Lượm lặt tin tức Công giáo tuần qua (cập nhật) | Minh Đỗ Texas

145 views
Skip to first unread message

Mikali Nguyễn

unread,
Sep 20, 2024, 8:13:22 PM9/20/24
to alphonsefamily






Người Công Giáo Mỹ có phải là người vô gia cư về mặt chính trị không?

Randall Smith (*), trên The Catholic Thing ngày 18 tháng 9 năm 2024, nhận định rằng một bài báo gần đây trên Crux của John L. Allen Jr. có tiêu đề: "Giáo hoàng nắm bắt được sự thật khắc nghiệt: Người Công Giáo Mỹ được định sẵn là 'người vô gia cư về mặt chính trị'". Tôi không phản đối tuyên bố đó, nhưng chỉ đơn giản là đặt tiêu đề đó bên cạnh một tiêu đề khác có nội dung "Chó cắn người". Việc người Công Giáo có thể gặp rắc rối với các nhà chức trách chính trị có phải là tin tức hay không? Ai đó cần đọc Đô thị Thiên Chúa của Thánh Augustinô. Khi nào người Công Giáo không gặp rắc rối với các hoàng tử của thế gian này? Đã bao giờ có chế độ chính trị nào thể hiện học thuyết đạo đức và xã hội của Giáo hội chưa? Tôi chưa bao giờ nghe nói đến.

Một tiêu đề đáng lưu ý hơn sẽ là: "Giáo hoàng nói rằng những người Công Giáo phản đối phá thai sẽ gặp khó khăn khi vào nhiều trường y" hoặc "Giáo hoàng nói rằng những người Công Giáo ở Trung Quốc Cộng sản có thể đang bị chính phủ giám sát".

Tôi không phủ nhận bình luận của John Allen (và của giáo hoàng) rằng có chiều hướng "ít tệ hơn trong hai điều xấu" đối với cuộc đua Trump/Harris hoặc rằng nhiều người Mỹ "đôi khi cảm thấy trong các chu kỳ bầu cử gần đây việc chúng ta đã bị đặt ra trước sự lựa chọn giữa hai phương án thay thế có khiếm khuyết, buộc phải tận dụng tối đa các lựa chọn gây thất vọng". Các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy khoảng 60 phần trăm cử tri mong muốn có những ứng cử viên khác. Tôi không bao giờ chắc chắn có bao nhiêu trong số 60 phần trăm đó chỉ đơn giản là ghét ứng cử viên của đảng kia. Khi bạn xem các đại hội đề cử, mọi người dường như rất phấn khích về ứng cử viên của chính mình.

Tôi tự hỏi liệu điều này có giống như sự căm ghét Quốc hội được báo cáo của mọi người hay không. Các cuộc thăm dò cho thấy chỉ có 16% công chúng nói rằng họ chấp thuận cách Quốc hội đang thực hiện công việc của mình. Tuy nhiên, 98% đến 100% những người đương nhiệm được tái đắc cử. Có lẽ chỉ có những chính trị gia của người khác là những người mà mọi người không thích. Họ thích chính trị gia đảng phái, tham lam của riêng họ; chính là những chính trị gia đảng phái, thích làm lợi cho phe bên kia khiến họ ghê tởm.

Nhưng có lẽ đúng, như Allen gợi ý, "có những người đam mê ở cả hai phía của sự chia rẽ đảng phái của chúng ta, những người có lẽ không nhìn nhận mọi thứ theo cách đó [điều ít tệ hơn trong hai điều tệ hại], nhưng cách Đức Giáo Hoàng Phanxicô đánh giá tình hình vẫn sẽ gây được tiếng vang với một bộ phận lớn người Mỹ... những người đơn giản là không thể đạt được một lập trường hoàn toàn, ngay thẳng và kiên định ủng hộ bất cứ phương án thay thế nào."

Tôi biết rất ít người "đạt được một thỏa thuận hoàn toàn, ngay thẳng và kiên định" với bất cứ ai khác, ngay cả những người bạn thân nhất của họ. Và tôi không nghĩ mình từng gặp bất cứ ai hoàn toàn đồng ý với cương lĩnh chính trị của đảng chính trị của họ. Luôn là một mớ hỗn độn.

Vì vậy, hãy xem, tôi không thể không đồng ý với John Allen về bất cứ điều gì trong phần đầu bài viết của ông, bởi vì ông ô tả những gì tôi cho là tình huống tiêu chuẩn của con người. Tôi cũng không thể không đồng ý với Allen khi ông tuyên bố rằng "bất cứ người Mỹ nào coi trọng toàn bộ giáo lý xã hội Công Giáo đều không thể thoải mái trong bất cứ đảng phái chính trị lớn nào của chúng ta". Như tôi đã nói, hãy đọc Đô Thị Thiên Chúa của Thánh Augustinô về những nguy hiểm khi "thoải mái" trong bất cứ đảng phái chính trị nào.



Tuy nhiên, mặc dù đảng Cộng hòa đã buồn bã làm loãng lập trường chống phá thai của họ, nhưng tình huống "kẻ ít tệ hơn trong hai điều tệ hại" vẫn rõ ràng liên quan đến vấn đề cơ bản nhất trong giáo lý đạo đức Công Giáo: Đừng coi thường mạng sống con người vô tội. Các thành viên của một đảng đã cho thấy rằng họ sẽ ủng hộ và tạo điều kiện cho phá thai như một ưu tiên hàng đầu khi có cơ hội; các thành viên của đảng kia ít nhất cũng cởi mở để hạn chế phá thai trong ranh giới thực tế về mặt chính trị.

Lập trường sau không hẳn là “nhà” đối với người Công Giáo, nhưng chúng ta không có nhà lâu dài trong cuộc sống này, và sự khác biệt giữa những người Công Giáo “cảm thấy như ở nhà” trong các bữa tiệc giống như sự khác biệt giữa một người Do Thái chính thống ở New York nói rằng “Tôi không cảm thấy hoàn toàn như ở nhà ở Cleveland” và nói rằng “Tôi không cảm thấy hoàn toàn như ở nhà ở Gaza”.

Tuy nhiên, có một điều trong bài viết của Allen mà tôi thấy có vấn đề nhất là câu nói cũ rích này: “Mỗi bên trong sự chia rẽ đảng phái của Hoa Kỳ đều mạnh về một phần của học thuyết xã hội Công Giáo nhưng lại tương đối yếu về phần còn lại. Nói một cách đơn giản hóa quá mức, đảng Cộng hòa có xu hướng dễ chịu với giáo lý của Giáo hội về các vấn đề sự sống, tự do tôn giáo và sự ủng hộ của công chúng đối với các tổ chức tôn giáo, trong khi đảng Dân chủ thường gần gũi hơn với giáo lý về các vấn đề xã hội, bao gồm các nỗ lực chống đói nghèo, án tử hình, môi trường và quan hệ chủng tộc”. Không chỉ là “đơn giản hóa quá mức”; mà còn sai nữa.

Những người ủng hộ phá thai không thể “gần gũi hơn” với giáo huấn của Giáo hội về “các vấn đề xã hội” vì giáo huấn đó phụ thuộc vào sự tôn trọng sự sống. Và đối với các nỗ lực chống đói nghèo, môi trường và quan hệ chủng tộc, thật là vô lý khi tuyên bố rằng một đảng độc quyền về mối quan tâm này. Cả hai bên đều muốn giúp đỡ người nghèo, bảo vệ môi trường và giúp thúc đẩy mối quan hệ chủng tộc tốt hơn; họ chỉ đề xuất những cách khác nhau để đạt được những mục đích đó. Vì vậy, không bên nào "gần" với Sách Giáo lý hơn bên kia.

Đối với "Giáo lý của Giáo hội về các vấn đề sự sống, tự do tôn giáo và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo", không chỉ là đảng Cộng hòa "dễ chịu hơn", Harris và Walz phản đối tích cực. Đối với án tử hình, không bên nào sẽ xóa bỏ nó.

Tôi xin lỗi, nhưng sự phân đôi cũ kỹ, mệt mỏi giữa hai bên là "con chó không chịu săn mồi", như người ta vẫn nói ở Texas. Có những vấn đề mà những người lương thiện trung thực có thể không đồng tình về phương tiện thích hợp để đạt được mục đích, chẳng hạn như đói nghèo và môi trường. Và sau đó là những điều trái với luật thần linh và tự nhiên không bao giờ được dung thứ, như giết trẻ sơ sinh hoặc chế độ nô lệ.

Nhiều người trong chúng ta ước rằng giới truyền thông không tập chú quá nhiều vào những rắc rối pháp lý của Donald Trump trong mùa bầu cử sơ bộ để không ai khác có thể lên sóng, vì ông là người mà đảng Dân chủ nghĩ rằng họ có thể đánh bại, nhưng chúng ta đang ở đây.

Tôi không thể bảo mọi người cách bỏ phiếu. Tôi không hài lòng với Trump hơn bất cứ ai khác. Và đảng Cộng hòa cũng không hoàn hảo. Nhưng làm ơn, đừng đưa ra sự tương đương giả tạo giữa hai đảng về giáo lý xã hội Công Giáo.

(*) Randall B. Smith là Giáo sư Thần học tại Đại học St. Thomas ở Houston, Texas. 
Cuốn sách mới nhất của ông là From Here to Eternity: Reflections on Death, Immortality, and the Resurrection of the Body.


Vào khoảng thế kỷ 15-18, thời “Phục Hưng” nhiều nhà tư tưởng chống sự sa đọa của Giáo Quyền La Mã, đồng thời chống luôn Giáo Hội và chống luôn Thiên Chúa. Họ đưa “Quyền Con Người” lên tối thượng.

 

Cuối thế kỷ 18, Cách Mạng Pháp (1789) ra đời, với lập luận là : “Thượng Đế Đã Chết”Trào lưu này đã đẻ ra một  Jean Paul Sartre và Jean Paul Sartre đẻ ra tác phẩm “Buồn Nôn”   (La Nausée, 1938)   vì xã hội này “không còn Thượng Đế”.   

 

Mở đầu thế kỷ 19, “Thuyết Tiến Hóa” của Charles Robert Darwin ra đời chối bỏ “Thuyết Sáng Tạo” trong sách Sáng Thế Ký – sách Cựu Ước của Do Thái và Giáo Hội La Mã.  Thuyết của Darwin được tóm lại là: “Con Người từ Khỉ mà ra” … đó là trình tự đào thải và tiến hóa tự nhiên không cần Thiên Chúa. 

Hồi sau 30/4/1975 bài học chính trị đầu tiên của chế độ CS dành cho các cán bộ hay nhà giáo miền Nam lưu dụng chính là bài học này: “Con Người từ Khỉ mà ra”.

 

Đầu thế kỷ 20, Thuyết “Big Bang - Vụ Nổ Lớn” ra đời cũng chối bỏ “Thuyết Sáng Tạo” được ghi trong sách Sáng Thế của Kinh Cựu Ước và như vậy cũng chối bỏ quyền năng của Thiên Chúa sáng tạo nên Vũ Trụ và Muôn Loài.

 

Cũng đầu thế kỷ 20, Cách Mạng Cộng Sản ra đời bắt đầu bằng học thuyết của Marx-Engels và được triệt để khai thác bởi Lenin và Stalin mở ra kỷ nguyên Cộng Sản-Vô Thần-Cực Tả. CS chủ trương cướp chính quyền khắp nơi trên thế giới bằng tuyên truyền lừa bịp và bạo lực giết chóc tràn lan tạo sự hoảng loạn và cướp các chính quyền ngay sau khi Hoa Kỳ và Hội Quốc Liên đề ra cuộc vận động trao trả độc lập cho mọi quốc gia bị đặt trong tình trạng Thuộc Địa. Họ gọi việc cướp chính quyền này là cuộc cách mạng của giới vô sản. Trong các cuộc “cách mạng” đó, CS Liên Xô - Stalin giết hại 30 triệu dân lành, CS Mao giết hại 60 triệu dân lành, CS Hồ giết hại hơn 2 triệu dân lành, CS Khmer giết hại gần 6 triệu dân lành. CS Cuba-CS Bắc Hàn chắc cũng giết dân lành nhiều không kém…

 

May mắn cho loài người, vào đầu thế kỷ 16, tại Âu Châu đã nổ ra cuộc cách mạng tôn giáo và đã tạo ra luồng gió mới về việc Kitô hữu phải đặt Niềm Tin và Sống Đạo của mình qua sự dìu dắt của Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Linh. Cụ thể là phải học hỏi Lời Chúa trong Thánh Kinh Tân Cựu Ước và sống đạo cho phù hợp.

 

Khi cuộc Cách Mạng Tôn Giáo dẫn tới giai đoạn đối đầu, nhiều giáo sĩ và tín hữu “Tin Lành” đã chạy thoát khỏi lục địa Châu Âu và đi tìm vùng Đất Mới tại lục địa Bắc Mỹ mà nay là Hoa Kỳ và Canada.  Các nhà lãnh đạo các Giáo Hội Tin Lành đã tham khảo Lời Chúa trong Thánh Kinh, và họ đã dựa vào lời của 18 Ngôn Sứ trong Cựu Ước và của Đức Kitô trong Tân Ước để đưa ra những hướng dẫn rất cụ thể để xây dựng nên một Quốc Gia thật tốt đẹp như một “Trời Mới & Đất Mới”.

 

Như vậy các “Giáo Sĩ Quốc Phụ Hoa Kỳ” đã xây dựng các bản Hiến Pháp cho 13 Tiểu Bang đầu tiên và sau này Washington và các nhà lập pháp Hoa Kỳ cũng đã dựa vào hiến pháp của 13 tiểu bang để hình thành nên Bản Hiến Pháp của Liên Bang Hoa Kỳ năm 1789.

 

Điều thật kinh ngạc là những khái niệm về nền Cộng Hòa và Quản Trị Công Quyền đã xuất phát từ  Môsê. Khái niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho như Quyền Tự Do, Quyền Tìm Kiếm Hạnh Phúc, Quyền Tư Hữu đã được các Ngôn Sứ Isaia, Ngôn Sứ Jêrêmia, Ngôn Sứ Êlia...  chỉ dạy rõ ràng.

 

Như vậy, trong suốt hơn 3,500 năm lịch sử. Dân Tộc Do Thái đã thất bại trong việc xây dựng một “Quốc Gia Hùng Cường Dưới Sự Quan Phòng của Thiên Chúa” ngoại trừ một thời gian rất ngắn dưới triều đại của vua Solomon (thế kỷ 10 BC).   Phải mãi đến thế kỷ 16 và sau đó, Hoa Kỳ  đã thay thế vai trò của dân tộc Do Thái xây dựng thành công một Quốc Gia Minh Triết dưới sự quan phòng của Thiên Chúa – God Nation – In God We Trust trong nền “Văn Minh Tư Bản Thiên Chúa Giáo”.

 

Hoa Kỳ đã trở thành Quốc Gia Hùng Cường bậc nhất trong thế kỷ 20-21: có một nền tảng Hiến Pháp và nền Quản Trị Công Quyền  mẫu mực cho các quốc gia khác; Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng là nền tảng cho Hiến Chương Nhân Quyền – Các quyền Dân Sự và Chính Trị của LHQ; Cũng chính Hoa Kỳ tác động tập hợp nên LHQ và cùng LHQ giải thể chế độ Thuộc Địa Toàn Cầu và giải phóng cho khoảng 130 quốc gia nhỏ hoặc yếu kém được trao trả Độc Lập.

 

Nhưng đáng tiếc, Hoa Kỳ Minh Triết & Hùng Cường chưa được bao lâu thì đã bị lao đao bởi chủ nghĩa “Marxism CS Vô Thần Toàn Cầu hóa” . 

Marxism Vô Thần  đã chui sâu vào Hoa Kỳ trong những vỏ bọc mị dân về  “quyền tối thượng của con người” như quyền phá thai, quyền về mầu da sắc tộc, quyền về giới tính, ...   

Chủ nghĩa Marxism đã đi vào Hoa Kỳ, mua chuộc truyền thông, mua chuộc lá phiếu, mua chuộc y tế và nhất là đề cao khái niệm đã bị bóp méo: “Tôn Giáo không làm Chính Trị” để đẩy các lời dạy của Chúa qua các Ngôn Sứ và Quốc Phụ Hoa Kỳ ra khỏi học đường, ra khỏi xã hội…

 

Nhà Nước Marxist xói mòn hiến pháp, xói mòn cấu trúc Tam Quyền Phân Lập. Nhà nước Marxist có quyền tối thượng trên mọi người dân Hoa Kỳ và trở thành “Thượng Đế” ban ơn mưa móc cho mọi người dân. Trong khi các Quốc Phụ Hoa Kỳ đã căn dặn: "Nhà Nước phải nhỏ nhất để Tự Do của Người Dân được lớn nhất".

 

Điều đáng tiếc, Hoa Kỳ đang cùng với thế giới  đi vào trong thời kỳ vô thần hóa, hỗn loạn nhân tính, mơ hồ thiên tính, đề cao các ngẫu tượng vật chất - thú tính trong con người.  Và Lời Chúa qua Giao Ước giữa Môsê (Loài Người) và Thiên Chúa lại vang vọng đâu đó: “Ngày nào các ngươi giữ gìn và thực hành Giao Ước của Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở nên một dân tộc vĩ đại - một Quốc Gia Hùng Cường. Ngày nào các ngươi không giữ gìn và xa rời Giao Ước của Ta, Ngày ấy các Ngươi sẽ bị quân thù bao vây và xâu xé…” Hình như Hoa Kỳ đang bị các “thế lực thù địch” xâu xé thật, khi Hoa Kỳ vừa và đang trải qua các “triều đại thiên Tả mị dân vô thần lường gạt” của Bill Clinton, Obama, và Biden-Harris.


Có lẽ Thiên Chúa đã nghe thấu tai những lời cầu nguyện của những người công chính và đã cứu ứng viên TT Trump không phải trong gang tấc mà là 1-2 cm. Không biết Chúa sẽ làm gì tiếp theo với Ông. Nhưng có lẽ những lời phát biểu của Ông trong sự kiện “Ngày Cầu Nguyện Quốc Gia” vào tháng Hai vừa qua cho chúng ta biết lòng Tín Thác vào Chúa của Ông sẽ đem Ông đến gần với Giao Ước giữa Thiên Chúa và Quốc Gia Hoa Kỳ:

 

Cuộc Cách Mạng MAGA – Make America Great Again – In God We Trust đang chiến đấu để giành lại chiến thắng.

 





Đức Thánh cha trả lời phỏng vấn trên đường từ Singapore về Roma


Trên chuyến bay dài hơn mười hai tiếng đồng hồ từ Singapore về Roma, hôm 13 tháng Chín vừa qua, như thường lệ, Đức Thánh cha Phanxicô đã họp báo, trả lời nhiều câu hỏi của các ký giả cùng đi, về các vấn đề thời sự. Đặc biệt, Đức Thánh cha than phiền vì bao nhiêu tổn hại vì chiến tranh tại Gaza, với hơn 41.000 người Palestine bị giết và không có những bước tiến hữu hiệu để đạt tới hòa bình.

Ký giả Mimmo Muolo của báo Công giáo Ý “Avvenire”, Tương Lai, hỏi Đức Thánh cha về cảm nghĩ của ngài về chiến tranh ở Gaza và có thể có một cuộc trung gian của Tòa Thánh giúp đạt tới một cuộc đình chiến hay không? Đức Thánh cha đáp:

“Tòa Thánh đang hoạt động cho mục tiêu đó. Tôi nói với các bạn về điều này: mọi ngày, tôi đều điện thoại cho Gaza, giáo xứ ở Gaza, trong giáo xứ và trường học tại đó có 600 người, Kitô hữu cũng như Hồi giáo, nhưng họ sống với nhau như anh chị em. Họ kể lại cho tôi những chuyện buồn, những điều khó khăn. Tôi không thể gọi hành động chiến tranh này là “quá khát máu” hay không, khi ta thấy những xác trẻ em bị giết, khi thấy người ta lấy cớ là có vài chiến binh ở một nơi nào đó, để dội bom vào một trường học: đó thật là xấu xa, quá xấu xa. Thỉnh thoảng, người ta bảo đây là một cuộc chiến tự vệ, nhưng nhiều lần tôi nghĩ rằng đây là một cuộc chiến tranh thái quá, và tôi thấy không có những bước được thực hiện để xây dựng hòa bình. Ví dụ, tại Verona, [trong cuộc gặp gỡ hòa bình ngày 18 tháng Năm năm 2024), tôi đã có một kinh nghiệm rất đẹp: một người Do thái có vợ bị thiệt mạng trong một vụ đánh bom, và một người Palestine ở Gaza, nơi con gái ông bị mất mạng. Cả hai đã nói về hòa bình, và họ đã ôm nhau để làm chứng về tình huynh đệ. Tôi muốn nói điều này: tình huynh đệ quan trọng hơn việc giết hại người anh em. Tình huynh đệ bắt tay nhau. Xét cho cùng, người thắng trận sẽ bị một thất bại lớn. Chiến tranh luôn luôn là một thất bại, không có luật trừ. Và chúng ta không được quên điều này. Vì thế, tất cả những gì chúng ta làm cho hòa bình đều là quan trọng. Và tôi cũng muốn nói điều này, có phần xen mình vào chính trị, nhưng tôi phải nói: “Tôi rất cám ơn những gì Quốc vương Giordani đang làm. Nhà vua là một người hòa bình và đang tìm cách thực hiện hòa bình. Vua Abdullah thực là một người tài giỏi và tốt lành”.

Bầu cử tại Mỹ

Nữ ký giả Anna Matranga của đài CBS News, ở Mỹ hỏi Đức Thánh cha về cuộc bầu cử tổng thống sắp tới ở Mỹ, giữa hai ứng cử viên: một người ủng hộ phá thai và một người muốn trục xuất 11 triệu người nhập cư bất hợp pháp, các cử tri Công giáo nên bỏ phiếu cho ai? Đức Thánh cha đáp:

“Cả hai đều chống lại sự sống, người trục xuất di dân và người giết hại các trẻ em. Cả hai đều chống sự sống. Tôi không thể nói phải bỏ phiếu cho ai, tôi không phải là người Mỹ. Nhưng điều thật rõ ràng là: trục xuất những người nhập cư, không cho họ được làm việc, không tiếp đón di dân, đó là tội, tội nặng. Trong Cựu ước, có một điệp khúc là cô nhi, quả phụ và khách ngụ cư, tức là di dân. Đó là ba nhóm người mà dân Israel phải gìn giữ. Ai không gìn giữ di dân thì thiếu sót, là một tội chống lại sự sống của những người ấy. Tôi đã cử hành thánh lễ ở biên giới, gần Giáo phận El Paso, có bao nhiêu giầy dép của những người di dân từ Trung Mỹ, bao nhiêu lần những người ấy bị đối xử như nô lệ, vì người ta lợi dụng họ. Di cư là một quyền, như trong Cựu ước đã nói tới. Đó là điều tôi nghĩ về những người di cư.”

Sang đến phá thai. Khoa học nói rằng trong tháng sau khi được thụ thai, bào thai đã có tất cả những cơ phận của một người. Phá thai là giết người. Dù muốn dù không về từ này, hành động đó vẫn là giết người. Giáo hội không khép kín vì không cho phép phá thai: Giáo hội không cho phép phá thai, vì việc làm đó là sát nhân. Về điều này chúng ta phải rõ ràng...

“Về việc bỏ phiếu: trong luân lý chính trị, người ta thường nói không bỏ phiếu là điều xấu: phải đi bầu. Và ta phải chọn sự ác nhỏ hơn: ai là người xấu hơn: phụ nữ phá thai hay người trục xuất di dân? Tôi không biết, mỗi người hãy suy nghĩ và thi hành theo lương tâm mình”.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Thánh cha còn ca ngợi và ngưỡng mộ Trung Quốc, đồng thời tái khẳng định ước muốn viếng thăm nước này. Ngài bày tỏ hài lòng về hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, về việc bổ nhiệm giám mục, và nói rằng: “Trung Quốc là một lời hứa và là một hy vọng đối với Giáo hội”.

Ngoài ra, Đức Thánh cha cho biết chưa quyết định gì về việc trở về thăm quê hương Argentina, đồng thời bác bỏ tin đồn là ngài sẽ đến Paris để ngày 07 và 08 tháng Mười Hai sắp tới, khánh thành Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Paris, được tu bổ sau hỏa hoạn.

Sau khi về đến Roma lúc 6 giờ 46 phút chiều, như thói quen, Đức Thánh cha đã đến Đền thờ Đức Bà Cả để cầu nguyện, cảm tạ Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma đã phù hộ ngài trong chuyến viếng thăm mười hai ngày tại bốn quốc gia: Indonesia, Papua New Guinea, Đông Timor và Singapore.


Tạp chí The Pillar ngày 14 tháng 9, 2024 có hàng tít như trên khi đề cập đến hai nhận định hiện gây tranh cãi trong các câu phát biểu của ngài trong chuyến tông du Châu Á và Châu Đại Dương vừa qua, cũng như trong cuộc họp báo trên máy bay trở về Rôma của ngài, về cuộc bầu cử ở Hoa Kỳ và đường dẫn đến Thiên Chúa của mọi tôn giáo.

Bầu cử Hoa Kỳ

Về cuộc bầu cử tổng thống sắp tới của Hoa Kỳ, tờ này cho rằng khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô bay trở về từ Singapore tuần trước, ngài đã được hỏi về cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, bởi vì — thật không may — đó là tất cả những gì mọi người muốn nói đến, ở bất cứ nơi đâu.

Đức Giáo Hoàng nói rằng cả hai ứng cử viên chính đều "chống lại sự sống", vì một bên "đuổi người di cư" và một bên "giết trẻ em".

Không phải là người Mỹ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng ngài không bỏ phiếu trong cuộc bầu cử và sẽ không quyết định, nhưng đã nêu rõ lập trường của mình về cả phá thai (ngài phản đối) và di cư, về vấn đề mà ngài nói rằng "không chăm sóc người di cư là một tội lỗi, một tội lỗi chống lại sự sống và nhân loại".

"Đuổi người di cư đi, không cho họ lớn lên, không cho họ có sự sống là điều sai trái, đó là sự tàn ác. Đuổi một đứa trẻ ra khỏi bụng mẹ là giết người vì vẫn còn sự sống. Và chúng ta phải nói rõ ràng về những điều này", Đức Giáo Hoàng nói.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhận được sự chỉ trích từ một số nhà quan sát, những người cho rằng vị giáo hoàng này đã không nói đủ rõ ràng, hoặc ít nhất là không chính xác về mặt thần học: Dường như ngài đã gộp chung người tị nạn và những loại người di cư khác, dường như ngài coi phá thai và di cư là những vấn đề đạo đức tương đương, và ngài đã không đề cập đến việc Giáo hội đã dạy rằng phá thai không bao giờ được pháp luật bảo vệ, trong khi các chi tiết cụ thể của chính sách di cư (nhưng không phải các nguyên tắc) là vấn đề phán đoán thận trọng, phải được phân định trong hoàn cảnh cụ thể của từng thời điểm và địa điểm.

Đúng là Đức Giáo Hoàng Phanxicô không và đã không nói chính xác về những vấn đề quan trọng đó.

Và tôi nghĩ rằng chúng đủ quan trọng, và nền tảng của ngài đủ quan trọng, để vị giáo hoàng nên cân nhắc lại sự thận trọng khi nói ứng khẩu về các vấn đề phức tạp và gây chia rẽ cao, khi lời nói của ngài, bất kể chúng là gì, được sử dụng theo cách mà ngài hiếm khi lường trước được.

Nhưng tôi muốn thêm một nhận xét nữa về những nhận xét của Đức Giáo Hoàng trên máy bay.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thêm vào bài phát biểu của mình một bình luận về việc bỏ phiếu.

“Người ta thường nói rằng không bỏ phiếu là xấu, không tốt. Người ta phải bỏ phiếu. Và người ta phải chọn điều ít xấu hơn”, ngài nói với một phóng viên.

Vấn đề là ngài đang nói về cuộc bầu cử của Hoa Kỳ, và đây không phải là những gì các giám mục Hoa Kỳ đã nói về các cuộc bầu cử ở quốc gia của họ.

Trong “Quyền công dân của tín hữu”, các giám mục đã nói rằng “khi tất cả các ứng cử viên đều giữ lập trường thúc đẩy một hành vi xấu xa cố hữu… [người bỏ phiếu] có thể quyết định bỏ phiếu cho ứng cử viên được coi là ít có khả năng thúc đẩy một lập trường sai trái về mặt đạo đức như vậy và có nhiều khả năng theo đuổi các lợi ích đích thực khác của con người”.

Tôi cho rằng điều đó có thể được coi là một dạng lập luận “điều ít xấu hơn trong hai điều xấu”, mặc dù không phải là cân nhắc nhiều loại điều xấu khác nhau, mà là cân nhắc khả năng “thăng tiến” của chúng thông qua một chính quyền cụ thể.

Nhưng các giám mục cũng nói rằng “người bỏ phiếu có lương tâm… có thể quyết định thực hiện bước đi phi thường là không bỏ phiếu cho bất kỳ ứng cử viên nào”.

Nói cách khác, ít nhất là theo các giám mục Hoa Kỳ, thì không đúng khi cho rằng “người ta phải bỏ phiếu”.

Tất nhiên, không bỏ phiếu là một biện pháp phi thường, và người ta có thể thấy lý do tại sao Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại mặc định theo quan điểm của Sách Giáo lý, rằng nói chung, “đồng trách nhiệm đối với lợi ích chung khiến việc thực hiện quyền bỏ phiếu trở thành nghĩa vụ đạo đức…”.

Tuy nhiên, các giám mục Hoa Kỳ đã nhấn mạnh rằng có những ngoại lệ đối với điều này, và trong trường hợp bầu cử mà cả hai ứng cử viên chính đều hứa sẽ tài trợ tiền thuế cho việc hủy diệt sự sống con người, tôi nghi ngờ rằng một số người Công Giáo Hoa Kỳ thực sự cảm thấy mình không thể bỏ phiếu cho một ứng cử viên tổng thống.

Những người khác, như các giám mục chỉ đạo, sẽ chọn ứng cử viên mà họ tin rằng ít có khả năng “đưa ra lập trường sai trái về mặt đạo đức”.

Theo hướng dẫn của Giáo hội, cả việc lựa chọn và không lựa chọn đều có thể là một lựa chọn hợp lý và hợp lệ.

Đó là lý do tại sao có lẽ điều quan trọng đối với Đức Giáo Hoàng là phải nhận ra tất cả những điều đó khi ngài nói về chủ đề này, thay vì đưa ra những nhận xét có nhiều cách diễn giải khác nhau và trái ngược với các chỉ thị cụ thể của hội đồng giám mục có liên quan. Không có lý do chính đáng nào cả, “Faithful Citizenship” và Đức Giáo Hoàng Phanxicô giờ đây có thể bị coi là trái ngược nhau, trước cuộc bầu cử cực kỳ gây tranh cãi của Hoa Kỳ.

Và nếu tất cả những điều đó có vẻ phức tạp đối với một bài giáo lý trên máy bay dành cho phương tiện truyền thông thế tục — đặc biệt là sau chuyến đi mệt mỏi kéo dài 10 ngày qua bốn quốc gia, bao gồm cả một nỗ lực ám sát Đức Giáo Hoàng — thì, một lần nữa, đó có thể chính xác là lý do tại sao tính khả thi của những tình huống giáo hoàng như vậy đáng để xem xét lại.

Liên tôn

Cũng theo tờ The Pillar, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gây tranh cãi vào thứ Sáu với những nhận xét tại một cuộc họp liên tôn ở Singapore mà một số người cho là đi chệch khỏi giáo lý Công Giáo về vai trò của Chúa Giêsu Kitô trong ơn cứu rỗi.

“Tất cả các tôn giáo đều là con đường để đến với Chúa. Chúng giống như – tôi đưa ra một phép so sánh – các ngôn ngữ khác nhau, các thành ngữ khác nhau, để đến được đó. Nhưng Chúa là Chúa của tất cả mọi người,” Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói với một nhóm thanh niên vào ngày 13 tháng 9, tại một cuộc họp liên tôn tại Cao đẳng Công Giáo Singapore, theo văn bản bài phát biểu do Vatican công bố.

Đức Giáo Hoàng tiếp tục: “Và vì Chúa là Chúa của tất cả mọi người, nên tất cả chúng ta đều là con của Chúa. ‘Nhưng Chúa của tôi quan trọng hơn Chúa của các người!’ Điều này có đúng không? Chỉ có một Chúa, và các tôn giáo của chúng ta là ngôn ngữ, là con đường để đến với Chúa. Một số người theo đạo Sikh, một số người theo đạo Hồi, một số người theo đạo Hindu, một số người là Ki-tô hữu, nhưng họ là những con đường khác nhau.”

Trước tuyên bố đó, Đức Giáo Hoàng khuyến khích những người trẻ tuổi đối thoại tôn giáo và tránh bắt nạt, để “những người trẻ tuổi sẽ tiến về phía trước với hy vọng.”

Giáo Hội Công Giáo dạy rằng “lòng tốt và sự thật” tìm thấy trong các tôn giáo không phải là Ki-tô giáo có thể được coi là “sự chuẩn bị cho Tin Mừng”, nhưng cũng nhấn mạnh vai trò độc nhất của Chúa Giêsu Kitô trong ơn cứu rỗi.

“Phải tin chắc rằng ý muốn cứu rỗi phổ quát của Thiên Chúa Ba Ngôi được ban tặng và hoàn thành một lần cho tất cả trong mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh của Con Thiên Chúa”, tuyên bố Dominus Iesus tuyên bố năm 2000.

“Rõ ràng là sẽ trái với đức tin nếu coi Giáo hội là một con đường cứu rỗi bên cạnh những con đường do các tôn giáo khác tạo nên, được coi là bổ sung cho Giáo hội hoặc về cơ bản tương đương với Giáo hội, ngay cả khi những con đường này được cho là hội tụ với Giáo hội hướng tới vương quốc cánh chung của Thiên Chúa”, tuyên bố bổ sung.

Nhưng trong khi những phát biểu của Đức Giáo Hoàng vào thứ Sáu đã gây tranh cãi giữa những người coi chúng là tương đối về mặt tôn giáo, thì việc Vatican tự công bố văn bản của Đức Giáo Hoàng đã làm gia tăng cảm giác mơ hồ về vấn đề này.

Văn bản được công bố bằng tiếng Ý xác định các tôn giáo không phải là Kitô giáo là “con đường để đến với Thiên Chúa” — và video được công bố về sự kiện này đã xác nhận lời Đức Giáo Hoàng nói.

Nhưng bất chấp những gì Đức Giáo Hoàng nói trên video, một bản dịch tiếng Anh được công bố chính thức của văn bản đã thay thế lời của Đức Giáo Hoàng bằng một bình luận có sắc thái hơn, quy cho Đức Phanxicô nhận xét rằng các tôn giáo không phải Kitô giáo "được coi là những con đường cố gắng đạt tới Thiên Chúa".

