cho giáo phận là gì?
Khi tôi là Giám mục giáo phận Oran, tôi chọn phương châm mà hai nữ tu da trắng đã tự đặt ra trong những năm tháng khó khăn: “Tôi muốn sống và làm cho mọi người cũng muốn sống”. Tôi mong muốn Giáo hội Oran nhỏ bé này “sống và làm cho mọi người cũng muốn sống.”
Khi đến Alger, lòng tôi tràn ngập lời Thánh Gioan: “Lạy Cha, những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai”. Nhiệm vụ của tôi ở đây là chăm sóc mọi người. Đó là dự án mục vụ to lớn để chăm sóc từng người đã được rửa tội, từng người tôi gặp, dù họ là tín hữu kitô hay không. Để áp dụng con đường này, tôi muốn sống một Giáo hội có tính đồng nghị hơn, như thế có sự tham gia của giáo dân nhiều hơn, dù trên thực tế giáo dân là trụ cột của Giáo hội nhưng các linh mục, tu sĩ nam nữ là thành phần chủ yếu của Giáo hội.
Cha có hai phương châm, huy hiệu của cha là gì?
Giống như Chân phước Pierre Claverie, hay Tổng giám mục Henri Teissier, cựu tổng giám mục Alger, tôi không chọn quốc huy vì với tôi nó tượng trưng cho dấu hiệu của sự cao quý. Là giám mục không phải là để bước vào chức vụ cao hơn. Danh hiệu cao quý của tôi là trở thành người anh em và xứng đáng như người anh em. Mặt khác, tôi thích phương châm vì phương châm được chia sẻ và mang lại sự sống.
Cha đề cập đến tính đồng nghị. Cha có đồng ý với những chỉ dẫn của Thượng Hội đồng không?
Tôi đồng ý, Thượng Hội đồng này đã ở với tôi từ lâu rồi. Chúng tôi thấy đã có sự đồng thuận rộng rãi và điều này xác nhận phương pháp cũng như lộ trình đã thực hiện. Chúng tôi đang hướng tới trách nhiệm giải trình cao hơn với giáo dân và tìm sự đồng thuận thay vì có các quyết định độc đoán. Theo tôi, một trong những bài học lớn của Thượng Hội đồng là lên án bất kỳ một khả năng nào để có một công đồng mới theo mô hình Vatican II. Ngày nay, một Thượng Hội đồng chỉ gồm các giám mục sẽ không còn tồn tại nữa.
Câu hỏi về vị trí và vai trò của phụ nữ trong Giáo hội là một trong những chủ đề tranh luận chính. Cha có mong chờ một cái gì mạnh mẽ hơn không?
Tôi không phải là một trong những người mong chờ Thượng Hội đồng đưa ra quyết định quan trọng về một chủ đề cụ thể. Nhưng có một thay đổi văn hóa đã diễn ra, một đột biến, giống như một Công đồng Vatican III.
Tôi ở Rôma để thăm các cơ quan trong chuyến đi ad limina với các giám mục trong vùng của tôi, tôi rất xúc động trước sự hiện diện của phụ nữ ở các chức vụ có trách nhiệm cao (thư ký dưới quyền, thứ trưởng…). Giáo hội sẽ không thể hoạt động được nếu không có sự bổ sung cho nhau giữa nam và nữ.
Cha đã có tiếng nói mạnh trong Thượng Hội đồng về Gia đình năm 2015, đặc biệt trong việc hỗ trợ những người ly dị và tái hôn. Cách giải quyết các chủ đề nhạy cảm trong Giáo hội có thay đổi sau 10 năm triều Đức Phanxicô không?
Tôi nghĩ văn hóa đồng nghị đang lan rộng và Thượng Hội đồng về Gia đình đã đánh dấu một bước ngoặt. Đây là lần đầu tiên các câu hỏi được đặt ra cho các giáo dân đã được rửa tội. Từ đó mọi việc được tiến triển nhanh: bây giờ giáo dân nam cũng như nữ có quyền bỏ phiếu trong Thượng Hội đồng. Chúng ta nhận ra, trong Giáo hội cũng như trên thế giới, chúng ta càng chia sẻ trách nhiệm bao nhiêu thì chúng ta càng thấy có nhiều điều để chia sẻ bấy nhiêu. Theo tôi, rõ ràng là có một trước và một sau “Giáo hoàng Phanxicô”. Chúng ta sẽ không quay trở lại như trước bất kể ai là người kế nhiệm ngài.
Mười chín vị chân phước và tử đạo của Algeria đã được phong chân phước cách đây sáu năm và Đức Phanxicô có thể sớm phong thánh cho họ không?
Đức Phanxicô đã công nhận sự tử đạo của 19 chân phước này. Điều này không hiển nhiên, chẳng hạn Chân phước Charles de Foucauld không được công nhận là tử đạo dù ngài bị giết một cách dã man… Hơn nữa, 19 chân phước bị ám sát trong bối cảnh nội chiến làm cho 200.000 người chết – trong đó có khoảng một trăm giáo sĩ hồi giáo. Họ có chết trong sự căm ghét đức tin không? Điều này không hoàn toàn rõ ràng. Nhưng việc công nhận tử đạo miễn cho họ khỏi cần phép lạ để được phong chân phước.
Để phong thánh, giáo hoàng có thể làm bất cứ điều gì, kể cả việc miễn cho họ một lần nữa khỏi nhu cầu về một phép lạ được công nhận. Nhưng cá nhân, tôi sẽ không ước điều đó! Tôi mong chúng ta chờ một phép lạ như một dấu chỉ. Tôi cảm thấy dấu chỉ đang hiện diện và hoạt động. Tôi muốn điều này được nhìn thấy!
Luật sư kinh doanh rồi đi tu
Sinh ngày 10 tháng 3 năm 1962 tại Lyon, thân phụ của ngài là nhà đại lý bảo hiểm và mẹ là y tá. Ngài có bằng thạc sĩ luật kinh doanh và thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Trường Cao đẳng Hành chánh. Ngài hành nghề luật sư kinh doanh ở Paris từ năm 1989 đến năm 1995. Xúc động trước ơn gọi sau khi tham dự một thánh lễ truyền chức năm 1994, ngài vào Dòng Đa Minh, ngài khấn tạm ngày 14 tháng 9 năm 1996 và ba năm sau ngài khấn trọn. Sau khi có bằng giáo luật về thần học của phân khoa Công giáo Lyon, ngài chịu chức ngày 24 tháng 6 năm 2001 và là tu sĩ Dòng Đa Minh.
Tổng giám mục Jean-Paul Vesco định cư ở Tlemcen, giáo phận Oran, Algeria, ngài đáp lại lời kêu gọi xây dựng Dòng Đa Minh sáu năm sau vụ ám sát Chân phước Pierre Claverie. Năm 2005, ngài làm Tổng Đại diện giáo phận Oran. Ngài trở về Pháp sau khi được bổ nhiệm làm Giám tỉnh và sau đó được Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Oran năm 2012. Khẩu hiệu giám mục của ngài là: “Tôi muốn sống và làm cho mọi người muốn sống.”
Ngày 27 tháng 12 năm 2021, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Tổng giám mục Alger thay thế Tổng giám mục Paul Desfarges về hưu. Ngài được tấn phong ngày 11 tháng 2 năm 2022 tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Alger. Kể từ khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu Tổng Giáo phận Alger, ngài đã giữ chức vụ Tông tòa của giáo phận Oran trong thời gian trống tòa. Ngài nhập tịch tháng 2 năm 2023 theo sắc lệnh tổng thống của Tổng thống Cộng hòa Abdelmadjid Tebboune.
Đây không phải là lần đầu tiên Lễ Giáng sinh nối kết Chúa Giêsu ra đời với các trẻ em nạn nhân của chiến tranh hoặc di cư. Nhưng ngày thứ bảy 7 tháng 12, hình ảnh Đức Phanxicô ngồi xe lăn trước máng cỏ Chúa Giêsu nằm trên chiếc khăn keffiyeh – chiếc khăn đen trắng dùng che đầu đã trở thành biểu tượng đấu tranh của người Palestina – đã tạo nhiều phản ứng ngược nhau trên mạng xã hội.
Tối thứ bảy 7 tháng 12, vài giờ trước lễ khánh thành máng cỏ truyền thống, cây thông cao 29 mét được dựng lên ở Quảng trường Thánh Phêrô, với cảnh Chúa giáng sinh lấy cảm hứng từ những ngôi nhà của ngư dân Ý, một tác phẩm bằng gỗ cao khoảng 3 mét, có đế hình tròn của các nghệ sĩ Palestina Johny Andonia và Faten Nastas Mitwasi đến từ Bêlem làm.
Ban đầu không có khăn keffiyeh
Đức Phanxicô lên tiếng trước các phái đoàn Ý và Palestina: “Chúng ta ngắm nhìn các máng cỏ Bêlem được dựng trên đất Chúa Giêsu sinh ra. Anh chị em thân mến, chiến tranh, bạo lực đã nhiều quá rồi! Anh chị em đã biết, đầu tư sinh lợi nhất là sản xuất vũ khí, lợi nhuận từ việc giết người… Nhưng làm sao điều này lại có thể xảy ra? Chiến tranh như thế là đủ rồi!”
Ban đầu, máng cỏ không có khăn keffiyeh như trong các bức hình đầu tiên chụp tại Hội trường Phaolô VI ngày thứ bảy. Chiếc khăn đen trắng được một thành viên của phái đoàn Palestina đặt lên trước khi Đức Phanxicô đến.
Trong một tuyên bố bằng tiếng Ả Rập, Tổ chức Giải phóng Palestina (PLO) cho biết, máng cỏ được Đại sứ quán Palestina tại Tòa Thánh, một số cơ sở kitô giáo ở Bêlem như Trung tâm Piccirillo của Quỹ Gioan-Phaolô II giúp đỡ người khuyết tật, Tổ chức Giải phóng Palestina (PLO) tài trợ để làm.
Chủ tịch Ủy ban, Tiến sĩ Ramzi Khoury cùng với phái đoàn có mặt tại Vatican trong lễ khánh thành máng cỏ. Theo thông cáo báo chí của Tổ chức Giải phóng Palestina, ông đã chuyển đến Đức Phanxicô lời chào mừng của Tổng thống Chính quyền Palestina Mahmoud Abbas, “hoan nghênh nỗ lực của Đức Phanxicô nhằm chấm dứt chiến tranh ở Dải Gaza và việc ngài tiếp tục ủng hộ người dân Palestina và chính nghĩa của họ”.
Hiệp định Giáng sinh
Khi triều Đức Phanxicô bắt đầu, từ năm 2015 Vatican chính thức công nhận nhà nước Palestina. Kể từ thỏa thuận được ký năm 2000, Tòa Thánh duy trì quan hệ song phương với Tổ chức Giải phóng Palestina. Từ ngày 7 tháng 10 năm 2023 khi cuộc tấn công Hamas xảy ra, Đức Phanxicô luôn cố gắng duy trì quan điểm cân bằng, lên án các vụ đánh bom ở Gaza và Lebanon, đồng thời kêu gọi thả ngay lập tức các con tin Israel, ngài đã gặp thân nhân của họ nhiều lần.
Trong quyển sách phỏng vấn phát hành ở Ý, Tây Ban Nha và Châu Mỹ Latinh ngày 19 tháng 11, lần đầu tiên ngài cáo buộc tội diệt chủng liên quan đến các hoạt động của Israel ở Gaza, ngài cho rằng “cần nghiên cứu vấn đề này một cách cẩn thận để xác định xem tình huống có phù hợp với định nghĩa kỹ thuật do các luật gia và tổ chức quốc tế đưa ra hay không”.
Ngày chúa nhật 8 tháng 12, trong giờ Kinh Truyền Tin ngài đưa ra lời kêu gọi “các nhà lãnh đạo và cộng đồng quốc tế ra lệnh ngừng bắn trên tất cả các mặt trận chiến tranh để người dân có thể mừng lễ Giáng sinh”.
Hội đồng Giám mục Mỹ kêu gọi Tổng thống Biden ân xá cho các tử tội
Hiện có 40 tử tội đã bị kết án và giam giữ trong các nhà tù liên bang chờ ngày bị hành quyết.
Trong lời kêu gọi đăng trên trang mạng của Hội đồng Giám mục, các vị viết rằng: “Tổng thống Biden có một cơ may đặc biệt đẩy mạnh chính nghĩa nhân đạo, bằng cách biến cải các án tử hình thành những án tù có thời hạn và tha mạng sống cho 40 tù nhân hiện ở trong các khu tử tội của các nhà tù liên bang”.
Hội đồng Giám mục Mỹ đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi kết thúc án tử hình từ năm 1980, khi các vị ra tuyên ngôn kêu gọi bãi bỏ án này, vài năm sau khi tòa án tối cao ở Mỹ cho mở lại các cuộc hành quyết tại Mỹ. Ông Biden là một tín hữu Công giáo, khi ra tranh cử tổng thống, ông đã kêu gọi chấm dứt việc sử dụng án tử hình.
Án tử hình liên bang được áp dụng tương đối họa hiếm, từ khi được tái lập hồi năm 1966. Cho đến nay, chỉ có 16 tử tội bị chính phủ Liên bang ra lệnh hành quyết, 13 người dưới thời Tổng thống Trump, so với 1.600 vụ tại các tiểu bang.
Trong tuyên ngôn hồi năm 1980, Hội đồng Giám mục Mỹ bày tỏ quan tâm vì án tử hình vẫn còn được áp dụng ngày nay, và án này dập tắt mọi khả thể phục hồi và cải tổ; sự áp đặt án tử hình có thể có sai lầm.
Trong buổi đọc kinh Truyền tin, trưa Chúa nhật ngày 08 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha cũng nói rằng: “Hôm nay, tôi quan tâm xin tất cả anh chị em cầu nguyện cho các tù nhân ở Mỹ đang ở trong các khu vực chờ bị hành quyết. Tôi nghĩ có khoảng từ 13 đến 15 người. Chúng ta hãy cầu nguyện để án tử của họ được biến cải, thay đổi. Tôi nghĩ đến những anh chị em ấy của chúng ta và xin Chúa ban ơn cứu họ khỏi chết”.
Sự kiện diễn ra vào tháng 11 nhưng tuyên bố được các tham dự viên, đại diện của 13 quốc gia Á châu đưa ra vào ngày lễ Đức Mẹ vừa qua, trong đó viết: “Chúng tôi quyết định tiếp tục đi theo con đường của một Giáo hội hiệp hành với sự quan tâm đặc biệt đến người dân bản địa, với niềm hy vọng và quyết tâm mới để tôn vinh và bảo vệ các truyền thống sống động của người bản địa trong các Giáo hội địa phương ở Á châu”.
Từ diễn đàn, nhu cầu tiếp tục suy tư đã dẫn tới việc thành lập mạng lưới Công giáo giữa các dân tộc bản địa châu Á. Cha George Plathottam, thành viên ban tổ chức nói: “Sự kiện có ý định tập hợp các tổ chức và những người quan tâm đến hoạt động vì phúc lợi của người bản địa để đào sâu nghiên cứu, suy tư thần học và mục vụ cũng như hành động phối hợp. Mạng lưới hiện đang phát triển một kế hoạch hành động, bao gồm việc thực hiện các khóa đào tạo dành cho các nhà lãnh đạo đổi mới. Các tham dự viên Diễn đàn về Hiệp hành và Truyền thống bản địa được chia thành bốn nhóm nghiên cứu để tiếp tục nghiên cứu và suy tư về các vấn đề chính ảnh hưởng đến các dân tộc bản địa ở châu Á”.
Sự kiện là cơ hội để tôn vinh “sự khôn ngoan bản địa”, bao gồm các tập tục cổ xưa gắn liền với các giá trị chia sẻ, đón tiếp, đồng trách nhiệm và chữa lành. Thực tế, các thực hành và truyền thống của người bản địa rất phù hợp với các dân tộc trong Sách Thánh, là những yếu tố nền tảng về đất, dòng dõi và liên minh.
Câu hỏi được đặt ra: “Tại sao tôn vinh tính hiệp hành và truyền thống bản địa trong Giáo hội ở Á châu?” Tuyên bố trả lời: “Chúng tôi nhận ra thực tế rằng 63% Kitô hữu trên thế giới và 73% Kitô hữu ở Á châu là người bản địa, khuôn mặt của Giáo hội ở Á châu và cả toàn cầu vẫn chưa mang tính bản địa. Cần phải nhìn nhận rằng các dân tộc bản địa không phải ở bên lề nhưng ở trung tâm của Giáo hội”.
Về vai trò của nữ giới, tài liệu nhận định, trong các cộng đồng bản địa ở châu Á, phụ nữ được cho là những người gìn giữ các truyền thống và bảo vệ các nền văn hoá, vốn đóng vai trò nền tảng. Sự đóng góp của phụ nữ là thiết yếu đối với sứ vụ của Giáo hội và điều cần thiết là tiếng nói của họ phải được lắng nghe và sự tham gia của họ phải được công nhận đầy đủ.
Cuối cùng, diễn đàn đưa ra các khuyến nghị: Hiệp hành như là một lối sống tự nhiên trong các nền văn hoá bản địa: kết nối và truyền thông; Các con đường loan báo Tin Mừng, giáo lý, phụng vụ và nghiên cứu; Những vấn đề cần giải quyết.
OSCE quy tụ 57 nước thành viên, gồm các nước Âu châu cùng với Mỹ và Canada, được thành lập năm 1975 để ngăn chặn chiến tranh lạnh.
Trong những ngày này, OSCE đang nhóm họp cấp Ngoại trưởng lần thứ 31, tại đảo Malta vì nước này đang làm Chủ tịch.
Trong bài tham luận, Đức Tổng giám mục Gallagher nhận định rằng trong 50 năm qua, từ Văn kiện chung kết Helsinki của OSCE đã có bao nhiêu thành đạt, cũng như những thách đố được vượt thắng. Trái lại, trong những năm gần đầy, giữa lòng tổ chức này, ngày càng có sự rạn nứt trong sự tín nhiệm giữa một số quốc gia thành viên, gia tăng sự gây hấn ý thức hệ và một sự coi thường rõ ràng đối với các nguyên tắc trong Văn kiên chung kết ở Helsinki.
Trong bối cảnh đó, vị Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi các nước thành viên của OSCE hãy phục hồi tinh thần đối thoại và cộng tác, chẳng vậy sẽ đi tới sự tự hủy diệt của tổ chức này. Ngài nói: “Điều không thể phủ nhận là OSCE đang đứng trước ngã ba đường và tương lai của tổ chức này là trách nhiệm của mỗi nước thành viên.”
Đức Tổng giám mục nhắc lại lời cảnh giác của Đức Thánh cha Phanxicô, khi nói về sự cộng tác quốc tế. Người chống lại nguy cơ chia thành những phe nhóm khác nhau và chỉ chấp nhận những nước được coi là có ý thức hệ dung hợp được. “Cả những cơ quan nhắm phục vụ công ích và các vấn đề chuyên môn, cho đến nay tỏ ra có hiệu năng, nhưng hiện có nguy cơ bị tê liệt vì sự phân cực ý thức hệ và lợi dụng khai thác từ phía mỗi quốc gia”.
Tóm lại, Đức Tổng giám mục Gallagher nhấn mạnh rằng như một tổ chức, các quốc gia liên kết hoạt động bằng sự đồng thuận, bây giờ cần tái lập “công việc kiên nhẫn đối thoại và thương thuyết, thay vì áp đặt bằng võ lực. Thật là một điều hết sức đáng lên án nếu các nước thành viên từ bỏ hy vọng và làm thương tổn chính tổ chức OSCE, từ bỏ không theo đuổi những quyết định dựa trên sự đồng thuận để rồi biến nó thành một diễn đàn chỉ dành cho những nước có cùng lập trường”.
Các nữ tu sẽ phải tìm nơi cư trú tại các quốc gia gần Nicaragua, tại các nhà và cơ sở của hội dòng của họ.
Bà Martha Patricia Molina, một luật sư người Nicaragua đang sống lưu vong ở Texas, cho biết: “Các tổ chức phi lợi nhuận mà các nữ tu đảm trách đã bị ngăn chặn. Bây giờ tất cả tài sản của họ sẽ bị tịch thu và phần lớn trong số họ đã rời Nicaragua”.
Cuộc bách hại vẫn tiếp tục
Chính quyền của tổng thống Ortega vẫn tiếp tục bách hại Giáo hội. Vào ngày 13/11/2024, họ đã trục xuất khỏi Nicaragua Đức Cha Carlos Enrique Herrera Gutiérrez, Giám mục của Jinotega và cũng là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua.
Trong tháng 11, 3 linh mục bị cấm nhập cảnh vào Nicaragua. Trong số này có Cha Asdrúbal Zeledón Ruiz, giáo phận Jinotega, và Cha Floriano Ceferino Vargas, người đã phải sống lưu vong ở Panama sau khi bị các đặc vụ nhà nước bắt cóc sau một Thánh lễ được cử hành tại nhà thờ San Martín thuộc giáo phận Bluefields, thuộc giáo tỉnh Managua.
Theo ước tính từ tường trình “Nicaragua, một Giáo hội bị bách hại?” do bà Molino soạn thảo, kể từ tháng 4/2018, hơn 250 tu sĩ đã bị trục xuất, bị cấm hoặc buộc phải lưu vong do lệnh chặn nhập cư.