Mặc dù sự khác biệt có vẻ nhỏ, nhưng đối với các nhà thần học, nó không phải là không đáng kể, xét đến sự nhấn mạnh của giáo lý Kitô giáo về vai trò trung gian độc nhất của Chúa Giêsu Kitô trong việc đạt được sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người, và lời kêu gọi thần thiêng phổ quát các hữu thể nhân bản hoán cải qua Kitô giáo.

Lời kêu gọi đó được thể hiện trong Công đồng Vatican II, văn kiện về Giáo hội giải thích rằng "tất cả mọi người đều được kêu gọi đến sự hiệp nhất này với Chúa Kitô, Đấng là ánh sáng của thế gian, Đấng mà từ Người chúng ta phát khởi, Đấng mà chúng ta sống nhờ, và Đấng mà toàn bộ cuộc sống của chúng ta hướng về".

"Công đồng Thánh này", Lumen gentium tuyên bố, "dựa trên Thánh Kinh và Truyền thống, dạy rằng Giáo hội, hiện đang lưu trú trên trái đất như một nơi lưu đày, là cần thiết cho sự cứu rỗi".

Vatican vẫn chưa đưa ra bình luận về những phát biểu của Đức Giáo Hoàng.

Dị giáo? Những lời nói của một ông già? Hay Đức Giáo Hoàng có lý?

Alexander Norman, trên tờ Catholic Herald ngày 18 tháng 9 năm 2024, đặt câu hỏi: Đức Thánh Cha đã gây ra sự phẫn nộ có thể đoán trước được khi gợi ý, trong chuyến thăm Singapore gần đây của mình, rằng "tất cả các tôn giáo đều là con đường dẫn đến Thiên Chúa". Nhưng liệu ngài có hoàn toàn sai không?


image.png
Đức Giáo Hoàng Phanxicô được chào đón khi đến tham dự cuộc đối thoại liên tôn với một nhóm thanh thiếu niên tại Cao đẳng Công Giáo ở Singapore, Đảo Singapore, ngày 13 tháng 9 năm 2024. 

Phát biểu trước khán giả gồm khoảng 600 người trẻ, Đức Giáo Hoàng đã hỏi rằng điều đó sẽ dẫn đến đâu nếu mọi người tấn công lẫn nhau bằng cách tuyên bố "tôn giáo của tôi quan trọng hơn tôn giáo của bạn, tôn giáo của tôi là đúng và tôn giáo của bạn thì không". Rốt cuộc, ngài nói tiếp, "chỉ có một Thiên Chúa và mỗi người chúng ta đều có một ngôn ngữ để tiếp cận Thiên Chúa".

Người ta cho rằng ngài giới hạn suy nghĩ của ngài vào các tôn giáo lớn trên thế giới, đặc biệt là các tôn giáo Áp-ra-ham, và không bao gồm, ví dụ, truyền thống đức tin của người Inca và Aztec, những người có tôn giáo đòi hỏi phải hy sinh một số lượng lớn con người vô tội.

Chắc chắn ngài tự giới hạn vào việc xem xét các tôn giáo lớn được theo ở Singapore. Những tôn giáo này chủ yếu bao gồm các truyền thống Hồi giáo, Phật giáo, Ấn Độ giáo, Sikh và Ki-tô giáo, cùng với nhóm đông đảo nhất trong số tất cả, những người “không tin gì”.

Tuy nhiên, trong khi, xét cho cùng, các tôn giáo hữu thần có thể đồng ý rằng, xét cho cùng, chỉ có thể có một Thiên Chúa, thì vẫn còn nghi ngờ liệu nhóm thiểu số lớn nhất, bao gồm những người theo đạo Phật (gần một phần ba dân số Singapore, gần gấp đôi quy mô cộng đồng Ki-tô giáo), có thấy tuyên bố này là hợp lý hay không.

Xét cho cùng, Phật giáo rõ ràng trong việc phủ nhận cả Đấng sáng tạo và sự tồn tại của một linh hồn cần được cứu chuộc. Do đó, hoàn toàn không rõ ràng, theo nghĩa nào thì có thể nói rằng Phật giáo dẫn đến Thiên Chúa. Có vẻ như Đức Thánh Cha đã quên giáo điều Phật giáo về anatman, có nghĩa là vô ngã hoặc theo nghĩa đen là không phải bản ngã, hoặc Đức Giáo Hoàng nghĩ về Thiên Chúa theo nghĩa Chân lý.

Điều này có vẻ có khả năng xảy ra hơn. Nếu bạn thay thế từ Chân lý bằng từ Thiên Chúa, thì tuyên bố của Đức Giáo Hoàng rằng tất cả các tôn giáo đều có "ngôn ngữ dẫn đến" Chân lý có vẻ hợp lý và dễ chấp nhận hơn đối với cả các Ki-tô hữu chính thống (viết thường) và những người theo các truyền thống đức tin chính khác.

Chúng ta, những người Công Giáo, được cho biết rằng Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đường, là Chân lý và là Sự sống. Người Hồi giáo được cho biết rằng chỉ có một Chúa và Muhammad là nhà tiên tri của Người. Có những tuyên bố chân lý nền tảng tương tự trong mỗi tôn giáo khác.

Nhưng ngay cả việc thay thế từ Thiên Chúa bằng từ Chân lý cũng rất khó khăn đối với những người muốn duy trì giáo lý truyền thống của mỗi truyền thống đức tin. "Đạo Shik, Hồi giáo, Ấn Độ giáo" và Phật tử mà Đức Thánh Cha đang nói đến chắc chắn sẽ cho rằng đức tin của chính họ đã dạy họ Chân lý không hơn không kém và sẽ bác bỏ Chân lý như được dạy bởi Giáo Hội Công Giáo.

Thoạt nhìn, có vẻ như Đức Thánh Cha không có ý như ngài đã nói.

Do đó, chúng ta có nên cho rằng Đức Thánh Cha đã sai không? Chắc chắn không. Nếu thế, rõ ràng là chúng ta, những người Công Giáo, phải hòa giải những gì, xét ở bề mặt, có vẻ nguy hiểm gần với tà giáo, với sự kiện thẳng thừng là nó đang ở bờ vực điều không thể tưởng tượng được là Giáo hoàng dạy sai sự thật.

Chúng ta có thể thực hiện điều này như thế nào? Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách thừa nhận sự thật của tuyên bố rằng chỉ có một Thiên Chúa - hoặc một Chân lý. Chúng ta có thể xem xét thêm tuyên bố của Đức Thánh Cha rằng có nhiều con đường khác nhau dẫn đến Chân lý duy nhất đó.

Rồi, chúng ta sẽ phải đối chiếu điều này với lời khẳng định của Chúa Giêsu rằng Người, ngôi thứ hai của Chúa Ba Ngôi, là Chân lý thực sự. Khi làm như vậy, chúng ta buộc phải thừa nhận rằng, mặc dù các tôn giáo khác có thể chỉ đúng hướng, nhưng chúng không chứa đựng toàn bộ Chân lý đó. Hơn nữa, bất cứ ai muốn sở hữu Chân lý một cách trọn vẹn đều phải, bắt buộc, chấp nhận lời dạy của Giáo Hội Công Giáo.

Hơn nữa, nếu chúng ta theo đuổi luận lý của các tôn giáo khác và đánh giá các kết luận mà họ đưa ra cho chúng ta dưới ánh sáng Chân lý được tiết lộ bởi sự mặc khải, chúng ta sẽ thấy rằng Chân lý tối thượng này không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác. Giả sử đây là ý của Đức Giáo Hoàng, thì ngài không sai khi nói rằng mỗi tôn giáo lớn đều nói về một Chúa duy nhất bằng ngôn ngữ của riêng họ.

Vậy thì, đây chắc chắn là cách chúng ta phải hiểu lời dạy của Đức Thánh Cha tại Singapore. Chúng ta không được bằng lòng với sự hiểu biết hời hợt về những gì ngài nói. Nếu hiểu theo cách này, chúng ta phải coi những gì ngài nói là lời nói của một ông già hoặc là lời nói dối cố ý, cả hai đều không có vẻ hợp lý.

Tuy nhiên, chúng ta có thể ước ao rằng Đức Giáo Hoàng nói rõ hơn một chút rằng những lời của ngài không có ý định được hiểu theo nghĩa đen - nhưng ít nhất ngài đã luôn rõ ràng về những vấn đề quan trọng khác, chẳng hạn như phá thai đồng nghĩa với việc tước đi mạng sống của những người vô tội.


Điểm mới trong Khóa II Thượng Hội đồng Giám mục Kỳ thứ XVI


Trước khi khai mạc Khóa II của Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới Kỳ thứ XVI tới đây tại Roma, sẽ có một buổi canh thức thống hối, tại Đền thờ thánh Phêrô, do Đức Thánh cha Phanxicô cử hành, chiều ngày thứ Ba, mùng 01 tháng Mười tới đây.

Đức Hồng y Mario Grech, người Malta, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục cho biết như trên, trong cuộc họp báo, sáng ngày 16 tháng Chín vừa qua, tại Vatican, để trình bày về diễn tiến Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới.

Trong buổi canh thức đặc biệt đó, sẽ có ba chứng từ được trình bày, về những tội lỗi của những người nam nữ trong Giáo hội: nhiều thứ tội được liệt kê ra. Đức Hồng y Grech nói: “Đây không phải là kể tội những người khác, nhưng là nhìn nhận mình cũng là thành phần của những người phạm các tội ấy bằng hành động hoặc do sự thiếu sót, gây ra đau khổ. Và Đức Thánh cha sẽ nhân danh toàn thể Giáo hội xin Chúa ban ơn tha thứ. Kiểu mẫu của nghi thức thống hối này là buổi cử hành thống hối do thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thực hiện, hồi Năm Thánh 2000.

Trước khi Thượng Hội đồng Giám mục bắt đầu, sẽ có những biến cố tinh thần quan trọng, dẫn đến khóa họp mới. Từ ngày 30 tháng Chín đến ngày 01 tháng Mười, các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục sẽ tham dự cuộc tĩnh tâm, tại Hội trường mới của Thượng Hội đồng Giám mục, ở nội thành Vatican, thay vì tại Domus Fraterna, Nhà Huynh đệ, ngoại ô Roma như hồi năm ngoái. Hướng dẫn hai ngày tĩnh tâm này vẫn là linh mục Timothy Radcliffe, người Anh, cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, tiếp đến là Mẹ Ignazia Angelini, Dòng Biển Đức, người Ý, và sau cùng là cha Mattero Ferraro, Dòng Biển Đức Camaldolese. Tiếp nối với sinh hoạt này là buổi cử hành nghi thức thống hối, tại Đền thờ thánh Phêrô. Cuối buổi cử hành đó, các tham dự viên có thể lãnh nhận bí tích xá giải.

Danh sách các thứ tội sẽ được nêu lên trong buổi cử hành nghi thức thống hối, chiều ngày 01 tháng Mười, là:

- Tội chống lại hòa bình

- Tội chống lại thiên nhiên, hay công trình tạo dựng, tội chống lại các thổ dân bản địa, chống lại người di dân

- Những tội lạm dụng

- Tội chống lại các phụ nữ, gia đình, giới trẻ

- Tội lạm dụng đạo lý như hòn đá vấp phạm

- Tội chống lại nghèo đói

- Tội chống lại tính hiệp hành hoặc đồng hành, thiếu lắng nghe

Cùng đứng ra tổ chức sự kiện này, có Văn phòng Thượng Hội đồng Giám mục, cùng với Hiệp hội các Bề trên Tổng quyền các dòng nam và dòng nữ.

Diễn tiến Thượng Hội đồng Giám mục

Thượng Hội đồng Giám mục bắt đầu với một buổi cầu nguyện đại kết: cạnh Đức Thánh cha còn có nhiều vị lãnh đạo và đại diện các Giáo hội Kitô khác. Buổi cầu nguyện này nói lên sự liên kết và ước muốn hòa giải giữa các tín hữu Kitô.

Từ ngày 02 đến ngày 27 tháng Mười, giống như năm ngoái, Thượng Hội đồng Giám mục diễn ra tại Đại thính đường Phaolô VI: khía cạnh được nhấn mạnh ở đây không phải là một hội nghị, nhưng là một thời điểm cầu nguyện và lắng nghe.

Trong thời điểm tiến hành Thượng Hội đồng Giám mục, sẽ có bốn diễn đàn về thần học mục vụ, trong đó các chuyên gia và thần học gia thảo luận về các đề tài quan trọng của Giáo hội. Các diễn đàn này có mục đích đào sâu căn bản thần học của Thượng Hội đồng Giám mục và ý nghĩa sự hiệp hành hay đồng hành trong các khía cạnh khác nhau của đời sống Giáo hội.

Số người tham dự Thượng Hội đồng Giám mục

Tổng số tham dự viên của Thượng Hội đồng Giám mục là 368 người, trong đó có 272 giám mục và 96 người không phải là giám mục, gồm 30 linh mục và 25 nữ tu, 28 nữ giáo dân và một số người khác.

Trong số các nghị phụ, do chức vụ đương nhiên tham dự, có 15 vị thủ lãnh các Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương, 20 vị đứng đầu các cơ quan trung ương Tòa Thánh. Có 185 nghị phụ được bầu, trong số này có 168 đại biểu của các Hội đồng Giám mục, 5 vị từ các Giáo hội Công giáo Đông phương, 10 vị Bề trên Tổng quyền các dòng.

Ngoài ra, có 57 tham dự viên do Đức Thánh cha bổ nhiệm. Con số các tham dự viên khác là 155 vị, trong đó có 16 đại biểu các Giáo hội Kitô Anh em: tăng thêm 4 vị so với trước đây, vì có thêm các Giáo hội Kitô khác quan tâm đến Thượng Hội đồng Giám mục này.


Những người lãnh đạo Thượng hội đồng trình bày chi tiết về Thương Hội đồng tháng 10

Các Hồng Y Grech và Hollerich, cùng với Cha Costa và Đức ông Battocchio, phác thảo chi tiết về Thượng hội đồng, nhóm họp vào tháng 10, với một cuộc họp báo tại Vatican do Chủ tịch Thánh Bộ Truyền thông điều phối. Đức Giáo Hoàng sẽ chủ trì một buổi lễ sám hối với lời chứng từ của các nạn nhân bị lạm dụng, chiến tranh và thờ ơ trước vấn nạn di cư. Những điểm mới đáng chú ý bao gồm bốn điểm diễn đàn công khai, có hai giám mục từ Trung Quốc sẽ tham dự.

(Tin Vatican - Tiziana Campisi và Salvatore Cernuzio)

Thượng hội đồng là thời gian cầu nguyện, "không phải là một hội nghị", mà là "một hội đồng Giáo hội cầu nguyện", là thời gian để lắng nghe Lời Chúa và Chúa Thánh Thần, và là cơ hội để cầu xin Chúa tha thứ lỗi lầm của Giáo hội. Đức Hồng Y Mario Grech, Tổng thư ký của Thượng hội đồng, đã trình bày phiên họp thứ hai của Đại hội đồng thường kỳ XVI của Thượng hội đồng giám mục, sẽ được tổ chức tại Rome từ ngày 2 đến ngày 27 tháng 10, trong một cuộc họp báo vào thứ Hai, ngày 16 tháng 9. Ngài nhắc nhớ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tại lễ khai mạc con đường công nghị vào ngày 9 tháng 10 năm 2021, đã nhấn mạnh "nhân vật chính của Thượng hội đồng là Chúa Thánh Thần".

ĐHY Paolo Ruffini, Chủ tịch Thánh Bộ Truyền thông và Ủy ban Thông tin của Thượng hội đồng, đã giới thiệu những đóng góp minh họa cho Thượng hội đồng tại Văn phòng Báo chí Tòa thánh.

nh tâm và Canh thức sám hối

Đức Hồng Y Grech giải thích rằng, giống như phiên họp đầu tiên, phiên họp thứ hai và cũng là phiên họp cuối cùng của Thượng hội đồng về tính công nghị này sẽ được tiến hành bằng hai ngày tĩnh tâm vào ngày 30 tháng 9 và ngày 1 tháng 10 tại Vatican, dưới sự hướng dẫn của Cha Timothy Radcliffe, Dòng Đaminh và Mẹ Ignazia Angelini, Dòng Biển Đức. Các ngài sẽ hướng dẫn các buổi cầu nguyện cho Thượng Hội đồng, cùng với Cha Matteo Ferrari của dòng Camaldolese, người sẽ chịu trách nhiệm về các nghi lễ; và các tu sĩ của Camaldoli.

Điểm mới trong năm nay sẽ là một buổi canh thức sám hối sau kỳ tĩnh tâm, được tổ chức vào tối thứ Ba, ngày 1 tháng 10, tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, và do Đức Giáo Hoàng Phanxicô chủ trì. Buổi lễ được tổ chức bởi Tổng thư ký của Thượng Hội đồng và Giáo phận Rome phối hợp với Liên hiệp các Bề trên Cao cấp (USG) và Liên hiệp các Bề trên Cao cấp Quốc tế (UISG), sự kiện này sẽ được đài Vatican phát sóng và mở cửa cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người trẻ, "vì sứ điệp của Giáo hội được giao phó cho họ", Đức Hồng Y Hollerich cho biết. Ngài nhấn mạnh rằng "những người trẻ phải chịu đau khổ vì tội lỗi của chúng ta và tội lỗi trong Giáo hội". Lễ hội sẽ có các chứng từ của ba cá nhân đã bị lạm dụng, chiến tranh và trước sự thờ ơ của cuộc khủng hoảng di cư đang gia tăng. Sau đó sẽ có những lời thú tội về những tội lỗi cụ thể để “nhận ra mình là một phần của những người, thông qua hành động hoặc sự thiếu sót, phải chịu trách nhiệm trước nỗi đau triền miên mà những người vô tội và không có khả năng tự vệ phải chịu đựng”, ĐHY Grech nhấn mạnh.

Cụ thể, những tội lỗi chống lại hòa bình, công trình sáng tạo, người bản địa, người di cư, phụ nữ, gia đình, thanh thiếu niên; tội xử dụng giáo lý như một hòn đá chống lại người khác, tội chống lại sự nghèo đói và tính công đồng (chẳng hạn như không lắng nghe, hoặc tội làm tổn hại đến sự hiệp thông hoặc sự tham gia của tất cả mọi người) sẽ được thú nhận. Đức Giáo Hoàng sẽ kết thúc bằng lời cầu xin tha thứ từ Thiên Chúa và toàn thể nhân loại thay mặt cho tất cả các tín hữu.

Lời cầu nguyện chung

Một buổi lễ cầu nguyện chung cũng sẽ được tổ chức vào tối ngày 11 tháng 10 tại Vatican tại Quảng trường Protomartyrs, nơi truyền thống cho rằng Thánh Phêrô đã bị tử đạo. Ngày này đánh dấu kỷ niệm 62 năm ngày khai mạc Công đồng Vatican II. Cuối cùng, vào ngày 21 tháng 10, sẽ có một ngày tĩnh tâm khác để chuẩn bị cho việc phân định dự thảo văn kiện cuối cùng. Như Đức Hồng Y Grech đã thông báo, sẽ có "sự luân phiên giữa cầu nguyện cá nhân, đối thoại và hiệp thông huynh đệ trong việc lắng nghe và trao đổi lẫn nhau".

Bốn diễn đàn mở cho tất cả

Một tính năng mới khác sẽ là bốn diễn đàn thần học-mục vụ, mở cho tất cả mọi người, bao gồm cả các nhà báo. Hai diễn đàn sẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 10, một diễn đàn về "dân Chúa, Chủ thể của Sứ mệnh" tại Hội trường Đại học Dòng Tên, và diễn đàn còn lại về "Vai trò và Quyền hạn của Giám mục trong Giáo hội Công đồng" tại Augustinianum. Hai diễn đàn còn lại sẽ được tổ chức vào ngày 16 tháng 10. Các chủ đề sẽ là "Mối quan hệ hỗ tương giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ" tại Hội trường Đại học Dòng Tên và "Việc thực hiện Quyền tối thượng và Thượng hội đồng Giám mục" tại Augustinianum. Các diễn đàn này sẽ có sự tham gia của các nhà thần học, chuyên gia giáo luật, giám mục và nhiều người khác, với cơ hội đối thoại. Các diễn đàn cũng sẽ có trực tuyến theo yêu cầu.

Số lượng người tham dự Thượng hội đồng

Đức Hồng Y Hollerich giải thích số lượng người tham gia phiên họp thứ hai này tương tự như phiên họp đầu tiên, với 368 thành viên bỏ phiếu, bao gồm 272 giám mục và 96 thành viên không phải giám mục. Đã có 26 lần thay đổi, chủ yếu là thay thế. Có 8 người được mời đặc biệt, trong khi số lượng đại biểu đã tăng từ 12 lên 16, phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của các Giáo hội anh em trong hành trình Thượng hội đồng. Ngài cũng xác nhận sự hiện diện của hai giám mục từ Trung Quốc sẽ tham dự Thượng Hội đồng kỳ này.




Đức giám mục Nicaragua bị trục xuất được Đức Thánh cha bổ nhiệm tham dự Thượng Hội đồng Giám mục


Đức cha Rolando Álvarez, Giám mục Giáo phận Matagalpa, bị nhà nước Nicaragua kết án và trục xuất sang Vatican, đã được Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, vào tháng Mười sắp tới, ở Roma.
image.png
Bishop Rolando Álvarez of Matagalpa, Nicaragua


Đức cha Álvarez năm nay 57 tuổi, được Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Matagalpa, hồi năm 2011. Ngài mạnh mẽ bênh vực nhân quyền chống lại những vụ lạm dụng và đàn áp Giáo hội của nhà độc tài Daniel Ortega, đặc biệt trong cuộc biểu tình của dân chúng hồi năm 2018.

Cuộc bách hại Đức cha bắt đầu hồi tháng Tám năm 2022: ngài bị quản thúc tại Tòa giám mục cùng với các linh mục, chủng sinh và một giáo dân. Hai tuần sau đó, khi Tòa giám mục cạn lương thực, cảnh sát đột nhập Tòa giám mục và bắt Đức cha Álvarez, đưa về thủ đô Managua. Ngày 10 tháng Hai năm ngoái, 2023, Đức cha bị tòa kết án 26 năm 4 tháng tù, về tội gọi là “phản quốc”. Đức cha bị giam tại nhà tù La Modelo, nơi các tù nhân chính trị bị cầm giữ.

Một ngày trước khi bị kết án, Đức cha Álvarez từ chối bước lên máy bay chở hơn 200 tù nhân chính trị bị chế độ trục xuất sang Mỹ.

Sau cùng, Đức cha lưu vong sang Vatican, ngày 14 tháng Giêng năm nay, cùng với Đức cha Isidoro Mora, Giám mục Giáo phận Siuna, và các linh mục và chủng sinh, do sự trung gian của Tòa Thánh.

Trong tám tháng qua ở Roma, Đức cha Álvarez sống âm thầm, và sự kiện ngài sẽ tham dự Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc sống ẩn dật, từ khi đến Vatican. Ngày 15 tháng Giêng, những hình ảnh đầu tiên của ngài được phổ biến, khi ngài chụp hình cùng với các linh mục lưu vong, khi cử hành một thánh lễ ở Roma.

Hồi tháng Sáu năm nay, Đức cha đã viếng thăm tại thành phố Sevilla, miền nam Tây Ban Nha cũng như đền thánh Covadonga ở miền Asturias của nước này.

Hai giám mục Trung Quốc tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Kỳ XVI


Có 26 thay đổi trong danh sách tham dự viên Khóa II của Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới, trong đó có một trường hợp liên quan đến Trung Quốc: đó là Đức cha Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu), Giám mục Giáo phận Mân Đông (Mindong), Tỉnh Chiết Giang, thay thế Đức cha Diệu Thuận (Yao Shun), Giám mục Giáo phận Tể Ninh, Tỉnh Nội Mông.


image.png

Vị thứ hai vẫn tiếp tục tham dự như năm ngoái, đó là Đức cha Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), Giám mục Giáo phận Chu Thôn (Zhouchun), Tỉnh Sơn Đông.

Đức cha Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu) năm nay 63 tuổi, thuộc danh sách 8 giám mục thụ phong bất hợp pháp, được Đức Thánh cha giải vạ tuyệt thông và hợp thức hóa hồi năm 2018, nhân dịp ký kết hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, về việc bổ nhiệm các giám mục. Đức cha thụ phong giám mục ngày 06 tháng Giêng năm 2000 trước đó, tại Bắc Kinh mà không có phép của Đức Giáo hoàng.

Giáo phận Mân Đông ở Phúc Kiến là tỉnh có đông tín hữu Công giáo nhất tại Trung Quốc.

Trong cuộc họp báo hôm 16 tháng Chín, về việc tổ chức Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới, ký giả đã hỏi lý do về sự thay đổi giám mục Trung Quốc trên đây, Đức Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, nói rằng: “Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh thông báo cho chúng tôi tên của các vị, nhưng chúng tôi không có thông tin về lý do sự thay đổi đó”.

Hãng tin Asia News nhận định rằng việc chỉ định Đức cha Chiêm Tư Lộc thay thế Đức cha Diệu Thuận là do các cơ quan chính thức của cộng đoàn Công giáo Trung Quốc do nhà nước kiểm soát.

Cùng với hai vị trên đây, giống như năm ngoái có hai nghị phụ khác người Hoa tại Khóa họp thứ II của Thượng Hội đồng Giám mục, là Đức Hồng y Stephano Chu Thủ Nhân (Chow Sau-yan), Giám mục Hong Kong, và Đức cha Norberto Phổ Anh Hùng (Pu Yingxiong), Giám mục Giáo phận Gia Nghĩa (Kiayi), đại biểu của Hội đồng Giám mục Đài Loan. Đức cha Phổ Anh Hùng là giám mục đầu tiên người dân tộc tại lãnh thổ này.

Hai đại biểu của Hội đồng Giám mục Việt Nam tham dự công nghị này, là Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam và Đức cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám mục Giáo phận Hà Tĩnh, Phó Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam.

ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự giờ canh thức sám hối khai mạc phần hai THĐGM

Sáng ngày 16/9/2024, trong buổi họp báo giới thiệu công việc trong phần hai của Thượng Hội đồng Giám mục thứ 16 về Hiệp hành, được tổ chức tại Vatican từ ngày 2 đến 27/10/2024, Đức Hồng y Mario Grech cho biết phần thứ hai của Thượng Hội đồng sẽ bắt đầu với hai ngày tĩnh tâm của các tham dự viên và đặc biệt, sau đó, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự giờ canh thức sám hối vào chiều thứ Ba ngày 1/10/2024. Đức Hồng y cũng trình bày một số điểm mới trong phiên họp năm nay.

Trong buổi họp báo, Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng, cùng với Cha Costa và Đức ông Riccardo Battocchio, thành viên của Ủy ban Thư ký đặc biệt của Thượng Hội đồng, đã phác thảo chi tiết Phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng.

Đức Hồng y Grech nhắc lại rằng Thượng Hội đồng là thời gian cầu nguyện, “không phải là một hội nghị”, nhưng là một “một cộng đoàn Giáo hội cầu nguyện”, là thời gian để lắng nghe Lời Chúa và Chúa Thánh Thần, và là cơ hội để cầu xin Chúa tha thứ cho tội lỗi của Giáo hội.

Tĩnh tâm và canh thức cầu nguyện

Đức Hồng y giải thích, giống như Phiên họp thứ nhất vào tháng 10/2023, trước Phiên họp thứ hai và cũng là cuối cùng của Thượng Hội đồng Giám mục thứ 16, sẽ có hai ngày tĩnh tâm, vào ngày 30/9 và 1/10/2024, tại Vatican, được hướng dẫn bởi các bài suy niệm của Cha Timothy Radcliffe, nguyên Bề trên Tổng quyền dòng Đaminh, và Mẹ Ignazia Angelini dòng Biển Đức.

Một điểm mới trong phiên họp năm nay là, Đức Hồng y Grech cho biết, sẽ có giờ canh thức sám hối do Đức Thánh Cha chủ sự vào chiều thứ Ba ngày 1/10/2024, tại Đền thờ Thánh Phêrô. Giờ canh thức được tổ chức bởi Ủy ban Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng và giáo phận Roma, với sự cộng tác của Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền dòng nam và Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền dòng nữ.

Trong cử hành canh thức, sẽ có phần trình bày chứng từ của ba cá nhân nạn nhân của các tội lạm dụng, chiến tranh và sự thờ ơ đối với khủng hoảng di dân. Sau đó sẽ có những lời thú tội về những tội lỗi cụ thể để “nhận ra chúng ta là một phần của những người, thông qua sự thiếu sót hoặc hành động, trở thành người chịu trách nhiệm cho nỗi đau khổ và tổn hại mà những người vô tội và không có khả năng tự vệ phải gánh chịu”.

Đặc biệt, những tội lỗi chống lại hòa bình, thụ tạo, người bản địa, người di cư, phụ nữ, gia đình, người trẻ; tội sử dụng giáo lý như một hòn đá chống lại người khác, tội lỗi chống lại đói nghèo và hiệp hành (ví dụ như không lắng nghe, hoặc tội lỗi làm tổn hại đến sự hiệp thông hoặc sự tham gia của tất cả mọi người) sẽ được thú nhận.

Đức Thánh Cha sẽ kết thúc giờ canh thức bằng cách thay mặt cho tất cả các tín hữu cầu xin sự tha thứ từ Thiên Chúa và toàn thể nhân loại.

Cầu nguyện đại kết

Đức Hồng y Grech cho biết thêm, một buổi cầu nguyện đại kết cũng sẽ được tổ chức vào tối ngày 11/10/2024 tại Quảng trường các vị Tử đạo tiên khởi ở Vatican, nơi truyền thống cho rằng Thánh Phêrô đã chịu tử đạo. Ngày này đánh dấu kỷ niệm 62 năm ngày khai mạc Công đồng Vatican II.

Vào ngày 21/10/2024, sẽ có một ngày tĩnh tâm khác. Theo Cha Costa, cuộc tĩnh tâm này sẽ cho phép các thành viên chuẩn bị về mặt thiêng liêng cho việc trình bày bản dự thảo tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng, mà họ sẽ được kêu gọi đưa ra phản hồi trước khi bỏ phiếu về nội dung cuối cùng của tài liệu.

Đức Hồng y Grech lưu ý rằng sẽ có “một sự luân phiên giữa các giờ cầu nguyện cá nhân, đối thoại và hiệp thông huynh đệ trong sự lắng nghe và yêu thương lẫn nhau”.

Bốn diễn đàn thần học-mục vụ

Một điểm mới khác trong Phiên thứ hai của Thượng Hội đồng Giám mục thứ 16 sẽ là bốn diễn đàn thần học-mục vụ, dành cho tất cả mọi người, bao gồm cả các nhà báo đã đăng ký.

Hai diễn đàn sẽ diễn ra vào ngày 9/10/2024, một diễn đàn về “Dân Chúa, Chủ thể của việc Truyền giáo” tại Hội trường Nhà Tổng quyền dòng Tên, và diễn đàn còn lại về “Vai trò và Quyền hạn của Giám mục trong Giáo hội Hiệp hành” tại Học viện Augustinianum.

Hai diễn đàn còn lại sẽ được tổ chức vào ngày 16/10/2024. Các chủ đề sẽ là “Mối quan hệ hỗ tương giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ” tại Hội trường Nhà Tổng quyền dòng Tên và “Việc thực hiện Quyền tối thượng và Thượng hội đồng Giám mục” tại Học viện Augustinianum. Các diễn đàn này sẽ có sự tham gia của các nhà thần học, chuyên gia giáo luật, giám mục và những người khác, với cơ hội đối thoại. Các diễn đàn cũng sẽ được chiếu trực tuyến theo yêu cầu.

Các tham dự viên

Về số tham dự viên của Thượng hội đồng, Đức Hồng y Hollerich giải thích rằng số người tham gia phiên họp thứ hai này tương tự như phiên họp đầu tiên, với 368 thành viên bỏ phiếu, bao gồm 272 giám mục và 96 người không phải giám mục. Có 26 thay đổi, chủ yếu là thay thế. Có 8 vị khách mời đặc biệt, trong khi số các đại biểu anh em đã tăng từ 12 lên 16, phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng của các Giáo hội anh em trong tiến trình hiệp hành. Ngài cũng xác nhận sự hiện diện của hai giám mục từ Trung Quốc, đó là Đức Cha Giuse Dương Vĩnh Cường của giáo phận Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang, và Đức Cha Vinh Sơn Chiêm Tử Lộc của giáo phận Phúc Ninh thuộc tỉnh Phúc Kiến.





ĐHY Gracias: ĐTC Phanxicô muốn thay đổi vai trò của các Sứ thần Tòa Thánh

Đức Hồng y Oswald Gracias, Tổng giám mục Bombay ở Ấn Độ, đã được bổ nhiệm làm điều phối viên của nhóm nghiên cứu sẽ đánh giá hoạt động và vai trò của các Sứ thần Tòa Thánh. Ngài chia sẻ rằng Đức Thánh Cha muốn nhấn mạnh vai trò của các Sứ thần là giúp đỡ các giám mục địa phương.



Đức Hồng y Oswald Gracias 

Trong số các thành viên của nhóm nghiên cứu có Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng, Đức Tổng Giám mục Luciano Russo, Đức Tổng giám mục Salvatore Pennacchio, Giám đốc Học viện đào tạo các nhân vật ngoại giao của Tòa Thánh. Nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra những đề nghị nhắm cải thiện vai trò của các Sứ thần, để họ có thêm tinh thần truyền giáo và tính hiệp hành. Nhóm đã bắt đầu công việc với các cuộc họp với các viên chức của Phủ Quốc vụ khanh và các Chủ tịch các Hội đồng Giám mục ở các châu lục.

Sau phiên họp thứ nhất của Thượng Hội đồng về Hiệp hành, Đức Thánh Cha đã xác định một số vấn đề cần được nghiên cứu đặc biệt, trong đó có vai trò của các Sứ thần. Ngài muốn chuyển trọng tâm của các Sứ thần Tòa Thánh.

Vai trò của các Sứ thần: giúp đỡ các giám mục địa phương

Theo Đức Hồng y Gracias, có lo ngại rằng các Sứ thần có thể trở nên quá quan liêu nếu họ chủ yếu hoạt động như các đại sứ của Tòa Thánh. Do đó, Đức Thánh Cha đang cố gắng chuyển trọng tâm này trở lại và giúp họ thấy vai trò của họ là giúp đỡ các giám mục địa phương. Cuối cùng, họ không nên hoàn toàn tách khỏi vấn đề hiệp hành.

Đức Hồng y giải thích rằng Đức Thánh Cha nhấn mạnh vào vai trò kép của Sứ thần Tòa Thánh là đại sứ của Tòa Thánh tại chính quyền tương ứng và đồng thời là đại diện của Đức Thánh Cha tại các giáo hội địa phương. Ngài nói: “Đức Thánh Cha hiện nhấn mạnh rằng làm việc với giáo hội địa phương và các giám mục là quan trọng hơn”.

Hồng y Tổng Giám mục Bombay giải thích rằng các Sứ thần có tinh thần truyền giáo có thể theo nghĩa là họ khuyến khích các giám mục, giúp đỡ họ và nhìn thấy sứ vụ của Giáo hội có thể được phát triển thế nào.

Ngài cũng cho biết: “Tại một số cuộc họp và cũng với Đức Thánh Cha, tôi đã nói rằng cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn nhiều với các Sứ thần và Hội đồng Giám mục địa phương. Điều này sẽ giúp ích cho giáo hội địa phương bởi vì các Sứ thần thường đến từ một quốc gia và nền văn hóa khác. Do đó các Sứ thần cần có cái nhìn hiệp hành với Giáo hội địa phương


Nhiều linh mục được nhớ đến trong “Ngày Thế giới những người bị lưu đày đến Siberia”

85 năm trước, vào ngày 17/9/1939, Hồng quân Liên Xô đã phá vỡ hiệp ước không xâm lược Ba Lan và tiến vào lãnh thổ Cộng hòa Ba Lan. Ngày 17/9 được Ba Lan kỷ niệm như “Ngày Thế giới những người bị lưu đày đến Siberia” để tưởng nhớ số phận bi thảm của những người Ba Lan bị Liên Xô đày đến Siberia; trong số này có các giáo sĩ Ba Lan.


image.png

Tổng thống Ba Lan tại lễ tưởng niệm 85th năm hồng quân xâm lược Ba Lan

Theo Cha Zdzisław Banaś, Tuyên úy toàn quốc của Những Người bị lưu đày ở Siberia, nhiều linh mục đã hy sinh vì đạo ở đó. Những người sống sót đã duy trì đức tin giữa những người bị lưu đày, và một số người vẫn tự nguyện ở lại đó để ở bên những người bị lưu đày. Cha Banaś nhấn mạnh: “Họ là những anh hùng không chỉ cứu rỗi linh hồn mà còn cứu sống rất nhiều người”.

“Những Người bị lưu đày ở Siberia” bao gồm những người bị đày đến nơi này trong thời Nga hoàng cũng như trong thời Liên Xô. Giáo sĩ đầu tiên được nhớ đến là Giám mục Kajetan Sołtyk, bị người Nga trục xuất đến Kaluga. Sau đó, hàng loạt các linh mục tiếp tục bị trục xuất trong thời nữ hoàng Catarina II.

Cha Banas giải thích: “Các giáo sĩ là những người yêu nước, và Giáo hội Công giáo gắn liền với lịch sử của quốc gia, đó là lý do tại sao sự căm ghét chủ yếu nhắm vào các linh mục”.

Các linh mục bị lưu đày, dù là tù nhân, vẫn thi hành sứ vụ mục vụ. Các ngài hỗ trợ những tù nhân phải lao động nặng nhọc và bị bách hại. Giáo sư Jan Żaryn cho biết, vào cuối năm 1881, đã có 270 linh mục bị lưu đày ở Siberia hay những nơi khác ở Nga. Điều này cho thấy mức độ bách hại chống giáo sĩ.

Các linh mục không thể tưởng tượng được việc để lại các tín hữu một mình, đó là lý do tại sao nhiều vị sẵn sàng chịu cảnh lưu đày. Các ngài ban các bí tích, nghi thức cuối cùng và chôn cất. Theo giáo sư Jan Żaryn, ngôi nhà gulag bằng gỗ, “nhà của linh mục”, nơi các linh mục sống trong một trong những ngôi làng ở Siberia là một bằng chứng sống động có thể được coi là di tích tử đạo của các linh mục đã chịu đựng những điều kiện này trong nhiều năm.



Vatican phát hành tem kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ
Vào sáng ngày 16/9/2024, tại Phòng Hội nghị của Bảo tàng Vatican, Đức Hồng y Fernando Vérgez Alzaga, Chủ tịch Phủ Thống đốc Thành Vatican, sẽ giới thiệu một con tem kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ.

Phủ Thống đốc Thành Vatican

Theo thông cáo của Vatican, "Phủ Thống đốc Thành Vatican sẽ phát hành một con tem do Dịch vụ Bưu chính và Tem thư của Tổng cục Viễn thông và Hệ thống Thông tin phát hành”.

Bà Laura Hochla, Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh, sẽ cùng Đức Hồng Y Phủ Thống đốc Thành Vatican giới thiệu con tem.

Hiện diện trong buổi giới thiệu tem còn có Sơ Raffaella Petrini, Tổng Thư ký Phủ Thống đốc Thành Vatican và kỹ sư Antonino Intersimone, Giám đốc Tổng cục Viễn thông và Hệ thống Thông tin, và Cha Felice Bruno thuộc dòng Don Orione, tân Chánh Văn phòng của Dịch vụ Bưu chính và Tem thư của Vatican.

Thông cáo của Vatican cho biết, "Con tem mô tả huy hiệu của Tòa Thánh và Hoa Kỳ, được thống nhất một cách lý tưởng bởi các dải ruy băng gợi lên lá cờ của Vatican và Hoa kỳ. Nhân dịp này, Dịch vụ Bưu chính và Tem thư của Vatican cũng chuẩn bị một tem thư có đóng dấu ngày phát hành. Con tem mang quốc huy của Tòa Thánh và Hoa Kỳ, có các dòng chữ “kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ”, “Bưu điện Vatican” và “ngày phát hành 16/09/2024”.



Vatican lên kế hoạch đối thoại tại Bangladesh vì sự hòa hợp tôn giáo

Bộ Đối thoại Liên tôn mong muốn cử một phái đoàn tới Bangladesh nhằm nhấn mạnh sự hòa hợp tôn giáo tại quốc gia Nam Á này, nơi các nhóm tôn giáo thiểu số đã bị tấn công sau cuộc biến động chính trị gần đây.
image.png

Đề xuất này được đưa ra sau khi các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt các tín đồ Ấn giáo, phải đối diện với một loạt các cuộc tấn công sau cuộc nổi dậy đẫm máu do sinh viên lãnh đạo lật đổ Thủ tướng Sheikh Hasina và đảng Liên đoàn Awami của bà khỏi quyền lực vào ngày 05/8 vừa qua.

Hơn 800 người đã thiệt mạng và khoảng 18.000 người bị thương khi yêu cầu cải cách chính sách của sinh viên biến thành cuộc nổi loạn chống chính phủ trên toàn quốc. Chế độ của thủ tướng Hasina đã sử dụng vũ lực để dập tắt các cuộc biểu tình, gây ra hầu hết các trường hợp tử vong.

Sau khi bà Hasina chạy trốn, nhà cửa và tài sản của các nhóm tôn giáo thiểu số, chủ yếu của các tín đồ Ấn giáo, những người ủng hộ truyền thống của đảng bà Hasina, đã bị tấn công. Chỉ tính từ ngày 05 đến 20/8, ít nhất 1.068 ngôi nhà và doanh nghiệp của người thiểu số đã bị tấn công, trong khi 22 nơi thờ phượng cũng bị tấn công.  

Cố vấn đối ngoại Bangladesh Touhid Hossain cho biết hầu hết các cuộc tấn công đều có động cơ chính trị chứ không phải vì lý do tôn giáo.

Trước tình hình này, Đức Tổng Giám Mục Kevin S. Randall, Sứ thần Tòa Thánh tại Bangladesh cho biết, Bộ Đối thoại Liên tôn lên kế hoạch cử một phái đoàn đến Bangladesh, gặp gỡ các học giả Hồi giáo và đối thoại về hành trình đức tin của họ, cụ thể nhấn mạnh sự hòa hợp tôn giáo tại quốc gia Nam Á này.

Ngày 09/9, Đức Tổng Giám Mục Randall đã gặp ông Muhammad Yunus, người đứng đầu chính phủ lâm thời Bangladesh, và truyền đạt thông điệp này.

Một quan chức Bộ ngoại giao Bangladesh tham dự cuộc gặp gỡ nói rằng chính phủ sẽ tiến hành làm việc với Vatican sau khi nhận được đề xuất và lịch trình cụ thể.

Sứ thần Toà Thánh nhận xét, ở Bangladesh trong nhiều thập kỷ, các tín đồ của các tôn giáo đã chung sống hòa thuận nhưng “vẫn còn một số nhầm lẫn” nơi người dân và trong các cơ quan chính phủ về ý tưởng tự do tôn giáo. Mọi người đều thiếu hiểu biết rằng các nhóm tôn giáo thiểu số có thể thực hành đức tin ở mà không bị đe dọa. Vì vậy, đối thoại ở cấp độ học giả là để nhắc nhở rằng Bangladesh không phải là quốc gia tôn giáo. Hồi giáo là tôn giáo chính thức, nhưng điều đó không ngăn cản người Ấn giáo thực hành đức tin.

Thực tế, trong nền chính trị “dân tộc-tôn giáo” được thực hành ở tiểu lục địa Ấn Độ, các tôn giáo đã bị sử dụng để đạt được mục đích chính trị. Vì thế các học giả tôn giáo phải lên tiếng phản đối việc sử dụng tôn giáo như một công cụ chính trị, và cần hiểu rõ hơn về cách tôn giáo có thể mang lại hòa bình cho mọi người và sự hiểu biết đó cần phải đến được với mọi người.

Quốc gia này có dân số khoảng 170 triệu người, 91% Hồi giáo và gần 8% theo Ấn giáo. Tất cả các tôn giáo khác, bao gồm cả Kitô giáo, chiếm 1% phần còn lại. Người Công giáo chưa tới 500.000 người.


Thành quả của thỏa thuận Vatican-Bắc Kinh: chỉ xét các sự kiện.

Phil Lawler của Catholic World News, ngày 16 tháng 9 năm 2024, nhận định rằng trong cuộc trao đổi với các phóng viên trên chuyến trở về từ Singapore tuần trước, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết thỏa thuận bí mật của Vatican với Bắc Kinh về việc bổ nhiệm các giám mục mới mang lại "một lời hứa và hy vọng". Đức Giáo Hoàng lạc quan về tương lai của mối quan hệ giữa Vatican và Trung Quốc, và về kết quả của thỏa thuận đó. "Kết quả khá tốt", ngài nói.
Tốt như thế nào? Gianni Valente, giám đốc dịch vụ tin tức Fides của Vatican, lập luận rằng "nếu chúng ta bám sát vào các sự kiện, thì phán đoán của Đức Giáo Hoàng chỉ là một hành vi thực tiễn Kitô giáo đơn giản".

Vậy thì, chúng ta hãy bám sát vào các sự kiện. Mục tiêu của thỏa thuận bí mật là bảo đảm rằng tất cả các giáo phận Công Giáo ở Trung Quốc đều do các giám mục lãnh đạo, hiệp thông hoàn toàn với Tòa thánh. Trong sáu năm kể từ khi thỏa thuận được ký kết, Valente đưa tin, chín giám mục mới đã được tấn phong với sự chấp thuận của cả Bắc Kinh lẫn Tòa thánh. "Do đó, số lượng giáo phận Trung Quốc bỏ trống đang dần giảm đi".

Đúng vậy. Nhưng để mọi thứ ở đúng góc nhìn, số lượng giáo phận Trung Quốc bỏ trống chỉ giảm dần. Theo thống kê không chính thức của tôi, hiện có 46 giáo phận Trung Quốc, bao gồm ba tổng giáo phận, hiện không có giám mục. Với tốc độ hiện tại là 1.5 lần tấn phong giám mục mỗi năm, sẽ mất hơn 30 năm một chút để cung cấp cho mọi giáo phận Trung Quốc một giám mục. Và dự đoán đó giả định rằng sẽ không có sự mở cửa mới nào xảy ra trong 30 năm đó do tử vong hoặc từ chức - điều này sẽ cực kỳ khó xảy ra trong mọi trường hợp, nhưng đặc biệt là khi có ít nhất hai giáo phận hiện đang được các giám mục trên 90 tuổi lãnh đạo.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng mối quan hệ với Bắc Kinh đang được cải thiện. Đức Hồng Y Pietro Parolin đồng ý, đồng thời nói thêm rằng Tòa thánh hy vọng sẽ ký một bản gia hạn khác cho thỏa thuận, bất chấp những thất bại mà Quốc vụ khanh Vatican thích mô tả là "những tình huống bất hòa tạo ra bất đồng và hiểu lầm".

Nhưng nếu có tiến triển, thì phải trả giá như thế nào? Khi tôi đặt câu hỏi đó cách đây hai năm, tôi đã cân nhắc các bằng chứng có sẵn:

Vatican đã đồng ý chấp nhận các giám mục do Bắc Kinh bổ nhiệm; Bắc Kinh đã đồng ý công nhận một số giám mục Công Giáo "ngầm" trung thành với Rome nhưng từ chối chấp nhận những người không công nhận thẩm quyền của Hiệp hội Yêu nước do chính phủ hậu thuẫn - một nhóm mà mục đích của họ, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã cảnh báo, không thể hòa giải với thẩm quyền giảng dạy của Giáo hội. Sáu giám mục "ngầm" đã được Bắc Kinh công nhận và hiện có thể thi hành thừa tác vụ của mình ở nơi công cộng. Nhưng những người khác vẫn ở trong tình huống hầm trú, trong một số trường hợp bị quản thúc tại gia.

Không có nhiều thay đổi kể từ năm 2022. Vẫn còn những giám mục "ngầm" bị quản thúc tại gia. Hiệp hội Yêu nước có ảnh hưởng hiệu quả hơn Tòa thánh. Và 46 giáo phận vẫn đang chờ giám mục. Nếu thỏa thuận bí mật thành công, thì thất bại sẽ trông như thế nào?



Caritas Luxembourg ngưng các dự án quốc tế


Vì bị biển thủ, Caritas Luxembourg đã phải quyết định ngưng tài trợ các dự án từ thiện quốc tế, theo thông cáo công bố chiều ngày 16 tháng Chín vừa qua.




Hồi cuối tháng Bảy năm nay, người ta phát hiện một nữ cộng tác viên của Caritas Luxembourg đã biển thủ 61 triệu Euro của Caritas và chuyển khoản vào một ngân hàng ở Tây Ban Nha. Caritas và viện công tố xác nhận vụ này. Cuộc điều tra về tội giả mạo, gian lận, lường gạt, bất trung và rửa tiền đã được khởi sự. Một người ban đầu bị bắt giam, nhưng sau đó được trả tự do tạm sau khi đóng tiền thế chân.

Caritas Luxembourg cũng thông báo rằng một Ủy ban về cuộc khủng hoảng này đã được thành lập, dưới sự hướng dẫn của ông Cristian Billon, Cố vấn kinh tế. Mục đích là đưa ra tất cả những biện pháp cần thiết để đảm bảo hoạt động của tổ chức bác ái này và tái tạo sự tín nhiệm nơi tất cả những người liên hệ. Trong một cuộc họp, Ủy ban về khủng hoảng đã tường trình cho Đức Hồng y Hollerich, Tổng giám mục Luxemburg, và các vị hữu trách khác của Tổng giáo phận, về tình hình hiện nay cũng như những biện pháp đã được đề ra trong thời gian trước đó. Đức Hồng y đã yêu cầu làm sáng tỏ hoàn toàn vụ biển thủ này và khuyến khích Ủy ban đối phó khủng hoảng, được thành lập trong tuần lễ trước đây, hãy cộng tác chặt chẽ với nhà chức trách tư pháp trong cuộc điều tra.

Nay thông cáo của Caritas Luxembourg cho biết phải sa thải 30 trong tổng số 500 nhân viên. Thêm vào đó, 70 hoạt động của Caritas này tại Nam Sudan và tại Lào cũng bị loại bỏ, và hơn 60 dự án bị ngưng lại.

Tổng giáo phận Luxemburg cho biết như trên và không cung cấp thêm chi tiết, nhưng nhấn mạnh rằng nhờ thiết lập cơ cấu mới, Caritas của Giáo hội địa phương có thể tiếp tục các hoạt động bác ái ở Luxembourg, các nhân viên có thể tiếp tục công việc trên bình diện quốc gia. Thông cáo nói: “Vụ biển thủ và các hoạt động gian trá không được làm giảm bớt công trạng của các nhân viên tốt và không được làm cho những người thiện chí hỗ trợ các cơ cấu mới của Caritas”.

Khi vụ xì căng đan mới được phát hiện hồi tháng Bảy và gây xôn xao lớn tại Luxembourg, Thủ tướng Luc Frieden tuyên bố rằng tổ chức bác ái này, vốn cung cấp các dịch vụ cho những người vô gia cư và người tị nạn với sự hỗ trợ của nhà nước, nay sẽ “không nhận được một đồng Euro nào nữa”.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Áo, truyền đi hôm 17 tháng Chín vừa qua, Đức Hồng y Hollerich nói rằng: rất tiếc Giáo hội Luxemburg không có tiền để cứu Caritas. Bây giờ, nhà nước đang can thiệp, sẽ có một tổ chức kế tiếp được gọi là “Hut - Hellef um Terrain”, nhưng cơ quan này không còn là Công giáo nữa”. Caritas đã làm một công việc tốt.

Đức Hồng y Hollerich nhìn nhận rằng tuy vụ này không tạo một bóng đen trên cuộc viếng thăm sắp tới của Đức Giáo hoàng tại Luxemburg, nhưng đôi khi Giáo hội cũng bị mang tiếng trước dư luận, vì sự thật về vụ này không được biết đến. Người ta luôn có xu hướng quên rằng chính Caritas là nạn nhân chứ không phải là thủ phạm”.





Một linh mục Sudan: Dân chúng tiếp tục chết trong sự dửng dưng của thế giới
Một linh mục Sudan cho phóng viên Vatican News biết tại quốc gia châu Phi này, do cuộc chiến không kết thúc, hàng chục ngàn người bị thiệt mạng, 10 triệu người phải di dời, dân chúng tiếp tục chết trong sự dửng dưng của thế giới, nhưng Giáo hội vẫn tiếp tục giúp đỡ dân chúng.

image.png
Nhà thờ ở Sudan bị phá hoại 

Vì sự an toàn, vị linh mục không nêu tên cho biết, cuộc chiến giữa quân đội và dân quân chỉ mang lại sự tàn phá và chết chóc. Chứng kiến nhà cửa bị tàn phá, người thân bị tàn sát hoặc bắn chết, mọi người đang chạy trốn khỏi Sudan đến Nam Sudan, Chad và Ai Cập.

Người Công giáo cũng phải chạy trốn. Chỉ là thành phần thiểu số rất nhỏ, trước xung đột bùng nổ, Giáo hội có một triệu tín hữu, nhưng ngày nay chỉ còn một nửa. 

Theo linh mục, những thảm kịch xảy ra ở Sudan không được thế giới chú ý, mặc dù hậu quả nặng nề. Như vào tháng 8 vừa qua, ở El Obeid, hàng chục trẻ em chết dưới đống đổ nát của một ngôi trường bị tên lửa phá huỷ, thủ đô Khartoum bị tàn phá liên tục bởi bom đạn, các ngôi làng ở Durfur, bị đốt cháy và cướp bóc hoàn toàn.

Trong cảnh đau thương và tuyệt vọng này, linh mục mô tả tình hình Giáo hội địa phương: Các tu sĩ nước ngoài, linh mục, giáo dân đều chạy trốn. Hầu như không còn ai. Tại Tổng Giáo Phận Khartoum và Giáo Phận El Obeid mỗi nơi chỉ còn lại ba linh mục cố gắng duy trì đời sống bí tích bao nhiêu có thể, ngay cả khi phải trả giá bằng việc phải đến những khu vực xa xôi và khó tiếp cận nhất. Giáo hội với sự cộng tác của các giáo lý viên nỗ lực trao ban lương thực thiêng liêng và cung cấp những nhu cầu vật chất tối thiểu cho dân chúng, không phân biệt tôn giáo.

Khi được hỏi liệu Giáo hội có thể trở thành một phần tích cực trong quá trình bình định các phe phái tham chiến hay không, linh mục không ngần ngại trả lời dựa trên một thực tế: “Chúng tôi không có sức mạnh. Chúng tôi không có các kênh ngoại giao trực tiếp, như Sứ thần để chúng tôi có thể tương tác về mặt chính trị và thể chế. Điều Giáo hội có thể làm là thu hút sự chú ý của giới truyền thông lưu tâm đến những gì chúng tôi đang trải qua. Nhưng dường như không có sự chú ý nào, Sudan đã bị lãng quên. Đó là sự thật. Nhưng Giáo hội vẫn tiếp tục lên tiếng, ngay cả khi chúng tôi cảm thấy hoàn toàn bị cộng đồng quốc tế bỏ rơi. Tất nhiên, đang có chiến tranh ở Ucraina và Thánh địa nhưng ở đây có 10 triệu người phải di dời, hàng chục ngàn người chết trong khi một triệu người có nguy cơ chết đói”.

Và ngài than phiền: “Còn điều gì nữa phải xảy ra với đất nước bất hạnh này để tiếng kêu tuyệt vọng được lắng nghe?”




Châu Phi ngày càng lớn mạnh trong ngành ngoại giao của Tòa Thánh


Đức ông Julien Kaboré, 56 tuổi, được Hồng y Pietro Parolin phong giám mục



Đức ông Julien Kaboré, 56 tuổi, tân Sứ thần Tòa thánh tại Ghana, được hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin phong giám mục tại Đền thờ Thánh Phêrô, một dấu hiệu mới cho thấy sự trỗi dậy của Châu Phi trong bộ máy ngoại giao Tòa Thánh.

Sau thánh lễ, Hồng y Philippe Ouedraogo, Tổng Giám mục Danh dự của Ouagadougou nói với I.Media: “Đây là vinh dự cho toàn thể người dân Burkina Faso, chứ không chỉ riêng cho Giáo hội.” Thánh lễ cử hành với sự có mặt của một số giáo dân, người thân của tân giám mục, đặc biệt là thân phụ của Giám mục từ Burkina Faso và Ghana về. Trong bài giảng, Hồng y Parolin giải thích: “Chức vụ Sứ thần Tòa Thánh phải hướng tới việc rao giảng hòa bình và công lý, đặc biệt là giữa các nhà lãnh đạo Quốc gia, nhiều nhà lãnh đạo đã không bảo đảm cho công dân của họ sự thanh thản và an ninh này.”

Chức vụ sứ thần phải hướng tới “việc rao giảng hòa bình và công lý”

Đức ông Julien Kaboré sinh ngày 18 tháng 6 năm 1968 tại Zorgho, miền trung Burkina Faso, làm Sứ thần Tòa thánh tại Ghana sau 20 năm phục vụ trong cơ quan ngoại giao của Vatican. Chịu chức ngày 8 tháng 7 năm 1995 tại Tổng giáo phận Koupéla, ngài bắt đầu làm việc trong ngành ngoại giao Tòa thánh ngày 1 tháng 7 năm 2004. Ngài đã làm sứ thần ở Kenya, Papua Tân Ghinê, Costa Rica, Hàn Quốc, Croatia, Trinidad và Tobago, Phi Luật Tân và Ireland. Một số phái đoàn từ các quốc gia này đã về Rôma dự lễ nói lên kỷ niệm tốt đẹp và tình cảm của họ với ngài, ngài phát triển tình bạn lâu dài ở các quốc gia nơi ngài làm việc. Ngoài tiếng Pháp, ngài còn nói được tiếng Anh, tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha. Trong bối cảnh đau thương của các cuộc chiến đau thương giữa các lực lượng dân quân thánh chiến kể từ năm 2015, và đặc biệt là vụ thảm sát Barsalogho làm cho hàng trăm người thiệt mạng ngày 24 tháng 8, Giám mục Kaboré nhấn mạnh đến tầm quan trọng của các sáng kiến hòa bình do Giáo hội địa phương lãnh đạo. Ngài đề cập đến Tam Nhật được Hội đồng Giám mục Burkina-Niger tổ chức từ ngày 12 đến ngày 14 để cầu nguyện cho hòa bình và sự sống ở các làng mạc và đất nước.

Ngày càng có nhiều sứ thần Châu Phi

Lễ tấn phong này đánh dấu một giai đoạn mới về đại diện của Châu Phi trong ngành ngoại giao của Vatican. Phản ánh sự tiến triển của người Châu Phi trong nhiều giáo phận phương Tây, ngày càng có nhiều giáo phận Châu Phi gởi sinh viên về Rôma học ở Giáo hoàng Học viện Giáo hội, có biệt danh là “trường của các Sứ thần”.

Chỉ đến năm 1998, “sứ thần giáo hoàng” đầu tiên của một quốc gia Châu Phi mới được phong: Đức ông Augustin Kasujja, quốc tịch Uganda, ngài làm việc tại Tunisia và Algeria từ năm 1998 đến năm 2004, tại Madagascar từ năm 2004 đến năm 2010, tại Nigeria từ năm 2010 đến năm 2016, và cuối cùng là ở Châu Âu, Bỉ và Luxembourg, từ năm 2016 đến năm 2021. Sứ thần đầu tiên đến từ một quốc gia châu Phi nói tiếng Pháp là Đức ông Léon Léon Kalenga Badikebele (1956-2019), quốc tịch Congo. Ngài là Sứ thần Tòa Thánh tại Ghana từ năm 2008 đến 2013, sau đó ở El Salvador và Belize từ năm 2013 đến 2018, và cuối cùng ở Argentina từ năm 2018 cho đến khi ngài qua đời tại Rôma ngày 12 tháng 6 năm 2019 bên lề cuộc họp ba năm một lần của các Sứ thần. Đặc biệt, Đức Phanxicô đã đích thân cử hành tang lễ cho “đại sứ” quê hương ngài tại Đền thờ Thánh Phêrô, với sự hiện diện của tất cả sứ thần ở Rôma.

Các sứ thần Châu Phi nói tiếng Pháp

Ngoài Đức ông Kaboré, hai sứ thần khác đến từ Châu Phi nói tiếng Pháp hiện đang hoạt động trong mạng lưới ngoại giao của Tòa thánh. Đức ông Dieudonné Datonou, người Bénin giữ chức vụ Sứ thần Tòa Thánh tại Burundi từ năm 2021. Trước đây ngài là người điều phối các chuyến tông du của Đức Phanxicô trong vài tháng, đặc biệt là chuyến đi khó khăn của Đức Phanxicô tới Iraq tháng 3 năm 2021. Đức ông Jean-Sylvain Émien Mambé ở Biển Ngà đã giữ chức vụ Sứ thần Tòa Thánh tại Mali và Guinea từ năm 2022, ngài đã được Hồng y Parolin phong giám mục tại Abidjan ngày 7 tháng 5 năm 2022.

Vị trí chiến lược các sứ thần châu Phi khác đến từ khu vực nói tiếng Anh

Đức ông Fortunatus Nwachukwu, quốc tịch Nigeria, là nhân vật nổi bật dưới triều Đức Bênêđíctô XVI, đứng đầu Bộ Ngoại giao từ năm 2007 đến năm 2012. Sau đó, ngài giữ chức vụ Sứ thần Tòa thánh tại Nicaragua, Caribê trước khi đảm nhận vị trí chiến lược là quan sát viên thường trực của Tòa thánh tại Liên Hiệp Quốc ở Geneva. Năm 2023, ngài được Đức Phanxicô đưa về Vatican làm thư ký cho Bộ Truyền giáo. Đức ông Jude Thaddeus Okolo, người Nigeria đã là Sứ thần Tòa thánh tại Cộng hòa Séc từ năm 2022. Trước đây, ngài từng là Sứ thần tại Ai-len, quốc gia ngài chào đón Đức Phanxicô trong chuyến tông du khó khăn năm 2018. Đức ông Novatus Rugambwa, quốc tịch Tanzania, là sứ thần tòa thánh ở Angola, Honduras, sau đó ở New Zealand, nhưng ngài về Rôma năm 2024 vì bị suy yếu sau cơn đau tim. Đức Giám mục Brian Udaigwe, gốc Cameroon, đã giữ chức vụ Sứ thần Tòa thánh tại Sri Lanka từ năm 2020 sau khi phục vụ ở Benin và Togo.






Các Giám mục Trung Quốc cảnh báo các tín hữu đừng theo các giáo phái

Các Giám mục Trung Quốc cảnh báo các tín hữu tránh xa các giáo phái và giáo lý có vẻ tương tự với Giáo hội nhưng thực tế đi ngược với giáo huấn Thánh Kinh và Truyền thống, khẳng định nhiệm vụ giải nghĩa Lời Chúa chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Giáo hội, đồng thời cầu nguyện cho những ai đã bị “lừa dối” để biết phân định và ngay lập tức trở lại với Giáo hội.

Trong một thư mục vụ, Đức cha Francesco Saverio Jin Yangke, Giám mục Ninh Ba ở tỉnh Chiết Giang viết: “Những người Công giáo phải tránh xa các giáo phái và học thuyết của họ, phải dứt khoát không tham gia các cuộc gặp gỡ của các giáo phái. Những người đã được rửa tội phải kiên trì trong đức tin và tuân theo chân lý được mạc khải trong Thánh Kinh và Huấn quyền Giáo hội”.

“Với tình mục tử” Đức cha yêu cầu các linh mục ngay lập tức báo cho các cộng đoàn tín hữu những nguy hiểm của giáo lý và những thực hành được truyền bá bởi các giáo phái đang tìm cách chiêu mộ tín đồ, ngay cả trong các giáo xứ Công giáo, sử dụng ngôn ngữ và công thức khải huyền Kitô giáo.

Giám mục Ninh Ba đề cập cụ thể đến các nhóm được gọi là “Giáo hội của Thiên Chúa Toàn Năng” và “Trời Mới Đất Mới”, đồng thời kêu gọi tất cả cảnh giác trước hoạt động chiêu mộ tín đồ của các giáo phái này.

Với những ai đã bị “lừa dối”, Đức cha bảo đảm “cầu nguyện cùng Chúa cho anh chị em, để Người ban cho anh chị em ơn phân định. Tôi khuyên anh chị em hãy nhận ra những sự thật sai lầm của giáo lý đó, thống hối, và lập tức trở lại với đàn chiên mà Chúa Kitô đã tập hợp và thiết lập”.

Trong thư, Đức cha Jin trích khoản 1 điều 750 Bộ Giáo luật, và số 85 của Sách Giáo lý Công giáo, nói rõ rằng: “Từ giáo dân và điều tra của giáo phận, chúng tôi phát hiện ra gần đây có các giáo phái đang hoạt động. Các bài giảng của họ có vẻ tương tự với Giáo hội, nhưng thực tế giáo lý đi ngược với giáo huấn Thánh Kinh và Truyền thống, làm cho đời sống chúng ta xa rời Tin Mừng Chúa Kitô”. Ngài khẳng định, số 85 của Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng “nhiệm vụ giải nghĩa cách chân chính Lời Thiên Chúa đã được viết ra hay lưu truyền, chỉ được ủy thác cho Huấn Quyền sống động của Giáo hội, và Giáo hội thi hành quyền đó nhân danh Đức Giêsu Kitô”, và nghĩa là các Giám mục trong sự hiệp thông với Người kế vị Thánh Phêrô, Giám mục Roma.

Đây không phải là lần đầu tiên các Giám mục Trung Quốc buộc phải cảnh báo các linh mục, nữ tu và giáo dân trước nguy cơ bị quyến rũ bởi các phương pháp tuyển mộ của các giáo phái mà trong quá trình tuyên truyền họ liên tục đề cập đến các sách Kinh Thánh, gieo rắc sự nhầm lẫn ngay cả trong người Công giáo. Một số giám mục và linh mục cho biết họ đã phải chịu sự tống tiền, đe dọa và uy hiếp sau khi yêu cầu các thành viên trong cộng đoàn không kết giao với các thành viên của các giáo phái, vốn ngày càng hung hãn và ngoan cố trong nỗ lực tìm kiếm tín đồ mới trong số những người đã được rửa tội.



Giáo hội Công giáo tại Nga có thêm một giám mục


Giáo hội Công giáo tại Nga có thêm một giám mục. Đó là cha Stephan Lipke, Dòng Tên, người Đức, được Đức Thánh cha Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá Giáo phận Chúa Hiển Dung, ở Novosibirsk, miền Siberia, bên Nga.


Stephan Lipke S.J

Đức cha Lipke năm nay 49 tuổi (1975), sinh tại thành phố Essen, bên Đức và thụ phong linh mục năm 2002, thuộc Tổng giáo phận Koeln. Bốn năm sau, 2006, cha gia nhập Dòng Tên và khấn trọng năm 2019. Sau khi làm mục vụ tại Đức, cha được gửi sang hoạt động mục vụ tại Novosibirsk, từ năm 2011. Trong khi làm cha sở ở thành phố Tomsk, cha đã lấy Tiến sĩ văn chương Nga, tại Đại học Tomsk năm 2017. Về sau, cha làm Giám đốc Học viện thánh Tôma Aquinô, ở Matxcơva, và năm 2020, cha làm Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Nga.

Nay trong nhiệm vụ Giám mục Phụ tá, tại Novosibirsk, Đức cha Lipke phụ giúp Đức cha Joseph Werk, 72 tuổi, Giám mục sở tại, cũng thuộc Dòng Tên và coi sóc giáo phận này từ 33 năm nay (1991), sau khi chế độ Xô Viết chấm dứt. Đức cha Werk sinh trưởng ở Kazakhstan trong một gia đình Đức bị lưu đày sang Nga, dưới thời Stalin.

Giáo phận Chúa Hiển Dung là một trong bốn giáo phận của Giáo hội Công giáo tại Nga, rộng mênh mông với hai triệu cây số vuông và có nửa triệu tín hữu Công giáo thuộc 70 giáo xứ.

Các giáo phận Công giáo tại Nga không lấy tên theo địa danh, để tránh đụng với Giáo hội Chính thống Nga ở địa phương, nhưng được đặt tên khác đi. Ví dụ, Tổng giáo phận Mẹ Thiên Chúa ở Moscow.






Ở Đức, chủ yếu các linh mục trẻ là các linh mục bảo thủ

Một nghiên cứu gần đây cho thấy các linh mục trẻ ở Đức chủ yếu là các linh mục bảo thủ, họ chống lại các cải cách trong Giáo hội. Giải thích của nhà xã hội học Nikita Katsuba.

Nghiên cứu cho thấy chỉ có một thiểu số linh mục trẻ Đức ủng hộ cải cách trong Giáo hội

Giáo sư Nikita Katsuba, nhà khoa học xã hội và cộng tác viên khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Mục vụ Ứng dụng tại Đại học Ruhr ở Bochum. Theo yêu cầu của Hội đồng Giám mục Đức, cùng với nhà thần học và nhà khoa học xã hội Matthias Sellmann, Giáo sư Nikita Katsuba viết quyển sách Các Tân Linh mục mới là ai? (Wer wird Priester? nhà xuất bản Echter, Würzburg phát hành tháng 5-2024). Quyển sách nghiên cứu về xã hội học và động lực của các chủng sinh.