Lời khích lệ của Đức Thánh Cha
Nhân dịp Giáo hội Nicaragua cử hành tuần cửu nhật kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Thánh Cha đã gửi thư cho Dân Chúa tại nước này. Ngài nhắn nhủ họ: “Lòng quan phòng yêu thương của Chúa là sự hướng dẫn chắc chắn duy nhất. Chính trong những thời điểm khó khăn nhất, khi con người không thể hiểu được Thiên Chúa muốn gì nơi chúng ta, chúng ta được mời gọi đừng nghi ngờ sự quan tâm và lòng thương xót của Người. Niềm tin tưởng con thảo của anh chị em đối với Người và lòng trung thành của anh chị em với Giáo hội là hai ngọn hải đăng lớn chiếu sáng cuộc sống của anh chị em”.
Phúc trình dài 45 trang mang tựa đề: “Bị bách hại và quên lãng?” tố giác rằng các tín hữu Kitô nam nữ tại nhiều nước trên thế giới tiếp tục chịu đau khổ và nạn bạo lực gia tăng, nạn phân biệt đối xử và những chà đạp khác về nhân quyền.
Phúc trình này được công bố hai năm một lần: lần này từ mùa hè năm 2022 đến mùa hè 2024, đặc biệt tố giác trình trạng bách hại nghiêm trọng chống các Kitô hữu tại 18 quốc gia. Tác giả phúc trình dựa trên các chứng từ tận mắt của những nạn nhân sống sót trong các cuộc tấn công bài Kitô giáo. Ví dụ, chứng từ của Đức cha Gerald Mamman Musa, Giám mục Giáo phận Katsina ở Nigeria, Phi châu. Ngài nói về những vi phạm nhân quyền tự do tôn giáo tại quê hương của ngài.
Tại những nước khác, như Burkina Faso, Mozambique bên Phi châu, các nhóm Hồi giáo cuồng tín thường tấn công và tạo nên tình trạng xuất cư ồ ạt của các cộng đoàn Kitô. Tình trạng này khiến nhiều người tự hỏi về sự sống còn về lâu về dài của Giáo hội tại những vùng chủ yếu ở Phi châu.
Bà Regina Lynch, Chủ tịch quản trị của Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ, tuyên bố rằng: “Phi châu ở nơi trung tâm điểm của bạo lực Hồi giáo cực đoan”.
Đức cha Musa ở miền tây bắc Nigeria, nơi trọng tâm của các tổ chức bạo lực và cực đoan, cho biết: Bên cạnh nhóm thánh chiến Hồi giáo Boko Haram, còn có những dân quân người Fulani, làm nghề chăn nuôi. Nhóm này cũng là một đe dọa lớn cho các Kitô hữu. Đức cha nói: các nhóm cực đoan đó tấn công cả các tín hữu Hồi giáo ôn hòa và Kitô hữu. Trong khoảng thời gian bốn năm, từ 2019 đến 2023, hơn 16.000 tín hữu Kitô đã bị giết.
Đức cha Musa cũng tố giác rằng các Kitô hữu bị kỳ thị trong công ăn việc làm, trong chính trị và trong ngành công lý, vì nhiều bang ở Nigeria có luật Sharia của Hồi giáo. “Những vụ bắt cóc các linh mục và các cộng tác viên của Giáo hội là điều thường xuyên xảy ra. Những vụ tấn công nhà thờ, bắt cóc và sát hại tạo nên lo âu cho các cộng đồng Kitô và thu hút sự chú ý đối với các nhóm cực đoan này”.
Đức cha Musa kêu gọi thực hiện những cố gắng giáo dục về tự do tôn giáo và hòa bình và Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ tích cực hỗ trợ các sáng kiến trong lãnh vực này. Đức cha nói thêm rằng những cuộc bách hại và bạo lực không làm cho việc hành đạo của các Kitô hữu bị giảm sút, trái lại, “Các tín hữu Kitô bị giết đã không đổ máu đào vô ích. Nhiều người bị thu hút vì chứng tá đức tin của họ”.
Bà Chủ tịch Lynch nêu danh Trung Quốc, Eritrea, Iran như những ví dụ cụ thể về những nước hạn chế tự do tôn giáo. Tại các nước này, Kitô hữu bị coi như kẻ thù của nhà nước. Trong phần khác của phúc trình, có nói đến những chính phủ và các tổ chức không thuộc nhà nước. Luật pháp được gia tăng sử dụng để đàn áp các tín hữu Kitô và những nhóm dân thiểu số khác. Đó là tình trạng tại Ấn Độ, do đảng quốc gia Ấn giáo BJP chủ trương. Phúc trình nói đến hơn 850 Kitô hữu Ấn Độ bị bắt.
Ngoài ra, thường xảy ra những vụ các thiếu nữ Kitô bị bắt cóc và cưỡng bách theo Hồi giáo, như tại Pakistan, hoặc nạn trình bày về Kitô hữu một cách coi rẻ trong các sách giáo khoa. Tại Việt Nam, có quan hệ với Tòa Thánh từ năm 2023, người ta ghi nhận có sự cải tiến đối với các tín hữu Kitô.
Phúc trình đặc biệt nói về tình trạng ở Nicaragua. Tại đây, chính phủ của Tổng thống Daniel Ortega ồ ạt tấn công các Kitô hữu, nhiều nhân viên và cộng tác viên của Giáo hội bị bắt, nhiều linh mục và giám mục bị trục xuất.
Bà Chủ tịch Lynch của Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ kết luận rằng: “tình trạng Kitô hữu tại nhiều nước trở nên xấu hơn”. Bà cũng nhận xét rằng không phải chỉ có các tín hữu Kitô mới bị kỳ thị và bách hại, nhưng cả các nhóm tôn giáo thiểu số khác.
Ông Alessandro Calcagno, Cố vấn của các Giám mục Âu châu về các nhân quyền cơ bản, trong buổi điểm tâm cầu nguyện của Âu châu, diễn ra tại Nghị viện Âu châu trong tuần qua, nói rằng: “Nay đã đến lúc chín mùi để bổ nhiệm một điều hợp viên của Liên hiệp về bài trừ nạn ghét bỏ chống Kitô tại Âu châu. Đây không phải là vấn đề coi mình là nạn nhân, nhưng là vấn đề bình đẳng trong các phương thế bảo vệ”. Tham dự buổi cầu nguyện điểm tâm có 450 người thuộc các nước, và được tiến hành trong tương quan với một cuộc thảo luận nhóm về các xu hướng gia tăng nạn bất bao dung về tôn giáo hiện nay ở Âu châu.
Ông Calcagno giải thích rằng quyền tự do tôn giáo cũng như những quy luật bài trừ chống nạn kỳ thị vì lý do tôn giáo, không thể bị quan niệm qua lăng kính chỉ bảo vệ các cộng đoàn tín hữu là những nhóm tôn giáo thiểu số.
Theo ông Calcagno, việc bổ nhiệm một điều hợp viên vừa nói là một trong những ưu tiên mà ông nêu bật, nhân danh các Giám mục Âu châu. Việc đề xướng này trong tương quan với việc thực thi tự do tôn giáo trong Liên hiệp, trong đó có việc đảm bảo một sự bảo vệ bình đẳng cho mọi chiều kích của trọng tâm quyền cơ bản, kể cả những người theo định chế. Quá nhiều khi tự do tôn giáo bị mô tả là một quyền gây ra vấn đề, và chiều kích tập thể của nó, so với chiều kích cá nhân, thường bị coi nhẹ”.
Cần bảo vệ các nơi thờ phượng và các dữ kiện về bản chất tôn giáo cũng như hội nhập hơn việc bảo vệ tự do tôn giáo trong các chính sách của Liên hiệp Âu châu.
Qua sắc lệnh chính thức, Tổng thống Bashar Al-Assad của Syria nhìn nhận việc thành lập trường cao đẳng này, như trang mạng “orthochristian.com“ của Chính thống truyền đi ngày 04 tháng Mười Hai vừa qua, cho biết. Học viện mới này gồm các khoa Thần học, Triết học, và khoa học tôn giáo và một viện về các cổ ngữ. Với việc thành lập học viện này, cả việc đối thoại liên tôn, cũng được tăng cường.
Trước chiến tranh, tại Syria năm 2011, có 1,5 triệu tín hữu Kitô tại Syria nhưng nay, con số lạc quan nhất là nửa triệu người, và có thể chỉ còn hơn 300.000 Kitô hữu. Giáo hội Chính thống là cộng đoàn Kitô lớn nhất tại Syria và có 400 giáo xứ trên toàn quốc. Gần một nửa các tín hữu Kitô ở Syria thuộc Giáo hội này.
Trong khi đó, cách 250 cây số ở miền bắc Damasco, các cuộc giao tranh dữ dội giữa phiến quân Hồi giáo cực đoan vẫn tiếp diễn, sau khi lực lượng này chiếm thành phố Aleppo, từ ngày 29 tháng Mười Một. Các cuộc không kích mạnh mẽ của Nga chống phiến quân đã chặn được bước tiến của họ ở thành Homs.
Các chiến binh người Irak, được Iran hỗ trợ đã được triển khai để giúp đỡ phe của Tổng thống Assad.
Về phần Đức cha Jacques Mourad, Tổng giám mục Giáo phận Homs của Công giáo ở thành Homs, ngài tố giác rằng phiến quân Hồi giáo muốn chấm dứt lịch sử lâu dài của các tín hữu Kitô ở thành Aleppo. Ngài nói với hãng tin Fides của Bộ loan báo Tin mừng: “Chúng tôi thực sự mệt mỏi theo mọi chiều kích!”
Đức Tổng giám mục vốn là một đan sĩ thuộc cộng đoàn Deir Mar Musa và làm Tổng giám mục Công giáo Siriac, từ ngày 03 tháng Ba năm ngoái (2023) tại Homs, nơi mà những người tị nạn từ Aleppo tiếp tục chạy đến đây. Đức Tổng giám mục nói: Chúng tôi không thể chịu nổi đau khổ của tất cả những người dân tị nạn tại đây. Họ đến đây trong tình trạng kiệt lực, đói khát và lạnh lẽo, chẳng còn gì cả. Tình trạng tại thành Homs này cũng nguy hiểm. Chúng tôi không được chuẩn bị để đón tiếp họ. Khi họ đến đây, chúng tôi tổ chức ngay cuộc gặp gỡ giữa các giám mục và thiết lập ngay hai địa điểm tiếp cư, với sự trợ giúp của các cha Dòng Tên và sự sẵn sàng nâng đỡ của tổ chức bác ái Ourve d’Orient và Trợ giúp các Giáo hội đau khổ.
Đức Tổng giám mục không ngại ngần kêu gọi trách nhiệm của các cường quốc, như Mỹ, Nga và Âu châu. Tất cả họ đều có trách nhiệm trực tiếp về những gì đang xảy ra ở Aleppo.
Sự lan tràn chiến tranh và khủng hoảng an ninh trong những năm gần đây đang đẩy mạnh việc mua sắm vũ khí, tiến trình này càng được đẩy mạnh, với sự bùng nổ chiến tranh giữa Nga và Ucraina, rồi những căng thẳng ở Trung Đông và Đông Á châu.
Năm ngoái, mức thu nhập của 100 hãng hàng đầu trong việc sản xuất vũ khí lên tới 632 tỷ Mỹ kim, tức là tăng 4,2% so với năm 2022 trước đó.
Trong 100 công ty vừa nói, có 41 hãng võ khí của Mỹ và họ tiếp tục chiếm vị thế hàng đầu trên thị trường thế giới, đạt 50% tổng số thu nhập, tức là 317 tỷ Mỹ kim, tăng 2,5% so với năm 2022.
Trong số 100 hãng sản xuất vũ khí hàng đầu của thế giới, có 27 hãng là của Âu châu, có số thu nhập là 133 tỷ Mỹ kim, tức là chỉ tăng 0,2% so với năm 2022. Các hãng sản xuất vũ khí của Đức, Thụy Điển, Ba Lan, Na Uy và Cộng hòa Tchèque nhận được nhiều đơn đặt hàng mua đạn dược và hệ thống phòng không từ nhu cầu nội địa và từ Ucraina. Trong số các hãng sản xuất vũ khí ở Âu châu, hãng BAE Systems của Anh quốc tăng thêm lợi nhuận 3,2%.
Cả các công ty võ khí của Nga cũng gia tăng đáng kể, phản ánh nhu cầu gia tăng do chiến tranh Ucraina và xung đột ở Trung Đông.
Tuy nhiên, làm thế nào để chọn được món quà ý nghĩa và hữu ích cho người mình thương mến, thì không phải lúc nào cũng dễ dàng! Đôi lúc, chúng ta cần rất nhiều thời gian để suy nghĩ và chuẩn bị món quà tâm đắc, với ước mong làm vui lòng người nhận.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi ý cho chúng ta một món quà đầy ý nghĩa và rất quý giá, mà ai trong chúng ta cũng có thể trao tặng cho người khác trong dịp mừng lễ Giáng sinh.
Thánh Luca kể rằng “bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Khi vừa nghe thấy tiếng Maria chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng…”
Món quà Đức Maria tặng cho bà Êlisabét là chính sự hiện diện của Con Thiên Chúa.
Mẹ đã đón nhận Ngài vào trong cung lòng và đem Ngài đến với bà Êlisabét. Món quà ấy đem lại niềm vui khôn tả cho bà chị họ và đứa con trong bụng là Gioan Tẩy Giả cũng nhảy lên vui sướng. Nếu chúng ta thực sự muốn mang lại niềm vui cho người khác vào dịp lễ Giáng sinh, chúng ta phải mang Chúa Kitô đến với họ. Ngài là món quà tuyệt vời nhất, mà chúng ta có thể tặng cho người mình yêu thương. Nhưng, làm thế nào mà chúng ta có thể trao tặng món quà ấy?
Chắc chắn không ai trong chúng ta có thể đem Chúa Giêsu đến với người khác như cách của Đức Maria. Ở trên trần gian này chỉ có mình Mẹ là người duy nhất được diễm phúc cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng. Tuy nhiên, mỗi người vẫn có thể coi sứ mệnh này là trung tâm trong cuộc sống của mình. Bằng cách, chúng ta hãy để cho Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn. Rồi sau đó, hãy mang Đấng ngự trong chúng ta đến với người khác. Đây chắc chắn là món quà quý giá và là hành động bác ái vĩ đại nhất, mà chúng ta có thể trao tặng cho người khác.
Sau khi nhận được món quà từ Thiên Chúa, Mẹ Maria đã vội vã lên đường và trao ban món quà ấy cho người khác. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên là người trao quà – đem Chúa đến với người khác. Hãy tự hỏi chính mình: Trong các cuộc gặp gỡ, người khác có cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi không? Người khác có cảm nhận được niềm vui mừng và bình an, vì có Chúa ở trong tôi không? Cho dù phản ứng của người xung quanh có như thế nào, bạn vẫn hãy quyết tâm thực hiện sứ mệnh: đem Chúa đến với người khác. Đây thực sự là món quà bác ái nhất, mà bạn có thể trao tặng cho người mà mình gặp gỡ trong mùa Giáng sinh.
Lần này, vì là một Năm Thánh thường lệ chứ không phải ngoại thường, cùng với Cửa Thánh của Đền thờ Thánh Phêrô và ba Đền thờ khác ở Rôma, Đức Thánh Cha sẽ mở một cánh cửa khác, cửa nhà tù, một nơi mà chính vì không thể bước qua về mặt thể lý gợi lên một cách mạnh mẽ nhu cầu tự do.
Theo thực hành toàn xá của Do Thái, những lời của ngôn sứ Isaia, được Chúa Giêsu đề cập đến chính Người trong diễn từ khai mạc sứ vụ Mêsia trong hội đường Nazareth: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18). Với cử chỉ này và từ cánh cửa đó, Đức Thánh Cha và toàn thể Giáo hội không chỉ bước vào một không gian được nhìn nhận là thánh thiêng, nhưng còn là một thời gian thánh, một “năm ân sủng”.
Thánh hóa thời gian
Năm Thánh là một trong nhiều di sản mà Kitô giáo có được nhờ Do Thái giáo, đặc biệt tầm nhìn vĩ đại về thánh hóa thời gian. Đối với con người, thời gian cùng với không gian tượng trưng cho hoàn cảnh quan trọng một cách tuyệt hảo. Tuy nhiên, thời gian cũng làm cho con người khó chịu, bởi làm cho sự sống hao mòn và cái chết đến gần hơn. Với việc “phát minh” sabát, nghĩa là phân biệt giữa thời gian dành cho công việc của con người và thời gian dành cho Thiên Chúa, Israel thực hiện một hoạt động mang tính quyết định: con người không bị thời gian thống trị, nhưng chính họ thống trị thời gian khi nhận ra rằng Thiên Chúa là chủ thời gian bởi vì Người đã in sâu vào công trình sáng tạo của Người luật đan xen giữa hoạt động và nghỉ ngơi. Nói tóm lại, có một người mạnh mẽ hơn thời gian và là người duy nhất có thể “chuộc lại” thời gian bởi vì với món quà sự sống bất tử, người ấy đã loại bỏ được “nọc độc” của nó khỏi cái chết, như Thánh Phaolô viết cho các Kitô hữu ở Côrintô (1Cr 15,55).
Ngày thứ bảy, ngày sabát, ngày nghỉ, cũng như năm sabát diễn ra bảy năm một lần, thánh hóa ngày, tuần và tháng, và sau đó, việc thiết lập năm toàn xá đã củng cố hơn nữa mô hình sabát bằng cách gắn chặt nó với một một khoảng thời gian dài hơn: “đất phải nghỉ một sabát kính Đức Chúa. Trong sáu năm, các ngươi sẽ gieo vãi trong cánh đồng của các ngươi, trong sáu năm, các ngươi sẽ tỉa vườn nho của các ngươi, và các ngươi sẽ thu hoa lợi. Nhưng năm thứ bảy sẽ là một sabát, một thời kỳ đất nghỉ, một sabát kính Đức Chúa […] Các ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần năm đó là bốn mươi chín năm. Tháng thứ bảy, ngày mồng mười trong tháng, các ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò ; vào ngày Xá tội, các ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi. Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó […]. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi (Lv 25, 1-12). Tóm lại, trong năm toàn xá, tất cả phải trở về cội nguồn, nghĩa là được trả về trong tay Thiên Chúa: đất đai nghỉ ngơi, nợ nần được tha và nô lệ được trả tự do và thời gian của lịch sử được thánh hóa.
Liệu Israel cổ xưa có tôn trọng quy định này hay không, hay liệu quy định chỉ đại diện cho ý tưởng của một mô hình xã hội, là chủ đề thảo luận giữa các học giả. Tuy nhiên, thực tế là Kitô giáo thời trung cổ và sau đó là Công giáo Roma đã đảm nhận quy tắc của Năm Thánh sau khi tâm linh hóa các đường nét của quy tắc này: việc tha thứ hậu quả của tội lỗi thay thế cho việc hoàn trả đất và lịch sử cho Thiên Chúa và do đó vai trò trung gian thiết yếu của Giáo hội nhằm đạt được ơn cứu độ đời đời, đã được khẳng định một cách mạnh mẽ. Như tác giả Thánh vịnh đã tiên báo, chính Thiên Chúa sẽ vượt qua những cánh cổng của thời gian để đến và cư trú trên trái đất: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào” (Tv 24.7) .
Tôi là cửa
Một thực tại, một ẩn dụ, một biểu tượng: cửa còn đề cập một cách mạnh mẽ hơn đến chiều kích quan trọng khác của Năm Thánh, đó là không gian để ở, có thể là nhà, thành phố, quốc gia hay cuộc sống. Không phải lúc nào chúng ta cũng nhận ra điều đó, nhưng hàng ngày chúng ta liên tục đi qua những cánh cửa, chúng ta mở và đóng cửa. Đó là những lính canh đảm bảo tính đa dạng của không gian và xác định các địa điểm, thiết lập bản đồ hành trình của chúng ta.
Dù to lớn hay nhẹ nhàng, bằng vàng của Điện Kremlin hay bằng vải của cửa lều trại tị nạn, những cánh cửa cũng là một ẩn dụ quan trọng về cuộc sống và tính hai mặt năng động của nó, bởi vì cửa đề cập đến những hành động quan trọng mà chất lượng thời gian và không gian mà nó diễn ra phụ thuộc: vào-ra hoặc mở-đóng hoặc đón tiếp-xua đuổi. Cuối cùng, vì lý do này, cửa có thể mang phẩm chất của một biểu tượng ngay cả trong bối cảnh tôn giáo, như được thể hiện qua tầm quan trọng của nó trong một trong những thời điểm mạnh mẽ đời sống của Giáo hội Công giáo, đó là Năm Thánh.
Việc khám phá ý nghĩa biểu tượng của “cửa thánh” cũng có thể bắt đầu từ Kinh Thánh. Bởi vì, là cuốn sách vĩ đại về Thiên Chúa ở với con người, Kinh Thánh có rất nhiều cửa, dù đánh dấu ngưỡng cửa nhà hay ngưỡng cửa thành phố, đều đề cập đến những nội dung thần học rõ ràng. Ở đây chúng ta chỉ có thể nhắc lại hai sự kiện từ Cựu Ước và một từ Tân Ước, những điều giúp chúng ta xác định những ý nghĩa thần học có thể có của cửa Năm Thánh.