Nghiên cứu của giáo sư có đưa đến kết luận đáng ngạc nhiên nào không? 

Giáo sư Nikita Katsuba: Nghịch lý thay, điều làm tôi ngạc nhiên là các kết quả không có gì ngạc nhiên, trong chừng mực chúng xác nhận hình ảnh rập khuôn chúng ta đã có về các linh mục.

Ngày nay đa số các linh mục ngày càng ít đại diện trên bình diện xã hội.

Họ xuất thân từ các gia đình công giáo, nhận được giáo dục tôn giáo của Giáo hội, có những suy nghĩ quan trọng về Giáo hội trong giai đoạn quyết định của quá trình xã hội hóa; họ duy trì những ý tưởng bảo thủ – không muốn nói là lỗi thời – về nghề nghiệp và chức vụ linh mục. Họ ủng hộ quan niệm bảo thủ của xã hội và của Giáo hội. Các trường hợp ngoại lệ là thiểu số.

Theo tài liệu cho biết, giáo sư đã nghiên cứu về các linh mục từ năm 2010 đến năm 2021.

Đó là các linh mục trẻ với trung bình tuổi là 37. Thói quen và lối sống của họ rõ ràng khác biệt với người cùng tuổi trong xã hội.

Các linh mục đã phát triển như thế nào trong 30 năm qua?

Nghiên cứu của chúng tôi chỉ với các linh mục chịu chức từ năm 2010 đến 2021 nên chúng tôi không so sánh được với các thời kỳ trước. Tuy nhiên, nếu so sánh với Nghiên cứu của linh mục giáo sư thần học gia Paul Zulehner năm 2000 thì chúng tôi thấy có nhiều điểm tương đồng.

Giáo sư Nikita Katsuba, nhà nghiên cứu khoa học xã hội tại Đại học Ruhr (Đức)


Dù không có linh mục nào trong nghiên cứu của chúng tôi tại chức năm 2000, nhưng những người chúng tôi hỏi đều có một động lực tương tự trong chức vụ của họ. Chúng tôi thấy có ba động lực: giáo xứ, phụng vụ và nhà thờ bình dân. Vì thế các linh mục ngày nay giống với các linh mục thời giáo sư Paul Zulehner trình bày ở thời kỳ trước, dù xã hội đã thay đổi nhiều từ đó.

Với thói quen truyền thống công giáo, phần lớn các linh mục ngày càng ít đại diện ở bình diện xã hội như trường hợp của các linh mục cách đây vài thập kỷ. Họ tạo thành nhóm bảo thủ ngày càng già đi và mất dần vị thế.

“Nghiên cứu cho thấy người công giáo Đức tin tưởng vào Giáo hội tin lành hơn Giáo hội công giáo”

Giáo sư có thấy ở đây là tác động gián tiếp của việc thế tục hóa không?

Tầm quan trọng của tôn giáo và Giáo hội tiếp tục giảm sút từ gia đình gốc. Chúng ta đang chứng kiến một tình thế tiến thoái lưỡng nan về mặt thần học ơn gọi: phần lớn các linh mục xuất thân từ các gia đình công giáo giữ đạo, nhưng lòng đạo của họ ngày càng giảm sút. Với sự suy giảm này, khả năng có ơn gọi ngày càng ít.

Các linh mục của ngày mai sẽ như thế nào?

Trong các đề nghị chiến lược chúng tôi đưa ra dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi có hai kịch bản. Trong kịch bản được gọi là “tập trung”, mục vụ ơn gọi sẽ tiếp tục ở môi trường công giáo và sẽ cố gắng giải quyết cho các thanh niên trong môi trường này.

Trong kịch bản thứ hai được gọi là “sự đa dạng hóa”, Giáo hội có thể cố gắng khắc phục hạn chế này, cởi mở với người khác và cuối cùng là người chủ động, là nơi dấn thân hấp dẫn cho thế hệ trẻ từ những môi trường trung dung – như trong quá khứ – và từ đó khuyến khích ơn gọi mới cho nam giới trong các tầng lớp xã hội khác nhau.  Chỉ có kịch bản thứ hai này mới có thể chống lại sự sụt giảm nghiêm trọng về số lượng.

Điều gì sẽ xảy ra cho việc này?

Những việc này đòi hỏi phải định hướng lại cách tiếp cận có hệ thống với mọi khía cạnh của Giáo hội – từ các vấn đề đạo đức đến các hoạt động hành chính của Giáo hội. Câu trả lời cho câu hỏi Giáo hội chọn con đường nào trong số này định hình cho tương lai của chức linh mục, phản ánh qua mục vụ ơn gọi, con đường đào tạo, cũng như chính sách tuyển dụng. Liệu nó sẽ tiếp tục đi theo con đường bảo thủ và tuyển những người phù hợp với con đường này hay nó sẽ mở ra theo sự đa dạng của xã hội hiện đại? Vì các linh mục là gương mặt và nhân vật lãnh đạo, cuối cùng họ sẽ là người định hình cho Giáo hội.

Như thế có ý nghĩa gì với tương lai của Giáo hội khi các linh mục trẻ hầu hết xuất thân từ các cấu trúc gia đình bình dân, phần lớn là người bảo thủ và chống lại cải cách, như nghiên cứu của giáo sư cho thấy?

Điểm này cho thấy ý kiến của các đại diện quan trọng trong Giáo hội và xã hội – kể cả người công giáo – ngày càng khác nhau trong nhiều vấn đề liên quan đến chính trị, đạo đức và Giáo hội. Một cuộc khảo sát của Giáo hội Tin lành Đức thực hiện cho thấy người công giáo Đức đã không hài lòng với Giáo hội của họ như thế nào. Thậm chí nghiên cứu còn cho thấy một thực tế đánh kinh ngạc: người công giáo Đức tin vào Giáo hội tin lành nhiều hơn Giáo hội công giáo. 

“Chỉ có một trong bốn linh mục sẽ bỏ phiếu cho việc phong chức phụ nữ”

Sự mất niềm tin thể hiện qua việc giáo dân rời bỏ thể chế. Tuy nhiên, hầu hết các linh mục trẻ khá hài lòng với Giáo hội của họ, chắc chắn họ cần các hình thức thiêng liêng hơn, nhưng lại lưỡng lự trước những cải cách cơ bản. Thật khó hình dung Giáo hội phải đối diện với tình huống phức tạp này nếu không có các linh mục của thế hệ mới.

Điều gì sẽ xảy ra nếu hiện nay Giáo hội có thể có những chủng sinh  như vậy cho chức linh mục?

Người đầu tiên trong số họ sẽ chưa là linh mục trong 8 năm tới. Để có một tác động đáng kể đến chức linh mục, số lượng của họ cần tăng lên trong ít nhất 10 năm nữa. Như thế có nghĩa những thay đổi về ơn gọi phải được bắt đầu từ bây giờ và kết quả chỉ có thể thấy được trong 20 năm nữa. Nhưng số lượng người bỏ đi, hoặc qua đời quá đông nên Giáo hội khó có thể bù đắp được với thời gian này.

Còn khả năng của các linh mục trẻ hiện tại trong việc thực hiện các tiến trình và cải cách đồng nghị thì sao?

Chúng tôi có thể nói, chung chung những chủ đề này ít được các linh mục trẻ quan tâm. Khi được hỏi Giáo hội nên được cải cách như thế nào, hơn 3/4 các linh mục trẻ nói đến việc đào sâu chiều kích thiêng liêng, định hướng rõ ràng hơn về việc truyền tải nội dung đức tin. Chỉ có 37% ủng hộ việc tăng thêm giáo dân tham gia vào Giáo hội. Các chủ đề phi dân chủ hóa trong Giáo hội hay việc bãi bỏ nghĩa vụ độc thân chỉ được khoảng 30% ủng hộ. Và chỉ có một trong bốn linh mục sẽ bỏ phiếu cho việc phong chức cho phụ nữ.

Vì thế các tiến trình đồng nghị không phải là trung tâm chú ý của họ.

Nghiên cứu cho thấy một nhóm tương đối nhỏ các linh mục trẻ (khoảng 18%) ủng hộ tất cả các chủ đề này và nhìn chung, họ hầu như không phù hợp với hình ảnh bảo thủ về nguồn gốc và tầm nhìn của họ về thế giới linh mục. Nếu các tiến trình đồng nghị thành công, nhóm này có thể là nguồn hy vọng.

“Các linh mục trẻ nhắm đến việc sống linh đạo riêng của mình và trở thành mục tử”

Các giáo phận đã mắc phải những sai lầm nào trong việc tìm kiếm và đào tạo các tân linh mục?

Nghiên cứu cho thấy chìa khóa của giải pháp không chủ yếu nằm trong tay các giáo phận. Sự thiếu hụt linh mục không liên quan đến việc đào tạo hay thăng tiến nghề nghiệp của họ, mà liên quan đến sự mất niềm tin nói chung vào Giáo hội. Một số linh mục được phỏng vấn cho biết họ gặp sự chống đối của gia đình, bạn bè khi họ cho biết họ sẽ đi tu. Đặc biệt vì các trường hợp lạm dụng cũng như hình ảnh kém cỏi của Giáo hội, Giáo hội không còn được kính trọng như trước. Để thay đổi điều này, chúng ta cần một thay đổi mang tính hệ thống mà các giáo phận rõ ràng không thể tự mình thực hiện được.

 Làm thế nào việc đào tạo linh mục có thể được cải thiện?

Cuộc nghiên cứu cho thấy các linh mục trẻ có ý hướng sống linh đạo riêng của họ và muốn trở thành mục tử hơn. Nhưng hình ảnh này không còn phù hợp với thực tế vì ngày nay số linh mục ngày càng ít, họ thường phải quản lý các giáo xứ khổng lồ gọp lại. Vì thế việc đào tạo linh mục sẽ tốt hơn nếu họ được chuẩn bị để đảm nhận các chức vụ lãnh đạo, phát triển kỹ năng làm việc nhóm và giao tiếp.

Các dữ liệu thu thập có thể áp dụng ở Thụy Sĩ hoặc cung cấp thông tin cho các linh mục ở đây không?

Chúng tôi chỉ phỏng vấn các linh mục trẻ người Đức. Nhưng dữ liệu của Mỹ cho thấy một xu hướng bảo thủ nào đó trong số các linh mục công giáo so với toàn xã hội. Vì thế hiện tượng này có lẽ mang tính quốc tế. Tôi không thể đoán trước được bước ngoặt bảo thủ nào cho toàn Giáo hội. Nhưng chúng ta có thể đưa ra giả thuyết, chức linh mục ở các nước công nghiệp đang trải qua những biến đổi tương đương với những biến đổi của thế tục hóa. Dù sao chúng ta cũng chỉ dự đoán.

‘God’s Not Dead’ [Thiên Chúa Không Chết]: Liệu Thiên Chúa có còn chỗ đứng trong nền chính trị Hoa Kỳ không?


image.png
Từ trái sang phải: Scott Baio, David A.R. White, cùng Raymond Arroyo, trên trường quay ‘The World Over’, thảo luận về bộ phim mới nhất trong loạt phim này.



Alyssa Murphy và Adriana Azarian của National Catholic Register tường trình về cuộc tọa đàm của Raymond Arroyo của chương trình The World Over với Scott Baio và David A.R. về cuốn phim gần đây đề cập đến việc duy trì các giá trị Ki-tô giáo trong nền chính trị Hoa Kỳ sẽ ra rạp vào cuối tuần này.

Bộ phim này xem xét kỹ lưỡng tiến trình chính trị, quyền tự do ngôn luận và tôn giáo.

Đó là cuốn phim God’s Not Dead: In God We Trust [Thiên Chúa không chết: Chúng ta tín thác nơi Thiên Chúa]. Nó kể câu chuyện về Mục sư David Hill (David A.R. White), người tranh cử vào Quốc hội để chống lại những nỗ lực bóp nghẹt quyền tự do tôn giáo của đối thủ Peter Kane (Ray Wise). Với tâm trạng hiện tại của thời đại chúng ta vốn rất thù địch với tôn giáo, bộ phim tập trung vào nhu cầu đưa Thiên Chúa trở lại quảng trường công cộng.

Cuốn phim có các tài tử Dean Cain, Samaire Armstrong, David A.R. White, Scott Baio và có sự tham dự của Mike Huckabee và Raymond Arroyo, người dẫn chương trình The World Over của EWTN, người đóng vai người dẫn chương trình tin tức điều phối cuộc tranh luận giữa các nhân vật Hill và Kane.

Phát biểu với Register, Arroyo cho biết, "Tôi nghĩ những gì David White đang cố gắng làm là thu hút sự chú ý của mọi người đến quyền tự do tôn giáo, những thách thức đối với quyền tự do tôn giáo ngày nay và cách mọi lá phiếu đều quan trọng, và mọi người không thể coi thường những quyền này."

"Tôi nghĩ rằng bộ phim sẽ làm hài lòng quần chúng", Arroyo nói thêm, "Tôi nghĩ rằng bộ phim nói lên tình hình hiện tại của chúng ta. Tuy nhiên, đây không phải là một bộ phim thiên vị. Bộ phim thực sự nói về sức mạnh của Thiên Chúa trong mỗi cuộc sống và tầm quan trọng của quyền tự do tôn giáo."

Đây là cuốn phim thứ tư trong loạt phim God's Not Dead do Vance Null đạo diễn. Giống như ba cuốn phim trước, cuốn phim này có sự xuất hiện và trình diễn của ban nhạc rock Ki-tô giáo Newsboys.

Arroyo có ba thành viên trong dàn diễn viên tham gia chương trình của mình vào tối thứ năm, bao gồm cả White, người cho biết những bộ phim truyền cảm hứng cho sự kiên trì khiến ông phấn khích.

“Tôi thích kể những câu chuyện mà bạn bị đánh gục, rồi bạn phải tự đứng dậy và tìm ra hướng đi đúng đắn và con đường phía trước là gì. Cuốn phim này có điều đó,” White nói với Arroyo.

“Ngoài việc chỉ cố gắng thúc đẩy người ta đi bỏ phiếu, nó thực sự truyền cảm hứng cho khán giả cảm thấy không thoải mái và thấy mình đang trên hành trình bảo vệ đất nước, ngay cả khi bạn nghĩ rằng đó có thể không phải là lập trường mà bạn muốn hướng đến.”

Baio đã nói với Arroyo nhiều lần rằng điều thúc đẩy anh: là con gái anh.

“Tôi thích thông điệp của cuốn phim, đó là 40 triệu người Ki-tô hữu không đi bỏ phiếu. Tôi chắc rằng một tỷ lệ lớn những người đó phàn nàn về những điều ở đất nước này. Tôi nghĩ, nếu mọi người đứng dậy và đi bỏ phiếu, bạn có thể tạo ra sự thay đổi, sự thay đổi mà bạn đang tìm kiếm. Vì tôi có một cô con gái, tôi muốn con bé lớn lên ở đất nước mà tôi đã lớn lên, Ray ạ.”

Cuốn phim đề cập đến sự tách biệt giữa giáo hội và nhà nước và vai trò của giáo lý Ki-tô giáo trong việc ảnh hưởng đến khuynh hướng chính trị, và cả Baio và Armstrong đều nói về việc bị triệt tiêu vì niềm tin của riêng họ.

“Hãy xem, đó là một trong những lý do tại sao tôi rất hào hứng khi làm những cuốn phim như thế này, bởi vì tôi thực sự, chân thành... Tôi đã từ bỏ rất nhiều thứ khi tôi công khai ủng hộ Trump vào năm 2016,” Baio nói trên The World Over. “Về cơ bản, tôi đã từ bỏ sự nghiệp của mình và tôi biết điều đó, điều đó ổn, nhưng tôi làm vậy vì con mình.”

Nói chuyện với Arroyo, Armstrong cho biết:

“Tôi đã hiểu sâu sắc hơn về đức tin của mình trong bốn năm qua, xét đến những gì đang diễn ra trong nước. Sau khi tôi tranh cử thị trưởng, tôi thực sự tự hỏi mình sẽ làm gì với cuộc đời mình. Tôi tin rằng Thiên Chúa đã ban cho tôi món quà kể chuyện này, và tôi đã được truyền cảm hứng để tiếp tục làm điều đó. Tôi cũng đã lên tiếng ủng hộ Tổng thống Trump. Tôi đã làm như vậy vào năm 2020. Bạn đánh đổi sự nghiệp của mình để lấy niềm tin của mình nếu bạn sẵn sàng làm điều đó. Nhưng tôi cảm thấy trong suốt quá trình đó, Thiên Chúa luôn ở bên tôi và sẽ có một mặt khác.”

Điểm giao thoa giữa văn hóa triệt tiêu trong thế giới thực và những gì xảy ra với một thành viên của Quốc hội vì bị gạt ra ngoài lề vì nói về Thiên Chúa trong phim minh họa lý do tại sao những câu chuyện này lại quan trọng đến vậy, như White đã nói với Arroyo:

“Tôi nghĩ rằng những cuốn phim God’s Not Dead rất đặc biệt vì bằng cách nào đó, chúng phản ảnh những gì đang diễn ra trong nền văn hóa tại thời điểm đó 'trong thời điểm như thế này.' Đất nước chúng ta chắc chắn đã trải qua rất nhiều biến động. Theo nhiều cách khác nhau, như Scott đã nói, đây không phải là đất nước mà chúng ta lớn lên. Chúng ta hầu như không còn nhận ra nó nữa.”

Làm thế nào mà đất nước lại đi xa đến vậy so với các lý tưởng về tự do tôn giáo và đức tin ở quảng trường công cộng? Các diễn viên nói chuyện với Arroyo đã nhanh chóng đề cập đến những nguy cơ của Hollywood và bản chất do phương tiện truyền thông thúc đẩy của thời đại kỹ thuật số của chúng ta.

Nhưng White đã đưa ra một số sự lạc quan giữa vũng lầy chính trị, và ông hy vọng bộ phim sẽ truyền cảm hứng cho tất cả người xem để "bước ra khỏi vùng an toàn của mình để làm những việc mà có thể bạn không muốn tham gia, bạn không muốn làm, nhưng Thiên Chúa gọi chúng ta vào thời điểm như thế này để bước ra ngoài. Đó thực sự là trái tim của bộ phim này.”







Tòa Thánh xác nhận “không có gì ngăn trở” sự kiện tại Mễ Du


Hôm 19 tháng Chín vừa qua, Bộ Giáo lý đức tin đã công bố thông tri (nota) về giáo xứ Đền thánh Mễ Du, ở Cộng hòa Bosnia Herzegovina, nơi Đức Mẹ được tôn kính dưới tước hiệu “Nữ Vương Hòa Bình”. Văn kiện của Bộ Giáo lý đức tin nhìn nhận những hoa trái thiêng liêng dồi dào, liên quan đến Đền thánh, và đưa ra phán đoán chung tích cực, tuy không tuyên bố về tính cách siêu nhiên về những sự kiện Đức Mẹ hiện ra.


image.png


Thông tư của Bộ Giáo lý đức tin được Đức Thánh cha phê chuẩn, ngày 28 tháng Tám vừa qua, và được Đức Hồng y Tổng trưởng Victor Manuel Fernandez, cùng với Đức Tổng giám mục Tổng thư ký của Bộ, trình bày trong cuộc họp báo tại Phòng Báo chí Tòa Thánh. Thông tư minh định rằng “những kết luận trong văn kiện này không bao hàm phán đoán về đời sống luân lý của những người nói là mình được Đức Mẹ hiện ra, và trong mọi trường hợp, những hồng ân thiêng liêng không nhất thiết đòi sự hoàn hảo của những người liên hệ để có thể tác động”.

Những thành quả thiêng liêng

Những địa điểm liên hệ tới hiện tượng Mễ Du được các tín hữu từ các nơi trên thế giới đến hành hương. Những thành quả tích cực được biểu lộ, nhất là qua sự thăng tiến một đời sống đạo lành mạnh, phù hợp với truyền thống của Giáo hội: các cuộc hoán cải dồi dào của những người khám phá hoặc tái khám phá đức tin; trở lại với việc xưng tội và rước lễ, đông đảo ơn gọi, nhiều cuộc hòa giải giữa các đôi vợ chồng và đời sống gia đình. Người ta cũng nói đến rất nhiều cuộc khỏi bệnh. Giáo xứ này trở thành nơi chầu Mình Thánh Chúa, cầu nguyện, các buổi hội học, tĩnh tâm, đại hội giới trẻ. Nhiều công việc bác ái nảy sinh, chăm sóc cô nhi, người nghiện ngập, khuyết tật. Người ta ghi nhận sự hiện diện của các tín hữu Chính thống và Hồi giáo.

Các sứ điệp

Văn kiện phân tích nội dung các sứ điệp của Đức Mẹ, nổi bật với những lời Đức Mẹ kêu gọi tín thác nơi Thiên Chúa là Tình Thương, lời mời gọi hoán cải. Bộ Giáo lý đức tin cũng nhìn nhận, là vấn đề những sứ điệp gán cho Đức Mẹ những thành ngữ như “kế hoạch của Mẹ”, “dự án của Mẹ” là những thành ngữ có thể gây ra sự lẫn lộn. Trong thực tế, tất cả những gì Đức Mẹ thực hiện, luôn luôn là để phục vụ dự án của Chúa và kế hoạch cứu độ của Chúa.

Nihil Obstat

Bộ Giáo lý đức tin khẳng định rằng mặc dù văn kiện không phải là một tuyên bố về tính chất siêu nhiên của hiện tượng Mễ Du, nhưng cho phép được làm việc phụng tự, tôn kính công cộng. Phán quyết về sự “không ngăn trở” (Nihil Obstat) ở đây cũng có nghĩa là không ai bắt buộc phải tin. Phán quyết này sẽ được Đức giám mục Giáo phận Mostar-Duvno sở tại, ban hành với sự thỏa thuận của Tòa Thánh, có nghĩa là các tín hữu có thể nhận được một sự kích thích tích cực cho đời sống Kitô của họ, qua đề nghị thiêng liêng này và cho phép làm việc phụng tự công khai”.

Hiện tượng Mễ Du bắt đầu từ ngày 24 và 25 tháng Sáu năm 1981, khi sáu thiếu niên Công giáo Croat ở làng này nói là đã được Đức Mẹ hiện ra và trao các sứ điệp. Trong 43 năm qua, đã có hơn 40 triệu tín hữu từ các nơi trên thế giới đến hành hương tại Mễ Du.




Medjugorje: Những điều người Công Giáo cần biết về những lần được cho là Đức Mẹ hiện ra

Medjugorje: What Catholics Should Know About the Alleged Marian Apparitions



Kể từ ngày 24-25 tháng 6 năm 1981, đêm trước lễ Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả, khi sáu đứa trẻ ở một thị trấn nhỏ ở Bosnia-Herzegovina lần đầu tiên báo cáo rằng chúng nhìn thấy và nhận được thông điệp từ Đức Trinh Nữ Maria, hơn 40 triệu người hành hương từ khắp nơi trên thế giới đã đổ về thị trấn nhỏ mang tên Medjugorje.

Những người hành hương tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Giacôbê Tông Đồ của Medjugorje vào ban ngày và Thánh lễ buổi tối được cử hành ngoài trời để phục vụ đám đông lớn. Họ leo lên Podbrdo đầy đá — được gọi là Đồi Hiện ra — mang theo một bức tượng Đức Mẹ, đánh dấu nơi Đức Mẹ được cho là đã hiện ra. Những người hành hương cũng leo lên Núi Križevac, cầu nguyện Chặng Đàng Thánh Giá, đi đến cây thánh giá khổng lồ cao gần 12 m do dân làng xây dựng vào đầu thế kỷ 20. Họ xếp hàng dài tại tất cả các tòa giải tội, vì bí tích sám hối được cử hành hàng ngày.

Các linh mục dòng Phanxicô đã chăm lo cho nhu cầu tâm linh của người dân Croatia tại giáo xứ và khu vực có khí hậu Địa Trung Hải và đồng bằng màu mỡ thích hợp cho nông dân trồng nho từ thế kỷ 13, và các ngài đã liên hệ chặt chẽ với những người có thị kiến và khách hành hương ngay từ khi các lần hiện ra bắt đầu.

Sáu người có thị kiến là Marija Pavlovic-Lunetti, Ivan Dragicevic, Vicka Ivankovic-Mijatovic, Jakov Colo, Mirjana Dragicevic-Soldo và Ivanka Ivankovic-Elez. Luôn được gọi là “những người có thị kiến”, giờ họ đã là người lớn. Trong khi Vicka, Ivan và Marija vẫn được cho là nhận được một cuộc hiện ra hàng ngày vào thời điểm cụ thể là 6:40 chiều, những người khác hiện chỉ nhận được vào những ngày cụ thể. Mirjana được cho là nhận được các cuộc hiện ra một lần một tháng, cộng với một lần một năm vào ngày 18 tháng 3, ngày sinh nhật của cô; Ivanka báo cáo một lần một năm vào ngày 25 tháng 6, ngày kỷ niệm lần hiện ra đầu tiên, và Jakov một lần một năm vào Ngày Giáng Sinh.

Theo các thị nhân, Đức Mẹ đã đến Medjugorje để chỉ cho các tín hữu con đường đến với hòa bình và giúp hoán cải cuộc sống để trở về với Chúa, bao gồm cả việc đưa mọi người đến với Chúa Con của Mẹ, Chúa Giêsu. Vào đầu các lần hiện ra, Mẹ được cho là đã tự nhận mình là “Nữ Vương Hòa Bình”.

“Các con thân mến, đây là lý do tại sao Mẹ hiện diện giữa các con trong một thời gian dài như vậy: để dẫn dắt các con trên con đường của Chúa Giêsu. Mẹ muốn cứu các con và, qua các con, cứu cả thế giới. Nhiều người hiện đang sống mà không có đức tin; một số thậm chí không muốn nghe về Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn muốn có sự bình an trong lòng! Các con ơi, đây là lý do tại sao Mẹ cần lời cầu nguyện của các con: Cầu nguyện là cách duy nhất để cứu nhân loại” ( thông điệp 30 tháng 7 năm 1987).

Năm 'Hòn Đá'

Giống như David có năm viên đá để đánh bại Goliath (1 Samuel 17:40), các linh mục ở Medjugorje giải thích các thông điệp và chỉ dẫn của Đức Mẹ như năm viên đá để đánh bại Satan và cứu rỗi các linh hồn. Đó là:

1. Cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt là lần hạt Mân Côi hằng ngày.

2. Ăn chay — vào thứ Tư và thứ Sáu vì thông qua việc ăn chay, chiến tranh có thể chấm dứt và các quy luật tự nhiên bị đình chỉ.

3. Đọc Kinh Thánh hằng ngày và đặt ở nơi dễ thấy trong nhà.

4. Xưng tội. Theo những người có thị kiến, Đức Mẹ Maria đã yêu cầu xưng tội hàng tháng đều đặn: “Xưng tội hàng tháng sẽ là phương thuốc cho Giáo hội ở phương Tây. Người ta phải truyền đạt thông điệp này đến phương Tây.” Ngay cả Thánh Gioan Phaolô II và Mẹ Teresa cũng đã tận dụng bí tích này hàng tuần. Đức Mẹ Maria cũng được cho là đã nói, “Hãy cầu nguyện, cầu nguyện! Cần phải tin tưởng vững chắc, đi xưng tội thường xuyên, và cũng phải rước lễ. Đó là sự cứu rỗi duy nhất.”

5. Thánh lễ và Bí tích Thánh Thể: Đức Mẹ được cho là nhấn mạnh đến Thánh lễ Chúa Nhật và việc rước Mình Thánh Chúa trong trạng thái ân sủng, lưu ý rằng Chúa Giêsu ban cho chúng ta ân sủng của Người trong Thánh lễ, và Đức Mẹ cũng được cho là đã nói thêm về tầm quan trọng của việc tham dự Thánh lễ hàng ngày khi có thể.

Ủy ban chính thức

Năm 1986, với tư cách là nhà lãnh đạo Bộ Giáo lý Đức tin, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã thành lập một ủy ban bao gồm các giám mục Nam Tư để điều tra. Năm 1991, tuyên bố chính thức từ Hội đồng Giám mục Nam Tư nêu rõ rằng vẫn chưa xác định được liệu các cuộc hiện ra có nguồn gốc siêu nhiên hay không; những người hành hương được phép đến Medjugorje; và các linh mục cũng được phép chăm sóc các nhu cầu tâm linh của những người hành hương.

Vào ngày 26 tháng 3 năm 2010, Đức Bênêđíctô XVI khi đó đã bổ nhiệm Hồng Y người Ý Camillo Ruini làm nhà lãnh đạo một ủy ban gồm các Hồng Y, nhà thần học, nhà tâm lý học và những người khác để điều tra Medjugorje. Vào năm 2016, ủy ban đã hoàn thành báo cáo của mình và một năm sau, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã chuyển báo cáo này cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Vào thời điểm đó, ủy ban đã chia cuộc điều tra thành hai giai đoạn: bảy lần xuất hiện đầu tiên từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1981 và tất cả những lần xảy ra sau đó và vẫn tiếp tục. Báo cáo thừa nhận bản chất siêu nhiên của bảy lần xuất hiện đầu tiên.

Bản báo cáo đưa ra bốn khuyến nghị: Đặt Medjugorje dưới sự kiểm soát của Vatican; cho phép các cuộc hành hương do Giáo Hội tổ chức; tuyên bố Medjugorje là đền thờ của giáo hoàng; và tuyên bố những lần hiện ra đầu tiên là xác thực và siêu nhiên. Sau đó, trong một cuộc họp báo trên chuyến bay năm 2017, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói, “Liên quan đến những lần hiện ra được cho là vẫn tiếp diễn, báo cáo bày tỏ sự nghi ngờ.” Một năm sau khi Đức Giáo Hoàng bày tỏ sự nghi ngờ cá nhân về các sự kiện, vào tháng 5 năm 2018, Đức Phanxicô đã chỉ định Tổng giám mục người Ba Lan Henryk Hoser giúp giám sát mọi khía cạnh của các mục vụ tại Medjugorje, do đó đặt Medjugorje dưới sự kiểm soát của Vatican. Do đó, Đức Tổng Giám Mục Hoser, được chính thức bổ nhiệm là thanh tra tông tòa, đã cho phép các cuộc hành hương chính thức do giáo phận và giáo xứ tổ chức để thúc đẩy những thành quả tốt đẹp trong khi không xác thực mọi thứ. Năm 2019, Đức Giáo Hoàng Phanxicô chính thức cho phép các cuộc hành hương có tổ chức đến Medjugorje. Vào tháng 11 năm 2021, sau khi Đức Tổng Giám Mục Hoser qua đời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm Giám mục người Ý Aldo Cavalli tiếp tục sứ mệnh tại Medjugorje.

10 'Bí mật'

Mỗi thị nhân được cho là đã được ban cho 10 “bí mật” liên quan đến các sự kiện trên thế giới trong tương lai gần. Không có bí mật nào có thể được tiết lộ, ngoại trừ cái gọi là “Bí mật thứ ba”. Đức Mẹ hứa sẽ để lại một dấu hiệu siêu nhiên, không thể phá hủy trên ngọn núi nơi Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên. Đức Mẹ được cho là đã nói rằng đó sẽ là một dấu hiệu cho những người vô thần, và nói thêm rằng:

“Các tín hữu không nên chờ đợi dấu hiệu trước khi hoán cải; hãy hoán cải ngay. Đây là thời gian ân sủng dành cho các con. Các con không bao giờ có thể cảm tạ Chúa đủ về ân sủng của Người. Đây là thời gian để đào sâu đức tin và hoán cải của các con. Khi dấu hiệu xuất hiện, sẽ quá muộn đối với nhiều người.”

Ngay sau khi Đức Mẹ kết thúc các lần hiện ra, người ta đã đưa tin, ba lời cảnh báo sẽ được ban cho thế giới. Mirjana sẽ tiết lộ chúng cho Cha Petar Ljubicic 10 ngày trước khi chúng xảy ra và ngài sẽ công bố chúng. Sau lần đầu tiên, dường như sẽ có một thời gian ân sủng và sự hoán cải lớn lao.

Hoa trái dồi dào

Những thành quả tâm linh là rõ ràng. Theo các báo cáo, vô số trong số hơn 40 triệu người đã đến Medjugorje từ đầu, dù là với ý định tâm linh thực sự hay vì tò mò, đã trở về nhà với đức tin mạnh mẽ hơn và quyết tâm thực hành những chỉ thị của Đức Mẹ. Có nhiều báo cáo về sự hoán cải và quay trở lại với đức tin. Các loại chữa lành khác nhau, từ thể xác đến tâm hồn, dường như cũng đã xảy ra. Nhiều ơn gọi đã được báo cáo xuất phát từ Medjugorje. Kể từ năm 1989, khi hai linh mục dòng Phanxicô ở đó tổ chức Lễ hội Thanh niên Quốc tế Medjugorje, được gọi là Mladifest, như một lễ hội thường niên của thanh niên Công Giáo, 50.000 người trẻ đã đến tham dự hàng năm từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 8.

Vào năm 2023, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi một thông điệp đến những người tham dự Mladifest, nói rằng, “Tôi vui mừng gửi lời đến những người đang tham gia Lễ hội Thanh niên tại Medjugorje, một dịp để kỷ niệm và đổi mới đức tin của các bạn. Tôi hy vọng các bạn sẽ sống những ngày này như một cuộc hành hương tâm linh dẫn các bạn đến gặp Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, trong việc Thờ phượng, trong việc Xưng tội, trong giáo lý Kinh thánh, trong lời cầu nguyện thầm lặng và Kinh Mân Côi, và cũng qua các chứng từ.”

Nhiều người đến Medjugorje đã ghi nhớ những gì Đức Mẹ, Nữ Vương Hòa Bình, được cho là đã nói: “Mẹ đến để nói với thế giới rằng Thiên Chúa hiện hữu. Ngài là sự viên mãn của cuộc sống, và để tận hưởng sự viên mãn và bình an này, bạn phải trở về với Thiên Chúa.”

Hiện tại, các tín hữu đang chờ đợi cuộc họp báo do Vatican tổ chức vào thứ năm về “trải nghiệm tâm linh” tại thị trấn nhỏ tự hào có lòng sùng kính Đức Mẹ lớn lao.