Sau giấc mơ về chiếc thang ở trên mặt đất nhưng phần phía trên chạm tới trời và trên đó các thiên thần của Chúa lên xuống, tổ phụ Giacóp nhận ra rằng nơi mà ông được trải nghiệm về Chúa phải được thánh hiến, do đó biến đổi ý nghĩa thông thường của nó, trở thành một nơi hiện diện của Thiên Chúa, nghĩa là một nơi mà từ đó người ta có thể lên tới Trời Cao: “Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác” (St 28,17). Cửa nhà Chúa cho phép bước vào một không gian “khác”, nơi Chúa hiện diện, nơi những suy nghĩ trở thành “những thị kiến” tiết lộ ý nghĩa của những gì chúng ta đang sống. Như vậy, một cách ẩn dụ, sinh và tử là những cánh cửa từ đó con người bước vào cuộc sống và từ đó con người ra đi, và đối với Kinh Thánh, những cửa này được canh giữ, nghĩa là, chúng không xác định một cách máy móc lối đi giữa trước và sau, nhưng như Thánh vịnh gia, Thiên Chúa, đấng bảo vệ sự sống, “sẽ gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121,8).
Tuy nhiên, cửa cũng canh giữ lối đi giữa bên trong và bên ngoài, giữa nhu cầu thuộc về để cảm thấy được bảo vệ và nhu cầu tự do để kín múc sức sống. Vì lý do này, cách diễn đạt mang tính thần học sâu sắc nhất về trách nhiệm tượng trưng của cửa là điều mang tầm quan trọng về mặt Kitô học khi Chúa Giêsu đồng nhất cửa với chính Người.
Trong đoạn Tin Mừng Gioan, vừa gợi cảm xúc nhưng vừa phức tạp, Chúa Giêsu trước tiên tự nhận mình là mục tử đích thực của đàn chiên, bởi vì không như những nhà lãnh đạo dân là sói đội lốt mục tử, Chúa Giêsu là người duy nhất có thể đi vào chuồng chiên qua cửa, nhưng rồi ngay sau đó, Người tự nhận là cửa chuồng chiên: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ” (Ga 10,7). Như mọi khi, Chúa Giêsu chỉ tiết lộ căn tính Mêsia của Người cho những ai có khả năng đi vào bên trong bức ảnh, để nắm bắt được sức mạnh biểu tượng và tiềm năng của nó để chuyển thành một sự hiện thực hóa trên thực tế: đi qua Người, đàn chiên sẽ có thể ra ngoài mà không sợ hãi để tận hưởng đồng cỏ. Và chính nhờ đi qua Cửa này mà đàn chiên sẽ có thể quay trở lại để được bảo vệ khỏi bầy sói.
Khi Đức Thánh Cha khai mạc Năm Thánh Ân Sủng bằng cách bước qua Cửa Thánh vào đêm Giáng sinh, ngài cũng sẽ yêu cầu Giáo hội trở về với Thiên Chúa bằng cách đi qua cánh cửa duy nhất dẫn đến ơn cứu độ, cánh cửa đó là sự mặc khải mà Người Con đã thực hiện về Chúa Cha “Tôi là cửa: Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9).
Đức Hồng y Tolentino tin rằng nghệ thuật có thể chữa lành mọi người, bao gồm cả tù nhân, và có thể giúp họ tìm ra con đường đúng đắn để tiến về phía trước.
“Io Contengo Moltitudini”
Khi Đức Thánh Cha mở Cửa Thánh và cử hành Thánh lễ tại nhà tù Rebibbia, ngài sẽ được ngắm tác phẩm có tên tiếng Ý “Io Contengo Moltitudini” (“Tôi bao gồm nhiều người”). Tác phẩm cao hơn khoảng 5,8 mét, được nghệ sĩ đương đại người Ý Marinella Senatore và khoảng 60 tù nhân nam nữ đang thụ án tại Rebibbia thực hiện.
Tác phẩm giống như chiếc đèn theo phong cách baroque. Trên những tia sáng phát ra từ tác phẩm có viết những câu nói về hy vọng bằng nhiều ngôn ngữ và phương ngữ khác nhau.
Tác phẩm được trưng bày tại sân trước nhà thờ và gần nơi tù nhân gặp gỡ gia đình, từ ngày 21/12 đến giữa tháng 2 và sau đó sẽ được trưng bày tại đường Hòa giải để các du khách và tín hữu hành hương Roma trong Năm Thánh có thể chiêm ngắm.
Các dự án nghệ thuật khác tại các nhà tù
Hợp tác với các ban Năm Thánh dành cho Nghệ sĩ từ ngày 15 đến 18/2/2025, Bộ Văn hóa và Giáo dục của Tòa Thánh cũng đang yêu cầu các nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm trưng bày tại các nhà tù khác ở Ý và trên khắp thế giới.
Dự án đầu tiên, không được Đức Hồng y Tolentino cung cấp nhiều thông tin chi tiết, sẽ được thực hiện tại nhà tù Regina Coeli của Roma, cách Vatican chưa đầy 2 km. Bà Cristiana Perrella, người phụ trách dự án cho biết, nghệ sĩ người Trung Quốc Yan Pei-Ming đã dành hai ngày để thăm các tù nhân và nhân viên.
Đức Hồng y Tolentino cho biết các tác phẩm sẽ được đặt bên ngoài nhà tù để không chỉ tù nhân và nhân viên mà cả công chúng có thể nhìn thấy. Ngài nói: “Mục tiêu là khuyến khích và hỗ trợ các trải nghiệm giúp những người bị giam giữ sống thời gian trong tù như một sự phục hồi, một sự chuẩn bị để trở về với xã hội. Đồng thời, và cũng cấp bách không kém, mục tiêu là hoán cải quan điểm tâm linh và văn hóa, trái tim và suy nghĩ của xã hội về nhà tù để mọi người coi đó là nơi phục hồi chứ không chỉ là nơi trừng phạt”.
Trong thời gian qua, ngài có nhiều vấn đề sức khỏe, đi đứng khó khăn, nhưng lịch làm việc năm 2025 của ngài rất bận rộn: ngày 24 tháng 12, ngài khai mạc “Năm Thánh 2025”, dự kiến sẽ có 30 triệu du khách về Rôma trong sự kiện lớn lao này. Ngoài ra ngài còn có nhiều buổi tiếp kiến, cử hành các thánh lễ; một thách thức lớn với Giáo hoàng lớn tuổi.
Dậy sớm với lịch làm việc dày đặc
Ngày 6 tháng 12, khi ngủ dậy ngài bị té nhẹ trên bàn cạnh giường ngủ và cằm bị bầm. Từ hai năm rưỡi nay ngài phải ngồi xe lăn vì đau đầu gối. Ngài bị cảm lạnh nặng nhiều lần. Tháng 6 năm 2023, ngài phải phẫu thuật bụng.
Bất chấp tuổi tác và vấn đề sức khỏe, ngài vẫn giữ một lịch trình làm việc chặt chẽ. Đầu tháng 9, ngài đi Châu Á và Châu Đại Dương hai tuần, chuyến đi dài nhất triều của ngài. Sau đó ngài đi Luxembourg và Bỉ 4 ngày, ngài phải đối diện với vấn đề lạm dụng ở đây, cuối tuần trước ngày 15 tháng 12 ngài đi đảo Corsica của Pháp.
Năm 2025, Đức Phanxicô sẽ đi Thổ Nhĩ Kỳ để dự kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicaea. Ngài đang tiến hành kế hoạch cải tổ Giáo hội Công giáo, được khởi xướng trong Thượng hội đồng thế giới kết thúc vào tháng 10 vừa qua.
Ngài sinh ngày 17 tháng 12 năm 1936 tại Buenos Aires, tu sĩ Dòng Tên lãnh đạo tổng giáo phận thủ đô Argentina từ năm 1998 đến năm 2013. Ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài được bầu Giáo hoàng, kế vị Đức Bênêđíctô XVI từ chức.
Người Argentina, gia đình ngài di cư từ Ý đến Nam Mỹ, ngài có phong cách lãnh đạo riêng, có lòng từ thiện và khiếu hài hước nổi tiếng. Trong một tiếp kiến gần đây với các thành viên của Hiệp hội Xe mô tô Ý, ngài xin họ cầu nguyện “vì công việc của tôi tăng tốc độ quá nhanh – chiếc xe của tôi đã cũ, không còn chạy tốt nữa”. Về vết bầm tím trên mặt, ngài nói đùa một linh mục đã đấm vào hàm vì ngài không phong hồng y cho ông!
Tính đến tháng 10 năm 2024, Đức Phanxicô là Giáo hoàng tại vị lâu thứ hai từ trước đến nay – ít nhất là trong số những giáo hoàng có ngày sinh chắc chắn! Chỉ có Đức Lêô XIII là lớn tuổi hơn. Đức Lêô Vincenzo Gioacchino Pecci qua đời ngày 20 tháng 7 năm 1903, thọ 34.108 ngày (93 tuổi). Để bắt kịp, Đức Phanxicô phải lãnh đạo Giáo hội cho đến ngày 7 tháng 5 năm 2030. Chiếc bánh sinh nhật sau đó sẽ được thổi với 93 ngọn nến!
Ở tuổi 88, với sức khỏe hạn chế, đầu tháng 9 ngài đã có chuyến đi xa đến Châu Á và Châu Đại Dương, thăm Indonesia, Papua Tân Ghinê, Đông Timor và Singapore. Tổng cộng, ngài đi 44 giờ bay với chặng đường dài 32.000 km. Một chuyến đi chứng tỏ ước muốn của ngài đi đến các vùng ngoại vi để phát triển Giáo hội và làm chứng cho Chúa Kitô. Và thật ngạc nhiên, có vẻ như ngài trẻ lại sau chuyến đi dài ngày này!
Nhưng năm 2023 là năm ngài gặp các khó khăn sức khỏe, hai lần phải vào bệnh viện, một lần vào tháng 3 vì sưng phổi, một lần tháng 6 để mỗ thoái vị. Tháng 12, ngài giảm lịch làm việc vì bị sưng phổi. Vì sức khỏe yếu nên có nhiều tin đồn ngài sẽ từ nhiệm. Nhưng bây giờ các tin đồn đã lắng xuống dù ngài đã chuẩn bị nơi an nghỉ cuối cùng và xem lại nghi thức tang lễ của Giáo hoàng vào tháng 11 năm 2024, không còn ai nói về việc ngài sẽ rời ngai tòa Thánh Phêrô.
Giáo hoàng lớn tuổi thứ hai
Đức Phanxicô 88 tuổi, từ năm 1870 đến nay, ngài là giáo hoàng lớn tuổi thứ hai trong lịch sử đương đại. Giáo hoàng Lêô XIII là giáo hoàng lớn tuổi nhất, Đức Lêô qua đời khi 93 tuổi, triều của ngài kéo dài từ ngày 20 tháng 2 năm 1878 đến ngày 20 tháng 7 năm 1903. Ngài giữ kỷ lục về số lượng thông điệp công bố: 86 trong 25 năm triều của ngài.
Sáng kiến cầu nguyện cho Đức Thánh Cha
Nhóm trẻ của Phong trào Công nhân Kitô giáo thường có mặt vào thứ Ba hàng tuần tại khu vực Đền thờ Thánh Phêrô để hỗ trợ những người vô gia cư. Họ cũng có mặt tại những nơi ở thủ đô có nhiều người vô gia cư sinh sống.
Họ có hai mục tiêu: tạo ra những bản thông tin thực tế về mỗi người họ gặp để hiểu vấn đề, sức khỏe và trạng thái tâm lý, đồng thời hiểu cách can thiệp bằng việc giúp đỡ vật chất, từ chăn màn đến thức ăn.
Giancarlo Moretti, chủ tịch của Phong trào Công nhân Kitô giáo ở Roma giải thích về sáng kiến cầu nguyện: “Chúng tôi đã cùng với những người trẻ của mình nghĩ đến việc có một thời điểm cầu nguyện cho Đức Thánh Cha nhân ngày sinh nhật của ngài, cùng với nhiều người sống trên đường phố và những người chúng tôi gặp gỡ như một phần của sáng kiến ‘Tin Mừng trên đường phố, Phong trào Công nhân Kitô giáo bên cạnh những người vô gia cư’”.
Francesco Spizzirri, người phụ trách nhóm trẻ của Phong trào Công nhân Kitô giáo ở Roma giải thích thêm: “Trong những tuần gần đây chúng tôi đã thiết lập mối quan hệ với những người này dựa trên sự lắng nghe, đối thoại và thảo luận. Một phương pháp hiệu quả để hiểu nhu cầu thực sự của họ”.
Đức Thánh Cha cần những lời cầu nguyện
Đức Thánh Cha sinh ngày 17/12/1936. Từ tháng 10 vừa qua ngài đã trở thành vị Giáo hoàng đương nhiệm cao tuổi thứ hai trong lịch sử Giáo hội, chỉ sau Đức Leo XIII, người qua đời ở tuổi 93. Ngài có những vấn đề về sức khỏe như đau đầu gối, điều khiến ngài phải dùng xe lăn từ hơn 2 năm qua; hay việc ngài chỉ còn một lá phổ cũng khiến ngài phải chịu đựng những cơn cảm lạnh nghiêm trọng. Vào tháng 6/2023 ngài đã trải qua cuộc phẫu thuật bụng.
Mặc dù tuổi cao và gặp các vấn đề về sức khỏe, Đức Thánh Cha vẫn có lịch trình làm việc rất dày đặc với các Thánh lễ, các cuộc tiếp kiến, nhất là những chuyến tông du nước ngoài dài ngày. Bước vào Năm Thánh 2025 với Thánh lễ khai mạc vào tối ngày 24/12 tới đây tại Vatican, Đức Thánh Cha sẽ có rất nhiều hoạt động, những việc sẽ thách đố sức khỏe của ngài. Do đó, Đức Thánh Cha rất cần sự hỗ trợ của mọi người, đặc biệt bằng những lời cầu nguyện.
Đây là tự truyện đầu tiên được thực hiện bởi một Giáo hoàng trong lịch sử. Ban đầu, Đức Thánh Cha chỉ muốn xuất bản tự truyện sau khi ngài qua đời. Nhưng do Năm Thánh Hy vọng được công bố vào năm 2025 và nhu cầu của thời đại, ngài đã quyết định để lại di sản quý giá này ngay bây giờ.
Những cảnh báo mất an ninh
Suy tư về chuyến tông du Iraq từ ngày 5 đến 8/3/2021, Đức Thánh Cha cho biết hầu hết mọi người đều khuyên ngài không nên thực hiện chuyến thăm Iraq, “chuyến thăm đầu tiên của một vị Giáo hoàng đến khu vực Trung Đông bị tàn phá bởi bạo lực cực đoan và sự báng bổ của những lực lượng thánh chiến”. Khi đó đại dịch Covid-19 vẫn còn, và trên hết là các nguồn tin an ninh cho thấy độ rủi ro rất cao của chuyến viếng thăm. Thậm chí, vào đêm trước ngày ngài khởi hành, đã xảy ra các cuộc tấn công đẫm máu.
Phải thăm Iraq
Nhưng Đức Thánh Cha viết trong tự truyện: “Nhưng tôi muốn đi hết chặng đường. Tôi cảm thấy mình phải đi. Tôi đã nói, một cách thân mật, rằng tôi cảm thấy cần phải đến thăm người ông Abraham của chúng ta, tổ phụ chung của người Do Thái, Kitô hữu và người Hồi giáo”. “Nếu ngôi nhà của ông bị cháy, nếu con cháu của ông liều mạng sống hoặc mất mạng sống ở đất nước của ông, điều [tốt nhất] cần làm là đến nhà càng sớm càng tốt”. Ngài nhắc lại rằng Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã muốn đến Iraq để khai mạc Năm Thánh 2000, nhưng tổng thống Saddam Hussein đã không cho phép. Vì vậy, Đức Thánh Cha nói, “chúng ta không thể làm mọi người thất vọng lần thứ hai”.
Hai vụ mưu sát
Đức Thánh Cha nhớ lại: “Ngay khi chúng tôi hạ cánh xuống Baghdad vào ngày hôm trước. Cảnh sát [Iraq] đã báo động cho Hiến binh Vatican về một báo cáo từ các cơ quan tình báo Anh: một người phụ nữ mang đầy thuốc nổ, một kẻ đánh bom liều chết trẻ tuổi đang hướng đến Mosul để tự kích nổ trong chuyến thăm của Giáo hoàng. Và một chiếc xe tải cũng đã chạy đến với tốc độ tối đa với cùng mục đích đó”. Nhưng “chuyến viếng thăm đã tiếp tục”.
Cả hai kẻ tấn công đều bị cảnh sát Iraq chặn lại và tiêu diệt. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “Điều này khiến tôi vô cùng xúc động. Đó cũng là một kết quả bị nhiễm độc của chiến tranh”.
Cuộc gặp gỡ với Đại giáo chủ Ali al-Sistani
Tuy nhiên, trong tất cả sự thù hận này, Đức Thánh Cha đã tìm thấy tia hy vọng trong cuộc gặp ngày 6/3/2021 với Đại giáo chủ Ali al-Sistani tại Najaf, một cuộc gặp gỡ mà “Tòa thánh đã chuẩn bị trong nhiều thập kỷ”.
Được tổ chức trong tinh thần huynh đệ tại nhà của Đại giáo chủ al-Sistani, Đức Thánh Cha giải thích rằng đây là “một cử chỉ hùng hồn ở phương Đông, thậm chí còn hơn cả những tuyên bố hay văn bản, vì nó biểu thị tình bạn và sự gắn bó với cùng một gia đình. Điều đó làm tâm hồn tôi cảm thấy tốt đẹp và khiến tôi cảm thấy vinh dự”.
Ngỏ lời trong dịp này, Đức Thánh cha nói: “Anh chị em thân mến, tôi vui mừng tiếp đón anh chị em trong cuộc hành hương tại Roma, diễn ra vài ngày trước khi mở Cửa Thánh, đánh dấu khởi đầu Năm Thánh. Tôi cầu mong rằng thời điểm này giúp tất cả các tín hữu sống một cuộc gặp gỡ chân thực và đích thân với Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà chúng ta luôn luôn phải loan báo ở mọi nơi và cho tất cả mọi người, như niềm hy vọng của chúng ta (Xc. Spes non confundit, 1). Sự dấn thân của anh chị em trong việc hỗ trợ các hoạt động truyền giáo và bác ái của Giáo hội hoàn vũ là một biểu hiện cụ thể về việc loan báo này và sẽ góp phần mang hy vọng nảy sinh từ Tin mừng cho nhiều anh chị em chúng ta, ở các nơi trên thế giới.”
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Ngay từ thời các tông đồ, các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô vẫn nâng đỡ nhau với tài nguyên của mình (Xc 2 Cr 8,1-15). Tình liên đới của anh chị em với người nghèo và những người sống ngoài lề xã hội đáp ứng mệnh lệnh của Chúa: hãy chăm sóc những người rốt cùng trong chúng ta; và như thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta, điều quan trọng là sự trợ giúp này được trao ban với tâm hồn vui tươi (Xc 2 Cr 9,7). Xin Chúa ban cho anh chị em luôn trao tặng sự làm phúc của anh chị em trong tinh thần vui tươi, và những hy sinh của anh chị em mang lại hoa trái trong đời sống của anh chị em, như thế họ có thể cảm nghiệm tình thương dịu dàng và cảm thương của Chúa Kitô.”
Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng: “Một nét nổi bật của nhiều tín hữu Công giáo di cư từ Việt Nam sang Mỹ, là đức tin vững mạnh mà họ mang theo mình. Tôi chắc chắn rằng đức tin ấy soi sáng ước muốn của anh chị em, giúp đỡ các cộng đoàn Kitô ở những nơi ở xa cộng đoàn của anh chị em.”
“Với những tâm tình này, tôi cầu chúc anh chị em một cuộc viếng thăm Roma được nhiều thành quả, từ gần hai ngàn năm nay Roma vẫn đón tiếp các tín hữu đến viếng mộ các tông đồ và các nơi thánh khác. Ước gì chuyến đi này canh tân trong đức tin và củng cố anh chị em trong đức bác ái. Tôi thành tâm chúc lành cho anh chị em cùng với gia đình và xin anh chị em vui lòng đừng quên tôi trong kinh nguyện”.
Bethlehem cũng như phần còn lại trên toàn lãnh thổ của người Palestine tiếp tục ở trong tình trạng u buồn vì chiến tranh tại Gaza. Hiện nay, không có những cây thông Giáng sinh được trang trí, không có những tiếng đàn ca và tiếng hát, cũng như không có các hang đá, vốn được bố trí tại Quảng trường Máng Cỏ để chào mừng các du khách. Quảng trường này ở giữa Văn phòng của Thị trưởng và Nhà thờ Giáng sinh ngày nay đầy những xe taxi chờ đợi khách nhưng không có ai.