Mikali Nguyễn

unread,
Sep 27, 2024, 7:45:04 PM9/27/24
to alphonsefamily















  ĐTC Phanxicô lên án mạnh mẽ chính sách của PTT Kamala Harris


image.png



Vậy giữa cái xấu của Trump là không chấp nhận những di dân bất hợp pháp 
và cái ác của Harris là ủng hộ việc giết hại hàng triệu thai nhi vô tội
Người có lương tri  tất nhiên là biết mình phải chọn ai :
"the lesser of the two evils"
Kamala Harris bỏ qua bữa tối từ thiện Al Smith, một sự kiện truyền thống dành cho các ứng cử viên tổng thống chính

image.png

Jonathan Cooper của hãng tin A.P., ngày 22 tháng 9 năm 2024, tường trình rằng Phó Tổng thống Kamala Harris sẽ bỏ qua bữa tối từ thiện Al Smith năm nay tại New York, phá vỡ truyền thống để bà có thể vận động tranh cử tại một tiểu bang chiến trường chưa đầy ba tuần trước Ngày bầu cử.

Bữa tối gây quỹ cho tổ chức từ thiện Công Giáo theo truyền thống được sử dụng để thúc đẩy tinh thần hợp đoàn và sự hài hước, với các ứng cử viên tổng thống từ cả hai đảng xuất hiện cùng một đêm và trao đổi những lời châm chọc.

Nhóm của Harris muốn bà dành nhiều thời gian nhất có thể ở các tiểu bang chiến trường sẽ quyết định cuộc bầu cử thay vì New York, một viên chức chiến dịch cho biết hôm thứ Bảy, phát biểu với điều kiện giấu tên để thảo luận về các kế hoạch chiến dịch và xác nhận quyết định đầu tiên được CNN đưa tin. Nhóm của bà đã nói với ban tổ chức rằng bà sẽ sẵn sàng tham dự với tư cách là tổng thống nếu bà được bầu, viên chức này cho biết.

Chiến dịch của Donald Trump đã không trả lời ngay lập tức câu hỏi về việc liệu ông có tham dự bữa tối hay không. Sự xuất hiện của ông tại bữa tối năm 2016 đã gây ra tiếng la ó khi nhiều người trong khán phòng cảm thấy ông đã vượt quá giới hạn khi gọi ứng cử viên Dân chủ Hillary Clinton là tham nhũng và tuyên bố bà ghét người Công Giáo.

Bữa tiệc trang trọng của năm nay được lên lịch vào ngày 17 tháng 10.

Đức Hồng Y Timothy Dolan, người đóng vai trò nổi bật trong bữa tối, đã chỉ trích dữ dội đảng Dân chủ, viết một bài xã luận trên tờ Wall Street Journal năm 2018 với tiêu đề "Đảng Dân chủ bỏ rơi người Công Giáo".

Bữa tối tưởng niệm Alfred E. Smith được đặt theo tên cựu thống đốc New York, một đảng viên Dân chủ và là người Công Giáo Rôma đầu tiên được một đảng lớn đề cử tranh chức tổng thống vào năm 1928. Ông đã bị Herbert Hoover đánh bại một cách dễ dàng. Bữa tối này gây quỹ hàng triệu đô la cho các tổ chức từ thiện Công Giáo và theo truyền thống đã chứng minh rằng những người tranh giành quyền lãnh đạo quốc gia có thể hòa thuận hoặc giả vờ hòa thuận trong một đêm.

Sự kiện này đã trở thành truyền thống đối với các ứng cử viên tổng thống kể từ khi Richard Nixon và John F. Kennedy xuất hiện cùng nhau vào năm 1960. Năm 1996, Tổng giáo phận New York đã quyết định không mời Tổng thống khi đó là Bill Clinton và đối thủ Cộng hòa của ông, Bob Dole, được cho là vì Clinton đã phủ quyết lệnh cấm phá thai vào giai đoạn cuối.

Trump và Joe Biden, người Công Giáo, đều đã phát biểu tại buổi gây quỹ vào năm 2020, khi nó được chuyển sang trực tuyến do lo ngại về các cuộc tụ tập đông người lây lan COVID-19. Trong bối cảnh đại dịch và khó khăn kinh tế, không có chuyện đùa và thay vào đó, cả hai ứng cử viên đều sử dụng bài phát biểu của mình để thu hút cử tri Công Giáo.

Năm 2016, Trump bắt đầu khá ngây thơ. Ông nói đùa rằng Lãnh đạo phe thiểu số Thượng viện Chuck Schumer, D--N.Y., từng yêu thích Trump khi ông còn là đảng viên Dân chủ, và ông còn chế giễu hành vi đạo văn liên quan đến Clinton. 


NGƯỜI CÔNG GIÁO BẦU CHO AI TRONG KỲ BẦU CỬ NÀY

Nguyễn Tiến Cảnh

 

     Theo Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo thì người Công Giáo (CG) nên bầu cho ai trong cuộc bầu cử vào tháng 11 sắp tới?

     Người CG ở Hoa Kỳ không bầu theo đảng phái, họ có những suy nghĩ chính xác về những đường lối và chương trình quan trọng của các ứng viên để có thể quyết định bầu cho ai. Hãy chọn giữa Donald J. Trump và Kamala Harris xem ai là người có  “ít điều xấu nhất, ít tính tệ hại ác quỉ nhất.”

     Giáo Hội CG là thành phần của quốc gia đã từng tham dự tích cực vào đời sống công cộng hầu mưu cầu công ích cho đất nước và xã hội, giúp cho dân giàu nước mạnh.

     Giáo Hội không buộc giáo dân phải bầu cho ai hay chương trình hoặc thể chế nào. Tuy nhiên người CG phải giữ đúng những nguyên tắc chỉ dẫn để quyết định lá phiếu của mình.


NHỮNG NGUYÊN TẮC CHÍNH 

     Giáo Hội dạy những gì? Giáo lý của GH nói người giáo dân có “bổn phận công dân là phải cộng tác với chính quyền để thực thi công ích xã hội trong tinh thần sự thật, công bằng công lý, đoàn kết và tự do.”


  1- Những nguyên tắc hướng dẫn về dục tính sinh học (biological sex).  

     Ngày 12- 9- 2024 Gm Kevin Rhoades của giáo phận Fort Wayne-South Bend, Indiana đã buộc các trường đại học kể cả trung học thuộc giáo phận phải thực thi giáo huấn của GH về dục tính (sexuality) và giống (gender) trong thời gian đang có tranh cãi về hiện trạng gọi là mập mờ không biết rõ mình là nam hay nữ (gender dysphoria). Theo chủ trương của giáo phận thì các trường học và đại học hay cơ quan giáo dục của giáo phận phải dùng một đại danh từ để trước tên của sinh viên theo sinh học (biological sex), không được phép dùng đại danh từ chỉ tên mà sinh viên ưa thích trong bất cứ trường hợp nào.

     Nếu có những đòi hỏi sau này mà sinh viên/ học sinh phải mặc đồng phục hay dùng nhà tắm và cầu tiêu thì cũng phải phù hợp đúng với “nhân dạng dục tính sinh học mà Thiên Chúa đã sinh ra” cũng như trong các cuộc tranh đua thể thao phải phù hợp với giới tính tự nhiên về sinh học.

     Tài liệu gồm 11 trang đã được Gm Rhoades phê chuẩn hồi tháng trước cũng cấm “quảng bá, cổ động dân chúng hay chúc mừng các hành vi dục tính hoặc các chủ thuyết trái ngược với giáo huấn của Giáo Hội CG.”

     “Bất cần hay coi thường một cách tích cực có tính thù nghịch và công khai những giáo huấn của GH cũng bị cấm chỉ vì nó làm tổn thương đến căn tính và sứ mệnh của cơ chế Công Giáo.” -Gm Rhoades viết như vậy.

     Về câu hỏi liên quan đến việc điều trị những người đang phân vân về giới tính của mình, Gm Rhoades đã trả lời với đầy lòng thương cảm là đừng can dự vào việc thay đổi đời sống con người bằng giải phẫu hay trị liệu nội khoa bằng thuốc.

     Các cơ chế tổ chức của giáo phận -theo như hướng dẫn- thì không thể hợp tác để sửa đổi con người bằng giải phẫu hay trị liệu hóa học để ngăn cản tuổi dậy thì hay làm phẫu thuật tại những cơ sở thuộc giáo phận.

     “Trong khi chúng tôi hết sức cố gắng để giảm thiểu những đau khổ của những ai đang phải phấn đấu với việc khó khăn để nhận diện ra giới tính của mình, chúng tôi không thể yểm trợ cho những chương trình can thiệp vào đó mà cuối cùng mọi người ai cũng đều tin là nó làm hủy hoại cuộc sống của chúng.” -Gm Rhoades nói vậy. “Chúng tôi yểm trợ những công tác mục vụ và cố vấn khuyên giải để làm giảm thiểu những đau khổ của họ đồng thời giúp họ chấp nhận tặng phẩm trời ban cho họ là cái “diện mạo giới tính của họ - their sexual identity.”

     Gm Rhoades đã làm nổi bật sự quan trọng của trinh tiết đối với tất cả mọi người. Người độc thân thì phải sống trung trinh bằng cách kiềm chế nhục dục. Người có cuộc sống hôn nhân thì phải sống trong sạch đúng nghĩa “vợ chồng.”  Ngài viết: “Một trong những thách đố lớn nhất hiện nay là phê bình và chối bỏ của nhiều nhà nhân chủng học Kitô giáo và Công Giáo, đặc biệt qua những sự thật liên quan đến diện mạo giới tính, dục tính và hôn nhân hiện đang bị đại đa số dân chúng chẳng ưa thích gì đã gia tăng sau nhiều thập niên văn hóa đã đi xa lìa khỏi những  đồng thuận chung của mọi người về những vấn đề này.”

     Trong những năm gần đây, giáo phận của Gm Rhoades cũng gặp nhiều thách đố về vấn đề này. Gm đã lên tiếng chống đối trường đại học nữ của giáo phận đã chấp những sinh viên “tự nhận mình là nữ giới”.  Từ đó qui chế của trường đã đổi ngược.

     Theo hướng dẫn của giáo phận, Gm Rhoades đã coi lòng cảm thương và nỗi nhạy cảm là quan trọng đối với những người đang phải vật lộn phân vân không biết mình là nam hay nữ (dysphoria) và dục tính cùng loại (same sex attraction).

     Giáo phận kỳ vọng mọi người giúp đỡ cho giới trẻ gìn giữ giáo huấn của GH là xác định “nhân cách và giá trị mà Trời đã ban cho chúng, và đối xử với họ với tất cả tình thương yêu và cảm thông của chúa Kito.”

     Các mục tử phải có trách nhiệm giúp những người “đang đau khổ vì phải vật lộn phân vân không biết mình là nam hay nữ và có dục tính cùng loại.” -Gm Rhoades viết.  Gm Rhoades đã đưa ra những hướng dẫn mục vụ về cuộc phấn đấu không biết mình là nam hay nữ hoặc ưa thích tính dục cùng phái.

     “Đây là vấn khá đề quan trọng -như Gm Rhoades nói- là phải lắng nghe và nắm bắt cho được những nhu cầu và những khó khăn trở ngại của giới trẻ liên quan đến việc nhận ra mình thực sự là nam hay nữ cũng như những hấp dẫn dục tính đồng phái. Những thực tế khá phức tạp.”

     Gm Rhoades cũng nhấn mạnh là khi nói truyện với những thanh thiếu niên nam/nữ đang bị bối rối lo lắng về vấn đề này thì việc quan trọng là phải “để ý đến nỗi đau khổ của chúng, lắng nghe tiếng than van đau thương ấy của chúng với lòng cảm thông, để an ủi chúng cho chúng hiểu là chúng không cô đơn đâu.”

     “Việc đối thoại cũng cần phải được tiến hành tùy theo nhu cầu của mỗi người trẻ qua những thắc mắc và dày vò của từng cá nhân. Đồng thời đôi khi cũng đừng quên là phải chuyển cho chuyên viên về tâm thần như bác sĩ tâm lý hay thần kinh tâm trí là những vị có hiểu biết và trung thành với lý thuyết về nhân chủng học Kitô giáo/Công giáo đích thực để họ tùy nghi giải quyết” -Gm Rhoades viết.

     “Cũng cần nói với chúng là nên đem những nhu cầu ấy đến với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện để xin an ủi yêu thương nhờ hồng ân Thiên Chúa qua các bí tích hòa giải, chữa lành và mình thánh Chúa.  Dạy dỗ và hướng dẫn giới trẻ làm theo những giáo huấn của Giáo Hội về sắc dục và đức trong  sạch -Gm Rhoades nói- là là một thách đố đặc biệt đối với chúng ta. Nó rất quan trọng vì những giáo huấn này chính là ‘đường tình yêu, đại lộ’ đưa con người đến thăng hoa hạnh phúc, thánh thiện và tự do thực sự.” 


  2- Phá thai và Niềm Tin 

     Niềm tin nào cho phép bạn phá thai? Đây là câu trả lời của ông Tomy Dungy, huấn luyện viên nổi tiếng của NFL đã đưa ra trên truyền thông xã hội của những người ủng hộ phá thai của Kamala Harris trong đó bà Harris nói là: “Người ta không cần phải từ bỏ đức tin của mình hay vẫn giữ những tin tưởng của mình để đồng ý về một vấn đề nào đó: Chính phủ và chắc chắn Donald Trump cũng không nói với người phụ nữ là phải làm gì với thân xác họ.”

      Ông Dungy nói: Tôi thường nghe nói là bạn vẫn giữ, không từ bỏ đức tin của bạn mà vẫn yểm trợ phá thai. Vậy thì bạn đang nói về loại đức tin nào vậy?

      -“Có phải bạn đang nói về niềm tin Kitô Giáo không, tức là tin rằng mọi hài nhi/con trẻ đều được tạo dựng nên giống như hình ảnh của Thiên Chúa không? (St 1:26), là Thiên Chúa đặt họ trong bụng người mẹ (Gr 1:5) và chúng ta không được phá hủy mạng sống con người một cách bất chính không? (Lc 18:20).”

     - “Có phải bạn đang nói về niềm tin đó hay niềm tin theo nghĩa tổng quát hoặc mơ hồ nào đó là chúng ta có đủ sáng suốt và tỉnh táo để quyết định? Niềm tin  nào vậy?

     *Florida có thể phá thai để cứu mạng sống người mẹ. Bộ y tế Florida nhắc lại là luật bảo vệ hài nhi ở thai kỳ tuần lễ thứ 6, các bác sĩ được phép phá thai để  cứu mạng sống của người mẹ. Đây là luật bảo vệ mạng sống của phụ nữ khi bị đe dọa.

      Bộ Y Tế Florida ngày 19 tháng 9 loan báo:  Phá thai được phép ở bất cứ thai kỳ nào để cứu sống và bảo vệ sức khỏe của người mẹ, ngoại trừ khi thai nhi đã tới tuần lễ 15  trong những trường hợp như bị hãm hiếp, loạn luân hay  buôn bán tình dục.

     Luật trừ của Florida cho phép chữa trị -kể cả phá thai- những phụ nữ có thai ngoài tử cung hay là thai trứng (molar pregnancy) hoặc bể màng chắn sớm làm chảy máu (premature rupture of membrane). Đây là hư thai không phải phá thai.

    Không làm đúng “nguyên tắc trị liệu để cứu mạng sống” có thể gọi là hành nghề y khoa bất chính (Medical malpractice). -Phá thai coi là bất hợp pháp ở Florida nếu thai kỳ bước qua tuần lễ thứ 6. Một tổ hợp các bác sĩ tại đây đã lên tiếng phản đối chống lại phá thai và yêu cầu cử tri ủng hộ chống phá thai bừa bãi.

     Thụ thai nhân tạo (IVF-In Vitri Fertility) bị phản đối: Các nghị sĩ CH hôm thứ ba đã ngăn cản dự luật buộc các công ty bảo hiểm phải yểm trợ việc thụ thai nhân tạo IVF và những phương pháp thực hiện để phát động chương trình IVF.

    Theo đề nghị này thì các chủ nhân -kể cả những chủ nhân là tôn giáo- sẽ buộc phải cung cấp bảo hiểm sức khỏe cho những người áp dụng chương trình IVF.  Dự luật có thể ngăn cản không để cho các luật giới hạn việc hủy bỏ sự sống của thai phôi con người đã được tạo ra do phương  pháp IVF. Nó cũng có thể đề phòng việc giới hạn cách dùng IVF nơi những cặp vợ chồng hiếm muộn.

     Dự luật cũng có thể cấm không cho giới hạn số trứng mà bác sĩ chọn lựa nơi người đàn bà để phòng ngừa có đa thai hoặc giới hạn số phôi người còn sống đem đông lạnh để dùng về sau.

     *HĐGMHK đã ra chỉ thị cấm ngặt phương pháp này cho là cách thức thụ thai kiểu này “không theo các tiến trình y học để can dự vào việc tạo thành vô số kể các con trẻ chưa được sinh ra rồi đem đa số chúng để đông lạnh hay  hay phân loại và hủy bỏ.”

     Giáo Hội CG dạy rằng dù cho nhiều cặp vợ chồng đang phải phấn đấu để có con mà dùng phương pháp thụ thai IVF thì cũng không thể chấp nhận được vì đó là thụ thai nhân tạo ngoài dục tính. Vì trong quá trình IVF nó sẽ tạo ra quá nhiều phôi thai con người đã bị hủy diệt một cách đều đặn hoặc đóng băng vô định. 

    *Tiểu bang Illinois chống lại phương pháp thụ thai IVF.

Cử tri Illinois -nhóm phò sự sống- đang hô hào mọi người bầu chống lại phương pháp thụ thai IVF vào tháng 11 sắp tới. Một vấn nại về tư vấn đã nêu ra “luật trưng cầu dân ý về trợ vấn sức khỏe trong việc sinh sản/Assisted Reproductive Health Referendum Act” đã được đưa ra để bầu vào tháng 5 yêu cầu dân Illinois có nên chấp nhận “chữa bệnh hiếm muộn bằng mọi cách, mà không chỉ giới hạn trong phương thế IVF, phải được yểm trợ bởi  tất cả các loại  bảo hiểm y tế tại Illinois không cần giới hạn trị liệu không?”

     Những thắc mắc tư vấn này tại Illinois thì không bắt buộc và được viết ra để thăm dò ý kiến dân chúng và thúc đẩy cử tri đi bầu. Những câu hỏi được chấp nhận cho vào kỳ bầu cử này là phe dân chủ muốn “tăng số cử tri đi bầu cho phía mình” -theo như báo Chicago Tribune. 

    *Theo nghiên cứu về đời sống ở Hoa Kỳ của một nhóm sinh viên (SFLA) thì có cả chục đại học CG trong đó có các cơ sở CG đã liên hệ tới việc phá thai, gồm có kế hoạch hóa gia đình (abortion Planned Parenthood).

    Viện Demetres phò sự sống ở Hoa Kỳ  của nhóm sinh viên (SFLA) trong một báo cáo năm 2024 đã cho biết là có 17 cơ sở CG có liên hệ với kế hoạch hóa gia đình  hoặc  yểm trợ quảng bá phá thai hay  những tài liệu phá thai cũng như cơ sở phá thai. Đó là Boston college, Santa Clara University ở CA và St. Elizabeth University ở New Jersey.

     Mối liên hệ  của các đại học này là để có  “cơ hội thực tập (internship), giới thiệu hay có tín chỉ làm việc tại kế hoạch hóa gia đình hay làm người quảng bá phá thai cùng bảo hiểm sức khỏe hay công tác tự nguyện ...”

-Trong số 732 trường hợp Kitô giáo bị điều tra thì hơn 80 trường có liên hệ với kế hoạch hóa gia đình hoặc các cơ sở phá thai khác.

    *Kế hoạch ủng hộ Harris-Walz

     Trong một chương trình online của một số tín hữu CG được tổ chức tối thứ tư 18-9-24 đã có một số ý kiến ủng hộ phá thai được nêu ra.

     Harris ủng hộ vụ Roe v. Wade tức là ngăn ngừa không để các tiểu bang thông qua luật bảo vệ sự sống của thai nhi. Trong cuộc tranh luận ngày 12-9-24 với Donald J. Trump, thì Harris lại từ chối không biết là mình có nói yểm trợ phá thai muộn ở những thai kỳ tháng 7, 8 và 9 không.

     Nữ tu Simone Campbell là thành viên của Nữ Tu Phục Vụ Xã Hội đã đưa ra các thống kê cho biết đa số người CG ủng hộ phá thai hợp pháp. Và “đức tin của chúng ta không buộc phải phá thai ngoài pháp luật”.  Campbell đã xác nhận rõ ràng một nghịch lý về điều mà Giáo lý của GHCG đã dạy. 

    *Luật phò sự sống không giết người ở Georgia

     Kamala Harris vào hôm thứ ba đã lớn tiếng tuyên bố là một người đàn bà đã chết vì luật bảo vệ sự sống.  Nhưng các bác sĩ nói là người đàn bà ở Georgia tên Amber Thurman đã chết vì thuốc phá thai và hành nghề y khoa bất hợp pháp

     Báo cáo của ProPublica nói rằng phá thai giới hạn của Georgia làm chậm lại việc săn sóc sức khỏe đã gây ra cái chết của bà Amber Nicole Thurman ở tuổi 28 vào năm 2022 -theo như báo cáo- sau được khi nhập viện vì nhiễm trùng do uống thuốc phá thai.

     Một số tin tức cho là  giới hạn phò sự sống trong việc phá thai có trách nhiệm về cái chết của bà Thurman, nhưng luật tại Georgia minh thị cho phép phá thai khi mạng sống hoặc sức khỏe của người mẹ bị nguy hiểm.

     Bác sĩ Christina Francis, Chủ Tịch Hội Bác Sĩ Hoa Kỳ Sản Phụ  Khoa và Đỡ Đẻ Phò Sự Sống (AAPLOG) đã hành nghề 20 năm tuyên bố là cái chết của bà Thurman là do “thuốc phá thai hợp pháp” cũng như  bất cẩn y khoa.

     “Thảm kịch về cái chết mới đây của bà Amber Thurman vừa được nhiều tin tức cho biết là do phản ứng phụ của thuốc phá thai hợp pháp và bất cẩn y khoa, không phải vì luật phò sự sống,” – Bs Francis tuyên bố hôm thứ ba.

     *Yêu nước và phục vụ quốc gia:

     Mọi người phải làm việc này là vì bổn phận phải biết ơn và lòng bác ái. Chấp nhận chính quyền hợp pháp và phục vụ công ích đòi hỏi người công dân phải hoàn thành nghĩa vụ của mình trong đời sống nơi cộng đồng chính trị. Nó cũng xác quyết là “vâng phục chính quyền và đồng trách nhiệm về công ích là phải đóng thuế, thi hành quyền bầu cử và bảo vệ tổ quốc của mọi người.

     Năm 2007, HĐGMHK đã đưa ra một đề tài gọi là “Lương tâm của công dân có niềm tin – Forming Consciences for Faithful Citizenships,” để hướng dẫn người dân tham dự vào đời sống công  cộng nằm trong mục bầu phiếu. Các giám mục vẫn cập nhật hóa nó thường xuyên và bản gần đây nhất là vào cuối năm 2023.

     Trong tài liệu này các ngài đã nêu ra: “Trách nhiệm công dân là một đức tính, và tham dự vào đời sống chính trị là một nghĩa vụ luân lý bắt buộc.”  Các Gm  cũng ghi chú là khi tìm kiếm công ích thì phục vụ công cộng là một “ơn gọi cao cả.”-  Trích lời của GH Francis trong thông điệp Tin Mừng Phúc Âm/Evangeli Gaudium.

     Các Gm kỳ vọng nơi cử tri là những người được hướng dẫn bởi một luân lý đích thực không phải là cứ bám sát vào lợi ích của một đảng hay phe phái nào. Người CG tham gia vào chính trị phải “uốn theo niềm tin luân lý chắc chắn do lương tâm ngay thẳng và nhắm vào nhân phẩm của từng người, theo đuổi công ích và bảo vệ những người yếu đuối khốn cùng.”

     Người CG nên bầu cho những ứng viên có khuynh hướng sẽ thi hành công ích, có quan niệm được xác định trong giáo lý như là “tổng hợp tất cả những điều kiện xã hội cho phép người dân -hoặc cá nhân hay đoàn thể- hoàn thành nhiệm vụ mình một cách trọn vẹn và dễ dàng hơn.”

     “Người CG có một bó buộc quan trọng và suốt đời để tạo dựng lương tâm theo lý luận con người và giảng huấn của Giáo Hội.” -Tài liệu tiếp tục như vậy.

     “Lương tâm không phải là cái gì có thể cho phép chúng ta công chính hóa điều chúng ta muốn, cũng không chỉ là  ‘một cảm giác đơn thuần’ về điều mà chúng ta có thể làm hay không thể làm. Đúng ra, lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa vang vọng trong tâm khảm con người chúng ta, biểu lộ sự thật cho chúng ta và kêu gọi chúng ta làm lành lánh dữ. Lương tâm luôn luôn đòi hỏi những cố gắng quan trọng hầu làm sáng tỏ những suy luận theo lương tâm dựa trên sự thật của niềm tin chúng ta.”

     *Lý do không bầu cho một ứng viên

     “Phương cách tạo dựng lương tâm” được đề cập tới ở đoạn 34: Người CG không thể bầu cho ứng viên theo đuổi một chính sách tự nó có tính tội ác, như phá thai, an tử (chết không đau đớn), trợ giúp tự vận, buộc công nhân làm việc hay người nghèo phải sống trong những điều kiện dưới tiêu chuẩn con người, tái định nghĩa hôn nhân với cố ý làm sai lạc ý nghĩa đích thực chính của nó, hoặc kỳ thị chủng tộc, trừ khi chủ đích của cử tri là yểm trợ những việc ấy.”

“Là người CG -các GM chú thích- chúng ta không là những cử tri chỉ để ý đến một chủ đề đơn thuần và vị thế của ứng viên về một chủ đề đơn giản thì không đủ để bảo đảm có lá phiếu của minh”.  Đồng thời người CG không nên bầu cho ứng viên nào nếu vị thế của họ (ông hay bà) chỉ cần có một vấn đề đơn thuần tự bản tính đã là yểm trợ cho hành vi có tính tội ác.”

     Tuy nhiên  -các Gm nói- điều đó nó cũng khả thi có thể bầu cho người nào yểm trợ hành động mà tự nó là vô luân lý, nhưng chỉ với những lý do trầm trọng khác về luân lý.” Trước khi trở nên Giáo Hoàng Benedict XVI, hồng y Joseph Ratzinger gọi cách này là “những lý lẽ cân xứng (proportionate reasons).”

     Trong văn thư năm 2004 gửi cho các Gm ở HK, Ratzinger đã viết: “Khi người CG không chia sẻ thế đứng của ứng viên chủ trương phá thai hoặc an tử nhưng bầu cho ứng viên đó vì những lý do khác thì đó được coi như là ám tàng hợp tác cách cụ thể có thể được nằm trong những lý lẽ cân xứng.”

     Ý tưởng “lý luận cân sứng” đã nhận ra được những ứng viên bất toàn.  Nhiệm vụ của người cử tri CG la đo lường so sánh vị thế của tất cả mọi ứng viên và tránh chọn ứng viên yểm trợ điều vô luân, trừ khi có cái gì tốt vượt trội hơn cái vô luân lý ấy. 

   *Những vấn đề không thể bàn cãi được

     Trong một bài phát biểu trước nghị viện Âu Châu vào năm 2004, GH Benedict XVI đã đưa ra nhiều vấn đề liên quan tới công ích mà đối với người CG là “không thể bàn cãi được.”

     Những vấn đề này đã được Đức Benedict XVI trình bày như sau:

     -Bảo vệ sự sống ở tất cả mọi thời kỳ, từ lúc mới thụ tinh cho đến khi chết một cách tự nhiên.

     -Nhận thức và quảng bá cơ cấu nền tảng  tự nhiên của gia đình như là một phối hợp giữa một người nam và một người nữ làm nền tảng cho hôn nhân, và bảo vệ nó không cho nó đứng ngang hàng về pháp luật với những dạng thức căn bản khác nhau mà trong thực tế lại làm hại nó và làm nó mất cân bằng, bôi đen những đặc điểm của nó và thay đổi vị thế của nó trong xã hội không thể phục hồi được.

   -Bảo vệ quyền giáo dục con cái của cha mẹ.

   -Thực ra là các GM Hoa Kỳ đã nói, phá thai và an tử -chính trong ngôn từ của nó đã là “những đe dọa kinh khủng mạng sống và nhân phẩm con người”- đã là những quả cân nặng quyết định xem nó có thể bầu cho ứng viên đó hay không.

  -Năm 2019 các GM đã nói: “Đe dọa phá thai còn nắm mất ưu tiên tuyệt đối của chúng ta vì nó trực tiếp tấn công chính mạng sống, chiếm vị trí trọng yếu linh thiêng của gia đình và vì con số những mạng sống bị hủy diệt.”

 -Nhận thức điều quan trọng để bầu chống lại việc phá thai, GH và các vị lãnh đạo không nói rằng phá thai là chủ đề duy nhất nhưng là một chủ đề “ghê gớm  kinh khủng” -một cân nhắc nền tảng để chấp nhận một ứng viên về mặt luân lý.

  -GH Francis đã đặt câu hỏi trong thông điệp Laudato Si là làm sao chúng ta có thể giảng giải về sự quan trọng của những con người khốn khổ cùng cực có nhiều phiền toái bất ổn, nếu chúng ta không bảo vệ được thai phôi con người khi mà sự hiện diện của nó đã gây khó khăn bực mình cho chúng ta?”

  -Trong Christifideles Laici thánh Gioan Phaolô II đã dạy là quyền có sức khỏe, có nhà ở, có việc làm, có văn hóa là sai lầm và là ảo tưởng nếu quyền sống là một quyền nền tảng và căn bản nhất và là điều kiện cho tất cả những quyền cá nhân khác, thì lại không được quyết định bảo vệ tối đa.”

   -Năm 2008 Gm (bây giờ là HY) Kevin Farrell đã cho ra một thông điệp chung với Gm Kevin Vann nói rằng theo các ngài thì “không có ‘luân lý nặng thực sự’ hay ‘ cân bằng lý luận’ (truly grave moral hay ‘ proportionate reasons) đơn thuần hay phối hợp có thể vượt quá hàng triệu nhân mạng con người vô tội bị giết trực tiếp do phá thai gây ra hàng năm.”

   -Năm 2008 TGM Charles Chaput đã nói người CG mà yểm trợ các ứng viên phá thai “cần phải có  những lý luận cân xứng hấp dẫn có tính thuyết phục để biện minh.” Lý luận cân xứng là gì khi nó đi với chủ đề phá thai? Là lý luận cắt nghĩa với một tâm hồn trong sáng cho những nạn nhân của việc phá thai khi chúng ta đối diện với cuộc sống tiếp theo mà chắc chắn đa số chúng ta sẽ có. Nếu chúng ta tin tưởng là những nạn nhân này sẽ chấp nhận những lý do của chúng ta như là một lý cớ ngoại lệ (abili) thì lúc đó chúng ta có thể xúc tiến công việc.” Tgm Chaput nói vậy.

      *Vậy... chúng ta phải bầu cho ai?

      Các Gm nói là cử tri CG được huấn luyện đầy đủ có thể có những lá phiếu khác nhau. Các Gm cũng không loại bỏ những người không đi bầu hoăc bầu cho ứng viên của đảng thứ ba.

     “Khi tất cả các ứng viên đều cổ võ những chủ đề có tính tội ác thì cử tri có lương tâm phải đối diện với tình trạng lưỡng nan khó sử. Họ phải có một quyết định đặc biệt là không bầu cho ai cả, hoặc sau khi đã bàn luận suy nghĩ cẩn thận họ phải bầu cho ứng viên nào có ít xấu hơn hoặc nhiều tốt hơn xấu.” (Xây dựng lương tâm, đoạn 36).

     Năm 2016 Gm James Conley đã có một bản tóm lược hướng dẫn cử tri bầu như sau:

    “Với lương tâm trong sáng, người CG nên chọn lựa bầu cho ứng viên nào có nhiều điều tốt hơn hoặc ít điều xấu hơn trong những củ đề chính và căn bản về Sự sống, Gia đình, quyền lương tâm, và tự do tôn giáo. Hoặc với một lương tâm trong sáng, họ có thể chọn ứng viên có viễn kiến xã hội về Kitô giáo hoặc chẳng bầu cho ai cả.”

 


Fleming Island, Florida

Sept 24, 2024

NTC











Công bố Chương trình 26 sự kiện trong Năm Thánh 2025


Trang mạng Năm Thánh 2025 của Tòa Thánh đã công bố danh sách 26 biến cố chính sẽ diễn trong Năm Thánh tới đây, tại Roma.


image.png

Papa Francesco presenzia alla consegna e lettura della Bolla di indizione del Giubileo 2025


Trang mạng này bằng nhiều ngôn ngữ và được cập nhật thường xuyên, đồng thời qua đó người ta cũng có thể ghi danh tham dự nhiều sinh hoạt.

Phần “Lịch Năm Thánh” (Calendario Giubileo) đã liệt kê 26 sinh hoạt lớn như:

  • Năm Thánh cho giới Truyền thông, từ ngày 24 đến ngày 25 tháng Giêng năm 2025
  • Năm Thánh cho quân đội, cảnh sát và nhân viên an ninh, trong hai ngày 08 và 09 tháng Hai. Sinh hoạt này dành cho các quân nhân, cảnh sát quốc gia, cảnh sát địa phương, an ninh, cựu chiến binh, các hiệp hội quân nhân, quân trường, các tuyên úy và giáo hạt quân đội.
  • Năm Thánh của các Phó tế, từ ngày 21 đến ngày 23 tháng Hai, dành cho tất cả các phó tế vĩnh viễn.
  • Năm Thánh cho các thiện nguyện viên: trong hai ngày 08 và 09 tháng Ba, dành cho cả những người thuộc các tổ chức phi chính phủ (ONG) và các trợ tá xã hội.
  • Năm Thánh cho các Thừa sai lòng thương xót, từ ngày 28 đến ngày 30 tháng Ba: qui tụ các linh mục từ các nơi trên thế giới đã nhận được từ Đức Thánh cha các năng quyền giải các tội dành quyền giải cho Tòa Thánh và một sứ vụ đặc biệt như nhà giảng thuyết trong Năm Thánh Lòng Thương Xót 2016.

Trong chương trình cũng có:

  • Năm Thánh cho các Bệnh nhân và thế giới y tế, trong hai ngày 05 và ngày 06 tháng Tư.
  • Năm Thánh của những người khuyết tật, ngày 28 và ngày 29 tháng Tư. Sinh hoạt này cũng bao gồm những người đồng hành giúp người khuyết tật.
  • Năm Thánh dành cho các công nhân viên sẽ diễn ra từ ngày 01 đến ngày 04 tháng Năm.
  • Năm Thánh dành cho các doanh nhân, trong hai ngày 04 và ngày 05 tháng Năm.

Phần còn lại của lịch trình, có các Ngày Năm Thánh cho các Ban nhạc các loại (từ ngày 10 đến ngày 11 tháng Năm) của các đơn vị quân đội, hội đoàn, học đường; Năm Thánh cho các Huynh đoàn (ngày 16 đến ngày 18 tháng Năm), Năm Thánh cho các gia đình, trẻ em, ông bà nội ngoại, người già (ngày 30 tháng Năm đến ngày 01 tháng Sáu); Năm Thánh của các Phong trào, Hiệp hội, các Cộng đoàn mới (ngày 07 đến ngày 08 tháng Sáu.

Sau cùng, cũng có những ngày Năm Thánh của Tòa Thánh (ngày 09 tháng Sáu), giới thể thao, chủng sinh, giám mục (25 tháng Sáu), linh mục (27 tháng Sáu), Năm Thánh An ủi, ngày 15 tháng Chín, dành cho những người đang sống trong thời kỳ đau khổ và sầu muộn, vì bệnh tật, tang tóc, bạo lực và lạm dụng đã chịu; Năm Thánh các viên chức và nhân viên Công lý (20 tháng Chín) dân luật và giáo luật; Năm Thánh các giáo lý viên (26 đến 28 tháng Chín); Năm Thánh người di dân (ngày 04 đến ngày 06 tháng Mười); Năm Thánh Đời sống thánh hiến (ngày 08 đến ngày 09 tháng Mười); Năm Thánh Linh đạo Thánh Mẫu (từ ngày 11 đến ngày 12 tháng Mười), Năm Thánh các ca đoàn (ngày 21 đến ngày 23 tháng Mười Một) và sau cùng là Năm Thánh các tù nhân, ngày 14 tháng Mười Hai.





⛪⛪⛪⛪⛪









Trong một thư ngỏ bất thường gởi Hồng y đoàn ngày 20 tháng 9, Đức Phanxicô xin các hồng y ủng hộ việc cải cách kinh tế của Tòa thánh. Ngài nhấn mạnh đến mục đích “không thâm hụt” khi Vatican đang bị áp lực trước sự bất mãn của nhiều nhân viên.

Bức thư bất thường vì thông tin liên lạc của giáo hoàng với hồng y đoàn thường qua công nghị. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên ngài gởi cho các hồng y theo thể thức này: năm 2014 ngài đã gởi một thư soạn sẵn, đó là sứ điệp đòi hỏi mọi hồng y phải giữ tinh thần Phúc Âm về tinh thần khắc khổ, điều độ và khó nghèo.

Thành quả của “nhiệm vụ” của các hồng y

Một thông điệp rõ ràng dành cho hồng y đoàn, một số hồng y đã có lối sống như “các ông hoàng của Giáo hội”. Trong thư, ngài nhấn mạnh mục đích duy nhất của hồng y không phải là bầu giáo hoàng, nhưng phải giúp “giáo hoàng trong việc phục vụ Giáo hội hoàn vũ”.

Năm 2013 ngài đưa ra tinh thần này khi thành lập Hội đồng C9 (chín hồng y) để giúp giáo hoàng trong việc cải cách Giáo triều. Trong thư gởi cho các hồng y ngày thứ năm, được công bố ngày thứ sáu 20 tháng 9, ngài nhắc lại cuộc cải cách này là kết quả ‘nhiệm vụ’ mà các hồng y đã giao cho ngài trong các Buổi họp trước mật nghị năm 2013, vấn đề kinh tế đã được cho là vấn đề hàng đầu.

Không thâm hụt

Sáu 9 năm làm việc, năm 2022 ngài ban hành tông hiến Anh em hãy rao giảng Tin Mừng Praedicate Evangelium, trọng tâm nhằm quản lý Giáo hội, đặc biệt tạo một trung tâm kinh tế hoàn toàn mới. Trong thư gởi Hồng y đoàn, ngài nhấn mạnh vấn đề kinh tế của Tòa thánh vẫn chưa được giải quyết: “Các nguồn lực kinh tế phục vụ sứ mạng còn hạn chế và phải được quản lý chặt chẽ và nghiêm túc, để các cố gắng của ân nhân đóng góp cho di sản Tòa thánh không bị phân tán.”

“Các cơ quan thặng dư sẽ giúp bù đắp thâm hụt chung” – Đức Phanxicô

Việc cải cách Giáo triều đã giúp cải thiện hiệu quả kinh tế của di sản hiện có, nhưng hôm nay Đức Phanxicô xin mọi người giúp thêm để đạt mục tiêu đã nêu: “không thâm hụt”. Ngài đặc biệt thông báo, mỗi cơ quan của Tòa thánh sẽ không còn có thể trông cậy vào các khoản trợ cấp thông thường nhưng phải tìm “các nguồn lực bên ngoài cho sứ mệnh của mình”, một số cơ quan đã làm như cơ quan Truyền thông. Hiện tại, vẫn chưa rõ tình trạng tài khoản của Vatican vì từ năm 2022 Ban Thư ký Kinh tế (SpE) không còn công bố báo cáo tài chính.

Tuy nhiên, những năm vừa qua cho thấy tính không bền vững về mặt cấu trúc của tổ chức này, Vatican buộc phải thoái vốn tài sản hàng năm. Trong cuộc phỏng vấn với Vatican News năm 2020, Bộ trưởng Kinh tế Vatican Antonio Guerrero cho biết từ năm 2016 đến năm 2020, doanh thu trung bình là 270 triệu âu kim, mức chi tiêu là 320 triệu âu kim, thâm hụt trung bình 50 triệu âu kim hàng năm.

Thắt lưng buộc bụng và bất mãn ở Vatican

Đại dịch Covid-19 đã làm kinh tế Vatican suy yếu đáng kể, nói chung Đức Phanxicô đã có chính sách thắt lưng buộc bụng, đặc biệt là ngưng tăng lương, ngưng tăng tiền thưởng và ngưng tuyển nhân viên ở một số cơ quan, việc này đã làm nhân viên Vatican lo ngại và không phải không đáng kể khi trong thư, ngài ý thức được sự cống hiến và khó khăn của họ trong tiến trình đổi mới này.

Tiếp xúc với I.Media, một nhân viên của Vatican công nhận vấn đề này. Thư được gởi chỉ năm ngày trước cuộc họp của Hiệp hội Nhân viên Giáo dân Vatican (ADLV), tổ chức duy nhất đại diện cho quyền lợi của họ trong trường hợp không có sự thống nhất về luật pháp. Bối cảnh xã hội đặc biệt căng thẳng và còn có tin đồn về một cuộc đình công (dù quyền này không có ở Rôma): “Ngày nay từ “đình công” không có là từ cấm kỵ ở Vatican.”

Gia đình đoàn kết

Nhưng Giáo hoàng có nói chuyện trực tiếp với nhân viên bình thường hay những người nhận thư không? Năm 2021, ngài đã hạ 10% lương của nhiều thành viên Giáo triều, đặc biệt là lương của hồng y đang làm việc tại Rôma, sau đó tiền lương giảm từ 5.000 âu kim xuống còn 4.500 âu kim mỗi tháng.

Trong thư, một lần nữa ngài xin các hồng y quảng đại hỗ trợ việc giảm chi phí cần thiết. Ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải tránh những thứ “không cần thiết”, xin các hồng y có “trách nhiệm cao” chủ động hỗ trợ để bảo đảm tương lai cho Sứ mệnh, để là tấm gương của các gia đình giàu nhất tặng cho người nghèo nhất.

Ngài nói: “Các cơ quan thặng dư sẽ giúp bù đắp thâm hụt chung” nhưng ngài không chỉ định cơ quan nào. Một nguồn tin cho I.Media biết, bức thư là cách để Đức Phanxicô tạo áp lực lên một số hồng y. 

Quỹ Thánh Phêrô  

Về bản chất, bức thư giải thích việc lấy lại cân bằng tài chính là giúp khôi phục uy tín Tòa thánh. Việc quản lý mẫu mực và quảng đại di sản sẽ giúp khôi phục các khoản quyên góp, đặc biệt là tiền quyên góp của Quỹ Thánh Phêrô (quỹ quyên góp toàn cầu giúp Vatican hàng năm).

Trong những năm gần đây, quỹ này đã giảm rất nhiều. Giải thích tình trạng này, các cơ quan kinh tế quy trách nhiệm cho các vụ bê bối tài chính – như vụ “tòa nhà ở London” – nhưng cũng quy cho việc quản lý tài sản không minh bạch, rõ ràng, nghiêm ngặt trong hoạt động hàng ngày của Vatican.

Đức Thánh cha mời gọi các hồng y giúp chấm dứt tình trạng thiếu hụt ngân sách


Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi các hồng y giúp chấm dứt tình trạng thiếu hụt trong ngân sách của Tòa Thánh, bằng cách giảm chi, tìm kiếm các nguồn từ bên ngoài và quảng đại theo tinh thần Tin mừng.


Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây, trong thư gửi các hồng y ngày 16 tháng Chín vừa qua, và được Phòng Báo chí Tòa Thánh công bố, ngày 20 tháng Chín. Trong thư, Đức Thánh cha nhắc lại cuộc cải tổ Giáo triều Roma bắt đầu cách đây mười năm, trong tinh thần nguyên tắc “Ecclesia semper reformanda”, Giáo hội luôn luôn cần được cải tổ. Trong thời gian qua, mặc dù có những khó khăn, và đôi khi có cám dỗ bất động và không uyển chuyển trước sự thay đổi, nhiều thành quả đã đạt được”.

Đặc biệt, về cuộc cải tổ kinh tế của Tòa Thánh, “một trong những đề tài được bàn đến nhiều trong các phiên họp toàn thể của Hồng y đoàn trước mật nghị bầu Giáo hoàng, nay cần có sự cố gắng hơn nữa của tất cả mọi người để mục tiêu “không bị thiếu hụt” không phải chỉ là một điều trên lý thuyết, nhưng là một mục đích thực sự có thể đạt được”.

Mục tiêu này dựa trên sự ý thức rằng “tài nguyên kinh tế để phục vụ sứ mạng thì có giới hạn và phải được quản lý đúng quy luật và nghiêm túc để cố gắng của những người đã đóng góp cho gia sản của Tòa Thánh không bị uổng phí”.

Cùng với mục tiêu tránh bị nợ nần, Đức Thánh cha còn nhấn mạnh đến điều cần thiết là “mỗi cơ quan Tòa Thánh cố gắng tìm ra những nguồn tài nguyên bên ngoài cho sứ mạng, nêu gương về sự minh bạch và quản lý trách nhiệm để phục vụ Giáo hội”.

Ngoài ra, Đức Thánh cha cũng kêu gọi nêu gương về sự giảm chi bằng cách tránh dư thừa và chọn lựa kỹ lưỡng các ưu tiên cần thực hiện, tạo điều kiện cho sự cộng tác với nhau và hiệp lực. Ngài viết: “Chúng ta phải ý thức rằng ngày nay chúng ta đang đối diện với những quyết định chiến lược cần đề ra, với tinh thần trách nhiệm tối đa, vì chúng ta được kêu gọi bảo đảm tương lai của sứ vụ”.

Tình liên đới giữa các cơ quan

Về việc quản lý tốt tài chánh, Đức Thánh cha nhận xét rằng các cơ quan Tòa Thánh phải học hỏi nhiều từ tình liên đới của các gia đình tốt, trong việc giúp đỡ nhau. Vì thế, “các cơ quan thặng dư phải giúp bù đắp những thiếu hụt chung. Điều này có nghĩa là chăm sóc đến thiện ích của các cộng đoàn chúng ta, hành động quảng đại trong tinh thần Tin mừng, như một điều kiện tiên quyết để xin lòng quảng đại từ bên ngoài”.

Sau cùng, Đức Thánh cha xin các hồng y chào đón sứ điệp này của ngài với lòng can đảm và tinh thần phục vụ. Đồng thời, ngài kêu gọi các vị hỗ trợ các cuộc cải tổ này “một cách xác tín, lương thiện, trung thành và quảng đại, tích cực góp phần bằng kiến thức và kinh nghiệm của anh em”.

“Mỗi cơ quan Tòa Thánh hiệp với tất cả các cơ quan khác thành một thân mình duy nhất: vì thế sự cộng tác đích thực để tiến tới mục tiêu duy nhất chính là thiện ích của Giáo hội, là một đòi hỏi thiết yếu của công việc phục vụ của chúng ta”.

Trong thư gửi các Hồng y được ký ngày 16/9/2024 và được công bố ngày 20/9/2024, Đức Thánh Cha mời gọi các Hồng y nỗ lực hơn nữa để thực hiện cuộc cải cách kinh tế của Tòa Thánh. Ngài nhắc lại mục tiêu "không thâm hụt" tài chính là có thể đạt được và kêu gọi thực hiện “việc quản lý minh bạch và có trách nhiệm để phục vụ Giáo hội”, "tránh những điều thừa thãi".

Đức Thánh Cha nhấn mạnh nhu cầu tiếp tục cải cách kinh tế, và nói rằng việc cải cách này, điều mà nhiều thành viên Hồng y đoàn thúc đẩy trong quá khứ, cũng đã “có tầm nhìn xa”. Việc cải cách giúp chúng ta “có được nhận thức rõ ràng hơn về thực tế rằng các nguồn lực kinh tế cho việc phục vụ sứ mạng bị giới hạn và phải được quản lý một cách chặt chẽ và nghiêm túc để nỗ lực của những người đã đóng góp cho di sản của Tòa thánh không bị lãng phí”.

Mức thâm hụt bằng zero

Vì những lý do này, Đức Thánh Cha chỉ ra “trách nhiệm” trong thời gian này là “nỗ lực hơn nữa từ phía mọi người để ‘mức thâm hụt bằng 0’ không chỉ là mục tiêu lý thuyết mà còn là một mục tiêu thực sự có thể đạt được”.

Tìm kiếm các nguồn lực

“Điều này đi kèm với nhu cầu mỗi tổ chức phải làm việc để tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài cho sứ mạng của mình, tự coi mình là mẫu mực về việc quản lý minh bạch và có trách nhiệm để phục vụ Giáo hội”.

Giảm chi phí

Kêu gọi những thực hành cụ thể để giảm chi phí, Đức Thánh Cha mời gọi Giáo triều thực hiện với tinh thần thiết yếu, tránh những điều thừa thãi và lựa chọn tốt các ưu tiên của mình, khuyến khích sự hợp tác lẫn nhau và sự hiệp lực". "Chúng ta phải ý thức rằng ngày nay chúng ta phải đối mặt với những quyết định chiến lược phải được thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao cả, bởi vì chúng ta được mời gọi bảo đảm tương lai của Sứ vụ.

Liên đới giữa các cơ quan tổ chức

Đức Thánh Cha cũng kêu gọi các cơ quan tổ chức có thu nhập thặng dư nên góp phần bù đắp khoản thâm hụt chung, theo mẫu mực của các gia đình tốt, những người có hoàn cảnh kinh tế tốt sẽ giúp đỡ những thành viên cần giúp đỡ nhất.

Cuối thư, Đức Thánh Cha mời các Hồng y ủng hộ các cuộc cải cách đang diễn ra bằng “lòng can đảm, tinh thần phục vụ và sự quảng đại”. Ngài khuyến khích họ đóng góp xây dựng cho quá trình này bằng cách chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của mình, đồng thời nhấn mạnh rằng công việc của mỗi tổ chức là một phần của một tổng thể lớn hơn, thống nhất trong sứ mạng chung là phục vụ Giáo hội.








Hàng chục ngàn người tại Luxemburg được gặp Đức Thánh cha


Ban tổ chức cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha Phanxicô tại Luxemburg đã công bố thêm chi tiết, một tuần trước khi ngài đến nước này, vào ngày 26 tháng Chín.



Đức Thánh cha lên đường viếng thăm Luxemburg


Sáng thứ Năm, ngày 26 tháng Chín năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã lên đường thực hiện chuyến tông du thứ 46, tại hai nước Luxemburg và Bỉ cho đến chiều Chúa nhật, ngày 29 tháng Chín sắp tới.

Trước khi rời Nhà trọ thánh Marta, ở Vatican, theo thói quen, Đức Thánh cha còn gặp một nhóm mười người vô gia cư, do Đức Hồng y Konrad Krajewski, Bộ trưởng Bác ái, dẫn đến. Họ là những người trú ngụ dưới các hàng cột quanh Quảng trường thánh Phêrô và những đường lân cận.

Từ sân bay quốc tế Fiumicino của thành Roma, Đức Thánh cha đã đáp máy bay Airbus “A321 neo” của hãng Ita Airways để đi Luxemburg, cách đó 1.170 cây số về hướng bắc. Cùng đi với Đức Thánh cha trong đoàn tùy tùng, có Đức Hồng y Prevost người Mỹ, Tổng trưởng Bộ Giám mục, Đức Tổng giám mục Peña Parra, Phụ tá Quốc vụ khanh và Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Gallagher, cùng với 60 ký giả quốc tế.

Như thường lệ, Đức Thánh cha đã chào các ký giả cùng đi và cám ơn họ vì việc phục vụ. Ngài muốn chào thăm từng người như thông lệ, nhưng vì thời gian hạn hẹp của chuyến bay nên ngài không thực hiện được, và chỉ chào chung. Dầu vậy, nhân dịp này, một ký giả đã trao cho ngài một túi đầy những quà tặng của các ký giả cùng đi, và đặc biệt là nhiều thư của những người di dân kể lại tình trạng đau thương của họ.

Máy bay cất cánh lúc quá 8 giờ sáng và trực chỉ thủ đô Luxemburg.

Vài nét về đất nước và Giáo hội tại Luxemburg

Chặng dừng đầu tiên lần này của Đức Thánh cha là Luxemburg, quốc gia bé nhỏ chỉ rộng 2.600 cây số vuông, và thuộc hàng nhỏ nhất trong số 27 nước thuộc Liên hiệp Âu châu. Dân số Luxemburg vào khoảng 645.000 người. Đây là một trong những nước có lợi tức bình quân mỗi đầu người cao nhất thế giới và Luxemburg được xếp vào số những thành phố có chất lượng đời sống cao, an ninh cá nhân cao nhất thế giới, sạch sẽ, ngăn nắp và dễ sống nhất.

Về mặt tôn giáo, có 471.000 người là tín hữu Công giáo, tương đương với 70% dân số, hợp thành một Tổng giáo phận với 275 giáo xứ, 120 linh mục giáo phận và 42 linh mục dòng, 60 tu huynh và 240 nữ tu. Tỷ lệ các tín hữu Công giáo hành đạo liên tục giảm sút trong năm mươi năm qua. Cả ảnh hưởng của Giáo hội về mặt xã hội và chính trị cũng suy giảm. Cho đến cuối thế kỷ XX, nhật báo quan trọng nhất nước là báo Công giáo, môn giáo lý Công giáo tại trường học là môn bắt buộc; Nhà nước, Giáo hội và Đảng nhân nhân xã hội Kitô, gọi tắt là CSV, liên kết chặt chẽ với nhau.

Nhưng trong mười năm dưới thời Thủ tướng Xavier Bettel, thuộc đảng cấp tiến, cầm quyền từ năm 2013 đến 2023, tương quan giữa Giáo hội và Nhà nước trở nên lỏng lẻo. Môn tôn giáo bị bãi bỏ ở các trường trung học và các trường công lập; việc tài trợ của Nhà nước về lương bổng cho các linh mục cũng như các cơ sở của Giáo hội cũng bị giảm sút nhiều. Các cộng đoàn tôn giáo khác, trong đó có các cộng đoàn Hồi giáo gia tăng mạnh, cũng được cấp quy chế pháp lý như Giáo hội Công giáo.

Xét về mặt nhân sự của Giáo hội, với số linh mục và tu sĩ vừa nói, Giáo hội Công giáo tại Luxemburg tương đối còn vững mạnh. Khoảng 50.000 người Bồ Đào Nha nhập cư, họp thành một nhóm quan trọng trong Giáo hội tại nước này.

Tiếp đón

Sau gần hai giờ bay, máy bay chở Đức Thánh cha đã đáp xuống sân bay Luxemburg Findel, lúc 10 giờ sáng. Tại đây, ông bà Đại quận công cùng với Thủ tướng tiếp đón Đức Thánh cha ở chân thang máy bay và hai bạn trẻ tặng hoa cho ngài, trước khi bước vào khu vực khánh tiết, nơi diễn ra cuộc tiếp đón theo nghi thức ngoại giao. Liền đó, Đức Thánh cha đến dinh Đại quận công để hội kiến riêng. Trong khi ngài gặp gỡ vị nguyên thủ quốc gia thì Đức Tổng giám mục Phụ tá quốc vụ khanh và Ngoại trưởng Tòa Thánh gặp thủ tướng.

Đại quận công Enrico của Luxemburg năm nay 69 tuổi và phu nhân, vốn là công chúa của nước Bỉ láng giềng. Ông bà có năm người con. Cả gia đình, với các cháu đã chụp hình lưu niệm chung với Đức Thánh cha.

Sau cuộc gặp gỡ với gia đình Đại quận công, Đức Thánh cha còn gặp Thủ tướng Luxemburg, ông Luc Frieden, 61 tuổi, từng làm Bộ trưởng bốn bộ khác nhau, trước khi được bầu làm thủ tướng, từ hồi tháng Mười Một năm ngoái.






Đức Thánh cha gặp gỡ chính quyền và các đại diện xã hội Luxemburg


Lúc gần 12 giờ trưa, ngày 26 tháng Chín, Đức Thánh cha Phanxicô đã đến tòa nhà lịch sử, tên là Circle Cité, nguyên là nơi gặp gỡ của các giới chức chính trị và văn hóa của thành phố này, và nay là nơi diễn ra các cuộc hội họp của Liên hiệp Âu châu.


          

Hiện diện trong cuộc gặp gỡ tại đây, ngoài Đại quận công Luxemburg và Thủ tướng, còn có khoảng 300 người, gồm ngoại giao đoàn, các vị lãnh đạo tôn giáo, doanh nhân, cũng như các đại diện xã hội dân sự và văn hóa.

 Diễn văn của Đức Thánh cha

Lên tiếng sau lời chào mừng của Thủ tướng Frieden, Đức Thánh cha đề cao vai trò mà Luxemburg có thể nắm giữ trong việc phục vụ cộng đồng các dân nước. Đức Thánh cha nói:

“Cơ cấu dân chủ vững chắc của đất nước quý vị, vốn quan tâm đến phẩm giá con người và bảo vệ những tự do cơ bản của con người, chính là tiền đề không thể thiếu được để có một vai trò quan trọng trong bối cảnh đại lục. Thực vậy, không phải lãnh thổ rộng lớn hoặc dân số đông là điều kiện không thể thiếu được để một quốc gia giữ một phần quan trọng trên bình diện quốc tế, hoặc để có thể trở thành một trung tâm chủ yếu trên bình diện kinh tế và tài chánh. Trái lại, điều quan trọng là sự kiên nhẫn xây dựng của các tổ chức và những luật lệ khôn ngoan nhờ kỷ luật hóa đời sống của các công dân theo các tiêu chuẩn công bằng và tôn trọng nhà nước pháp quyền, đặt con người và công ích ở trung tâm, phòng ngừa và chống lại những nguy cơ kỳ thị và loại trừ”.

Đức Thánh cha cũng đề cao vai trò đạo lý xã hội của Hội thánh, đạo lý này chỉ cho thấy những đặc tính của sự tiến bộ đích thực và những con đường để đạt tới. Ngài đặc biệt nhất mạnh hai đề tài lớn trong đạo lý này, đó là chăm sóc thiên nhiên và tình huynh đệ. “Thực vậy, sự phát triển, để có tính chất chân thực và toàn diện, không được phá tán và làm băng hoại căn nhà chung của chúng ta, và không được để cho dân chúng hoặc các nhóm xã hội ở ngoài lề. Sự phong phú, sự giàu sang là một trách nhiệm. Vì thế tôi xin hãy luôn tỉnh thức quan tâm làm sau để khỏi lơ là, bỏ rơi các quốc gia kém may mắn hơn, trái lại cần giúp đỡ để họ có thể trỗi dậy, ra khỏi tình trạng nhèo đói của họ. Đó là con đường tốt nhất để giảm bớt số người buộc lòng phải xuất cư, họ thường ra đi trong những điều kiện không xứng đáng và nguy hiểm. Luxemburg với lịch sử đặc biệt, với vị trí đặc thù như vậy, và với gần một nửa số dâ đến từ các nơi khác ở Âu châu và trên thế giới, hãy trợ giúp và nêu gương, chỉ đường cần theo để đón nhận và hội nhập những người di dân và tị nạn”.

Sau cuộc gặp gỡ với chính quyền và các đại diện xã hội, văn hóa Luxemburg, Đức Thánh cha đã về Tòa Tổng giám mục ở địa phương để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.






Đức Thánh cha gặp gỡ cộng đồng Công giáo Luxemburg


Chiều ngày 26 tháng Chín, lúc 4 giờ 30, Đức Thánh cha Phanxicô đã gặp gỡ cộng đoàn Công giáo Luxemburg, tại nhà thờ chính tòa địa phương.


image.png

Trong cuộc gặp gỡ, sau lời chào mừng của Đức Hồng y Hollerich, Tổng giám mục sở tại, mọi người đã nghe chứng từ của một bạn trẻ, rồi của bà phó Chủ tịch Hội đồng mục vụ giáo phận, sau cùng là chứng từ của một nữ tu, đại diện các cộng đồng ngôn ngữ, xen lẫn một hoạt cảnh với vũ điệu Laudato , lấy hứng từ cuộc đời của thánh Phanxicô Assisi, và một bản hợp ca.

Huấn từ của Đức Thánh cha

Trong bài huấn dụ, Đức Thánh cha nhận xét rằng cuộc gặp gỡ này trùng với dịp khai mạc năm kỷ niệm 400 năm lòng sùng kính của Giáo hội tại Luxemburg đối với Đức Mẹ an ủi kẻ âu lo, bổn mạng của đất nước này. Tước hiệu trên đây của Đức Mẹ rất phù hợp với chủ đề chuyến viếng thăm của ngài tại đây, là “Để phục vụ”. Thực vậy, an ủi và phục vụ là hai khía cạnh cơ bản của tình yêu thương mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta, Đấng đã ủy thác cho chúng ta như sứ mạng (Xc Ga 13,13-17) và chỉ cho chúng ta như con đường duy nhất dẫn đến niềm vui trọn vẹn (Cv 20,35). Vì thế, trong kinh nguyện khai mạc Năm Thánh Mẫu này, chúng ta cầu xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta trở thành “những thừa sai, sẵn sàng làm chứng về niềm vui Tin mừng”, làm cho con tim chúng ta trở nên giống tâm hồn của Mẹ, để “đặt mình phục vụ anh chị em chúng ta”.

Đi vào cụ thể, Đức Thánh cha đặc biệt khích lệ các tín hữu Luxemburg sống tinh thần tiếp đón, phù hợp với truyền thống ngàn đời của đất nước này, cởi mở đối với mọi người, không loại trừ một ai.

Tiếp đến là thực thi sứ mạng truyền giáo. Giáo hội Luxemburg đang sống trong một xã hội bị tục hóa, nhưng như Đức Hồng y Tổng giám mục sở tại đã nhận xét, Giáo hội trong một xã hội như thế, tiến triển, trưởng thành, không co cụm vào mình, không buồn sầu, cam chịu, cay đắng; đúng hơn, cần chấp nhận thách đố, trong niềm trung thành với các giá trị ngàn đời, tái khám phá và đề cao giá trị một cách mới mẻ những con đường loan báo Tin mừng, tiến từ việc chăm sóc mục vụ đến sự loan báo thừa sai. “Điều quan trọng đối với chúng ta, điều thúc đẩy chúng ta truyền giáo, không phải vì muốn có những con số đông đảo, chiêu dụ tín đồ, nhưng là ước muốn làm cho nhiều anh chị em cảm nghiệm niềm vui được gặp gỡ Chúa Kitô”.

Sau bài huấn dụ của Đức Thánh cha, Đức Hồng y Hollerich đã đọc kinh khai mạc Năm Thánh Mẫu, kỷ niệm 400 năm Đức Mẹ an ủi kẻ lo âu, và nghi thức đặt hoa hồng vàng nơi tượng Đức Mẹ.

Hiện diện trong cuộc gặp gỡ, cũng có một số giám mục. Trước khi rời nhà thờ, Đức Thánh cha dừng lại để chào thăm các vị kinh sĩ nhà thờ chính tòa, trước khi tiến ra quảng trường bên ngoài để chào thăm các tín hữu.

Giã từ thánh đường, Đức Thánh cha đã ra phi trường Luxemburg, cách đó gần 10 cây số để đáp máy lúc quá 6 giờ chiều, bay sang Vương quốc Bỉ. Đức Thánh cha tới sân bay căn cứ quân sự Melsbroek, cách đó hơn 300 cây số. Tại đây, có Quốc vương và Hoàng hậu Bỉ chào đón Đức Thánh cha, trước khi ngày về Tòa Sứ thần Tòa Thánh cách đó 18 cây số để dùng bữa và nghỉ đêm.








Đức Hồng y Hollerich: “Luxembourg là vùng ngoại vi của Giáo hội”

      Đức Hồng y Luxembourg Jean-Claude Hollerich sẽ đón Đức Phanxicô đến thăm Luxembourg ngày 26 tháng 9 năm 2024 

Đức Phanxicô đến thăm Luxembourg trong chuyến tông du ngày 26 tháng 9 đưa ngài đi Luxembourg và Bỉ  cho đến ngày chúa nhật 29 tháng 9. Điểm dừng chân ngắn ngủi tại Luxembourg là một khích lệ cho Hồng y Dòng Tên Jean-Claude Hollerich của Luxembourg.

Hồng y Hollerich 66 tuổi là thành viên của nhóm C9 (chín hồng y cố vấn cho Đức Phanxicô). Ngài là tổng tường trình của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, một dự án rộng lớn của Đức Phanxicô để Giáo hội trở nên toàn diện hơn.

Xin Hồng y cho biết, các lý do của chuyến đi này?

Hồng y Jean-Claude Hollerich: Điều tôi có thể nói là chúng tôi ở vùng ngoại vi, Luxembourg là đất nước rất giàu có, nhưng chúng tôi là vùng ngoại vi của Giáo hội vi chúng tôi là quốc gia thế tục hóa rất mạnh. Các giáo xứ ở Luxembourg không còn tồn tại nữa. Chúng tôi là một cộng đồng ngôn ngữ, ngài đến thăm một thực tế mới vì chúng tôi là quốc gia quốc tế với một nửa dân số không phải là công dân Luxembourg. Nếu quý vị dự thánh lễ bằng tiếng Bồ Đào Nha thì quý vị sẽ thấy không có đủ ghế trong nhà thờ, cũng vậy với thánh lễ bằng tiếng Anh. Ở thành phố Luxembourg, có nhiều người Pháp và đức tin của họ rất mạnh.

“Chúng tôi sống trong một chủ nghĩa duy vật tầm thường”

Phong tục Luxembourg của chúng tôi vẫn liên kết với các sắc dân di cư khác nhau, đó là trường hợp của nhà thờ Đức Mẹ An ủi kẻ Đau khổ, bổn mạng của thành phố và đất nước. Đức Phanxicô sẽ đến đây dâng thánh lễ ngày 26 tháng 9, kỷ niệm 400 năm ngày thành lập Nhà thờ Đức Mẹ.

Đức Phanxicô gặp Cộng đoàn công giáo ở Nhà thờ Chính toà Đức Bà Luxembourg ngày 26 tháng 9

Nhiều người nghĩ Hồng y thân thiết với Giáo hoàng và tình bạn đã làm cho ngài dừng chân ở Luxembourg…

Tôi không biết, ông phải hỏi ngài! Tôi rất thân với ngài, không có nghĩa là ngài gần gũi với tôi nhiều hơn người khác. Tôi rất mừng vì ngài đến, chúng tôi vinh dự được đón tiếp ngài.

Sau chuyến đi 12 ngày đến Đông Nam Á và Châu Đại Dương, bây giờ ngài hướng tới trung tâm của một Châu Âu đã thế tục hóa và hậu kitô giáo, việc này mang lại thông điệp gì cho đất nước của Hồng y?

Đức Phanxicô là người loan báo Tin Mừng thuần khiết, tôi rất vui khi ngài đến đây để nói với chúng tôi lời kêu gọi hoán cải này. Chúng tôi phải nhìn hiện tại, không nhìn quá khứ để lý tưởng hóa. Chúng tôi phải sống với thời đại và thấy Thiên Chúa hiện diện trong văn hóa của chúng tôi, đó là nơi chúng tôi sẽ thấy các dấu hiệu để đổi mới Giáo hội. Đáng tiếc chúng tôi còn nhiều chuyện phải khép lại, những tàn tích của quá khứ. Tôi ở trong Giáo hội này nên tôi đau lòng về những chuyện này, nhưng tôi hy vọng chúng tôi bước đi với Chúa và Ngài sẽ dẫn dắt chúng tôi.

Luxembourg đón Đức Phanxicô ngày 26 tháng 9 năm 2024

Có những dấu hiệu hy vọng, đó là sức sống của cộng đồng Bồ Đào Nha, của những người trẻ tuổi. Dĩ nhiên số lượng không nhiều, nhưng chúng tôi thấy họ có một chiều sâu tâm linh mà trước đây họ không có. Tôi đã đi xe buýt với 200 bạn trẻ trong Ngày Thế Giới Trẻ Lisbon. Họ có ý thức về Thiên Chúa, về cầu nguyện. Bốn mươi năm trước đây, phong trào Công giáo Tiến hành rất mạnh, ngày nay người trẻ muốn biết Thiên Chúa là ai và muốn có được ơn để hành động.

Có phải sung túc và tiện nghi vật chất đã làm người công giáo Châu Âu ra khỏi sứ điệp Phúc âm không?

Chúng ta đang sống trong một chủ nghĩa duy vật xoàng xĩnh. Khi nói chuyện với các bạn trẻ, tôi thấy giấc mơ về tương lai của họ không phải là những gì họ muốn trở thành. Thật đau buồn hầu hết họ thích có phép lạ để kiếm được nhiều tiền.

“Giáo hội ngày mai sẽ không thể sống nếu không có linh mục”

Khi còn trẻ, một mặt tôi mơ là một linh mục thánh thiện, nhưng tôi cũng mơ lập gia đình. Tôi chưa bao giờ nghĩ nếu tôi yêu một cô gái, sau khi kiếm được nhiều tiền tôi sẽ kết hôn. Mối quan hệ với Chúa và mối quan hệ với người khác phải luôn đặt lên hàng đầu.

Theo Hồng y các biện pháp khắc phục cám dỗ vật chất là gì?