Năm nay, các vị lãnh đạo Giáo hội phần lớn muốn theo đường hướng của thành phố và quốc gia: đó là không có những “hoành tráng” bề ngoài, đàn ca tiếng hát hoặc những buổi lễ long trọng công cộng. Các tín hữu được khuyến khích mừng lễ Chúa Giáng sinh trong khuôn khổ thánh đường. Tuy nhiên, các vị chống lại cảm tưởng các tín hữu Kitô muốn hủy bỏ lễ Giáng sinh. Cha sở địa phương Rami Askarieh nói với phái viên hãng tin Công giáo Đức KNA rằng: “Chúng tôi đang cử hành đại lễ của Vua Hòa bình, vốn là đại lễ hy vọng của mọi người”. Tại Bethlehem, các tín hữu Kitô vẫn còn chiếm một phần ba dân số, mặc dù con số này đã giảm sút. Họ chịu đau khổ nhiều vì hậu quả của chiến tranh và khủng hoảng trong vùng.
Từ sau cuộc tấn công khủng bố, hôm mùng 07 tháng Mười năm 2023 của Hamas, Israel đã phong tỏa miền Cisjordani của người Palestine. Điều này có nghĩa là phần lớn những người Palestine thường tới Jerusalem để làm việc hằng ngày, nay trở thành những người thất nghiệp và không còn lợi tức nữa. Thêm vào đó, vì hầu như không còn du khách và tín hữu hành hương, hậu quả của tình trạng thiếu an ninh, nên ngành du lịch, vốn chiếm 60% kinh tế của thành Bethlehem, nay bị sụp đổ và tạo nên hậu quả thê thảm, đặc biệt là các tín hữu Kitô, vì 90% trong số họ đều hoạt động trong lãnh vực này.
Sự sụp đổ kinh tế vừa nói, người ta thấy rõ tại thành Bethlehem, nơi Chúa Giêsu sinh ra: các khách sạn đóng cửa, nhiều quán ăn không thể mở cửa hoặc chỉ mở vài giờ. Quảng trường trước Nhà thờ Giáng sinh, vốn có từ 1.500 năm nay trở nên trống vắng, khác với trước được đông đảo các tín hữu hành hương. Chỉ có hai nhân viên cảnh sát đợi ở cửa ra vào, vài du khách xuống hang đá, nơi Chúa Cứu Thế sinh ra, khác hẳn với trước kia tín hữu thường phải chờ đợi cả tiếng đồng hồ mới đến lượt mình được vào đó để kính viếng.
Chiến đấu cho hy vọng
Chung quanh thánh đường, hầu hết các cửa tiệm bán đồ thủ công, đồ kỷ niệm, các ảnh tượng Giáng sinh, nay đều đóng cửa. Những người làm đồ thủ công thất nghiệp vì không có khách hàng. Một người chủ tiệm, ông Rony ở đầu đường, đang cố gắng tìm cách bán các đồ kỷ niệm này ra nước ngoài, ông nhất định không muốn từ bỏ hy vọng.
Nữ tu Aleya thuộc Bệnh viện Nhi đồng của Caritas ở mạn bắc thành Bethlehem cũng cố gắng để gìn giữ hy vọng, bên cạnh bức tường cao tám mét cũng là biên giới với Israel. Bệnh viện này mỗi năm chữa trị khoảng 50.000 trẻ em Palestine và là nhà thương chuyên môn duy nhất trên lãnh thổ của Palestine, không những với chất lượng y tế cao độ. Điều thiết yếu là chăm sóc cho các bệnh nhân cả về mặt nhân đạo: các em bệnh nhân và thân nhân thường phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu trạm kiểm soát của Israel mới đến được nhà thương nhi đồng này, và hầu hết họ là người Hồi giáo.
Chiến tranh trở thành tập quán
Hãng tin Công giáo Đức cũng nhận định rằng dân chúng trở nên quen thuộc với chiến tranh và nhiều người nản chí trước những khó khăn, theo nhận xét của một Bề trên một hội dòng người Ấn Độ. Cha nói: “Chúng tôi cố gắng mang lại hy vọng phần nào qua sự săn sóc và qua đó cũng bày tỏ tình thương của Chúa”. Trên nguyên tắc, thành Bethlehem phải đương đầu với tình trạng bấp bênh giống như cách đây 2.000 năm, khi Chúa Giêsu sinh ra trong chuồng súc vật.”
Thánh lễ Giáng sinh, ngày 24 tháng Mười Hai, theo niên lịch Latinh, được cử hành theo những quy luật nghiêm ngặt. Chiều hôm đó, Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa đến Bethlehem và đi rước theo Con đường Ngôi Sao đến Nhà thờ Giáng sinh. Đi trong đoàn rước, có các nhóm hướng đạo sinh. Năm nay, không có kèn trống và ca đoàn. Đức Thượng phụ chào thăm ông Thị trưởng và các chức sắc của Giáo hội tại Quảng trường Máng Cỏ, trước khi tiến vào Nhà thờ Giáng sinh.
Năm nay, không có vé được phát cho lễ đêm Giáng sinh tại nhà thờ thánh nữ Catarina, trái ngược với những năm trước đây. Tín hữu nào cũng có thể đến dự lễ, đặc biệt là các tín hữu ở địa phương, nhưng cũng có các công nhân viên nước ngoài cũng như các nhà ngoại giao hoạt động ở vùng Tel Aviv. Hàng ghế đầu trong thánh đường được dành cho chính quyền Palestine. Người ta không rõ Tổng thống Mahmoud Abbas có đích thân dự lễ năm nay hay không, điều chắc chắn là ông không cần vé.
Bia ghi ơn này được đặt tại hoa viên Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, ngay cạnh tượng đài Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, nơi các nhà thừa sai được sai đi. Việc đặt tấm bia này mang nhiều ý nghĩa. Đây là tâm tình tri ân của Hội Đồng Giám mục và của Giáo hội Công giáo Việt Nam đối với Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, đồng thời nhắc nhớ cho các thế hệ tương lai lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Qua tấm bia này, Giáo hội Việt Nam luôn hiện diện giữa trụ sở của Hội.
Hội Thừa sai Hải ngoại Paris là tổ chức được thiết lập để truyền giáo cho Việt Nam và vùng Viễn Đông năm 1663. Hội đã đóng góp khoảng 1000 nhà thừa sai làm việc trên cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam. Trong số này có 10 vị tử đạo đã được phong thánh ngày 19/6/1988. Cha Jean-Baptiste Etcharren là vị thừa sai cuối cùng hiện diện tại Việt Nam, mất ngày 21/9/2021 tại Tổng Giáo phận Huế.
Hiện nay, Hội Thừa sai Hải ngoại Paris vẫn tiếp tục giúp đỡ Giáo Hội Việt Nam qua việc đào tạo rất nhiều nhân sự cho hầu hết các giáo phận tại Việt Nam. Đây là nghĩa cử biểu lộ lòng biết ơn của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng như của con dân Công giáo đất Việt đối với công ơn của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris.
Theo trang web chính thức của Sotheby, tấm bia đá này được khắc, tại Thánh Địa vào cuối thời đế quốc Roma-Byzantine, cách đây khoảng 1.500 năm.
Giá khởi điểm của bia đá ước tính từ 1 triệu đến 2 triệu đô la, nhưng sau đó, trong thời gian đấu giá khoảng 10 phút, nó đã được bán với giá cao hơn nhiều so với giá khởi điểm.
Lịch sử tấm bia Mười Điều răn
Tấm bia đá bằng đá cẩm thạch trắng, nặng 52 kg và cao 60 cm. Theo nhà đấu giá Sotheby, bia đá này được phát hiện cách tình cờ vào năm 1913 trong quá trình xây dựng tuyến đường sắt ở bờ biển phía nam của Israel để tới Ai Cập. Việc phát hiện này không được chú ý trong nhiều thập kỷ và trong 30 năm, bia đá được dùng làm đá lát vỉa hè.
Mãi đến năm 1943, Jacob Kaplan, một nhà khảo cổ học nổi tiếng ở Tel Aviv mới có được tấm bia đá và nhận ra giá trị lịch sử của nó.
20 dòng văn bản trên bia đá dựa theo bản văn Kinh Thánh của Sách Xuất hành, nhưng điều răn “Ngươi không được kêu tên Chúa là Thiên Chúa của ngươi cách vô cớ” đã bị thiếu. Thay vào đó, một điều răn không có trong Kinh Thánh đã được thêm vào, cụ thể là thờ phượng Thiên Chúa tại Núi Gerizim, thánh địa trung tâm của người Samaria.
Theo Yitzhak Ben-Zvi, một nhà lịch sử và cũng là tổng thống thứ hai của Israel, Mười Điều Răn được chạm khắc tỉ mỉ trên 20 dòng bằng kiểu chữ Paleo-Hebrew, một lối viết tiếng Do Thái cổ, cho biết niên đại của tấm bia đá là từ thời Byzantine. Ông cho rằng nó được người Samaria ở Israelviết.
Trước khi được Sotheby đưa ra đấu giá, tấm bia đá Mười Điều Răn được một nhà sưu tầm đồ cổ người Israel sở hữu vào năm 1995 và sau đó được chuyển đến Bảo tàng Kinh Torah Sống ở Brooklyn, New York. Vào năm 2016, một nhà sưu tập và chủ sở hữu cuối cùng của nó, Mitchell S. Cappell, đã mua lại với giá 850 ngàn đô la.
Tháng 12, hãng Sotheby’s New York bán đấu giá hai chai rượu Willett bourbon có chữ ký của Đức Phanxicô, mỗi chai bán được 13.750 đô la. Số tiền thu được sẽ dành cho các tổ chức từ thiện.
Việc bán đấu giá các quà tặng của Đức Phanxicô thường rất thành công: Xe hơi, xe mô tô, đồng hồ, v.v. những vật dụng được những người yêu mến ngài sẵn sàng mở hầu bao.
Hai chai rượu whisky bourbon có chữ ký của ngài là những chai rượu đặc biệt. Chai đầu tiên kỷ niệm 10 năm ngài làm giáo hoàng, chai thứ hai kỷ niệm Năm Thánh 2025 sắp tới với chủ đề “Những người hành hương của niềm hy vọng”. Tiền bán được 27.500 đô la sẽ dành cho các tổ chức từ thiện.
Cha Jim Sichko, Nhà truyền giáo của Lòng Thương Xót nói lên lòng biết ơn: “Hai chai rượu này không chỉ là những chai rượu sưu tầm, nhưng còn là biểu tượng của niềm hy vọng và lòng trắc ẩn, những điều tốt lành cho thế giới.”
Ngỏ lời với phái đoàn, Đức Thánh Cha lưu ý rằng “Trong một thời gian dài, giữa các tín hữu Tin Lành Giám lý và tín hữu Công giáo chúng ta có sự xa lạ và nghi ngờ lẫn nhau. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể tạ ơn Chúa vì trong gần sáu mươi năm qua, chúng ta đã cùng nhau tiến bộ về kiến thức, sự hiểu biết và tình yêu mến lẫn nhau. Điều này giúp chúng ta đào sâu thêm sự hiệp thông giữa chúng ta”.
Thái độ hòa bình là nhiệm vụ của trái tim
Đức Thánh Cha cũng nhận xét rằng “Việc cởi mở với nhau đã đưa chúng ta đến gần nhau hơn, khiến chúng ta khám phá ra rằng thái độ hòa bình là nhiệm vụ của trái tim”. Ngài giải thích: “Khi Trái Tim Chúa Giêsu chạm đến trái tim chúng ta, Người biến đổi chúng ta. Đây là cách mà các cộng đồng của chúng ta có thể liên kết các trí tuệ và ý chí khác nhau của họ để được Thánh Thần hướng dẫn như anh chị em”. Theo ngài, cuộc hành trình này cần có thời gian, nhưng chúng ta phải tiếp tục con đường này, luôn hướng về Trái Tim Chúa Kitô, bởi vì chính từ Trái Tim đó mà chúng ta học cách có tương quan tốt với nhau và phục vụ Nước Thiên Chúa (xem Thông điệp Dilexit nos số 28).
Chứng tá sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới
Đức Thánh Cha nhắc rằng năm tới các Kitô hữu trên khắp thế giới sẽ kỷ niệm 1.700 năm kể từ Công đồng Đại kết đầu tiên, Công đồng Nixêa. Theo ngài, việc cử hành này nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta tuyên xưng cùng một đức tin và do đó, chúng ta có cùng trách nhiệm đưa ra những dấu hiệu hy vọng chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới”.
Nhắc lại Sắc chỉ Công bố Năm Thánh 2025 “Hy vọng không làm thất vọng”, Đức Thánh Cha mời gọi tất cả các Giáo hội và cộng đồng giáo hội tiến bước trên con đường hướng tới sự hiệp nhất hữu hình, không mệt mỏi tìm kiếm những hình thức thích hợp để thực hiện trọn vẹn lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho họ nên một” (Spes non confundir).
Cuối cùng, Đức Thánh Cha cảm ơn các mục sư và các nhà thần học đã phục vụ trong Ủy ban Hỗn hợp Đối thoại Quốc tế giữa Hội đồng Giám lý Thế giới và Giáo hội Công giáo, và khuyến khích các thành viên hiện tại tiếp tục sự dấn thân tương tự.
Các tín hữu Kitô tại Syria đang chuẩn bị cử hành lễ Giáng sinh, trong tâm tình vừa hy vọng vừa lo âu, sau những thay đổi chính trị tại nước này. Hôm 18 tháng Mười Hai vừa qua, Tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, có trụ sở ở Munich bên Đức, cho biết các nhà thương ở Syria hoạt động trở lại, vật giá ổn định sau những tăng giá ban đầu. Các sản phẩm nước ngoài, như từ Thổ Nhĩ Kỳ, thường rẻ hơn so với các sản phẩm địa phương. Tuy nhiên, tâm trạng ngờ vực vẫn còn trổi vượt nơi các tín hữu Kitô. Họ nói: “Sau bao nhiêu đau khổ và cơ cực, chúng tôi cảm thấy rất khó tín nhiệm nơi nhà cầm quyền mới”.
Theo nghiên cứu của Tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, từ khi thay đổi chế độ ở Syria, chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ có một sự bách hại có hệ thống hoặc kỳ thị các tín hữu Kitô. Nhưng cũng có tin về một vài vụ gây hấn. Từ thành phố Homs, có tin nói tình trạng yên hàn và các trường Công giáo cũng đã mở cửa lại.
Tuy nhiên, các tín hữu Kitô cũng lo âu quan sát diễn biến tình hình. Ví dụ, một nguồn tin ẩn danh nói rằng: “Khi có một hiến pháp mới dựa trên luật Sharia của Hồi giáo, thì chắc chắn các tín hữu Kitô sẽ phải rời bỏ đất nước này, vì tự do cá nhân của họ sẽ bị giới hạn”. Điều quan trọng là sự chú ý của quốc tế và hỗ trợ các nhóm thiểu số, như các Kitô hữu để Syria có một hiến pháp dân sự.
Tổng cộng, số chủng sinh của 69 giáo phận thuộc lãnh thổ và Tổng Giám mục Quân đội lên tới 1.036 so với 956 trong năm học 2023-2024 và 974 trong năm học 2022-2023.
Trong số 1.036 chủng sinh, 79% thuộc các chủng viện giáo phận (825 thầy), trong khi 211 thầy được đào tạo tại chủng viện Mẹ Đấng Cứu Chuộc của Con đường Tân Dự Tòng.
Theo dữ liệu do Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha cung cấp, tính thêm sinh viên từ các quốc gia khác đang được đào tạo ở Tây Ban Nha, tổng cộng có 1.239 sinh viên cho năm học 2024-2025.
Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha khẳng định có ba yếu tố giải thích sự thay đổi rõ ràng về xu hướng số chủng sinh ở Tây Ban Nha. Đầu tiên là sự hồi sinh của toàn thể hoạt động chăm sóc mục vụ của Giáo hội, và đặc biệt hơn là mục vụ giới trẻ và ơn gọi, sau khi đại dịch chấm dứt. Những thành quả mục vụ đầu tiên của những năm gần đây giờ đây đã bắt đầu được cảm nhận.
Thứ hai, các vị mục tử nhấn mạnh đến tác động của Ngày Giới trẻ Thế giới được tổ chức tại Lisbon vào năm 2023: “Những sự kiện đặc biệt của Giáo hội cũng có xu hướng đánh thức nơi một số thanh niên mối quan tâm về ơn gọi linh mục, mối quan tâm mà khi được đồng hành một cách thích hợp, có thể bao hàm việc gia nhập Đại chủng viện”.
Thứ ba, theo các Giám mục là yếu tố chính, đó là cần phải đọc một cách tin tưởng về thực tế, dựa trên sự chắc chắn rằng Thiên Chúa tiếp tục thực hiện lời hứa của Người là ban cho chúng ta những mục tử theo lòng Chúa mong muốn.
Các Giám mục nói thêm: “Giữa một xã hội mà chiều kích ơn gọi của con người đã bị đánh mất, mỗi chủng sinh trở thành một dấu lạ thực sự và là dấu chỉ sự can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử của chúng ta”.
Phúc trình thường niên lần thứ V của Bộ y tế Canada cho thấy, cứ hai mươi người chết tại Canada trong năm ngoái, thì có một người chết vì trợ tử.
Hơn một nửa số người được trợ tử có số tuổi trên 75, và bệnh ung thư thường là lý do thông thương nhất trong vấn đề này. Ngoài ra, có các bệnh khác, như tiểu đường, sức khỏe quá yếu ớt và đau đớn kinh niên.
Bộ trưởng y tế Canada, ông Mark Holland, bày tỏ hài lòng trong việc công bố thống kê, vì theo ông, nó cho thấy một cái nhìn bao quát về vấn đề trợ giúp y tế cho những người gần chết tại đất nước này. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, ví dụ hồi tháng Mười Một vừa qua, cũng có những tố giác hàng trăm vụ vi phạm luật quốc gia về an tử. Tình trạng này xảy ra từ lâu nhưng không có vụ nào được trình báo với nhà chức trách an ninh.
Trong khi đó, những người ủng hộ trợ tử thì thúc đẩy chính phủ nới rộng luật an tử dành cho những người bị bệnh tâm trí, tuy rằng hồi đầu năm nay chính phủ tạm ngưng để hệ thống y tế quốc gia “có thời gian nhiều hơn” để chuẩn bị cho việc nới rộng này.
Tổng thống Zelensky của Ucraina đã tuyên bố như trên với đài truyền hình CBN News của Mỹ, truyền đi hôm 12 tháng Mười Hai vừa qua. Ông nói: “Quân Nga đối xử với các thánh đường ở Ucraina hơn kém giống như một trường học, nghĩa là mỗi khi vào lãnh thổ chúng tôi, họ phá hủy các trường học và nhà thờ, và cũng nhắm không để lại dấu vết gì, khi họ rời khỏi nơi đó. Đó là lý do tại sao nhiều linh mục bị bắt cóc hoặc bị giết. Năm mươi linh mục bị họ giết bằng nhiều cách khác nhau. Có nhiều bằng chứng cho thấy các linh mục đó đã bị tra tấn. Họ tra tấn để làm gì? Thưa, chỉ vì họ phải phục vụ Thượng phụ Kirill của Nga và Giáo hội Chính thống Nga, và đó là một giáo sĩ phục vụ hai chủ: nhân dân và Thiên Chúa”.
Tổng thống Zelensky cũng nêu lên câu hỏi: Tại sao quân Nga làm hư hại hoặc phá hủy 2.109 cơ sở văn hóa, bằng bom và tên lửa. Và bất cứ khi nào họ vào lãnh thổ đất nước chúng tôi, thì họ nổi lửa thiêu hủy các cơ sở đó?”
Theo thống kê của Bộ văn hóa và thông tin thì chiến thuật của Ucraina, tính đến ngày 25 tháng Mười năm nay, có 2.109 cơ cấu hạ tầng văn hóa của Ucraina bị thiệt hại hoặc phá hủy do các cuộc tấn công ồ ạt của Nga.
Mặt khác, cũng liên quan đến Ucraina, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến Đức Tổng giám mục Epiphanius, Thủ lãnh của Giáo hội Chính thống Ucraina. Đại sứ Ucraina cạnh Tòa Thánh, ông Andrij Jurash đã thông báo tin này trên trang mạng X, hôm thứ Sáu, ngày 13 tháng Mười Hai vừa qua, và gọi đó là một cuộc gặp gỡ rất tốt đẹp. Kèm theo đó là hình chụp Đức Giáo hoàng với Đức Tổng giám mục Epiphanius.
Đức Tổng giám mục năm nay 45 tuổi, thủ lãnh của Giáo hội Chính thống Ucraina, từ tháng Mười Hai năm 2018 sau khi nhận được Tomos, tức là sắc lệnh của Đức Thượng phụ Bartolomaios I, Giáo chủ danh dự chung của Chính thống giáo, công nhận sự độc lập của Giáo hội Chính thống Ucraina, đối với Giáo hội Chính thống Mascơva.
Phía Tòa Thánh cho biết, cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh cha và Đức Tổng giám mục Epiphanius là một cuộc gặp gỡ riêng tư, giống như hồi năm 2023.
Chính phủ Ucraina ủng hộ Giáo hội Chính thống Ucraina và cấm Chính thống Nga không được hoạt động. Cuộc thăm dò mới đây cho biết nhiều tín hữu Chính thống Ucraina trước đây thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva nay đã chuyển sang Giáo hội Chính thống Ucraina.