Trong một số giây phút hiếm hoi, như trong các đám tang, con người nhận ra mình đã sống sai lầm. Hiện nay chúng ta có mục vụ tang lễ rất phát triển, các linh mục, giáo dân đến thăm tang gia. Họ rất biết ơn. Đó là giây phút chúng ta có thời gian để chạm vào thân phận con người. Tôi cũng nghĩ đến những giây phút vui vẻ trong cuộc sống, trong tình yêu, nơi con cái. Đó là những khoảnh khắc tốt đẹp của cuộc sống phá vỡ bức tường của chủ nghĩa duy vật, con người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và Giáo hội phải có mặt ở đây.

Giáo hội ở Luxembourg có còn là phương tiện cho sự hiện diện này không?

Khó khăn, vì trước đây Giáo hội chúng tôi lệ thuộc vào Nhà nước, không có giáo lý ở giáo xứ nhưng có các lớp tôn giáo ở trường học. Ngày nay điều này không còn hợp lệ nữa, phải học giáo lý ở giáo xứ. Có rất nhiều việc cần làm trong Giáo hội, lẽ tự nhiên có nhiều việc thì mệt mỏi, chúng ta thích sống nơi đã ngăn nắp hơn sống ở nơi có nhiều việc! Nhưng đó là một bước cần thiết, Giáo hội trông cậy vào các giáo dân dấn thân và chúng ta luôn cần linh mục.

Xin Hồng y cho biết sự phát triển về số lượng linh mục trong giáo phận của Hồng y?

Năm 2001 chúng tôi có 268 linh mục, năm 2022 chúng tôi có 170 linh mục. Giáo hội ngày mai sẽ không thể sống nếu không có linh mục. Chúng ta cần linh mục vì chúng ta cần bí tích. Một Giáo hội không có bí tích sẽ không còn là Giáo hội nữa.

Kinh nghiệm truyền giáo lâu năm của Hồng y ở Nhật Bản, đất nước có ít người công giáo, kinh nghiệm này có giúp Hồng y đối diện với thực tế ngày nay không?

Tôi thường tự hỏi vì sao Chúa lại đưa tôi đến Nhật Bản trước khi về Luxembourg, hai thực tế hoàn toàn khác nhau. Tôi nghĩ Chúa đã có kế hoạch vì Nhật Bản là một xã hội rất thế tục, vì thế tôi đã được chuẩn bị để thấy Luxembourg cũng không kém thế tục, một vùng đất truyền giáo mới. Chính nhờ liên lỉ cầu nguyện, đọc Tin Mừng, hiểu Tin Mừng, cảm nhận được thông điệp của Tin Mừng mà tôi tìm được phương thuốc, người công giáo cần trải qua hoán cải để có thể thành công dân của Tin Mừng.

Đức Phanxicô sẽ thấy gì ở đất nước thành trì của tài chánh thế giới?

Tôi nghĩ ngài là người hành động và hiểu vấn đề của thế giới, dĩ nhiên có người không thích ngài. Ở đất nước chúng tôi, chúng tôi có Hiệp hội Tư tưởng Tự do của người vô thần và người theo chủ nghĩa nhân văn, chắc chắn họ không phải là những người nồng nhiệt chào đón ngài.

Ngoài ra còn có người công giáo cánh tả, cánh hữu, người cánh tả cho rằng ngài quá bảo thủ trong vấn đề linh mục độc thân, phụ nữ làm linh mục. Người cánh hữu không thích ngài vì những lý do khác. Họ không hiểu ngài là giáo hoàng của lòng thương xót bao la.

Những gì Giáo hội Châu Âu lưu giữ là di sản tinh thần và văn hóa, trí tuệ triết học và thần học”

Về mặt tài chính, Luxembourg có những cố gắng để đi đúng đường, nhưng tôi nghĩ chúng tôi vẫn còn xa với những gì Đức Phanxicô mong muốn.

Đến Luxembourg một tuần trước khi khai mạc giai đoạn cuối của Thượng Hội đồng, đây có phải là cách Đức Phanxicô nói đến phong trào cải cách của Giáo hội ngày mai không?

Ngài không cần đi Luxembourg để ủng hộ Thượng Hội Đồng. Chính ngài là người muốn có Thượng hội đồng này và chính ngài là người khuyến khích chúng tôi tiến về phía trước.

Thượng Hội đồng này có ảnh hưởng gì đến giáo phận của Hồng y?

Chúng ta có một Giáo hội mang nặng giáo sĩ tính, các linh mục và tu sĩ là nhân vật chính, giáo dân làm theo những gì họ nói. Nhưng trên hết chúng ta phải hiểu, tín hữu kitô không phải là đối tượng mà là chủ thể của Tin Mừng và của việc truyền giáo. Chúng ta phải sống ơn rửa tội cách sáng tạo và tích cực. Người dân sẽ về với Giáo hội khi họ gặp tín hữu kitô, họ sẽ hỏi: “Bí mật của những người này là gì?”

Trong một phỏng vấn gần đây với báo Gia đình Kitô giáo, Hồng y Christoph Schönborn cho rằng người công giáo Châu Âu phải chấp nhận sự suy tàn của Châu Âu. Hồng y Fridolin Ambongo cũng nói về sự suy đồi văn hóa và đạo đức ở phương Tây. Liệu Giáo hội Châu Âu còn có thể đóng góp gì cho Giáo hội hoàn vũ không? Thái độ của Giáo hội Châu Âu nên như thế nào?

Giáo hội Châu Âu phải khiêm nhường. Chúng ta không còn là ông chủ của các Giáo hội khác. Mùa hè này tôi đi Benin và Congo, tôi đã chứng kiến một Giáo hội sống động, với những phụng vụ tốn nhiều thời gian nhưng lại làm cho giáo dân vui vẻ. Ở đây chắc chắn sẽ có người nhìn đồng hồ. Đôi khi ở Châu Âu, thánh lễ là nghĩa vụ hơn là niềm vui. Tôi cũng biết ở Châu Á với những Giáo hội nhỏ bé nhưng đầy sức sống. Chúng ta đã thấy điều tốt đẹp cho Giáo hội Châu Âu khi có một giáo hoàng không phải là người Châu Âu. Đó là một ơn cho lục địa.

Di sản Giáo hội Châu Âu lưu giữ là di sản tinh thần và văn hóa, trí tuệ triết học và thần học. Chúng ta phải biến di sản này thành ký ức sống động. Chúng ta được nuôi dưỡng không phải để quay về quá khứ nhưng để sống ngày hôm nay với Thiên Chúa như Đức Bênêđíctô XVI đã thể hiện trong triều của ngài.


Chương trình của Đức Thánh cha ngày 27 tháng Chín năm 2024


Thứ Sáu, ngày 27 tháng Chín năm 2024, lúc quá 9 giờ sáng, Đức Thánh cha Phanxicô sẽ viếng thăm Quốc vương và Hoàng hậu Bỉ, tại Lâu đài Laeken trước khi gặp chính quyền và các đại diện xã hội dân sự vào lúc 10 giờ.

Ban chiều, Đức Thánh cha đến thăm Đại học Công giáo Leuven, vào lúc 4 giờ và gặp gỡ các giáo sư, trước khi gặp gỡ và chào thăm dân chúng tại Quảng trường chính của thành phố Leuven.


Liệu lạm dụng có làm lu mờ chuyến đi Bỉ của Đức Giáo Hoàng không?



Vương cung thánh đường Thánh Tâm ở Brussels, nơi Giáo hoàng Francis sẽ gặp cộng đồng Công Giáo Bỉ vào ngày 28 tháng 9. 

Luke Coppen của tạp chí The Pillar ngày 21 tháng 9 năm 2024, tường trình rằng các giám mục Bỉ đã công bố người đại diện mới của họ về nạn lạm dụng của giáo sĩ trong tuần này, vài ngày trước khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu chuyến thăm kéo dài bốn ngày tới đất nước này.

Thực vậy, Đức Cha Luc Terlinden, Tổng giám mục Mechelen-Brussels 55 tuổi, kế nhiệm Giám mục Johan Bonny, Giám mục Antwerp 69 tuổi, người đã từ chức vào tháng 7, với lý do khối lượng công việc quá nhiều khiến ngài cho biết đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài.

Đức cha Bonny đã đảm nhiệm vai trò này trong 15 năm qua, thời kỳ Giáo hội Bỉ có nhiều biến động lớn trong bối cảnh lạm dụng của giáo sĩ và các vụ tai tiếng che đậy.

Chuyến thăm Bỉ gần đây nhất của một vị Giáo hoàng là vào năm 1995, khi Đức Gioan Phaolô II phong chân phước cho Cha Damien De Veuster, Tông đồ của Molokai. Đó là rất lâu trước khi cuộc khủng hoảng lạm dụng tràn ngập đất nước, làm hoen ố một thế hệ các nhà lãnh đạo Công Giáo và đẩy nhanh sự suy thoái nghiêm trọng của Giáo hội địa phương sau Công đồng Vatican II.

Phương châm cho chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô từ ngày 26 đến 29 tháng 9 là "En route, avec Espérance" ("Lên đường, với niềm Hy vọng") — một thông điệp đáng chú ý hướng đến tương lai. Nhưng liệu những người tổ chức chuyến đi có thể tập trung vào tương lai của Giáo hội hay không, hay chắc chắn sẽ quay trở lại quá khứ đầy rắc rối của mình?

'Sẽ không có gì xảy ra'

Mới đây vào tháng 1, một viên chức Giáo hội Bỉ đã bày tỏ lo ngại rằng chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng sẽ bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng lạm dụng.

• Nhắc đến trường hợp của Đức cha Roger Vangheluwe, người đã từ chức Giám mục Bruges vào năm 2010 sau khi thừa nhận đã lạm dụng cháu trai, tổng thư ký hội đồng giám mục Bruno Spriet cho biết: "Sẽ rất khó để Đức Giáo Hoàng Phanxicô có chuyến thăm yên ổn đến đất nước chúng ta vào tháng 9 cho đến khi có sự rõ ràng về vấn đề này".

Vào thời điểm đó, Đức cha Vangheluwe vẫn là một giám mục, sống trong thời gian nghỉ hưu tại một tu viện ở Pháp. Nhưng vào tháng 3 — gần 14 năm sau khi thừa nhận đã lạm dụng — vị giám mục 87 tuổi này đã bị hoàn tục, giải quyết một vụ tai tiếng sẽ phủ bóng đen lên chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng.

Để thừa nhận thêm sự tức giận của công chúng Bỉ về cuộc khủng hoảng lạm dụng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ gặp 15 nạn nhân trong chuyến đi của ngài.

Nhưng ngay cả điều này cũng là nguồn gây tranh cãi. Cha Rik Devillé, một người ủng hộ nạn nhân bị lạm dụng, đã cáo buộc những người tổ chức cuộc họp thiên vị đối với những nạn nhân mà ngài gọi là "thân thiện với Giáo hội" — một tuyên bố mà họ đã bác bỏ.

Devillé sau đó cho rằng cuộc họp sẽ chẳng hơn gì một hoạt động giao tế nhân sự.

• “Đức Giáo Hoàng sẽ tử tế, bắt tay, phân phối kinh Lạy Cha, rồi quay lại Rome và sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra”, ngài gợi ý.

Những phê phán trong khuôn viên đại học

Lý do bề ngoài cho chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng là để kỷ niệm 600 năm thành lập Đại học Leuven, ngày được hiện thân tại KU Leuven [Đại học Công Giáo Leuven] nói tiếng Hòa Lan và UC Louvain [Đại học Công Giáo Louvain] nói tiếng Pháp.

Nhưng cuộc khủng hoảng lạm dụng thậm chí cũng ảnh hưởng đến sự kiện đáng mừng này. Trong một bài xã luận ngày 17 tháng 9, giáo sư Bart Maddens của KU Leuven cho rằng trường đại học của ông đang hạ thấp tầm quan trọng của chuyến viếng thăm khuôn viên trường vào ngày 27 tháng 9 của Đức Giáo Hoàng.

• “Rõ ràng là Đức Giáo Hoàng đã được mời trước khi các vụ tai tiếng ấu dâm tái diễn sau bộ phim tài liệu ‘Godforsaken’ của VRT, và nhiều người hiện đang có phần khó chịu vì điều đó”, ông viết, ám chỉ đến một loạt phim tài liệu đã gây ra sự phản đối dữ dội ở Bỉ khi được phát sóng vào tháng 9 năm 2023.

Các nhà chức trách KU Leuven phủ nhận rằng họ không nhiệt tình với chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng, nhưng một bài báo về chuyến đi được đăng trên trang web của trường vào ngày 20 tháng 9 đã đề cập đến việc lạm dụng năm lần.

• Bài báo có tựa đề “Chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng và khoa thần học của KU Leuven” cho biết: “Các nhà thần học không chỉ lên án mạnh mẽ vụ lạm dụng mà còn tiến hành phân tích sâu sắc các yếu tố cơ bản khiến vụ việc trở nên khả hữu, chẳng hạn như lạm dụng quyền lực, văn hóa giữ bí mật, việc sử dụng sai các thuật ngữ như ‘tha thứ’ hoặc các quan niệm có vấn đề về tình dục. Những hiểu biết sâu sắc này góp phần vào các cuộc cải cách trong Giáo hội và nâng cao nhận thức xã hội về các vấn đề này”.

Tiền lệ Ái Nhĩ Lan

Cuộc tranh luận xung quanh cuộc khủng hoảng lạm dụng có thể tạm dừng khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô đầy lôi cuốn đặt chân đến đất Bỉ.

Các phương tiện truyền thông địa phương sẽ chạy đua để theo kịp ngài khi ngài di chuyển từ cuộc gặp với Vua Bỉ, đến KU Leuven, đến Vương cung thánh đường Thánh Tâm của Brussels, đến UCLouvain và Sân vận động Vua Baudouin.

Nhưng nếu sự phẫn nộ của công chúng đủ cao, các chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng có thể bị lu mờ bởi các vụ tai tiếng lạm dụng. Ví dụ, Đức Giáo Hoàng đã phải đối đầu với các cuộc biểu tình trong chuyến thăm Ái Nhĩ Lan năm 2018, một thành trì Công Giáo cũ khác ở châu Âu bị tàn phá bởi nạn lạm dụng của giáo sĩ.

Để tránh lặp lại trải nghiệm này, có lẽ Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ cần phải giải quyết cuộc khủng hoảng ngay sau khi đến Bỉ, có thể là trong bài phát biểu đầu tiên của ngài, trước chính quyền, xã hội dân sự và đoàn ngoại giao.

Tất nhiên, cuộc gặp gỡ của ngài với các nạn nhân bị lạm dụng sẽ diễn ra riêng tư. Nhưng ngài sẽ cần tìm cách truyền đạt sự đồng cảm của mình với các nạn nhân trong mọi cơ hội trong suốt chuyến đi.






ĐTC Phanxicô gặp chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn Bỉ

Sau khi thăm hữu nghị vua Bỉ, vào lúc 10 giờ 00’, cũng tại Lâu đài Laeken, Đức Thánh Cha gặp đại diện chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Trước khi Đức Thánh Cha có bài phát biểu hướng đến khoảng 300 người hiện diện, Vua và Thủ tướng Bỉ có diễn văn chào mừng Đức Thánh Cha.

Trong bài diễn văn liền sau đó, trước hết, Đức Thánh Cha bày tỏ niềm vui và cảm ơn vì sự đón tiếp nồng nhiệt dành cho ngài. Đức Thánh Cha nói: “Khi nghĩ đến đất nước này, điều hiện lên trong tâm trí tôi là một điều gì đó nhỏ bé nhưng to lớn, một đất nước ở phía tây nhưng đồng thời cũng là trung tâm, như thể Bỉ là trái tim đang đập của một sinh vật khổng lồ”.


Lâu đài
Lâu đài


Châu Âu cần Bỉ để nhắc rằng lịch sử châu lục gồm các dân tộc, nền văn hóa, nhà thờ và trường học

Ở điểm này, ngài khẳng định sẽ là sai lầm khi đánh giá chất lượng của một quốc gia dựa trên kích thước địa lý. Bỉ không phải là một quốc gia rộng lớn, nhưng lịch sử đặc biệt của quốc gia có tác động mạnh mẽ. Ngay sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, các dân tộc châu Âu mệt mỏi và chán nản, bắt đầu con đường bình định, hợp tác và hội nhập nghiêm túc, đã coi Bỉ là địa điểm tự nhiên của các tổ chức chính của châu Âu. Do thực tế đất nước nằm trên đường đứt gãy giữa thế giới Đức và thế giới Latinh, giáp ranh với Pháp và Đức, hai quốc gia thể hiện rõ nhất những lý tưởng dân tộc chủ nghĩa đối lập trong cuộc xung đột, Bỉ xuất hiện như một địa điểm lý tưởng, gần như là nơi tổng hợp của châu Âu, từ đó tái khởi động công cuộc tái thiết về thể chất, đạo đức và tinh thần.

Có thể nói Bỉ là cầu nối giữa lục địa và quần đảo Anh, giữa các vùng nói tiếng Đức và tiếng Pháp, giữa Nam và Bắc Âu. Một cây cầu cho phép sự hòa hợp lan toả và tranh chấp lùi bước. Một cầu nối nơi mọi người, với ngôn ngữ, cách nghĩ và niềm tin riêng có thể gặp những người khác và trò chuyện, đối thoại, chia sẻ như phương tiện tương tác lẫn nhau. Một nơi người ta học cách tạo nên căn tính của mình không phải là thần tượng hay rào cản, nhưng là một không gian chào đón, để bắt đầu và quay trở lại, nơi thúc đẩy những trao đổi giá trị và cùng nhau tìm kiếm sự ổn định xã hội mới, xây dựng những thoả thuận mới. Một cây cầu thúc đẩy thương mại, kết nối và cho phép các nền văn minh đối thoại. Do đó một cây cầu không thể thiếu để xây dựng hoà bình và từ khước chiến tranh.

Như thế, dễ hiểu tại sao Bỉ nhỏ bé nhưng thực sự to lớn. Châu Âu cần Bỉ để nhắc nhớ rằng lịch sử của mình bao gồm các dân tộc và nền văn hóa, nhà thờ và trường đại học, thành tựu của sự khéo léo con người, nhưng cũng có nhiều cuộc chiến tranh và ý chí thống trị mà đôi khi dẫn đến chủ nghĩa thực dân và bóc lột.

Châu Âu cần Bỉ để tiếp tục con đường hòa bình và tình huynh đệ giữa các dân tộc. Đất nước này nhắc nhở mọi người rằng, khi - dựa trên những lý do đa dạng và không thể bảo vệ nhất – người ta bắt đầu không tôn trọng biên giới và hiệp ước nữa, đồng thời để lại quyền tạo ra luật về vũ khí, đảo lộn luật hiện hành, người ta mở nắp hộp Pandora và mọi cơn gió bắt đầu thổi dữ dội, làm rung chuyển ngôi nhà và đe dọa phá hủy nó.


ĐTC chào các thiếu nhi
ĐTC chào các thiếu nhi


Hoà hợp và hoà bình là một nhiệm vụ cần vun trồng cách kiên nhẫn

Thực ra, hòa hợp và hòa bình không phải là một cuộc chinh phục đạt được một lần cho mãi mãi, mà là một nhiệm vụ và sứ vụ không ngừng cần được vun trồng, được chăm sóc một cách kiên nhẫn. Thực tế, khi con người không còn nhớ về quá khứ và những bài học giá trị của quá khứ, họ đang đối diện với nguy cơ lại một lần nữa tụt hậu, ngay cả khi đã tiến lên, quên đi những đau khổ và cái giá khủng khiếp mà các thế hệ trước phải trả.

Theo nghĩa này, hơn bao giờ hết Bỉ quý giá trong việc duy trì ký ức về lục địa châu Âu. Thật vậy, quốc gia này cung cấp một lý lẽ không thể chối cãi cho sự phát triển hoạt động văn hóa, xã hội và chính trị kịp thời và liên tục, đồng thời can đảm và thận trọng loại trừ khỏi tương lai ý tưởng và thực hành chiến tranh như một lựa chọn khả thi với những hậu quả thảm khốc.


ĐTC gặp chính quyền
ĐTC gặp chính quyền


Lịch sử Bỉ kêu gọi châu Âu mở lòng đón nhận sự sống và hy vọng

Lịch sử, thầy dạy cuộc sống thường không được chú ý, và lịch sử Bỉ kêu gọi châu Âu tiếp tục con đường của mình, tìm lại bộ mặt thật của mình, tái đầu tư vào tương lai bằng cách mở lòng đón nhận sự sống, hy vọng, vượt qua mùa đông nhân khẩu học và đau khổ của chiến tranh!

Giáo hội mong muốn mang đến cho thế giới niềm hy vọng

Tới đây, bài phát biểu của Đức Thánh Cha hướng đến Giáo hội Công giáo. Ngài giải thích, khi làm chứng cho đức tin vào Chúa Kitô Phục sinh, Giáo hội Công giáo mong muốn trở thành một sự hiện diện mang đến cho các cá nhân, gia đình, xã hội và quốc gia một niềm hy vọng vừa xa xưa vừa mới mẻ. Một sự hiện diện giúp mọi người đối diện với những thách đố và khó khăn, không phải với sự nhiệt tình dễ dãi hay bi quan ảm đạm, nhưng với sự chắc chắn rằng nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương, có một ơn gọi đời đời về hoà bình và sự tốt lành, chứ không phải bị dẫn đến số phận tan rã và hư vô.


ĐTC chào vua và hoàng hậu Bỉ
ĐTC chào vua và hoàng hậu Bỉ


Giáo hội biết mình thánh thiện vì được Chúa thiết lập nhưng cũng cảm nhận sự mong manh

Hướng mắt về Chúa Giêsu, Giáo hội luôn nhận ra mình như người môn đệ, bước theo Thầy với sự lo sợ và run rẩy khi biết rằng mình thánh thiện vì được Chúa thiết lập, nhưng đồng thời cũng cảm nghiệm sự mong manh và thiếu sót của các thành viên, những người không bao giờ hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ được giao phó vì luôn vượt quá khả năng của họ.

Giáo hội loan báo Tin Mừng có thể lấp đầy trái tim chúng ta bằng niềm vui. Qua các hoạt động bác ái và vô số chứng từ về tình yêu dành cho người khác, Giáo hội tìm cách đưa ra những dấu chỉ cụ thể và đáng tin cậy về tình yêu thúc đẩy mình. Tuy nhiên, Giáo hội luôn sống trong một nền văn hóa cụ thể, trong tâm thức của một thời đại cụ thể mà đôi khi Giáo hội giúp định hình hoặc đôi khi Giáo hội phải tuân theo; và các thành viên của Giáo hội không phải lúc nào cũng hiểu và sống sứ điệp của Tin Mừng trong tất cả sự thuần khiết và trọn vẹn của sứ điệp này.

Trong sự tồn tại lâu năm giữa ánh sáng và bóng tối này, Giáo hội thực hiện sứ vụ của mình, thường với những mẫu gương về lòng quảng đại và sự tận tụy chân thành, nhưng đáng buồn thay, đôi khi lại có những phản chứng đau đớn.

Đức Thánh Cha đề cập đến thực tế những trường hợp bi thảm về lạm dụng trẻ em, đây là một tai ương mà Giáo hội đang giải quyết một cách kiên quyết và dứt khoát bằng cách lắng nghe và đồng hành với những người bị tổn thương, và bằng cách thực hiện một chương trình phòng ngừa trên toàn thế giới.

Ngài còn bày tỏ đau buồn trước hiện tượng “nhận con nuôi ép buộc”  diễn ra ở Bỉ vào giữa những năm 1950 và 1970. Trong những câu chuyện đau buồn này, chúng ta thấy trái đắng của hành vi sai trái và tội phạm đã hòa lẫn vào quan điểm không may đang thịnh hành ở mọi tầng lớp xã hội vào thời điểm đó, đến mức nhiều người tin vào lương tâm cho rằng đang làm điều gì đó tốt cho cả em bé và người mẹ. Thông thường, gia đình và các tác nhân xã hội khác, kể cả Giáo hội, nghĩ rằng để xóa bỏ sự kỳ thị tiêu cực, không may ảnh hưởng đến người mẹ chưa lập gia đình vào thời đó, tốt hơn là nên cho con nuôi vì lợi ích của cả hai, mẹ và con. Thậm chí có trường hợp một số phụ nữ không được lựa chọn giữ con hay giao cho người khác làm con nuôi.

Đức Thánh Cha cầu xin Chúa cho Giáo hội luôn tìm thấy trong mình sức mạnh để làm sáng tỏ và không bao giờ tuân theo nền văn hóa thống trị, ngay cả khi nền văn hóa đó sử dụng một cách thao túng các giá trị bắt nguồn từ Tin Mừng, nhưng lại rút ra từ đó những kết luận không chân thực, gây đau khổ và loại trừ. Ngài cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, bằng cách nhìn vào Bỉ và lịch sử của nước này, để có thể học hỏi từ nước này, và nhờ đó cứu dân mình khỏi những bất hạnh và đau khổ vô tận. Ngài cũng cầu nguyện để những người cầm quyền biết đảm nhận trách nhiệm, rủi ro và danh dự của hòa bình, cũng như biết cách tránh nguy hiểm, sự ô nhục và phi lý của chiến tranh. Sau cùng, Đức Thánh Cha cầu nguyện để họ sợ sự phán xét của lương tâm, lịch sử và Chúa, để trái tim và khối óc của họ được hoán cải và luôn đặt công ích lên hàng đầu.

Kết thúc bài phát biểu, Đức Thánh Cha nhắc đến khẩu hiệu của cuộc viếng thăm “En route, avec Espérance”. Ngài nói: “Hy vọng được viết hoa khiến tôi nghĩ hy vọng không chỉ là thứ gì đó để chúng ta mang theo trong hành lý của một chuyến đi. Ngược lại, hy vọng là một món quà từ Chúa cần được mang trong trái tim chúng ta. Vì thế tôi muốn để lại lời chúc này cho Quý vị và tất cả những người nam nữ đang sống tại Bỉ: cầu chúc Quý vị luôn cầu xin và nhận được món quà này từ Thánh Thần để cùng nhau bước đi với Niềm Hy vọng trên hành trình cuộc sống và lịch sử”.

Sau buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ Thần các đó khoảng 11km để dùng bữa trưa và nghỉ trưa.


Chương trình của Đức Thánh cha trong ngày thứ Bảy, 28 tháng Chín


Thứ Bảy, ngày 28 tháng Chín, lúc 10 giờ sáng, Đức Thánh cha đến Vương cung thánh đường Thánh Tâm, ở Koekelberg để gặp gỡ với các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.

Ban chiều, lúc 4 giờ 30 cùng ngày, Đức Thánh cha gặp gỡ với các sinh viên tại Đại thính đường của Đại học Công giáo Louvain, ở vùng nói tiếng Pháp. Sau đó, lúc 6 giờ 15, Đức Thánh cha gặp riêng các tu sĩ Dòng Tên ở Học viện thánh Micae.


Đức Hồng y Müller phê bình danh sách các tội


Đức Hồng y Gerhard Müller, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, phê bình một số tội được liệt kê trong danh sách các tội sẽ được xướng lên trong buổi phụng vụ thống hối trước Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, vào tháng Mười sắp tới tại Vatican.

Đức Hồng y Gerhard Müller

Những tội chống lại hòa bình, tội chống lại thiên nhiên như công trình tạo dựng, tội chống các thổ dân bản xứ, tội lạm dụng, tội chống lại tính hiệp hành/thiếu lắng nghe, hiệp thông và tham gia với mọi người.

Trong một bài đăng trên trang mạng Kath.net ở Đức, Đức Hồng y Müller nhận định rằng, “vào đầu Thượng Hội đồng về hiệp hành, không còn là một Thượng Hội đồng các giám mục mà thôi, nhưng là một đại hội hỗn hợp, không hề đại diện cho toàn Giáo hội Công giáo, sẽ có một nghi thức thống hối vì những tội mới được con người sáng nghĩ ra”.

Tội là sự chủ ý quay lưng của con người đối với Thiên Chúa và quay về với những thụ tạo, thờ lạy chúng thay vì tôn thờ Chúa, hoặc tôn thờ các ngẫu tượng ngoại giáo. Chúng ta có cũng thể phạm tội chống những người đồng loại của chúng ta nếu chúng ta không yêu mến họ vì Chúa. Điều này cũng bao gồm việc sử dụng những tài nguyên thiên nhiên trong sự ích kỷ mà Chúa ban cho mọi dân tộc như căn bản để sống...

“Chúng ta hãy nghĩ đến những nhà tỷ phú hoặc có tiếng là thương người, nhưng trước đó họ đã bóc lột dân chúng một cách vô liêm sỉ, rồi sau đó được ca ngợi như ân nhân của nhân loại, vì đã làm một số cử chỉ làm phúc. Đức Giáo hoàng và các giám mục không nên để cho mình chụp hình với những người ấy”.

Đức Hồng y Müller cũng nhận xét rằng: Danh sách các hành động được trình bày như tội, có tội gọi là chống lại đạo lý của Giáo hội, lạm dụng đạo lý như hòn đá để ném vào người khác, hoặc tội chống lại sự hiệp hành, dù người ta có thể hiểu nó thế nào đi nữa, có thể là một danh sách kiểm tra về ý thức hệ Kitô giáo và ý thức hệ về Gender, giống, ngoại trừ một số hành vi xấu kêu thấu tới trời”... Không có thứ tội chống đạo lý của Giáo hội mà người ta coi như khí giới, vì giáo huấn của các tông đồ dạy rằng ơn cứu độ chỉ có trong danh Chúa Kitô.


Các giám mục Đức không đồng thuận về truyền chức cho phụ nữ


Các giám mục Đức tham dự Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới tại Roma, không có lập trường đồng thuận về vấn đề có nên truyền chức phó tế và linh mục cho phụ nữ hay không. Có những vị đặt hy vọng nơi Thượng Hội đồng Giám mục thế giới vào tháng Mười tới đây tại Roma, nơi bàn thảo về những vấn đề quan trọng cho tương lai của Giáo hội.

Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí, hôm 24 tháng Chín vừa qua, bên lề khóa họp mùa thu của Hội đồng Giám mục Đức, tiến hành ở thành phố Fulda, từ 23 đến ngày 26 tháng Chín này, 5 giám mục đại biểu của Hội đồng Giám mục Đức cho biết, trong Đại hội của các giám mục Đức tại thành phố này, cũng nói về vấn đề trong tương lai các Hội đồng Giám mục có thể có tự do quyết định về vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ hay không.

Đức cha Franz-Josef Overbeck, nổi tiếng là cấp tiến, cho biết đứng trước những khác biệt về văn hóa và xã hội trong các Giáo hội địa phương, có thể có những qui luật khác biệt về sự bình đẳng hóa phụ nữ. Vì thế, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới có thể cho các Hội đồng Giám mục quốc gia tự do quyết định về vấn đề truyền chức cho phụ nữ. Tuy nhiên, Đức cha nói thêm ngay rằng: “đề nghị này có thể là quá sớm hiện nay. Nó chỉ có thể khi người ta thấy rõ đây sẽ không phải là một sự mâu thuẫn phá vỡ tình hiệp nhất của Giáo hội”.

Một đại biểu khác là Đức cha Georg Baetzing, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức, cũng thuộc khuynh hướng cấp tiến, nhận định rằng sự tham gia của phụ nữ vào mọi lãnh vực và cấp độ của đời sống Giáo hội, là vấn đề quan trọng quyết định đối với tương lai của Giáo hội Công giáo. Ngài nói: “Tôi rất mong muốn các phụ nữ có thể được chịu chức phó tế”. Vấn đề này trong tương lai phải được địa phương quyết định, trong tinh thần tản quyền về địa phương.

Đức cha Bertram Meier, Giám mục Giáo phận Augsburg, cũng là đại biểu, có một lập trường khác. Theo Đức cha, vấn đề cho phụ nữ chịu chức phó tế hoặc linh mục, hiện nay là điều không có thể, vì Tông thư “Ordinatio Sacerdotalis”, Truyền chức linh mục, do Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, có tính chất bó buộc, vẫn còn hiệu lực. Trong văn kiện đó, Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng Giáo hội không có năng quyền truyền chức cho phụ nữ.

Về Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, Đức cha Meier nhận định rằng xác tín nòng cốt của Con đường Công nghị thế giới là Giáo hội không được điều khiển bằng những quyết định đơn độc, do những người được quyền từ trên xuống dưới. Đúng hơn là sự tham gia, minh bạch và cởi mở, trách nhiệm trong các quyết định.

Đại biểu thứ tư của các giám mục Đức, là Đức cha Felix Genn, Giám mục Giáo phận Muenster, cho giới báo chí biết rằng ngài muốn làm sao để Thượng Hội đồng Giám mục có một hướng đi rõ ràng. “Các vấn đề nêu lên cần có những câu trả lời. Một cuộc thảo luận minh bạch là điều quan trọng, kể cả những vấn đề được chuyển cho các nhóm nghiên cứu, như vấn đề bình quyền của phụ nữ. Đức cha Genn là điều hợp viên của một trong mười nhóm được ủy thác nghiên cứu về những vấn đề các quyền và việc bầu các giám mục.

Sau cùng, Đức cha Stefan Oster, Dòng Don Bosco, Giám mục Giáo phận Passau, vốn bênh vực đạo lý và kỷ luật truyền thống của Giáo hội, thì nhắc lại cơ cấu phẩm trật căn bản của Giáo hội, dành quyền quyết định nòng cốt cho Đức Giáo hoàng và các giám mục. Vì thế, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới sẽ thảo luận về “sự hội nhập của Giáo hội hiệp hành và đồng thời là Giáo hội phẩm trật”. Điều chủ yếu là một cuộc khởi hành mới và một đường lối mới “cùng với nhau là Giáo hội”.


Đức Thánh cha kêu gọi trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi


Đức Thánh cha Phanxicô đã kêu gọi nhà cầm quyền quân phiệt tại Myanmar trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi và cho biết sẵn sàng đón nhận bà tại Vatican.

Pope Francis during his encounter with Jesuits in Jakarta, in Indonesia

Bán nguyệt san “Civiltà Cattolica, Văn minh Công giáo, của Dòng Tên ở Ý, xuất bản ngày 24 tháng Chín vừa qua, cho biết: Đức Thánh cha đã tiết lộ điều đó trong cuộc gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên ở Indonesia, trong chuyến tông du hồi đầu tháng Chín này. Tóm lược các cuộc gặp gỡ đó đã được cha Antonio Spadaro, Chủ nhiệm Tạp chí “Civiltà Cattolica” và hiện là Phó Tổng thư ký Bộ Giáo dục và Văn hóa Công giáo.

Bà Aung San Suu Kyi nguyên là Cố vấn nhà nước Myanmar và từng được giải Nobel Hòa bình, đã bị nhà cầm quyền quân phiệt bắt giam và lên án, sau cuộc đảo chánh hồi năm 2021, và hiện nay người ta không biết bà bị giam ở đâu.