Hãng tin Công giáo Á châu Ucan, truyền đi ngày 19 tháng Mười Hai vừa qua, cho biết từ tháng Giêng đến tháng Chín năm nay, các tín hữu Kitô Ấn Độ đã phải chịu 585 vụ tấn công, theo báo cáo của Diễn đàn Kitô thống nhất, gọi tắt là UCF, một tổ chức chuyên theo dõi và lập hồ sơ về những vụ bạo hành chống Kitô hữu.
Sự đố kỵ chống Kitô hữu gia tăng sau khi Thủ tướng Ấn Nadrendra Modi đắc cử nhiệm kỳ thứ ba, hồi tháng Sáu năm nay và tiếp tục lãnh đạo đảng BJP trong cuộc bầu cử toàn quốc, tuy rằng đảng của ông và liên minh các nhóm Ấn giáo giảm bớt đa số ghế ở Quốc hội. Đảng BJP chủ trương biến Ấn Độ thành một quốc gia thần quyền và ngăn chặn các hoạt động cải đạo và việc truyền giáo của các tôn giáo khác, đặc biệt nơi các làng ở vùng sâu vùng xa, và những dân làng nghèo.
Bang Uttar Pradesh ở miền bắc Ấn là bang đông dân cư nhất của Ấn Độ và bang này là nơi tệ nhất đối với các tín hữu Kitô, vì chính quyền địa phương thuộc đảng BJP, quyết liệt áp dụng luật chống cải đạo, từ tháng Tám năm nay. Luật tu chính về phương diện này phạt tới hai mươi năm tù những ai vi phạm luật và hạn chế tối ta việc cho tại ngoại hầu tra. Luật cũng cho phép bất kỳ người nào cũng có thể tố giác người vi phạm luật, thay vì trước kia, chỉ có người nào là nạn nhân sự cải đạo hoặc thân nhân của họ mới có quyền khởi tố.
Tại bang Uttar Pradesh, có 156 trên tổng số 585 vụ chống Kitô hữu trên toàn quốc, đây là mức độ cao nhất trong số hai mươi tám bang ở Ấn Độ.
Tại bang Manipur ở miền Đông bắc Ấn Độ, xung đột chủng tộc đã bùng nổ vào ngày 03 tháng Năm năm ngoái, và còn tiếp tục giữa các tín hữu Kitô bản xứ thiểu số và những người Ấn giáo Meitei chiếm đa số. Các tín hữu Kitô tố giác chính quyền thuộc đảng BJP tại bang này ủng hộ bạo lực chống Kitô hữu.
Bạo lực làm cho ít nhất 250 người chết và 60.000 người phải tản cư, đa số là Kitô hữu, nay đang phải sống trong các trại tạm trú của nhà nước và không biết bao giờ có thể trở về gia cư của họ, trong đó có nhiều nhà đã bị phá hủy hoặc thiêu rụi.
Giáo hội Công giáo tại Ấn Độ đảm trách hơn 55.000 cơ sở giáo dục, trong đó có 400 trường học và học viện, sáu đại học, sáu trường y khoa. Có một đề nghị gây sốc, đó là Tòa án cấp cao ở Madras, thủ phủ bang Tamil Nadu ở miền nam Ấn, hôm 18 tháng Mười Một vừa qua, gợi ý thiết lập một đạo luật để quản lý các tài sản của Giáo hội, giống như trường hợp những người Ấn giáo và Hồi giáo.
Tòa án đưa nhận xét đó sau khi nghe một loạt những vụ hối lộ và biển thủ tài sản do Giáo hội Nam Ấn, gọi tắt là CSI, một Giáo hội tin lành xuất thân từ Giáo hội Anh giáo và thừa hưởng tài sản của Giáo hội này, sau khi Ấn Độ được độc lập hồi năm 1947. Lời cáo buộc chống Giáo hội này, đó là tài sản của Giáo hội bị bán dưới giá thị trường và trong nội bộ Giáo hội này, có một số xung đột và xì căng đan.
Chính trị gia, triết gia Nikos Kazantzakis (1883-1957) đã viết: “Con người luôn thiếu kiên nhẫn, nhưng Thiên Chúa không bao giờ nóng vội!”. Câu này nêu bật một chân lý quan trọng. Chúng ta cần kiên nhẫn, kiên nhẫn vô hạn với Thiên Chúa. Chúng ta cần để mọi chuyện phát triển đúng thời điểm của nó, đúng thời điểm của Thiên Chúa.
Nhìn vào lịch sử tôn giáo qua hàng thế kỷ, chúng ta không khỏi choáng váng trước sự thật Thiên Chúa dường như thong thả trước sự thiếu kiên nhẫn của chúng ta. Kinh Thánh thường ghi lại những khao khát bị nản lòng, những điều không viên mãn, và sự thiếu kiên nhẫn của con người. Việc Thiên Chúa can thiệp trực tiếp và dứt khoát giải quyết một căng thẳng nào đó của con người là chuyện hiếm hơn cả mức ngoại lệ. Chúng ta luôn mãi khao khát một Đấng Thiên sai đến cất đi nỗi đau, báo oán những áp bức, nhưng hầu hết những lời cầu nguyện này dường như rơi vào hư không.
Vì thế trong Kinh Thánh triền miên có lời cầu khẩn đau đớn: Lạy Chúa, xin hãy đến! Xin cứu chúng con! Chúng con còn phải chờ bao lâu nữa! Lúc nào, lạy Chúa, đến lúc nào!
Chúng con luôn thiếu kiên nhẫn, nhưng Chúa lại không vội vàng. Vì sao? Vì sao Chúa dường như hành động quá chậm trễ? Chẳng lẽ Chúa nhẫn tâm nhìn chúng con khổ sao? Thiên Chúa chai đá trước đau khổ của chúng con sao? Vì sao Chúa hành động quá đỗi chậm trễ trước sự mất kiên nhẫn của nhân loại?
Trong ngụy văn của Do Thái giáo, có một câu giúp trả lời câu hỏi này một cách ẩn dụ: Mọi giọt nước mắt sẽ đưa Đấng Thiên sai đến gần hơn! Có vẻ có một mối liên kết cố hữu giữa sự chán nản và khả năng Đấng Thiên sai ra đời. Đấng Thiên sai chỉ có thể ra đời sau khi con người khao khát suốt một thời gian dài. Tại sao?
Việc sinh hạ có thể cho chúng ta thấy được đôi điều. Không thể đẩy nhanh thời kỳ thai nghén, và có mối liên kết giữa cơn đau mà người mẹ chịu lúc sinh con. Việc hạ sinh của Chúa Giêsu cũng vậy. Với tiền đề không thể đẩy nhanh quá trình thai nghén. Nước mắt, nỗi đau, và thời gian cầu nguyện lâu dài là điều cần thiết để tạo điều kiện cho sự thai nghén sẽ hạ sinh Đấng Thiên sai vào thế giới chúng ta. Vì sao? Vì có một dạng tình yêu và sự sống chỉ có thể nảy sinh sau khi kiên nhẫn chịu đựng lâu dài, tạo nên một không gian thích đáng cho dạ người trinh nữ, để từ đó hạ sinh sự siêu phàm. Sự siêu phàm luôn dựa vào một sự thăng hoa trước đó.
Một vài ẩn dụ có thể giúp chúng ta hiểu chuyện này.
Khi cố gắng giải thích về cách con người có thể được thổi bùng với tình yêu vị tha, Thánh Gioan Thánh Giá đã dùng hình ảnh một khúc gỗ cháy thành ngọn lửa trong lò. Khi khúc gỗ khô được đặt vào lò, nó không cháy ngay lập tức. Trước hết, nó cần được làm khô đã. Do đó, suốt một thời gian dài, nó chỉ kêu xèo xèo trong lò, màu xanh và độ ẩm sẽ mất và chỉ khi đến nhiệt độ cháy, nó mới có thể bắt lửa và cháy bùng thành ngọn.
Một cách ẩn dụ, trước khi khúc gỗ có thể bùng cháy, nó phải qua thời kỳ chờ đợi, một tình trạng khô héo, một thời gian chán nản và khao khát. Động lực để một tình yêu đặc biệt sinh ra trong đời chúng ta cũng vậy. Chúng ta chỉ có thể khơi lên dạng tình yêu này khi chúng ta bị là những khúc củi ẩm ướt, còn xanh, kêu xèo xèo trong ngọn lửa của khao khát bất đạt.
Thần học gia Pierre Teilhard de Chardin cho chúng ta một ẩn dụ thứ hai. Ngài nói về điều mà ngài gọi là “tăng nhiệt độ tâm linh”. Trong phòng thí nghiệm hóa học, bạn có thể đặt hai chất trong cùng một ống mà không bị hợp nhất. Những chất đó vẫn tách biệt, không hợp nhất với nhau được. Chỉ sau khi được nung đến một nhiệt độ đủ cao, chúng mới phản ứng hợp lại với nhau. Chúng ta cũng vậy. Thường chỉ khi nhiệt độ tâm linh của chúng ta lên đến mức hợp nhất đó, nghĩa là khi khao khát bất đạt làm tăng nhiệt độ tâm hồn của chúng ta đến mức chúng ta có thể hướng về sự hòa hợp và hợp nhất.
Tóm lại, đôi khi chúng ta phải đi đến cơn sốt mến tâm linh bằng chán nản và nỗi đau, trước khi sẵn sàng buông bỏ ích kỷ và để mình được kéo vào thông hiệp.
Thần học gia công giáo Thomas Halik từng nói, người vô thần đơn giản chỉ là một từ khác để gọi một người không đủ kiên nhẫn với Thiên Chúa. Cha nói đúng. Thiên Chúa không bao giờ vội vã, và Ngài làm thế vì những lý do chính đáng. Đấng Thiên sai chỉ có thể được thai nghén trong một dạng cung lòng nhất định, cụ thể là một cung lòng đủ kiên nhẫn và sẵn lòng chờ đợi, để mọi chuyện diễn ra theo kỳ hạn của Thiên Chúa chứ không phải kỳ hạn của chúng ta.
Mọi giọt nước mắt đưa Đấng Thiên sai đến gần hơn. Đây là một bí ẩn không thể dò thấu. Về lý thuyết, mỗi một chán nản nên làm chúng ta sẵn sàng yêu thương hơn. Về lý thuyết, mỗi một giọt nước mắt nên làm chúng ta sẵn sàng tha thứ hơn. Về lý thuyết, mỗi một lần đau lòng nên làm chúng ta sẵn sàng buông bỏ phần nào sự tách biệt của mình. Về lý thuyết, mỗi một khao khát bất đạt nên dẫn chúng ta đi vào lời cầu nguyện sâu sắc hơn và thành tâm hơn. Và về lý thuyết, mọi sự thiếu kiên nhẫn đau đớn của chúng ta hướng đến sự sự kết hợp vốn luôn mãi tránh né chúng ta, làm cho chúng ta đủ nhiệt tâm để cháy bùng thành ngọn lửa tình yêu. Một cách ngôn trong ngụy văn Do Thái giáo đã diễn đạt rất nên thơ rằng: Với nhiều tiếng rên rỉ của xác thịt thì sự sống của linh hồn được sinh ra!
Trong Năm Thánh này, chúng con chiêm ngắm Thánh Gia – mẫu gương của tình yêu, sự hiệp nhất và đời sống thánh thiện.
Xin cho chúng con biết học nơi Thánh Gia tinh thần vâng phục, lòng tin tưởng và sự kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Xin Cha thánh hóa gia đình chúng con, để qua mọi thử thách và niềm vui,
chúng con ngày càng gần Cha hơn, và trở thành chứng nhân cho Tình yêu Cha giữa đời.
Năm Thánh đầu tiên được kêu gọi vào năm 1300, và trong thời gian gần đây, năm này thường được tổ chức sau mỗi 25 đến 50 năm. Những người hành hương tham gia có thể nhận được “lễ xá tội” đặc điểm có từ nhiều thế kỷ của Giáo hội Công giáo liên quan đến việc tha thứ tội lỗi, tương đương với một tấm thẻ “thoát khỏi Luyện ngục”.
Năm Thánh thường kỳ cuối cùng là vào năm 2000, khi Thánh Gioan Phaolô II mở ra thiên niên kỷ thứ ba của giáo hội. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên bố một Năm Thánh đặc biệt vào năm 2015-2016 dành riêng cho lòng thương xót và năm tiếp theo được lên kế hoạch là vào năm 2033, để kỷ niệm năm Chúa Kitô bị đóng đinh.
Lễ xá tội là gì?
Theo giáo lý của giáo hội, những người Công giáo xưng tội sẽ được tha thứ và do đó được giải thoát khỏi hình phạt vĩnh viễn hoặc hình phạt tinh thần của sự nguyền rủa. Ân xá được thiết kế để xóa bỏ hình phạt “tạm thời” của tội lỗi có thể còn tồn tại hậu quả của hành vi sai trái có thể phá vỡ mối quan hệ của tội nhân với người khác.
Sự phản đối của Martin Luther đối với việc bán ân xá của giáo hội đã truyền cảm hứng cho ông phát động cuộc Cải cách Tin lành vào những năm 1500. Ông đã bị khai trừ, và việc mua bán ân xá đã trở thành bất hợp pháp kể từ Công đồng Trent năm 1562. Nhưng việc ban ân xá vẫn tiếp tục và là một yếu tố quan trọng trong các cuộc hành hương trong Năm Thánh.
Theo các chuẩn mực được ban hành cho Năm Thánh 2025, người Công giáo có thể được ân xá nếu họ:
Thực hiện một cuộc hành hương ngoan đạo, tham gia Thánh lễ và các bí tích khác, tại bất kỳ một trong bốn vương cung thánh đường của giáo hoàng ở Rome hoặc Đất Thánh, hoặc các địa điểm linh thiêng khác của Năm Thánh “để thể hiện nhu cầu lớn lao về sự cải đạo và hòa giải”.
Tham gia vào các công việc từ thiện, thương xót hoặc sám hối, chẳng hạn như thăm tù nhân, người bệnh hoặc người già hoặc thực hiện các công việc thương xót về thể xác “cho người đói ăn, cho người khát uống, cho người trần truồng mặc quần áo, tiếp đón khách lạ, chữa lành người bệnh, thăm viếng người bị giam cầm và chôn cất người chết”.
Kiêng, theo tinh thần sám hối, ít nhất một ngày trong tuần, không “làm phiền vô ích”, chẳng hạn như mạng xã hội, hoặc “tiêu dùng thừa thãi”, chẳng hạn như kiêng ăn; hoặc quyên góp số tiền tương ứng cho người nghèo hoặc giúp đỡ di dân.
Tại sao lại tập trung vào tù nhân?
Đức Giáo hoàng Phanxicô từ lâu đã biến mục vụ cho tù nhân thành dấu ấn của ơn gọi linh mục của mình, và Năm Thánh dành riêng cho thông điệp hy vọng cũng không ngoại lệ.
Trên thực tế, Cửa Thánh duy nhất khác mà Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ đích thân mở trong năm nay nằm tại nhà nguyện của nhà tù Rebibbia ở Rome, để thu hút sự chú ý đến nhu cầu mang lại cho tù nhân hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Sự kiện lớn cuối cùng của Năm Thánh trước khi kết thúc vào ngày 6 tháng 1 năm 2026, là Năm Thánh của Tù nhân vào ngày 14 tháng 12 năm 2025.
Có gì trong lịch?
Lịch Năm Thánh là tập hợp các sự kiện chính thức và không chính thức của Năm Thánh sẽ thử thách sức bền của Đức Giáo hoàng Phanxicô, người vừa tròn 88 tuổi và bước vào mùa Giáng sinh với cơn cảm lạnh khiến Ngài khó thở.
Mỗi tháng có hai, ba hoặc bốn sự kiện chính thức của Năm Thánh mà Đức Giáo hoàng Phanxicô dự kiến sẽ tham dự, được chỉ định cho những nhóm người cụ thể: quân đội, nghệ sĩ, linh mục, người nghèo, tình nguyện viên và giáo viên. Sau đó là các sự kiện không chính thức của Năm Thánh, trong đó các giáo phận riêng lẻ và các nhóm khác đã tổ chức các cuộc hành hương của riêng họ đến Rome.
Một mục trong lịch không chính thức của Năm Thánh, ngày 6 tháng 9, đã trở thành tin tức vì nó được tổ chức bởi một hiệp hội của Ý, “La Tenda di Gionata” hay “Lều của Jonathan”, một hiệp hội dành riêng để giúp những người Công giáo LGBTQ+ cảm thấy được chào đón hơn trong Giáo hội Công giáo.
Còn vấn đề an ninh cho rất nhiều người thì sao?
Thị trưởng Rome Roberto Gualtieri cho biết các kế hoạch an ninh đòi hỏi sự kết hợp giữa hoạt động cảnh sát truyền thống được báo cáo là có thêm 700 cảnh sát cộng với giám sát công nghệ cao bằng máy bay không người lái và camera, nhờ các thuật toán được thông báo bằng trí tuệ nhân tạo, có thể theo dõi theo thời gian thực về quy mô đám đông và các điểm tắc nghẽn.
“Sẽ có nhiều xe cộ hơn, nhiều người hơn và chúng ta có thể nói là, các thiết bị an ninh rất, rất mạnh mẽ và quan trọng,” ông Gualtieri nói với các phóng viên tuần trước.
Vatican đã cố gắng giảm tình trạng tắc nghẽn cho những người hành hương bằng cách cho phép họ đặt chỗ tham quan trước Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô trực tuyến.
Sau khi một tài xế lái xe đâm vào một khu chợ Giáng sinh ở Magdeburg, Đức, khiến năm người thiệt mạng, tuần trước, chính quyền Ý đã gửi một thông tư tới các đồn cảnh sát trên khắp cả nước khuyến nghị các nỗ lực điều tra “tối đa” và ngay lập tức tăng cường giám sát và tuần tra của cảnh sát xung quanh các khu chợ Giáng sinh, các màn trình diễn và các điểm tham quan du lịch.
Vatican, với nơi Chúa Giêsu giáng sinh có kích thước bằng người thật và cây thông Noel khổng lồ ở Quảng trường Thánh Phêrô và triển lãm ngoài trời về cảnh Chúa giáng sinh trong hàng cột Bernini bao quanh, đủ điều kiện là mục tiêu có nguy cơ.
Rome còn chuẩn bị như thế nào nữa?
Rome đã có hai năm chuẩn bị khẩn trương cho Năm Thánh bao gồm các dự án công trình công cộng lớn và cải tạo nghệ thuật trùng với các sáng kiến riêng biệt do quỹ phục hồi COVID-19 của Liên hiệp Châu Âu tài trợ.
Ít hơn một phần ba trong số 323 dự án của Năm Thánh đã hoàn thành hoặc sẽ kết thúc vào tháng tới, nghĩa là tình trạng giao thông đau đầu và cảnh tượng nhức mắt sẽ tiếp tục kéo dài đến tận năm 2025 và thậm chí là năm 2026. Nhưng người dân Rome và du khách đang bắt đầu nhìn thấy một số sản phẩm đã hoàn thiện.
Đài phun nước Bernini ở Piazza Navona lại sáng bóng sau nhiều tháng chùi rửa. Đài phun nước Trevi được tân trang đã mở cửa trở lại vào cuối tuần, và vào thứ Hai, dự án chính của Jubilee đã được công bố: Một quảng trường dành cho người đi bộ nối Castel St. Angelo với Via della Conciliazione, đại lộ chính dẫn đến Quảng trường Thánh Phêrô.
Trong Tông sắc Spes Non Confundit, Hy vọng không làm thất vọng, để ấn định Năm Thánh 2025, Đức Thánh cha Phanxicô khẳng định rằng: “Nay đã đến thời điểm một Năm Thánh mới, trong đó Cửa Thánh được mở toang để cống hiến kinh nghiệm sinh động về tình thương của Thiên Chúa, khơi lên trong tâm hồn niềm hy vọng chắc chắn về ơn cứu độ trong Chúa Kitô” (n.6).
Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu “Thầy là cửa: nếu ai bước vào qua Thầy, thì sẽ được cứu độ” (Ga 10.9), việc mở Cửa Thánh là dấu chỉ con đường cứu độ được Chúa Kitô mở ra với sự nhập thể, cái chết và sự sống lại của Ngài, kêu gọi tất cả mọi người hãy hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân. Việc mở toang các cánh cửa là một lời mời gọi đi vào con đường cứu độ duy nhất, đó là Chúa Giêsu, Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và con người”.
Trước nghi thức mở Cửa Thánh do Đức Thánh cha chủ sự, đông đảo các tín hữu đã tụ tập tại Đền thờ thánh Phêrô để chuẩn bị tâm hồn, qua việc lắng nghe Lời Chúa, qua hai bài đọc trích từ Kinh thánh Cựu ước xen lẫn các bài thánh ca.
Nghi thức chính thức mở cửa được Đức Thánh cha khởi đầu với lời nhắn nhủ các tín hữu:
“Anh chị em thân mến, trong cuộc Giáng sinh này của Chúa, Đấng là ánh sáng bởi ánh sáng, là hy vọng không thể tắt lịm, chúng ta chuẩn bị bước qua Cửa Thánh trong đức tin. Những bước đường của chúng ta là những bước đường của toàn thể Giáo hội, đang lữ hành trên trần thế và là chứng nhân hòa bình. Được gắn chặt vào Chúa là đá tảng cứu độ của chúng ta, được Lời Ngài soi sáng và củng cố nhờ ơn thánh Chúa, chúng ta bước qua ngưỡng cửa Đền thánh này và bước vào thời kỳ thương xót và tha thứ, để con đường hy vọng không làm thất vọng được mở ra cho mỗi người nam nữ”.
Sau khi Đức Thánh cha đọc lời nguyện, mọi người đã nghe công bố đoạn Tin mừng theo thánh Gioan (10,7-10), trong đó Chúa Giêsu quả quyết Ngài là cửa chuồng chiên, nếu ai bước vào qua đó thì sẽ được cứu thoát, ai bước vào và đi ra, sẽ tìm được đồng cỏ”.
Rồi Đức Thánh cha đến Cửa Thánh để đẩy và mở cửa ra. Ngài dừng lại cầu nguyện trong thinh lặng giữa lúc các chuông Đền thờ thánh Phêrô được gióng lên vui mừng.
Đức Thánh cha tiến vào Đền thờ cùng với đoàn giúp lễ, một số đại diện của dân Chúa, trong đó có mười trẻ em thuộc năm châu, cùng với một số vị đồng tế tiến lên Bàn thờ Chính, Bàn thờ Tuyên xưng Đức tin trên mộ của thánh Phêrô để chuẩn bị cử hành thánh lễ, trong khi ca đoàn hát Thánh Ca Năm Thánh “Những người lữ hành hy vọng”.
Trong sứ điệp, Đức Thánh cha mời gọi mọi người hãy bước qua Cửa Năm Thánh là chính Chúa Giêsu, và đồng thời ngài kêu gọi hòa bình cho những vùng có xung đột trên thế giới, từ Ucraina tới Trung Đông, Phi châu, Myanmar và Mỹ châu, sau cùng là tha nợ cho các nước nghèo.
Buổi công bố và ban phép lành toàn xá diễn ra từ bao lơn chính của Đền thờ thánh Phêrô, nhìn xuống Quảng trường thánh Phêrô, trước sự hiện diện của hơn ba mươi ngàn tín hữu Roma và khách hành hương, dưới bầu trời lạnh lẽo của mùa đông nhưng nắng đẹp. Trên thềm Đền thờ, có một toán Vệ binh Thụy Sĩ, và liên quân của Ý.
Mở đầu, ban quân nhạc của đoàn Hiến binh Vatican và ban quân nhạc của Ý đã xướng quốc thiều Vatican và Ý.
Buổi lễ cũng được các cơ quan truyền thông Vatican và nhiều quốc gia trực tiếp truyền hình và truyền thanh.
Mở đầu Sứ điệp Giáng sinh, Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chúc mừng lễ Giáng sinh!
Đêm nay đã tái diễn mầu nhiệm làm cho chúng ta kinh ngạc và cảm động: Đức Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, bọc Hài Nhi trong tã và đặt trong máng cỏ. Những người chăn súc vật ở Bethlehem đầy vui mừng đã tìm thấy Ngài, trong khi các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa và hòa bình cho con người” (Xc Lc 2,6-14).
Đúng vậy, biến cố này, xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm, đang tái diễn nhờ hoạt động của Chúa Thánh Linh, cũng là Thần Khí Tình thương và Sự sống, đã làm cho cung lòng Đức Maria thụ thai và từ thể xác nhân trần của Mẹ đã hình thành Chúa Giêsu. Và thế là ngày nay, giữa những chao đảo của thời đại chúng ta, Chúa lại nhập thể và thực sự là Lời cứu độ vĩnh cửu, nói với mỗi người nam nữ, nói với toàn thế giới: “Ta yêu thương con, tha thứ cho con, hãy trở về cùng Ta, cánh cửa tâm hồn của Ta mở rộng!”
Anh chị em thân mến, cánh cửa tâm hồn của Thiên Chúa luôn mở ra, chúng ta hãy trở về với Ngài! Chúng ta hãy trở về với con tim yêu thương và tha thứ cho chúng ta! Chúng ta hãy để cho mình được Ngài tha thứ, hòa giải với chính Ngài!
“Điều này có nghĩa là Cửa Năm Thánh mà tối hôm qua tôi đã mở ra tại Đền thờ thánh Phêrô này: Cửa cứu độ, tượng trưng Chúa Giêsu, được mở ra cho mọi người, Chúa Giêsu là Cửa mà Chúa Cha từ bi đã mở ra giữa lòng thế giới, giữa lòng lịch sử, để tất cả mọi ngươi chúng ta có thể trở về cùng Chúa. Tất cả chúng ta như chiên lạc và chúng ta cần một vị Mục Tử và một Cửa để trở về nhà Cha. Chúa Giêsu là Mục Tử, Chúa Giêsu là Cửa.
Anh chị em đừng sợ! Cửa đã mở ra, được mở toang ra! Anh chị em hãy đến! Chúng ta hãy hòa giải cùng Thiên Chúa, và chúng ta sẽ được hòa giải với chính mình, có thể hòa giải với tha nhân, và với cả những kẻ thù của chúng ta. Đúng vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa có thể làm mọi sự, tháo gỡ mọi nút chặn, phá đổ mọi bức tường chia rẽ, giải tỏa oán ghét và lòng thù hận. Anh chị em hãy đến! Chúa Giêsu là Cửa hòa bình.
Đức Thánh cha nhận xét rằng: “Nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở ngưỡng Cửa; chúng ta không có can đảm bước xa qua Cửa, vì chúng ta tranh luận với nhau. Bước qua Cửa đòi phải hy sinh đi bước đầu, để lại đằng sau lưng những tranh chấp và chia rẽ, để phó thác mình cho vòng tay mở rộng của Chúa Hài Đồng, là vị Vua hòa bình. Trong lễ Giáng sinh này, bắt đầu Năm Thánh, tôi mời gọi mỗi người, mỗi dân tộc và mỗi quốc gia hãy có can đảm bước qua Cửa, trở thành những người Lữ hành hy vọng, làm cho võ khí im tiếng và vượt thắng những chia rẽ!
Đức Thánh cha nói tiếp: “Võ khí tại Ucraina hãy im tiếng! Đúng vậy, hãy có can đảm mở ra cánh cửa cho cuộc thương thuyết và những cử chỉ đối thoại và gặp gỡ, để đi đến một nền hòa bình công chính và lâu dài.
“Võ khí tại Trung Đông hãy im tiếng! Mắt hướng về chiếc nôi ở Bethlehem, tôi nghĩ đến các cộng đoàn Kitô ở Israel và Palestine, đặc biệt tại Gaza, nơi mà tình trạng nhân đạo rất trầm trọng. Hãy ngưng bắn, trả tự do cho các con tin và giúp đỡ dân chúng bị kiệt quệ vì đói và chiến tranh. Tôi gần gũi cả các cộng đoàn ở Liban, nhất là ở miền nam nước này, cộng đoàn ở Syria, trong lúc tế nhị hiện nay. Hãy mở ra những cánh cửa đối thoại và hòa bình trên toàn vùng, đã bị xâu xé vì xung đột. Và ở đây, tôi muốn nhắc đến cả nhân dân Libya, khuyến khích tìm ra những giải pháp giúp hòa giải quốc gia.”
“Ước gì sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế mang lại một thời kỳ hy vọng cho các gia đình của hàng ngàn trẻ em đang chết vì bệnh sởi ở Cộng hòa Dân chủ Congo, cũng như cho dân chúng ở miền đông nước này và tại các nước Burkina Faso, Mali, Niger và Mozambique. Cuộc khủng hoảng nhân đạo đang đè nặng trên các dân tộc này chủ yếu là do các cuộc xung đột vũ trang và tai ương khủng bố, lại thêm những hậu quả tàn hại do sự thay đổi khí hậu, làm cho nhiều người thiệt mạng và hàng triệu người khác phải tản cư. Tôi cũng nghĩ đến dân chúng tại các nước ở Vùng Sừng của Phi châu và khẩn cầu ơn hòa bình cho họ, sự hòa hợp và tình huynh đệ. Xin Con của Đấng Tối Cao nâng đỡ sự dấn thân của cộng đồng quốc tế, tạo điều kiện cho việc đưa các đồ cứu trợ nhân đạo cho các thường dân ở Sudan và khởi sự các cuộc thương thuyết mới để đạt tới sự ngưng chiến.
“Ước gì sự loan báo Giáng sinh mang lại an ủi cho dân chúng tại Myanmar, vì những cuộc đụng độ võ trang liên tục, họ đang chịu đau khổ nặng nề và buộc lòng phải rời bỏ gia cư đi lánh nạn.
Xin Chúa Hài Đồng soi sáng cho các chính quyền và tất cả những người thiện chí tại Mỹ châu, để họ sớm tìm được những giải pháp hữu hiệu trong sự thật và công lý, để thăng tiến sự hòa hợp xã hội, đặc biệt tại Haiti, Venezuela, Colombia và Nicaragua, và chúng ta hãy hoạt động, đặc biệt trong Năm Thánh này, để xây dựng công ích và tái khám phá nhân phẩm của mỗi người, vượt thắng những chia rẽ chính trị.
Ước gì Năm Thánh là dịp để phá đổ mọi bức tường ngăn cách: những bức tường ý thức hệ, nhiều lần ảnh hưởng đến đời sống chính trị, và những bức tường thể lý, như sự chia cách từ 50 năm nay tại đảo Cipro và làm hao mòn kết cấu nhân bản và xã hội. Tôi cầu mong người ta có thể đạt tới một giải pháp chung, chấm dứt chia rẽ trong sự hoàn toàn tôn trọng các quyền và phẩm giá của tất cả các cộng đoàn Cipro.
“Chúa Giêsu là Lời Vĩnh Cửu của Thiên Chúa làm người, là Cửa mở toang mà chúng ta được mời gọi bước qua để tái khám phá ý nghĩa cuộc sống chúng ta và sự thánh thiêng của mỗi mạng sống, và để phục hồi các giá trị nền tảng của gia đình nhân loại. Chúa đang chờ đợi chúng ta ở ngưỡng cửa. Ngài chờ đợi mỗi người chúng ta, đặc biệt những người yếu thế nhất: Chúa đợi các trẻ em, tất cả các trẻ em đang đau khổ vì chiến tranh và đói khát; Chúa chờ những người cao niên, nhiều khi phải sống trong những tình cảnh cô đơn và bỏ rơi; Chúa chờ những người đã mất gia cư hoặc phải bỏ quê hương trong toan tính tìm được một nơi tị nạn an toàn; Chúa chờ đợi những người đã mất hoặc không tìm được một việc làm; Chúa chờ các tù nhân, dù thế nào đi nữa, họ vẫn là con của Thiên Chúa; Chúa chờ những người bị bách hại vì đức tin của họ.
Đức Thánh cha cũng nói rằng: “Trong ngày lễ này, ước gì không thiếu sự biết ơn của chúng ta đối với những người xả thân vì điều thiện một cách âm thầm và trung tín: tôi nghĩ đến các cha mẹ, những nhà giáo dục và các giáo chức, là những người có trách nhiệm lớn trong việc hình thành các thế hệ tương lai, tôi nghĩ đến các nhân viên công lực, những người dấn thân trong các công tác bác ái, đặc biệt là các thừa sai rải rác trên thế giới, đang mang ánh sáng và an ủi đến bao nhiêu người gặp khó khăn! Chúng ta hãy cám ơn tất cả!
“Anh chị em thân mến, ước gì Năm Thánh là dịp để tha nợ, đặc biệt là những món nợ đè nặng trên các nước nghèo nhất. Mỗi người được kêu gọi tha thứ những xúc phạm đã chịu vì Con Thiên Chúa, đã sinh ra trong giá lạnh và trong bóng đêm, tha mọi nợ nần cho chúng ta. Chúa đã đến để chữa lành và tha thứ cho chúng ta. Hỡi những người lữ hành hy vọng, chúng ta hãy đến gặp Chúa! Hãy mở cho Ngài những cánh cửa lòng chúng ta, như chính Chúa đã mở toang cánh cửa Tâm Hồn Ngài cho chúng ta.
Tôi cầu chúc tất cả mọi người một lễ Giáng sinh thánh thiêng và bình an.
Kết thúc sứ điệp, Đức Thánh cha và mọi người đã đọc kinh Truyền tin, rồi Đức Hồng y Dominique Mamberti, người Pháp, Chủ tịch Tòa án Tối cao của Tòa Thánh, trong tư cách là Hồng y Trưởng Đẳng Phó tế, đã thông báo cho mọi người chủ ý của Đức Thánh cha ban phép lành Tòa Thánh với ơn toàn xá cho Roma và toàn thế giới, với điều kiện thường lệ là xưng tội và cầu nguyện theo ý Đức Thánh cha.
Rồi Đức Thánh cha long trọng đọc công thức ban ơn toàn xá cho các tín hữu:
“Nhờ lời cầu nguyện và công phúc của Đức Trinh Nữ Maria, Tổng lãnh thiên thần Micae, thánh Gioan Tẩy Giả và các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót và, sau khi mọi tội lỗi của anh chị em được tha thứ, xin Chúa Kitô dẫn đưa anh chị em đến sự sống đời đời.
“Xin Chúa toàn năng và thương xót ban cho anh chị em ân xá, sự xá giải và tha thứ mọi tội lỗi của anh chị em, cơ hội thống hối chân thực và phong phú, một con tim luôn thống hối và một đời sống hoán cải, ơn phúc và an ủi của Chúa Thánh Linh, và sự kiên trì đến cùng trong các công việc lành”.
“Và xin phúc lành của Thiên Chúa toàn năng là Cha và Con và Thánh Thần xuống trên anh chị em và ở cùng anh chị em luôn mãi. Amen.”
Sáng kiến “Ánh sáng Bêlem”
Sáng kiến “Ánh sáng Bêlem” ra đời ở Áo vào năm 1986 và sau đó lan rộng khắp châu Âu. Từ năm 1986 đến nay, hàng năm, vài ngày trước lễ Giáng sinh, một thiếu nhi sẽ đốt sáng ngọn đèn từ Bêlem rồi vận chuyển bằng máy bay sang Áo. Từ đó ngọn lửa được chia sẻ khắp Châu Âu (và xa hơn nữa) nhờ các nhóm hướng đạo sinh và các hiệp hội khác. Sáng kiến lần thứ 34, vào năm nay, có chủ đề “Yêu bằng hành động”.
Thành phố Steyr là thành phố kết nghĩa với Bêlem, cũng được gọi là “Christkindl” (thành phố của Chúa Giêsu Hài Đồng). Vào tháng 12/2023, Pillar Jarayseh, một thiếu niên 12 tuổi, đã thắp sáng ngọn đèn từ ánh sáng tại nơi Chúa Giáng Sinh ở Bêlem và đưa về Áo. Ngọn lửa này đã được các hướng đạo sinh cẩn thận bảo quản trong suốt năm qua.
Toàn thế giới hướng đến Bêlem để gặp gỡ Chúa Giêsu
Ngày 23/12/2024, tại Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục Ba Lan ở Warsaw, Tổng giám mục Tadeusz Wojda, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, đã nhận được Ánh sáng Bêlem từ cha tuyên úy của các hướng đạo sinh. Cha Wojciech Jurkowski nói: “Hôm nay, khi chúng ta truyền lại ánh sáng từ Bêlem, chúng ta truyền lại món quà hòa bình, thứ đang thiếu ở nơi Chúa Kitô sinh ra”.
Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục đã cảm ơn ánh sáng đã đến Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục Ba Lan. Ngài nhấn mạnh: “Ước gì ánh sáng này nhắc nhở chúng ta rằng đây là lễ Giáng sinh. Bêlem đã trở thành nơi hy vọng, vì Thiên Chúa đã từ thiên đàng xuống thế để trở thành một người trong chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng toàn thể thế giới, toàn thể nhân loại, toàn thể lịch sử theo một cách nào đó đã hướng đến Bêlem, để gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô giáng sinh, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm”.
Ánh sáng Bêlem cũng được chuyển đến Ý. Từ năm 1992, các hướng đạo sinh Ý và Đức nhận Ánh sáng Bêlem trong một nghi lễ được cử hành tại biên giới. Số tiền quyên góp được trong các buổi cử hành năm nay sẽ được sử dụng để giúp đỡ cho Thánh Địa, Brazil, Uganda và Benin.
Đức cha William Shomali, Giám mục phụ tá Giêrusalem và Đại diện Thượng phụ cho Palestine xác nhận: “Sẽ có vài ngàn, khoảng 4.000 giấy phép do chính quyền Israel cấp cho các Kitô hữu Palestine ở Bờ Tây vào Giêrusalem dịp lễ Giáng sinh. Các giấy phép (được cấp bởi COGAT, đơn vị Quân đội điều phối các hoạt động của chính phủ ở các Lãnh thổ) chỉ kéo dài hơn một tuần, không như những năm trước với hiệu lực khoảng một hoặc hai tháng”.
Theo Đức cha, chiến tranh đã làm giảm số giấy phép và thời hạn lưu trú. Ngoài ra, chính quyền Israel chỉ cấp giấy phép chủ yếu cho những người trên 55 tuổi.
Về tâm trạng của các tín hữu địa phương trong mùa Giáng sinh này, Đức cha Shomali cho biết, mọi người chờ đợi Giáng sinh với những cảm xúc lẫn lộn, sự pha trộn giữa thất vọng và hy vọng. Do bởi vì vẫn còn lo sợ về những gì có thể xảy ra trong những ngày tới đây. Nhiều người nghĩ rằng sau Gaza, điều tương tự có thể xảy ra với các vùng lãnh thổ của Bờ Tây.
Ngài mời gọi: “Chúng ta phó thác cho Chúa Kitô, Hoàng tử Hòa bình, với niềm hy vọng đến từ Giáng sinh để nâng chúng ta lên. Cầu xin Năm Thánh tiếp thêm cho chúng ta sức mạnh và đưa những người hành hương trở lại Đất Thánh. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho tất cả các Kitô hữu của chúng ta, cả về phần thiêng liêng lẫn vật chất”.
Vào ngày Giáng sinh, Đức Giáo hoàng Phanxicô kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh Ukraine
Đức Thánh Cha Phanxicô đọc bài phát biểu Ngày Giáng sinh truyền thống Urbi et Orbi của mình cho thành phố và thế giới từ ban công chính của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô ở Vatican,
ngày 25 tháng 12 năm 2024.
Đức Thánh Cha đã kêu gọi im lặng tiếng súng trên toàn thế giới
Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi đàm phán giữa Ukraine và Nga để chấm dứt cuộc chiến do Nga xâm lược Ukraine vào năm 2022.
Trong bài diễn văn truyền thống nhân Ngày Giáng Sinh, Đức Giáo Hoàng nói rằng “cần có sự táo bạo để mở cánh cửa” đối thoại “nhằm đạt được một nền hòa bình công bằng và lâu dài” giữa hai bên.
Lời kêu gọi tiếp theo của ông về một cuộc tấn công lớn của Nga cùng ngày vào các cơ sở năng lượng của Ukraine, mà Ukraine cho biết có liên quan đến ít nhất 184 tên lửa và máy bay không người lái.
Đầu năm nay, Ukraine đã kịch liệt bác bỏ lời kêu gọi của Giáo hoàng về việc Kyiv đàm phán chấm dứt chiến tranh và có “can đảm giương cờ trắng”.
Thông điệp Urbi et Orbi (gửi tới thành phố và thế giới) của ông cũng đề cập đến những xung đột khác.
Nói chuyện với hàng ngàn người tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha 88 tuổi tuyên bố: “Cầu mong tiếng vũ khí im bặt ở Ukraine bị chiến tranh tàn phá” và hơn thế nữa.
Ngài nói: “Tôi mời gọi mọi cá nhân và mọi người thuộc mọi quốc gia... hãy trở thành những người hành hương của niềm hy vọng, làm im lặng tiếng súng và vượt qua sự chia rẽ”.
Nhắc lại thông điệp Ngày Giáng sinh năm ngoái, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng kêu gọi ngừng bắn ở Gaza và giải phóng các con tin bị Hamas bắt giữ.
“Tôi nghĩ đến các cộng đồng Kitô giáo ở Israel và Palestine, đặc biệt là ở Gaza, nơi tình hình nhân đạo cực kỳ nghiêm trọng”, ông nói.
Ngài yêu cầu “các cánh cửa đối thoại và hòa bình phải được mở ra”.
Cuộc chiến ở Gaza bắt đầu sau khi những người cai trị Hamas trên lãnh thổ tấn công Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023. Các tay súng đã giết chết khoảng 1.200 người và bắt 251 người khác trở lại Gaza làm con tin. Bộ Y tế do Hamas điều hành ở Gaza cho biết hơn 45.000 người Palestine đã thiệt mạng trong cuộc tấn công của Israel.
Đầu tuần này, Giáo hoàng đã hai lần mô tả các cuộc tấn công của Israel là "tàn ác", khiến Israel chỉ trích gay gắt và gọi những nhận xét này là "đặc biệt đáng thất vọng".
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng cho biết suy nghĩ của ngài hướng về các cộng đồng Kitô giáo ở Lebanon và Syria, nơi phe nổi dậy gần đây đã lật đổ Tổng thống Syria Bashar al-Assad sau 24 năm nắm quyền. Dân số theo đạo Thiên Chúa ở Syria đã giảm dần kể từ khi bắt đầu chiến tranh vào năm 2011, và các báo cáo cho thấy hiện nay họ chỉ ở mức một phần nhỏ so với tổng số khoảng 1,5 triệu người trước chiến tranh.
Các cộng đồng thiểu số ở Syria đã bày tỏ lo ngại về tương lai của họ ở đất nước này kể từ khi quân nổi dậy Hồi giáo lên nắm quyền - mặc dù nhóm phiến quân hàng đầu Hayat Tahrir al-Sham cho biết tất cả các tín ngưỡng sẽ được bảo vệ.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Tương Lai (Avvenire) của Công giáo Ý, ra ngày 21 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Tổng giám mục Trưởng cho biết các trung tâm năng lượng điện của Ucraina bị Nga liên tục phá hoại, nhất là trong những tuần lễ gần đây, với các cuộc không kích và máy bay không người lái, khiến cho dân chúng không có điện cũng chẳng có hệ thống sưởi. Đức Tổng giám mục nói: “Chúng tôi mừng lễ Giáng sinh với những đèn cầy. Thiếu sưởi ấm vật chất, chúng tôi sẽ thay điều đó bằng hơi ấm tình người, như dấu chỉ chia sẻ những đau khổ”.
Trả lời câu hỏi của nhà báo về những tin nói là đang có những thương lượng, theo đó có sự nhìn nhận sự chiếm đóng của Nga trên một phần tư lãnh thổ Ucraina, Đức Tổng giám mục Trưởng Shevchuk nói: “Dân Ucraina chúng tôi sợ một sự đóng băng chiến tranh, vì đó không phải là một giải pháp. Đó là tâm tình chung của nhiều người. Điều rất nguy hiểm là hiểu lầm một sự ngưng chiến với hòa bình. Thực vậy, nó có thể trở thành một thời điểm để chuẩn bị một cuộc tấn công tàn ác chống Ucraina. Quả thực, chúng tôi mệt mỏi và cần đối thoại. Nhưng chúng tôi nghĩ đến một người bị thương nặng: nếu chỉ săn sóc ngoài da, thì những vết thương sẽ vị nhiễm nặng hơn và toàn cơ thể bị ảnh hưởng... Những giải pháp đơn giản hoặc dễ dàng bị coi là một xúc phạm”.
Mặt khác, Đức Tổng giám mục Shevchuk đặc biệt nghĩ đến các gia đình có thân nhân trong quân ngũ tử thương hoặc bị Nga cầm tù. Đức Tổng giám mục nói: “Giáo hội chúng tôi đồng hành với các thân nhân tử sĩ, những người bị mất tích, bị cầm tù. Chúng tôi đồng hành bằng một đường lối mục vụ thích ứng với thời chiến, trong đó chiều kích tôn giáo xen lẫn chiều kích tâm lý. Đặc biệt, Giáo hội dấn thân cổ võ việc trả tự do cho các tù nhân. Qua Tòa Sứ thần Tòa Thánh, chúng tôi đã chuyển về Tòa Thánh tên của năm ngàn tù nhân Ucraina. Việc vận động này được ủy thác cho một kênh, được mở giữa Kiev và Mascơva, qua trung gian ngoại giao của Tòa Thánh. Theo ý của Đức Thánh cha, kênh này được thực hiện qua Bộ ngoại giao Vatican và “sứ vụ hòa bình” của Đức Hồng y Matteo Zuppi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý, đặc ủy của Đức Thánh cha.
Đức Tổng giám mục Shevchuk cho biết trong danh sách các tù nhân Ucraina bị Nga giam giữ có mười giáo sĩ, hai linh mục thuộc Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương đã được trả tự do, tám vị còn lại vẫn bị Nga cầm giữ, và phần lớn là mục sư Tin lành.
Đức Tổng giám mục Trưởng cũng cho biết đang phải tranh đấu với chính quyền Ucraina để các linh mục không bị động viên và đưa ra chiến trường, như trường hợp cha Vyacheslav Grynevych, Giám đốc toàn quốc Caritas-Spes của Công giáo Ucraina Latinh. Nhờ sự can thiệp của Đức Tổng giám mục Trưởng, cha đã được trở về nhà. Ngài nói: “Việc gửi các linh mục ra mặt trận là kết quả của lệnh tổng động viên của chính quyền Ucraina, nhưng việc làm này khiến cho giáo quyền lo lâu và cả Tòa Thánh nữa.”
Đức Tổng giám mục Shevchuk nói: “Mỗi lần tôi bị kiểm soát tại các nút chặn, tôi phải chứng minh tại sao tôi không ở trong quân đội. Chúng tôi không xin các vị lãnh đạo quốc gia những đặc ân, nhưng xin họ hiểu rằng chúng tôi phục vụ nhân dân một các khác, không phải bằng võ khí”.
Ucraina đã trải qua lễ Giáng sinh trong tối tăm và lạnh lẽo tại nhiều nơi, vì Nga liên tục ồ ạt bắn các tên lửa và sử dụng máy bay không người lái để đánh bom xuống các cơ cấu hạ tầng năng lượng điện.
Đặc biệt, tại Kharkiv, thành phố lớn thứ hai của Ucraina ở miền đông, rồi tại thành Kherson. Chính Đức Hồng y kể lại rằng: “Tôi cảm thấy không nói nên lời. Sáng hôm nay, lúc 6 giờ của ngày chính lễ Giáng sinh, Kharkiv bị dội bom, ba phần tư trên tổng số một triệu dân không có điện. Khu vực có những máy phát điện bị đánh bom, và cũng có những người bị thương.
Trong cuộc viếng thăm Kharkiv, Đức Hồng y đã cầu nguyện với dân chúng, và cùng với Đức Tổng giám mục Visvaldas Kulbokas, người Lituani, Sứ thần Tòa Thánh tại Kiev, ngài cử hành thánh lễ. Sau lễ, Đức Hồng y đã gặp gỡ nhiều trẻ em xuất thân từ trường âm nhạc, cũng có các trẻ em mồ côi vì chiến tranh. Ngài cũng viếng thăm nhà dưỡng lão và chia sẻ truyền thống Giáng sinh với việc bẻ bánh trắng. Dân chúng cám ơn Đức Thánh cha và các tín hữu ở Roma, vì những máy phát điện ngài tặng cho họ. Những phương tiện này rất cần thiết để cứu mạng dân chúng và để có thể cư ngụ trong nhà.
Tại thành phố Fastiv, Đức Hồng y Krajewski đã tham dự buổi làm phép quán ăn cho người nghèo thuộc trung tâm thánh Martino de Porres, do các cha dòng Đa Minh ở địa phương phụ trách. Từ hai mươi năm nay, qua trung tâm này, các cha vẫn giúp đỡ và săn sóc các bà mẹ độc thân, người vô gia cư và người cao tuổi. Nhiều người tìm được nơi tá túc tại trung tâm này.
Đặc biệt, tại thủ đô Kiev, Đức Hồng y Bộ trưởng Bác ái của Tòa Thánh đã viếng thăm nhà thờ thánh Nicola, đã bị hư hại trong vụ một loạt tên lửa của Nga bắn vào khu vực này. Cả sáu đại sứ quán của các nước cũng bị tổn thương
Đức Thánh Cha Phanxicô đang ngồi, với lễ phục màu đỏ, trước cánh cửa đồng phía bên phải Nhà thờ Kinh Lạy Cha, bên trong nhà tù Rebibbia. Sau đó, ngài đứng lên và gõ cánh cửa đồng sáu lần, cửa được mở ra. Với những bước chậm rãi, ngài đi qua Cửa Thánh tại nhà tù này. Lần đầu tiên trong lịch sử, một Đức Giáo Hoàng mở Cửa Thánh không phải trong một vương cung thánh đường mà bên trong một nhà tù. Đức Thánh Cha Phanxicô muốn làm điều đó để mang món quà hy vọng – chủ đề của cả Năm Thánh – đến một nơi bị giam cầm và khó khăn, nơi nó rất dễ bị đánh mất.
Một cử chỉ xuất phát từ yêu cầu của tù nhân
Một cử chỉ đặc biệt, chưa từng có của Đức Thánh Cha, thậm chí còn rất long trọng không kém nghi thức mở Cửa Thánh ở Đền thờ Thánh Phêrô. Một cử chỉ là kết quả từ những câu hỏi của chính các tù nhân: “Thật hay, Năm Thánh bắt đầu nhưng có gì đặc biệt đối với chúng tôi?”. Họ nói điều này với giám mục phụ tá của Roma, đức cha Benoni Ambarus, người đã trình bày những yêu cầu này với Đức Thánh Cha. Đức cha Ambarus tâm sự: “Đó là một giấc mơ mà chúng tôi đã nuôi dưỡng trong thời gian dài”.
Trong Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã có một bài giảng ứng khẩu:
“Hôm nay tôi muốn mở Cánh Cửa ở đây. Tôi đã mở Cửa đầu tiên tại Đền thờ thánh Phêrô, cái thứ hai là của anh chị em. Thật cử chỉ thật đẹp khi mở Cánh Cửa, mở ra. Nhưng quan trọng hơn là ý nghĩa của nó: nó đang mở rộng trái tim anh chị em. Hãy mở cửa trái tim. Và đây chính là điều mà tình huynh đệ thực hiện”.
Ngài nói tiếp: “Những trái tim khép kín, những trái tim chai cứng, không giúp chúng ta sống. Do đó, ân sủng của Năm Thánh là mở rộng, mở ra và trên hết là mở rộng trái tim để hy vọng”. Ngài so sánh niềm hy vọng này với một chiếc neo, một cái gì đó để bám vào giữa những khó khăn và những viễn cảnh đen tối nhất.
Đức Thánh Cha khuyến khích: “Hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng! Hãy suy nghĩ cẩn thận về điều này. Tôi cũng nghĩ như thế, vì trong những lúc tồi tệ người ta nghĩ rằng mọi chuyện đã kết thúc, không thể giải quyết được gì. Nhưng hy vọng không bao giờ làm thất vọng”. Niềm hy vọng ở đó, giống như chiếc neo vào bờ, “trên đất” và “chúng ta ở đó với sợi dây, an toàn, bởi vì niềm hy vọng của chúng ta giống như chiếc neo vào đất”.
Một lần nữa, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Đừng mất hy vọng. Đây là thông điệp tôi muốn gửi đến anh chị em; đến mọi người, tất cả chúng ta. Tôi là người đầu tiên. Mọi người. Đừng mất hy vọng. Hy vọng không bao giờ thất vọng. Không bao giờ”. Đôi khi thật khó để giữ chặt sợi dây này: “Nó làm cho tay đau…”. Nhưng khi chúng ta nhìn vào bờ, thì “mỏ neo” sẽ đưa chúng ta “tiến về phía trước”. “Luôn có điều gì đó tốt đẹp, luôn có điều gì đó để tiến về phía trước”.
Mở cửa trái tim là lời mời cuối cùng ngài gởi đến các tù nhân và nhân viên của nhà tù Rebibbia: “Trái tim khép kín sẽ quên đi sự dịu dàng. Ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, mỗi chúng ta đều có hoàn cảnh riêng - dễ dàng hơn, khó khăn hơn - nhưng luôn có một trái tim rộng mở. Trái tim chính là thứ làm cho chúng ta trở thành anh chị em. Hãy mở rộng cánh cửa trái tim. Mọi người đều biết cách thực hiện. Mỗi người đều biết nơi đâu cửa đang đóng hay đóng một nửa. Mỗi người đều biết”.
Vì thế tôi cầu chúc anh chị em có một “trải nghiệm một Năm Thánh tuyệt vời”: “Tôi chúc anh chị em thật nhiều bình an, nhiều bình an. Và mỗi ngày tôi cầu nguyện cho anh chị em. Thật sự. Đây không phải là một cách nói. Tôi nghĩ đến anh chị em và cầu nguyện cho anh chị em. Và xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi. Xin Cảm ơn”.
Hòa bình chỉ có thể đạt được thông qua đối thoại và hòa giải thực sự
Nói về chiến tranh, “sự thất bại của con người”, Đức Thánh Cha than phiền về sự giả dối của các quốc gia ủng hộ hòa bình trong khi lại kiếm lợi từ hoạt động buôn bán vũ khí. Trong nhiều bài phát biểu và lời kêu gọi, ngài cũng lên án số các cuộc xung đột ngày càng tăng - đặc biệt là tình trạng bạo lực đang diễn ra ở Ucraina và Thánh Địa - và khẳng định lại xác tín của ngài rằng hòa bình chỉ có thể đạt được thông qua đối thoại và hòa giải thực sự.
Và nhắc lại hậu quả tai hại của việc buôn bán vũ khí, Đức Thánh Cha lên án thực tế rằng “một trong những khoản lợi nhuận đầu tư lớn nhất ở châu Âu đến từ các nhà máy sản xuất vũ khí. Vì vậy, chúng ta tổ chức các hội nghị và cuộc họp hòa bình, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục sản xuất vũ khí để giết người”. Ngài ám chỉ rằng nhân loại có nguy cơ xây dựng một tương lai mong manh và nguy hiểm nếu tiếp tục theo quỹ đạo hiện tại.
Thừa nhận tính phức tạp của các cuộc xung đột hiện đại, Đức Thánh Cha chỉ ra sự thất bại của đạo đức cá nhân và lợi ích cá nhân là nguyên nhân khiến các cơ chế quốc tế không hiệu quả. Ngài nhấn mạnh: “Đối thoại là điều cốt yếu. Nếu không có đối thoại, sẽ không có hòa bình. Chúng ta phải ngừng tấn công lẫn nhau, ngừng phá hoại lẫn nhau và bắt đầu tạo nên những tương tác với nhau. Hòa bình đạt được thông qua đối thoại”.
Về việc Liên minh châu Âu cần tiếp tục làm việc vì hòa bình, Đức Thánh Cha nói: “EU không được đánh mất sự độc lập mà mình có trong vấn đề này. Đây là điều thúc đẩy sự thống nhất nội bộ và từ đó, EU có được sức mạnh để tương tác với bên ngoài. Các thể chế này đã suy yếu một chút, nhưng chúng vẫn có khả năng thúc đẩy đối thoại”.
Chống lại sự cực đoan và phân cực
Trong một thế giới ngày càng phân cực bởi các hệ tư tưởng, Đức Thánh Cha kêu gọi tập trung quá trình đổi mới vào sự thật và đối thoại. Ngài cảnh báo về những nguy cơ của chủ nghĩa phủ nhận (lựa chọn phủ nhận thực tế); ngài mô tả nó là “sự tự sát”, và thúc giục các nhà lãnh đạo giải quyết gốc rễ của xung đột bằng sự trung thực và khiêm nhường. Ngài nói: “Chủ nghĩa phủ nhận luôn nguy hại. Khi một người phủ nhận một thực tế, một lịch sử, một tình huống cụ thể, người đó đang tự bắn vào chân mình. Chỉ có thực tế mới giúp tìm ra cách thoát khỏi xung đột”.
Đức Thánh Cha cũng lên tiếng phản đối sự đan xen giữa tôn giáo với chính trị nhà nước, lưu ý rằng những liên minh như vậy thường dẫn đến sự không khoan dung và đàn áp. Ngược lại, ngài ca ngợi những ví dụ về sự chung sống và đối thoại, chẳng hạn như những gì ngài chứng kiến ở Indonesia.
Giáo hội hiệp hành: bao gồm những khác biệt
Suy tư về Thượng Hội đồng Giám mục kết thúc vào tháng 10, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cột mốc này trong triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài nói: “Giáo hội không còn là sự áp đặt từ trên xuống nữa”. Ngài giải thích: “Không còn là các giám mục, Giáo hoàng, các linh mục, các nữ tu; mà là Giáo hội từ cơ cấu bên dưới thể hiện chính mình và tạo ra cộng đoàn”. Và ngài mô tả Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội phát triển nhờ sự hòa hợp giữa những hỗn loạn, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
"Hôm qua, họ đã không cho Thượng phụ của Jerusalem vào Gaza như đã hứa. Hôm qua, trẻ em đã bị đánh bom. Đây là sự tàn ác, đây không phải là chiến tranh. Tôi muốn nói điều này vì nó đã chạm đến trái tim của tôi", Giáo hoàng Francis nói với các thành viên cấp cao của Tòa thánh Vatican ngày 21-12.
Trước đó một ngày, theo một cơ quan cứu hộ dân sự của người Palestine tại Dải Gaza, 12 người trong cùng một gia đình đã thiệt mạng khi Israel không kích trúng nhà của họ tại Jabalia phía bắc Gaza.
"Tất cả những người đã chết đều cùng một gia đình, trong đó có 7 trẻ em và đứa lớn nhất chỉ mới 6 tuổi", cơ quan này nói thêm. Quân đội Israel sau đó khẳng định với Hãng thông tấn AFP rằng họ đã tấn công một số thành viên của lực lượng Hamas đang có trong khu vực và gây ra mối đe dọa cho binh sĩ Israel.
Phía Israel cũng thừa nhận có thương vong trên mặt đất, song số liệu không đến mức như phía Palestine công bố.
Trong tuyên bố ngày 22-12, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Israel đã mô tả phát biểu của Giáo hoàng Francis là "đặc biệt đáng thất vọng, bởi chúng không liên quan đến bối cảnh thực tế và đúng đắn cho cuộc chiến chống khủng bố của Israel".
Người này cũng nhấn mạnh đây là một cuộc chiến tranh trên nhiều mặt trận mà Israel buộc phải bắt đầu từ ngày 7-10, thời điểm Hamas bất ngờ tấn công khiến hàng ngàn dân thường Israel thiệt mạng.
"Sự độc ác ở đây là những kẻ khủng bố ẩn sau trẻ em trong khi cố gắng giết hại trẻ em Israel. Sự độc ác là việc giam giữ 100 con tin trong 442 ngày, bao gồm một em bé", đại diện Bộ Ngoại giao Israel phản pháo phát ngôn của Giáo hoàng Francis.
Khác với những người tiền nhiệm, Giáo hoàng Francis thường đưa ra quan điểm về các vấn đề thời sự thế giới.
Với cuộc chiến giữa Hamas và Israel, ông đã kêu gọi hòa bình ngay từ khi súng nổ và tăng cấp dần trong những tuần gần đây khi đưa ra những phát biểu lên án các vụ tấn công của Israel.
Trong một cuốn sách mới xuất bản, Giáo hoàng Francis đã kêu gọi một cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng về việc liệu tình hình ở Gaza có "phù hợp với định nghĩa kỹ thuật" về tội diệt chủng hay không. Israel đã nhiều lần kiên quyết bác bỏ việc sử dụng thuật ngữ này để mô tả chiến dịch quân sự tại Gaza.
Năm 2013, Tòa thánh Vatican đã công nhận nhà nước Palestine và ủng hộ giải pháp hai nhà nước, với nhà nước Israel và nhà nước Palestine cùng tồn tại hòa bình.
Đức Thánh Cha nhận xét, trong một thời điểm lịch sử, trong đó các nhà lập pháp trên thế giới luôn phải thường xuyên đối diện với nhu cầu ngày càng tăng về quy định các vùng lãnh thổ mở ra theo tiến bộ, thì cần phải cập nhật pháp luật nhằm đáp ứng đòi hỏi phát sinh từ toàn cầu hoá.
Ngài viết: “Tiến trình hội nhập tất yếu của các hệ thống pháp luật, và sự hợp tác, vì sự phát triển xã hội và hòa bình giữa các dân tộc, được yêu cầu đối với từng quốc gia, trong sự tôn trọng đặc thù của mỗi quốc gia, làm cho sự hiểu biết rộng rãi và hỗ tương về các quy tắc điều chỉnh các lĩnh vực mà họ thực thi chủ quyền trở thành thiết yếu hơn bao giờ hết”.
Nói về hệ thống hình sự và tố tụng của Vatican, được xây dựng trong suốt gần một thế kỷ xung quanh các văn bản có hiệu lực ở Vương quốc Ý vào năm 1929, Đức Thánh Cha nhắc lại nhiều cập nhật cần thiết để làm cho luật Vatican luôn bắt kịp thời đại, và đáp ứng các giá trị được chia sẻ bởi các hệ thống pháp luật hiện đại nhất. Những đặc điểm này tạo nên tập hợp các luật, trong một thời gian dài đã tạo nên các quy phạm, vượt xa ý nghĩa và chức năng của một công cụ làm việc đơn thuần, bởi vì nó thực hiện hoá các mục đích mà các hệ thống hình sự ngày nay phải hướng đến.
Dự án, do công ty quản lý lưới đường bộ và đường cao tốc quốc gia Ý giám sát, đã phải đối diện với những thách đố đáng kể, bao gồm các khám phá cổ gần đường hầm mới. Trong suốt nhiều tháng làm việc, các kỹ sư đã làm việc chặt chẽ với các cơ quan di sản văn hóa để bảo tồn các hiện vật cổ đồng thời cải thiện khả năng tiếp cận và lưu lượng giao thông. Kết quả cuối cùng là một không gian hiện đại được bao quanh bởi lịch sử, kết hợp liền mạch ý nghĩa tinh thần của Vatican với nhu cầu thực tế của một thủ đô nhộn nhịp.
Hiện diện tại buổi lễ, về phía Toà Thánh có Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh, Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Phụ trách Phân Bộ thứ nhất của Bộ Loan báo Tin Mừng, phụ trách tổ chức Năm Thánh; về phía chính phủ Ý, có bà Giorgia Meloni, Thủ tướng Ý, ông Roberto Gualtieri, Đô trưởng Roma.
Phát biểu tại buổi lễ, Đức Hồng Y Parolin nói: “Đây là một khoảnh khắc ý nghĩa và đối với cá nhân tôi, đó là một thời điểm tri ân. Có thể nói rằng nhiều năm làm việc đã được hoàn thành”. Ngài nhấn mạnh thêm về những bước phát triển đầu tiên kể từ Năm Thánh 1950 và việc thiết lập đại lộ Hòa Giải (Via Della Conciliazione) dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XII .
Quốc vụ khanh Toà Thánh kết luận: “Ở quảng trường mới, cổ xưa và hiện đại kết hợp với nhau một cách hài hoà, giữa Lâu đài Thiên thần với hàng cột Bernini. Một công trình có giá trị kỹ thuật lớn đã được hoàn thành, sẽ giúp dễ dàng chiêm ngắm một thành phố có sông Tevere chảy qua nhưng không chia cắt”.
Về phía Đô trưởng Roma, ông Roberto Gualtieri đề cập đến những con số của dự án - 110 công nhân, chia thành ba ca với tổng cộng 450 ngày làm việc, không nghỉ-, nhấn mạnh “ít người tin vào điều đó, nhưng chúng ta đã làm được. Theo ông, quảng trường vừa được hoàn thành dường như muốn ôm lấy tất cả, biểu tượng một mùa hiệp thông, hợp tác mới giữa Tòa Thánh, Nhà nước Ý và thủ đô Roma. Quảng trường Pia trở thành khu đi bộ đô thị rộng lớn nhất ở Roma, với tổng sức chứa 150 ngàn người. Như thế, nơi đây là một cơ hội để “tổ chức nhiều sự kiện Năm Thánh” và tái khởi động, như ông nói với Vatican News bên lề sự kiện, “một thông điệp mạnh mẽ về hy vọng, tình huynh đệ và hòa bình”.
Cũng phát biểu trong buổi khánh thành, Thủ tướng Ý, bà Giorgia Meloni nói về một “phép màu dân sự nhỏ”, coi Năm Thánh là một sự kiện “trước hết là đức tin, cho phép chúng ta đối diện với chính mình một chút”. Bà Meloni hy vọng “thời gian dành cho chính mình sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ dư thừa. Ba-lô của người hành hương rất nhẹ vì chỉ chứa những thứ cần thiết”.
Cũng phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ Cơ sở hạ tầng, Matteo Salvini, ca ngợi sự “hội nhập” giữa người lao động Ý và nước ngoài cũng như sự thống nhất về ý định của “các lực lượng chính trị, xã hội và công đoàn” trong việc thực hiện công việc, “tất cả cùng chèo một hướng”.
Sau lời chào mừng của ông Stefano Antonio Donnarumma, Giám đốc điều hành Đường sắt Ý và Francesco Rocca, chủ tịch khu vực Lazio, lễ khánh thành kết thúc bằng nghi thức cắt băng khánh thành truyền thống và đoàn xe của công ty quản lý lưới đường bộ và đường cao tốc quốc gia Ý đi qua, tiếp theo là chiếc Fiat 500 màu trắng, cùng mẫu xe đã đưa Đức Thánh Cha Phanxicô đi vòng quanh New York vào tháng 9/2015.
Buổi làm phép được cử hành ở lối vào Bảo tàng viện và hệ thống này được hoàn thành với thời gian kỷ lục, đúng hẹn, sáu tháng trước khi khai mạc Năm Thánh, vào ngày 24 tháng Mười Hai sắp tới. Hiện diện trong dịp này, đặc biệt có bà Barbara Jatta, Giám đốc Bảo tàng viện Vatican.
Qua công trình này, Quốc gia thành Vatican đang thực hiện các chỉ dẫn của Đức Thánh cha trong Thông điệp “Laudato sì”, ban hành năm 2015 về việc bảo vệ trái đất như căn nhà chung của chúng ta, đồng thời cũng góp phần thực thi những cam kết quốc tế đã được đề ra tại Hội nghị quốc tế tại Paris, về sự thay đổi khí hậu.
Trong những tháng qua, Vatican đã theo đuổi các sáng kiến gia tăng sử dụng năng lượng tái tạo và dùng các phương tiện di chuyển bằng điện cũng như tối ưu hóa nguồn nước. Đối tác hợp tác trong lãnh vực này là công ty Acea cung cấp nước của Ý. Trong chiều hướng này, toàn thể các xe của Vatican sẽ được chuyển sang phương tiện chạy bằng điện, được cung cấp từ năng lượng tái tạo tại các trạm sạc điện ở nội thành Vatican.
Bang Uttar Pradesh là một trong những nơi luật cấm cải đạo bị những người Ấn giáo cuồng tín áp đặt ngặt nghèo nhất. Cảnh sát tại Sitapur đã bắt giam bảy tín hữu Tin lành thuộc cộng đoàn ở vùng Sidhauli Kotwali và tiến hành các thủ tục truy tố họ. Một cuốn nhật ký dài 70 trang và hai điện thoại di động của các tín hữu vừa nói, cũng bị tịch thu. Họ bị cảnh sát buộc vào tội cải đạo những người nghèo và yếu thế, chiêu dụ tín đồ bằng công ăn việc làm và tiền bạc. Và như mọi khi, một số thành phần tổ chức quốc gia Ấn giáo Vishwa Hindu Parishad tố cáo các Kitô hữu và yêu cầu cảnh sát can thiệp.
Luật chống cải đạo ở bang Uttar Pradesh đã được tu chính để trở nên ngặt nghèo hơn từ ngày 29 tháng Bảy năm nay, theo đó không phải những người liên hệ nhưng bất ai cũng có thể tố giác những vụ gọi là “cưỡng bách cải đạo”. Ngoài ra, hình phạt được gia tăng tối đa, bị can có thể phạt tù tới án chung thân, và phạt tiền tăng, từ một trăm ngàn lên năm trăm ngàn Rupee, tương đương với năm ngàn sáu trăm Euro trong những trường hợp có liên hệ tới phụ nữ, trẻ vị thành niên và người cùng đinh Dalit.
Đức giám mục Công giáo Gerald Mathais của Giáo phận Lucknow nói với hãng tin Công giáo Asia News rằng: “Luật chống cải đạo ở Uttar Pradesh là luật ngặt nghèo nhất tại Ấn. Đó là một phương tiện bị lạm dụng trầm trọng và thỉnh thoảng các tín hữu và mục tử bị bắt. Và cả việc xin tại ngoại hầu tra hay tự do tạm thời cũng là một công trình khó khăn. Cộng đồng Kitô sống trong sợ hãi vì cử hành tất cả buổi cầu nguyện nào trong nhà cũng trở thành điều rủi ro. Nhân quyền cơ bản được tuyên xưng, rao giảng và thực hành tín ngưỡng của mình, như Hiến pháp Ấn Độ bảo đảm, trong thực tế bị vi phạm nặng nề. Trong năm nay người ta ghi nhận có hơn 673 vụ bạo hành và tàn ác chống Kitô hữu.
Cha Ananda Matthew IMS, điều hợp viên Liên minh những người bênh vực nhân quyền, Sanjha Sandra Manch, có trụ sở ở thành phố Varanasi nói với hãng tin Asia News, rằng: “Mỗi Chúa nhật, đều có các mục sư Tin lành bị tấn công, ngược đãi và bị bắt tại bang Uttar Pradesh, không phải vì họ phạm tội ác nào đó, nhưng vì họ tỏ ra can đảm trong việc cầu nguyện với những người dễ bị tổn thương nhất. Họ bị tấn công và bị bắt vì là những người tích cực hoạt động cho Tin mừng. Cả tại bang Chhattisgarh, Kitô hữu bị trục xuất khỏi làng mạc của họ. Dịp lễ Giáng sinh này, nhiều người qua đêm ngoài trời. Tất cả những điều đó xảy ra trong khi thủ tướng tổ chức một bữa chiều cho các vị lãnh đạo Kitô, và nói rằng tại Ấn Độ mọi người đều bình đẳng và nước này là một nơi an toàn cho các Kitô hữu”.
Ngày 11/01: Châu Phi nói không với Tuyên bố Fiducia Supplicans
Đầu năm nay, Đức Thánh Cha đã phải đối diện với khó khăn do văn kiện Fiducia Supplicans được công bố vào cuối năm 2023, cho phép chúc lành ngoài phụng vụ các cặp đồng tính.
Một số bày tỏ phản đối mạnh mẽ chống lại sáng kiến này của Bộ Giáo lý Đức tin. Đặc biệt, các giám mục châu Phi, dưới sự lãnh đạo Đức Hồng Y Fridolin Ambongo, đã công bố một tuyên bố từ chối áp dụng văn kiện này. Vào tháng 3, lại có một trở ngại khác, lần này trong lĩnh vực đại kết: Giáo hội Chính thống Copte Ai Cập tuyên bố ngưng đối thoại thần học với Công giáo, với lý do được đưa ra là do sự khác biệt “quan điểm đồng tính luyến ái”. Đức Hồng Y Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã tới Cairo vào tháng 5 để gặp trực tiếp Đức Thượng Phụ Tawadros II, Giáo hội Chính thống Copte Ai Cập.
Ngày 12/01: Đức Thánh Cha bị bệnh về đường hô hấp
Trong những tháng đầu năm 2024, Đức Thánh Cha bị bệnh về đường hô hấp buộc ngài phải hủy bỏ nhiều cuộc gặp gỡ và giao việc đọc các bài giáo lý và diễn văn cho những người cộng tác. Ngài đã mất một thời gian dài để phục hồi. Vào cuối tháng 3, để không bị bệnh do thời tiết lạnh, vào những phút cuối Đức Thánh Cha đã quyết định không đến chủ sự buổi suy niệm Đàng Thánh giá trọng thể, ở Hý trường Colosseo, Roma, và ngài dự buổi cử hành này qua truyền hình, từ Nhà thánh Marta ở Vatican.
Nhưng sau đó, vào mùa thu Đức Thánh Cha đã phục hồi nhanh chóng và tiếp tục thực hiện các chuyến tông du. Và ngài có lại được sức khoẻ ổn định, như được thấy trong các buổi tiếp kiến và gặp gỡ, mặc dù vào đầu tháng 12, ngài bị ngã khiến cằm bị bầm tím.
Ngày 03/4: Đức Thánh Cha trải lòng về Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI
Trong cuốn sách “El Sucesor - Người Kế nhiệm”, nội dung là cuộc phỏng vấn của nhà báo người Argentina Javier Martinez-Brocal, được công bố vào ngày 03/4, Đức Thánh Cha nói về những hồi ức của ngài về vị tiền nhiệm, Đức cố Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Đức Thánh Cha nói rằng đối với ngài, Đức Biển Đức là một người cha, luôn bảo vệ và không bao giờ can thiệp vào công việc của ngài.
Phủ nhận những người muốn gây chia rẽ giữa hai vị, Đức Thánh Cha thú nhận, trong mật nghị Hồng y năm 2005, ngài bầu cho Đức Hồng Y Joseph Ratzinger và coi Đức Biển Đức XVI là nhà thần học trổi vượt.
Đức Thánh Cha cũng tiết lộ muốn một nghi thức đơn giản cho tang lễ của chính ngài, và cho biết phần mộ của ngài đã được chuẩn bị ở Đền thờ Đức Bà Cả.
Ngày 28/4: Đức Thánh Cha viếng thăm thành phố nổi Venezia
Đức Thánh Cha đã dành 8 tiếng để thực hiện chuyến viếng thăm mục vụ tại Venezia, vào ngày 28/4. Đầu tiên, ngài đã đến thăm một nhà tù, sau đó gặp gỡ các nghệ sĩ nhân dịp cuộc triển lãm nghệ thuật thứ 60, trong đó cũng có một gian hàng của Tòa Thánh do Bộ Văn hóa của Tòa Thánh đảm trách. Tại sự kiện, Đức Thánh Cha tuyên bố “thế giới cần các nghệ sĩ”. Và sự kiện cuối cùng tại đây là Thánh lễ. Nhân dịp này, ngài khuyến khích người dân Venezia bảo vệ di sản sinh thái, cũng như “di sản nhân loại của họ”.
Đức Thánh Cha còn hai lần nữa đến thăm vùng đông bắc nước Ý: vào ngày 18/5 tới Verona để tham dự cuộc họp mặt lớn về hòa bình ở hý trường Arena, và ngày 07/7 tới Trieste để bế mạc Tuần lễ xã hội Công giáo lần thứ 50.
Ngày 28/5: Đức Thánh Cha xin lỗi vì dùng từ ngữ xúc phạm
Vào những ngày cuối tháng 5, một số trang mạng cho rằng trong buổi trao đổi riêng giữa Đức Thánh Cha và khoảng 200 giám mục Ý ngày 20/5, ngài đã xúc phạm người đồng tính khi dùng từ “frociaggine” trong tiếng lóng của Ý, thường có nghĩa tiêu cực, thay vì từ “omossessualità” để chỉ sự đồng tính luyến ái.
Sau đó, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã đưa ra một tuyên bố khẳng định: “Đức Thánh Cha không bao giờ có ý xúc phạm hoặc thể hiện mình bằng những thuật ngữ kỳ thị người đồng tính, và ngài gửi lời xin lỗi tới những người cảm thấy bị xúc phạm khi ngài sử dụng từ này, như những người khác thuật lại”.
Theo báo Avvenire -Tương lai của Hội đồng Giám mục Ý, lập trường trên đây của Đức Thánh Cha không có gì là mới mẻ. Huấn thị của Bộ Giáo sĩ năm 2005 dưới triều Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã khẳng định rằng: “Tuy có lòng tôn trọng sâu xa đối với những người đồng tính luyến ái, Giáo hội không thể nhận vào chủng viện và cho chịu các thánh chức đối với những người có xu hướng đồng tính luyến ái tại căn, hoặc chủ trương văn hóa đồng tính luyến ái”.
Ngày 14/6: Đức Thánh Cha tham dự hội nghị thượng đỉnh G7 về trí tuệ nhân tạo
Tham dự hội nghị về trí tuệ nhân tạo, Đức Thánh Cha đã nói về cơ hội, mối nguy và ảnh hưởng của trí tuệ nhân tạo: nhân loại sẽ bị kết án trong một tương lai vô vọng nếu khả năng quyết định về bản thân và cuộc sống của họ bị tước đi khỏi con người, buộc họ phải phụ thuộc vào sự lựa chọn của máy móc. Trí tuệ nhân tạo không thể thay thế con người đưa ra quyết định. Ngài nhấn mạnh tính cấp thiết đặt phẩm giá con người trở lại trung tâm theo một đề xuất đạo đức chung.
Từ ngày 02 đến 13/9: Chuyến tông du dài ngày đến châu Á và châu Đại Dương
Với 44 giờ bay và 32.000 km di chuyển, chuyến viếng thăm dài ngày đến châu Á và châu Đại Dương vào tháng 9 đã phá vỡ mọi kỷ lục tông du của Đức Thánh Cha. Điều đáng ngạc nhiên nhất là vị Giáo hoàng lúc đó gần 88 tuổi dường như tràn đầy sinh lực sau chuyến đi này.
Tại Indonesia, Đức Thánh Cha đã khuyến khích một Giáo hội thiểu số tìm chỗ đứng của mình bên cạnh cộng đồng Hồi giáo lớn nhất thế giới. Ở Papua New Guinea xanh tươi, ngài đã trở thành nhà truyền giáo hòa bình chống lại nạn bạo lực đang tàn phá đất nước. Sau đó, ngài đã thực hiện cuộc viếng thăm được cho là rất thành công đến Đông Timor, một đất nước đa số Công giáo mà ngài ca ngợi là trẻ. Và cuối cùng đến Singapore, nơi ngài ủng hộ sự hòa hợp giữa các tôn giáo và tôn trọng người di cư.
Từ ngày 26 đến 29/9: Chuyến tông du khó khăn của Đức Thánh Cha đến Bỉ
Sau chặng dừng chân mang tính biểu tượng ở Luxembourg, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực hiện chuyến viếng thăm Bỉ. Đó là một trong những khó khăn nhất trong triều giáo hoàng của ngài.
Trong những lời chào mừng tại dinh thự Hoàng gia, Nhà vua và Thủ tướng đã hỏi Đức Thánh Cha về những vụ bê bối lạm dụng tình dục của các linh mục. Sau khi tiếp đón các nạn nhân, Đức Thánh Cha đã thay đổi nội dung bài giảng trong Thánh lễ được cử hành tại sân vận động King Baudouin để yêu cầu các giám mục nỗ lực chống lại tai họa này một cách hiệu quả hơn.
Vào cuối thánh lễ, Đức Thánh Cha tuyên bố đang mở tiến trình phong chân phước cho vua Baudouin, vì ông phản đối việc hợp pháp hóa phá thai. Và ngài đã bị chỉ trích mạnh mẽ trong chuyến thăm Đại học Công giáo Leuven vì lập trường “ủng hộ sự sống” của ngài và quan điểm truyền thống về vai trò của phụ nữ.
Từ ngày 2 đến 27/10: Thượng hội đồng về tính hiệp hành
Trong suốt tháng 10, Đức Thánh Cha đã chủ trì phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng về hiệp hành, trong đó 368 thành viên từ khắp nơi trên thế giới, với 25% trong số đó không phải là giám mục, đã cùng nhau suy tư về một cách toàn diện hơn, có tính tham gia hơn và ít giáo sĩ hơn.
Phiên họp này được cho là kết thúc một tiến trình bắt đầu vào năm 2021, nhưng thực tế, công việc vẫn đang tiếp diễn. 10 nhóm làm việc do Đức Thánh Cha thành lập để nghiên cứu một số vấn đề nhạy cảm phải đưa ra kết luận vào tháng Sáu năm 2025.
Vào cuối Thượng Hội đồng, Đức Thánh Cha đã ký Văn kiện Chung kết của các thành viên Thượng hội đồng. Ngài mô tả Văn kiện này như một phần của “Giáo huấn thông thường của Người kế vị Thánh Phêrô” và yêu cầu tôn trọng bản chất có thẩm quyền của tài liệu.
Ngày 22/10: Thỏa thuận với Trung Quốc được gia hạn thêm 4 năm
Lần thứ ba, Tòa Thánh và Trung Quốc đã gia hạn thỏa thuận mục vụ năm 2018 về thủ tục bổ nhiệm giám mục ở Trung Quốc. Mặc dù văn bản vẫn mang tính chất tạm thời và không công khai, nhưng hoạt động ngoại giao giáo hoàng của Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Toà Thánh Pietro Parolin đã đạt được tiến bộ cụ thể: thỏa thuận đã được gia hạn thêm bốn năm, thay vì hai năm.
Tại Vatican, hiện nay các buổi tiếp kiến chung cũng được tóm tắt bằng tiếng Quan thoại, các giám mục Trung Quốc đã tham gia Thượng hội đồng và một hội nghị chuyên đề dịp kỷ niệm 100 năm Công đồng đầu tiên của Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc, và thỏa thuận cho phép bổ nhiệm 5 giám mục mới.
Ngày 7/12: Công nghị Hồng y với 20 hồng y cử tri
Đức Thánh Cha tiếp tục thành lập hồng y đoàn bầu chọn người kế vị bằng cách triệu tập công nghị thăng 21 hồng y, 20 trong số đó dưới 80 tuổi và do đó, có thể bỏ phiếu trong trường hợp mật nghị. Trong Công nghị Hồng y lần thứ mười, Đức Thánh Cha đã chọn những gương mặt phù hợp với các cuộc cải cách mục vụ khởi đầu từ năm 2013, như nhà thần học Timothy Radcliffe và Đức Tổng Giám Mục Jean-Paul Vesco của Algeria.
Trong khi châu Phi vẫn còn ít đại diện (2 hồng y trong công nghị này), châu Á tiếp tục tăng, chiếm 16% đại diện và thậm chí 18% nếu bao gồm các hồng y từ Trung Đông - Hồng y Dominique Joseph Mathieu, Tổng Giám Mục Tehran-Isfahan của Công giáo Latinh. Trong số 140 hồng y cử tri hiện nay, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm gần 80%.
Ngày 15/12: chọn Corsica thay vì Notre-Dame
Một lần nữa, thích các vùng ngoại vi hơn là trung tâm, Đức Thánh Cha đã làm mọi người ngạc nhiên khi chọn đến thăm đảo Corsica của Pháp để tham dự một hội nghị về “Lòng đạo đức bình dân ở miền Địa Trung Hải”, trong đó các giám mục Ý, Pháp và Tây Ban Nha cũng tham gia.
Tại Ajaccio, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến một “thế tục lành mạnh”, trong đó Corsica, nơi các truyền thống Công giáo vẫn bám rễ sâu, theo ngài là một thí dụ điển hình.
Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với các giáo sĩ địa phương và Thánh lễ được cử hành dưới tượng Napoléon Bonaparte đã tỏ lộ mối liên kết bền chặt giữa người dân Corsica và Giám mục Roma. Chuyến thăm thứ ba của Đức Thánh Cha tới Pháp kết thúc bằng một cuộc gặp khác với Tổng thống Emmanuel Macron. Trong buổi gặp, Tổng thống đã tặng ngài một cuốn sách về việc tái thiết Nhà thờ Đức Bà Paris.