Đức Thánh cha nói với các tu sĩ Dòng Tên rằng: “Tôi đã yêu cầu trả tự do cho bà Aung San Suu Kyi. Tôi đã tiếp con trai của bà ở Roma. Tôi đã đề nghị đón nhận bà trên lãnh thổ Vatican.” Ngài cho biết như trên, khi trả lời câu hỏi do một tu sĩ Dòng Tên nêu lên.

Hiện nay, Myanmar đang ở trong tình trạng nội chiến và Đức Thánh cha nhiều lần kêu gọi cầu nguyện cho nước này. Ngài cũng nhắn nhủ người anh em cùng dòng đừng mất hy vọng, khi chúng ta bị mất sự sống, gia đình, những giấc mơ và tương lai”.

Cũng liên quan đến Myanmar, Đức Thánh cha đã bày tỏ quan tâm đến số phận của những người Rohingyas, một sắc dân thiểu số theo Hồi giáo bị nhà cầm quyền Myanmar bách hại và một số lớn phải chạy sang Bangladesh láng giềng để tị nạn. Đức Thánh cha đã viếng thăm cả Myanmar và Bangladesh hồi cuối tháng Mười Một, đầu tháng Mười Hai năm 2017.

Trong cuộc gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên ở Indonesia, Đức Thánh cha nói: “Không có câu trả lời phổ quát cho câu hỏi của anh em. Có nhiều người trẻ đang chiến đấu cho đất nước của họ. Tại Myanmar ngày nay, các bạn không thể im lặng, phải làm một cái gì đó! Tương lai đất nước của các anh em phải là một nền hòa bình dựa trên sự tôn trọng phẩm giá và quyền của tất cả mọi người, tôn trọng trật tự dân chủ giúp mỗi người đóng góp vào công ích”.




Giáo hoàng Francis kêu gọi trả tự do cho cựu lãnh đạo Myanmar, bà Aung San Suu Kyi, đồng thời cho bà được tị nạn tại Vatican.

"Tôi đã yêu cầu thả tự do cho bà Aung San Suu Kyi và gặp con trai bà ấy tại Rome. Tôi cũng đã đề xuất với Vatican để cung cấp nơi ở cho bà ấy trên lãnh thổ của chúng tôi", Giáo hoàng Francis chia sẻ trong chuyến công du châu Á vào đầu tháng này.

Nội dung chia sẻ của Giáo hoàng được báo Corriere della Sera của Ý trích dẫn từ bài viết của linh mục Antonio Spadaro, trong đó có nội dung từ các cuộc gặp riêng tư của Giáo hoàng tại Indonesia, Timor Leste và Singapore, diễn ra từ ngày 2 đến 13-9.

"Chúng ta không thể im lặng trước tình hình tại Myanmar hôm nay. Chúng ta phải hành động", Giáo hoàng nhấn mạnh. "Tương lai của đất nước các bạn nên là một tương lai hòa bình, dựa trên sự tôn trọng phẩm giá và quyền lợi của mọi người, cùng với một hệ thống dân chủ cho phép tất cả mọi người đóng góp vào lợi ích chung".

Bà Aung San Suu Kyi, 78 tuổi, đang phải chịu án tù 27 năm với các cáo buộc từ tham nhũng cho đến vi phạm quy định phòng chống dịch COVID-19.

Năm 2015, Đảng Liên đoàn quốc gia vì dân chủ (NLD) của bà Suu Kyi đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của Myanmar sau 25 năm.

Tuy nhiên vào năm 2021, bên quân đội Myanmar bắt giữ bà Suu Kyi khi đảo chính. Theo truyền thông địa phương, sức khỏe của bà đang gặp nhiều vấn đề trong khi bị giam giữ.

Là người được trao giải Nobel Hòa bình năm 1991, bà Suu Kyi từng được ca ngợi là biểu tượng của nhân quyền. Tuy nhiên, bà đã đánh mất sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế vào năm 2017, khi bị cáo buộc không làm gì để ngăn chặn quân đội Myanmar đàn áp người Rohingya, một cộng đồng Hồi giáo chiếm thiểu số ở nước này.

Cuộc đàn áp này đang là đối tượng của một cuộc điều tra về tội diệt chủng của Liên Hiệp Quốc và vẫn tiếp diễn, theo lời kể của người tị nạn Rohingya tại Bangladesh.


Đức Giáo Hoàng và Tổng thống Á Căn Đình khẩu chiến về cuộc biểu tình đòi lương hưu ở Á Căn Đình

Một cuộc khẩu chiến mới giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và chính phủ theo chủ nghĩa tự do mới của Tổng thống Á Căn Đình Javier Milei về phản ứng đối với các cuộc biểu tình gần đây về việc tăng lương hưu có khả năng làm phức tạp thêm triển vọng về chuyến trở về quê hương của Đức Giáo Hoàng vốn bị trì hoãn từ lâu.

Cuộc trao đổi này diễn ra sau một đoạn video được quay trong các cuộc biểu tình trên đường phố tuần trước của những công nhân đòi tăng lương hưu cho thấy một cảnh sát dường như đã sử dụng bình xịt hơi cay với một bé gái 10 tuổi. Để đáp trả, Đức Thánh Cha Phanxicô đã sử dụng một bài phát biểu tại một cuộc họp của các phong trào quần chúng tại Vatican để chỉ trích không chỉ phản ứng của các lực lượng an ninh mà còn cả các ưu tiên của chính phủ Á Căn Đình.

“Tôi đã chứng kiến một cuộc đàn áp, một tuần hoặc ít hơn một chút trước đây. Những người lao động, những người đang đòi quyền lợi của họ trên đường phố,” Đức Giáo Hoàng nói.

“Và cảnh sát đã đẩy lùi họ bằng thứ đắt tiền nhất, bình xịt hơi cay phẩm chất hàng đầu. Và họ không có quyền đòi hỏi những gì là của họ, bởi vì họ là những kẻ bạo loạn, những người cộng sản, không, không. Chính phủ đã kiên quyết và thay vì trả tiền cho công lý xã hội, họ đã trả tiền cho bình xịt hơi cay,” ngài nói.

Nhìn rộng hơn, Giáo hoàng dường như cũng bác bỏ đường lối theo chủ nghĩa tân tự do cho phép thị trường tự quyết định các kết quả kinh tế như phân phối của cải.

Đức Phanxicô cảnh báo: “Nếu không có chính sách, chính sách tốt, chính sách hợp lý và công bằng nhằm tăng cường công lý xã hội để mọi người đều có đất đai, nhà ở, việc làm, mức lương công bằng và các quyền xã hội đầy đủ, thì logic lãng phí vật chất và con người sẽ lan rộng, để lại bạo lực và sự hoang tàn”.

Góp phần tạo nên nhận thức về xung đột trực tiếp với Milei, trong số những người lắng nghe bài phát biểu của Đức Thánh Cha Phanxicô có Juan Grabois, người sáng lập phong trào công nhân ở Á Căn Đình và trước đây là ứng cử viên cánh tả trong cuộc bầu cử năm 2023 đưa Milei lên nắm quyền.

Milei, người không ngại chỉ trích Đức Thánh Cha Phanxicô trong quá khứ, đã lên nền tảng truyền thông xã hội X để phản pháo. Trong một loạt bài đăng, ông gọi giáo hoàng là “kẻ đạo đức giả” và cũng là “thây ma bị nhiễm virus Kirchernerist”, một lời ám chỉ khinh miệt đến chính phủ cánh tả của cựu tổng thống Á Căn Đình Nestor Kircher và vợ Cristina, những người đã cai trị từ năm 2003 đến năm 2015.

Với giọng điệu ít gay gắt hơn, một phát ngôn viên của chính phủ cũng bày tỏ sự bất đồng với bình luận của Đức Giáo Hoàng.

“Đó là ý kiến của Đức Giáo Hoàng, mà chúng tôi tôn trọng, chúng tôi lắng nghe và chúng tôi thậm chí suy ngẫm về những gì ngài nói”, phát ngôn nhân Manuel Adorni cho biết. “Chúng tôi không phải chia sẻ tầm nhìn của ngài về một số vấn đề. Nhưng chúng tôi hoàn toàn và tuyệt đối tôn trọng những gì Đức Giáo Hoàng có thể nói”.

Patricia Bullrich, Bộ trưởng An ninh Á Căn Đình, đã có quan điểm tương tự trong một cuộc họp báo, nói về bình luận của Đức Giáo Hoàng, “Chúng tôi sẽ không phản hồi. Đó là một ý kiến, và giống như mọi ý kiến khác, nó cần được tôn trọng.”

Mặt khác, thị trưởng Buenos Aires, thủ đô mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã đảm nhiệm vai trò tổng giám mục trong 15 năm trước khi được bầu vào năm 2013, đã thách thức Đức Giáo Hoàng quay trở lại và xem xét tình hình thực tế trước khi bình luận.

Jorge Macri phát biểu với một đài phát thanh Á Căn Đình rằng: “Tôi có mối quan hệ tuyệt vời với nhiều nhân vật trong Giáo Hội, nhưng để đưa ra ý kiến về những vấn đề này, bạn phải ở đây, hiểu những gì đang diễn ra, tính đến tất cả các biến số đang diễn ra và không được hạ thấp sự thật hoặc chỉ nghe một phía của câu chuyện”.

Macri là anh em họ của cựu Tổng thống Á Căn Đình Mauricio Macri, người lãnh đạo chính phủ bảo thủ từ năm 2015 đến năm 2019.

Jorge Macri cho biết, “Tôi không muốn tranh luận với Đức Giáo Hoàng và thật tốt khi được lắng nghe mọi tiếng nói về những vấn đề này để không bị giản lược, và để hiểu rằng chúng ta đang giải quyết một tình hình phức tạp và khó khăn, một thời điểm khó khăn đối với Á Căn Đình”.

Mối quan hệ giữa Giáo Hội và nhà nước ở Á Căn Đình đã trở nên căng thẳng kể từ khi Milei nhậm chức vào tháng 12 năm 2023. Vào tháng 3, một tài liệu từ một ủy ban của hội đồng giám mục đã được công bố, trong đó phàn nàn rằng “việc cắt giảm vĩnh viễn các chính sách công đã tạo ra những vấn đề gây nguy hiểm cho các quyền cơ bản nhất, như giáo dục và chăm sóc sức khỏe, và thậm chí ảnh hưởng đến những nhu cầu thiết yếu như thực phẩm”.

Tài liệu của Ủy ban Hòa bình và Công lý phàn nàn rằng: “Trong khi các lợi ích về thuế có lợi cho các công ty lớn không bị cắt giảm thì thâm hụt lại giảm nhờ việc cắt giảm đối với người lao động và người đã nghỉ hưu”.

Về phía Milei, trước khi đắc cử, ông thường xuyên công khai chỉ trích Đức Thánh Cha Phanxicô, gọi ngài ở nhiều thời điểm là “kẻ cộng sản”, “kẻ ngu ngốc”, “con trai cánh tả” và “kẻ đại diện cho cái ác trên trái đất”.

Tuy nhiên, sau khi nắm quyền, Milei đã đến thăm Rôma để tham dự lễ phong thánh cho một vị thánh người Á Căn Đình và có cuộc gặp thân mật với Đức Phanxicô, sự kiện được nhiều người coi là nỗ lực xóa bỏ hiềm khích.

Người ta vẫn chưa biết liệu tình hình hỗn loạn hiện nay ở Á Căn Đình có ảnh hưởng đến triển vọng chuyến đi của Đức Giáo Hoàng hay không. Trong những bình luận gần đây về chuyến đi đến Á Châu và Châu Đại Dương, Francis tỏ ra thận trọng về chuyến trở về quê hương.

“Tôi có đến Á Căn Đình hay không vẫn chưa được quyết định”, ngài nói với các phóng viên. “Tôi muốn đi, đó là người dân của tôi, nhưng vẫn chưa được quyết định. Trước tiên, chúng tôi phải giải quyết một số vấn đề”, ngài nói, nhưng không nêu rõ những vấn đề đó là gì.


Argentine President Javier Milei greets Pope Francis in the Vatican Monday, Feb. 12, 2024

Ngày 19/9/2024, Đức Cha Antonius Subianto Bunjamin, Giám mục của Bandung và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Indonesia, đã khánh thành tượng Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế cao 61 mét tại một địa điểm du lịch ở tỉnh Bắc Sumatra. Trong cuộc viếng thăm Indonesia hồi đầu tháng 9 vừa qua, tại Tòa Sứ thần ở Jakarta, Đức Thánh Cha đã làm phép một tượng thu nhỏ của tượng nguyên bản 61 mét.


Khánh thành tượng Chúa Giêsu cao nhất tại Sumatra


Tượng Chúa Giêsu cao nhất thế giới đã được khánh thành trên đồi Sibea-bea, thuộc tỉnh bắc Sumatra, bên Indonesia, hôm 19 tháng Chín vừa qua.

image.png

Tượng Chúa Giêsu Cứu Thế cao 61 mét, cao hơn 20 mét so với Tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở Rio de Janeiro, bên Brazil.

Tượng đã được Đức Thánh cha làm phép tượng trưng qua một tượng nhỏ, trong cuộc viếng thăm hồi đầu tháng Chín vừa rồi. Nghi thức làm phép diễn ra tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Jakarta, ngày 06 tháng Chín. Nay được Đức cha Antonius Subianto Benjamin, Giám mục Giáo phận Bandung, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Indonesia, chủ sự lễ khánh thành hôm 19 tháng Chín vừa qua, gần hồ Toba ở vùng du lich Samosir. Một tấm bảng hình thánh giá có kinh nguyện, với chữ ký của Đức Thánh cha Phanxicô đã được gắn vào tượng. Trong kinh có ghi: “Điều được ngưỡng mộ nơi Chúa Giêsu Cứu Thế là tình tương vô biên của Chúa”.

Tuyên bố trong buổi khánh thành, Đức cha Bunjamin nói: “Đồi này được Thiên Chúa chúc phúc và trở thành một nơi có thể củng cố đức tin của dân”.

Miền bắc đảo Sumatra bao gồm Tổng giáo phận Medan và Giáo phận Sibolta, là một trong những vùng có đa số dân là tín hữu Công giáo: trong số 15 triệu dân cư ở đây, có một triệu 100.000 tín hữu Công giáo và hơn bốn triệu tín hữu Tin lành.

Tượng Chúa Kitô cao nhất thế giới ở Armeni


Tượng Chúa Kitô cao nhất thế giới sắp được khánh thành tại Cộng hòa Armeni, cao hơn cả tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở thành phố Rio de Janeiro, bên Brazil (cao 30 mét), và tượng Chúa Kitô ở Swiebodzin, bên Ba Lan (cao 52,5 mét kể cả bệ).

Tượng tại Armeni cao 33 mét và được đặt trên bệ cao 44 mét, tọa lạc trên núi Hatis. Dự án này dưới sự hướng dẫn của doanh nhân Gagik Tsarukyn và khởi công từ tháng Bảy năm 2022. Người ta cho rằng pho tượng đặc biệt này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch, nhưng Hiệp hội các nhà hướng dẫn du lịch, công bố thư ngỏ nhấn mạnh rằng: “khác với các nước Công giáo như Brazil, Kitô giáo tại Armeni không có truyền thống xây tượng. Vì thế, sự hiện diện của tượng này không tạo điều kiện thuận lợi cho ngành du lịch, vì xét cho cùng các du khách đến Armeni để xem và cảm nghiệm đời sống thực tế”.

Còn trụ sở của Giáo hội Armeni Tông truyền ở Etchmiadzin, được coi là “Tòa Thánh” của Giáo hội này, thì nói rằng pho tượng to lớn ở núi Hatis không phù hợp với truyền thống của Armeni. Quốc gia đầu tiên theo Kitô giáo trên thế giới này đã xây dựng đức tin của mình quanh sách vở, các cảnh trí bé nhỏ (miniature) và các bia đá khachkar. Vì thế, những thánh giá khổng lồ bằng gạch đá chúng ta thấy khắp nơi Armeni. Trái lại, tượng Chúa Kitô Cứu thế là do ảnh hưởng của Tây phương, tân tiến, hầu như là một “cái tát” đối với quang cảnh Armeni.

Dầu có những phản đối và phê bình như thế, dự án xây tượng Chúa Kitô cao nhất thế giới ở Armeni, vẫn được tiếp tục. Doanh nhân Tsarykyan đã mua khu đất rộng 146 hécta, hồi năm 2008, bao gồm cả đỉnh núi nơi có pho tượng và tiến hành công trình kiến thiết từ hai năm nay và nay sắp được khánh thành.

Khai trương đường hành hương hy vọng ở khu vực Nhà Abraham
Đường hành hương hy vọng ở khu vực Nhà Abraham đã được khai trương vào ngày 14/9 vừa qua. Sự kiện đánh dấu kỷ niệm 60 năm thành lập Nhà Abraham, nơi dành cho các Kitô hữu, tín đồ Hồi giáo và Do Thái hành hương đến đây.

Nhà Abraham nằm trên đỉnh đồi ở trung tâm khu phố Hồi giáo Ras al-Amud ở Đông Giêrusalem. Từ đây, tầm nhìn trải dài qua các bức tường của Giêrusalem.

Giám đốc Nhà Arbraham, Bernard Thibaud giải thích: “Chúng tôi tiếp đón những người hành hương thuộc mọi tôn giáo, đặc biệt những người nghèo nhất. Đây là sứ vụ mà Thánh Giáo hoàng Phaolô VI đã giao phó cho chúng tôi vào năm 1964. Chúng tôi cũng được yêu cầu thúc đẩy cuộc gặp gỡ với cư dân trong khu phố”.

Dịp kỷ niệm 60 năm, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi sứ điệp khích lệ họ “tiếp tục hoạt động bác ái này, để ngôi nhà luôn là nơi chào đón, gặp gỡ và đối thoại cho tất cả con cái Abraham, những người chân thành tìm kiếm tương quan với Thiên Chúa và với người lân cận”. Đức Thánh Cha cũng bày tỏ mong muốn Con đường “sẽ là dấu chỉ của hy vọng, truyền cảm hứng cho mọi người và các nhà lãnh đạo trong khu vực hướng đến hoà bình”.

Vào ngày 14/9, Đức cha William Shomali, Đại diện của Tòa Thượng Phụ Latinh Giêrusalem, đã làm phép Đường hành hương hy vọng trước sự hiện diện của nhiều linh mục, tu sĩ, các Kitô hữu, các tín đồ Hồi giáo và Do Thái giáo. 

Đường hành hương hy vọng được hình thành như một sự phản ánh về sứ vụ của Nhà Abraham. Tuyến đường quanh co bên dưới khu vườn và sân hiên của ngôi nhà, được đánh dấu bằng 15 trạm với những tấm bảng trên đó có viết những câu Kinh thánh Kitô giáo, Kinh thánh Do Thái và Kinh Koran. 

Giám đốc Thibaud giải thích rằng những lời được lấy từ các giá trị Kitô giáo, nhưng mọi người thuộc mọi tôn giáo đều có thể tìm thấy cảm hứng. Thông điệp chủ yếu là lòng hiếu khách, lòng thương xót.

Phần đầu con đường tập trung vào lòng hiếu khách và bao gồm năm chặng dừng chân. Một biểu tượng mô tả Abraham và Sarah chào đón ba người khách lạ. Như thế, bắt đầu hành trình, mọi người được mời gọi suy ngẫm về cuộc gặp gỡ với vĩnh cửu qua sự chào đón vô điều kiện những khách lạ. Phần thứ hai được gọi là “Đức tin và bác ái”, bao gồm bốn chặng: đức tin của Abraham, người đã sẵn sàng hiến dâng người con duy nhất trên Núi Moria.

Phần thứ ba có tựa đề “Cầu nguyện và hiếu khách” và có ba chặng. Mục đích là để tôn vinh lịch sử của ngôi nhà, từng là nhà của cộng đoàn các đan sĩ Biển Đức và chủng viện Công giáo Syria. Phần cuối cùng về “Lòng thương xót và sự phục vụ”. Đường hành hương kết thúc trước biểu tượng “rửa chân”.


Nguy hiểm cho người Công Giáo Trung Quốc: Các giám mục cảnh báo một lần nữa về các giáo phái

“Người Công Giáo phải tránh xa các giáo phái và giáo lý của họ, tuyệt đối từ chối tham dự các cuộc họp của họ. Người đã chịu phép rửa tội phải kiên trì trong đức tin và tuân thủ các chân lý được tiết lộ trong Thánh Kinh và Huấn quyền của Giáo hội,” Đức Giám Mục Giáo phận Ninh Ba, thuộc Tỉnh Chiết Giang, Phanxicô Xaviê Kim Dương Khoa (Jin Yangke, 金阳科)cảnh báo trong lá thư mục vụ mới nhất của ngài.

Trong Thư, Đức Giám Mục “với tình cảm của một mục tử” yêu cầu tất cả các linh mục khẩn cấp cảnh báo cộng đồng của mình về những nguy hiểm của các giáo lý và thực hành do các giáo phái truyền bá, sử dụng ngôn ngữ khải huyền và các công thức có nguồn gốc từ Kitô giáo, tìm cách chiêu mộ tín hữu ngay cả trong các giáo xứ Công Giáo. Trong bối cảnh này, Đức Giám Mục đặc biệt đề cập đến các nhóm được gọi là “Giáo hội Thiên Chúa toàn năng” và “Trời mới Đất mới” và thúc giục cảnh giác chống lại những kế hoạch chiêu dụ tín đồ của họ. Đồng thời, Đức Giám Mục bảo đảm với những người “đã bị lừa dối” rằng “hãy luôn cầu nguyện với Chúa cho anh em, để Người ban cho anh em ơn phân định”. Đức Giám Mục nói thêm rằng “Tôi thúc giục anh em hãy nhận ra những sự thật sai lầm của những giáo lý này, hãy ăn năn và ngay lập tức quay trở lại với đàn chiên mà Chúa Kitô đã quy tụ và thành lập. Giáo phận sẽ phải thực hiện các biện pháp của Giáo hội đối với những người tiếp tục chọn sai lầm”.

Đây không phải là lần đầu tiên các giám mục Trung Quốc được thúc đẩy cảnh báo các linh mục, nữ tu và giáo dân về mối nguy hiểm bị dụ dỗ bởi các phương pháp tuyển dụng của các giáo phái liên tục nhắc đến các sách Thánh Kinh trong tuyên truyền của họ, do đó tạo ra sự nhầm lẫn ngay cả trong số những người Công Giáo. Một số giám mục và linh mục đã báo cáo rằng họ đã bị tống tiền, và đe dọa sau khi yêu cầu các thành viên trong cộng đồng của họ không giao du với các thành viên của các giáo phái ngày càng hung hăng và dai dẳng trong các nỗ lực tuyển dụng những người theo đạo mới trong số những người đã chịu phép rửa tội.

Quay trở lại năm 2012, các nhà lãnh đạo của cộng đồng Công Giáo và Tin lành tại thành phố Hàng Châu đã công bố một Bức thư ngỏ gửi đến các Kitô hữu, vào đêm trước ngày mà những người theo giáo phái “Giáo hội Thiên Chúa toàn năng”, còn được gọi là “Tia chớp phương Đông” đã dự đoán là ngày “tận thế”, vào ngày 21 tháng 12 năm 2012. Vào thời điểm đó, Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc khi đó cũng đã can thiệp, công bố trên Fides một hồ sơ thông tin về những giáo lý sai lệch và các hoạt động thao túng và tống tiền được các nhóm giáo phái sử dụng chống lại các cộng đồng Thiên chúa giáo.

Trong Thư Mục vụ của mình, Đức Cha Kim trích dẫn Bộ Giáo luật (Điều 750 triệt 1) và Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo (đoạn 85), nêu rằng “dựa trên các báo cáo từ giáo dân và các cuộc điều tra của giáo phận, chúng tôi đã xác định rằng các giáo phái như 'Trời Mới và Đất Mới (hay Đền Thờ của Nhà Tạm Chứng Ngôn)' và 'Giáo Hội Thiên Chúa Toàn Năng (hay Tia Chớp Phương Đông)' đã hoạt động gần đây.

Giáo phái Đền Thờ của Nhà Tạm Chứng Ngôn, tiếng Anh là “The Temple of the Tabernacle of the Testimony”, giải thích về cái tên khó hiểu của họ như sau:

“Nhà tạm Chứng ngôn” có nghĩa là nhà tạm làm chứng cho sự ứng nghiệm thể lý của Khải huyền mà người ta đã thấy và nghe. “Đền thờ” có nghĩa là ngôi nhà thánh nơi các thánh đồ thờ phượng Chúa. Nhà tạm Chứng ngôn là đền thờ đã hứa nơi mọi quốc gia đã được chữa lành đến thờ phượng.”

“Những bài phát biểu của họ,” Đức Cha cảnh báo, “có vẻ giống với những bài phát biểu của Giáo hội, nhưng trên thực tế, giáo lý của họ mâu thuẫn với giáo lý của Thánh Kinh và Truyền thống và khiến cuộc sống của chúng ta xa rời Phúc âm của Chúa Kitô.” Đức Cha Phanxicô Xaviê Kim đã trích dẫn đoạn 85 của Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo (trong đó có trích dẫn từ Hiến Chế Tín Lý “Dei Verbum” hay “Lời Chúa” của Công Đồng Vatican II) để nhắc lại rằng “nhiệm vụ giải thích một cách xác thực lời Chúa đã viết hoặc truyền thống chỉ được giao phó cho Huấn Quyền sống động của Giáo Hội - tức là cho các Giám mục hiệp thông với Người kế vị Thánh Phêrô, Giám mục Rôma - những người có thẩm quyền được thực hiện nhân danh Chúa Giêsu Kitô”.

Ở Trung Quốc, có năm tôn giáo được bọn cầm quyền công nhận chính thức là Đạo giáo, Phật giáo, Công Giáo, Tin lành và Hồi giáo. Các giáo phái tôn giáo và những lời dạy thường mang tính khải huyền và thiên niên kỷ của họ tìm thấy mảnh đất màu mỡ, đặc biệt là ở vùng nông thôn Trung Quốc, tập trung vào việc công bố ngày tận thế và lời hứa về sự xuất hiện của các vương quốc cứu thế trên trái đất.

Trong bức thư của mình, Đức Cha Phanxicô Xaviê Kim bác bỏ giáo lý của các giáo phái trong sáu điểm, nhấn mạnh rằng việc họ lợi dụng Kinh thánh chủ yếu tập trung vào các văn bản Sáng thế ký và Khải huyền, cũng như các đoạn trích từ Thư thứ hai của Thánh Gioan và Thánh Phaolô gửi cho dân thành Thessalonica.

Trong một số trường hợp, các thành viên giáo phái đã bị buộc tội và truy tố là thủ phạm của các tội ác và hành vi sai trái. Trong những năm gần đây, nhiều tín hữu của các giáo phái này đã rời khỏi Trung Quốc và chuyển đến Hoa Kỳ, Canada, Úc và di cư đến các nước Liên Hiệp Âu Châu, nơi họ tự coi mình là nạn nhân của sự đàn áp và là người bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Họ cũng ráo riết truyền giáo tại hải ngoại và sự gia tăng số lượng tín hữu của họ trùng hợp với sự gia tăng các nguồn lực kinh tế và vật chất mà họ có thể tiếp cận.

Các giáo phái mới nổi tại Trung Quốc đang thu hút người Công Giáo

Hai giáo phái mới nổi và nhanh chóng thu hút được một số đông các tín hữu tại Trung Quốc là “Giáo hội Thiên Chúa toàn năng”, còn được gọi là “Tia chớp phương Đông” và “Trời mới Đất mới” hay còn gọi là Đền Thờ của Nhà Tạm Chứng Ngôn.

Theo các quan sát viên về Trung Hoa, giáo phái Tia chớp phương Đông xuất hiện ở Trung Quốc vào năm 1991 và bị chính quyền Trung Quốc coi là một “giáo phái tà ác”. Học thuyết trung tâm của nhóm này tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô đã trở lại trái đất trong thời đại của chúng ta và đã đầu thai thành một vị Chúa toàn năng. Theo hầu hết các học giả, người được những người theo giáo phái này xác định là Chúa toàn năng là một người phụ nữ sinh ra ở tây bắc Trung Quốc vào năm 1973, tên là Dương Hướng Bân (Yang Xiangbin, 杨向斌). Người sáng lập giáo phái này Triệu Duy Sơn (Zhao Weishan, 赵维山) là người đã xuất hiện vào cuối những năm 1980 từ các giáo đoàn Tin lành. Năm 2000, Triệu và Dương đã đến Hoa Kỳ, nơi họ xin tị nạn chính trị và bắt đầu lãnh đạo Giáo hội từ New York, trong khi ở Trung Quốc, một số nhà lãnh đạo đã bị cảnh sát bắt giữ.

Như hồ sơ do Fides công bố cho thấy, nhiều tín hữu của nhóm này đến từ các cộng đồng truyền giáo và Giáo Hội Công Giáo, bao gồm cả các nữ tu và linh mục Công Giáo bỏ đạo để gia nhập nhóm này.

Các chiến binh của nhóm tôn giáo này được hòa nhập vào các cộng đồng tôn giáo, “họ áp dụng hành vi mẫu mực trong thực hành Kitô giáo, họ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến việc học hỏi”. Sau khi giành được lòng tin của mọi người, họ thường bắt đầu lan truyền tin tức sai sự thật và vu khống các nhà lãnh đạo cộng đồng, đồng thời sử dụng mạng xã hội cho các chiến dịch bôi nhọ này.

Một trong những chiêu thức phổ biến nhất của họ là mô tả Giáo Hội Công Giáo ở Trung Quốc là một tà giáo. Các linh mục đua nhau tung ra những luận điểm ủng hộ các chính sách của Tập Cận Bình, Kinh Thánh bị xuyên tạc để phù hợp với chủ nghĩa cộng sản trong cái gọi là chính sách Hán Hóa, bao gồm cả việc treo ảnh của Tập Cận Bình ngang hàng với các thánh trong các nhà thờ Công Giáo.

Triển vọng được tị nạn tại Hoa Kỳ dưới danh nghĩa bị bách hại vì tôn giáo cũng là một yếu tố góp phần đáng kể vào việc chiêu mộ các tín hữu.

Chính vì thế, theo các ước tính của bọn cầm quyền Trung Quốc, nhóm này thu hút được ít nhất là 4 triệu tín hữu. Điều đau lòng là trong số các tín hữu của họ, không ít người từng là linh mục, nữ tu và tín hữu Công Giáo.

Nhóm này bị cáo buộc phạm nhiều tội khác nhau, bao gồm vụ giết người được quay phim vào năm 2014 tại một cửa hàng McDonald's ở Chiêu Viễn (Zhaoyuan, 招远) khi một phụ nữ trẻ bị sáu tín hữu sát hại.

Giáo phái thứ hai là giáo phái “Trời Mới Đất Mới”.

Nhóm này, còn được gọi là Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô, Đền thờ Nhà Tạm Chứng Ngôn hoặc theo tên tiếng Hàn là Shincheonji, được thành lập vào ngày 14 tháng 3 năm 1984 bởi người Nam Hàn Lý Vạn Hy (Lee Man-hee, 이만희), và cũng đang phát triển nhanh chóng ở Trung Quốc, tấn công tuyên truyền chủ yếu vào các Kitô hữu trẻ tuổi, đang làm việc và giàu có ở thành phố Từ Hối (Xuhui, 徐汇) của Thượng Hải. Những người theo đạo này tin rằng Lý Vạn Hy là “người chăn chiên được hứa hẹn” của Tân Ước và chỉ có ông mới nắm giữ chìa khóa để giải thích các ẩn dụ của Sách Khải Huyền. Giáo phái này dạy rằng giáo lý Kitô chân chính đã dần bị cả Giáo Hội Công Giáo và Tin lành làm sai lệch kể từ khi Chúa Kitô đến và “người chăn chiên được hứa hẹn” Lý Vạn Hy được kêu gọi khôi phục lại sự trong sáng ban đầu của giáo lý nguyên thủy. Giáo phái này cũng sử dụng các khóa học nghiên cứu Kinh thánh và các cuộc họp về hòa bình và đối thoại liên tôn do các nhóm phụ tổ chức như một công cụ tuyên truyền. Giáo phái này cũng dạy rằng những người duy nhất sẽ được cứu vào thời điểm Phán xét cuối cùng sẽ là những người theo giáo phái này.

Vào năm 2014, số lượng “chi nhánh” của tổ chức này tại Trung Quốc đã vượt quá 100 và thậm chí còn lan rộng đến các thành phố có dân số một triệu người như Bắc Kinh và Quảng Châu.

Ngay từ ngày 23 tháng 3 năm 2015, Ủy ban Mục vụ Giáo phận Cát Lâm đã ban hành thông cáo cảnh báo về các hoạt động của “Giáo phái Trời Mới Đất Mới”, được nhiều trang web Công Giáo Trung Quốc đăng tải.

Nhóm này đã trở thành tâm điểm chú ý của giới truyền thông quốc tế vào năm 2020, khi một cuộc tụ tập trái phép của những người theo dõi trong thành phố được coi là nguyên nhân gây ra sự lây lan của đại dịch corona virus ở Nam Hàn. (Agenzia Fides, 19 Tháng Chín/2024)

Mikali Nguyễn

unread,
Oct 4, 2024, 9:33:30 PM10/4/24
to alphonsefamily










     Đức Phanxicô đưa “tội chống lại người di cư” vào giáo lý Công giáo 


Trong buổi cầu nguyện sám hối ở Rôma ngày thứ ba 1 tháng 10, Đức Phanxicô đã đưa bảy tội mới vào giáo lý công giáo, trong đó có  “tội chống lại người di cư”.

Phản đối việc nhập cư hoặc người di cư có làm chúng ta thành kẻ có tội không? Trong buổi lễ sám hối ở Rôma ngày thứ ba 1 tháng 10, Đức Phanxicô đã đưa bảy tội mới vào giáo lý công giáo, nhà báo Jean-Marie Guénois của Le Figaro giải thích.

Để mở đầu phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, Đức Phanxicô đã cử hành nghi thức sám hối tối thứ ba 1 tháng 10, ngài xin được tha thứ cho bảy tội này.

Tội chống lại người di cư

Bảy Hồng y lần lượt đọc bảy tội: 

-  Tội chống lại hòa bình, 

-  Tội chống lại tạo vật, chống lại người dân bản địa, chống lại người di cư, 

-  Tội lạm dụng, 

-  Tội chống lại phụ nữ, gia đình, giới trẻ, 

-  Tội dùng học thuyết làm viên đá để ném, 

-  Tội chống lại nghèo đói, 

-  Tội chống lại tính đồng nghị, thiếu lắng nghe, thiếu hiệp thông, thiếu tham gia của tất cả mọi người.


Hồng y Canada Michael Czerny, nổi tiếng với quan điểm tiến bộ, đọc văn bản của Đức Phanxicô viết về tội chống người di cư: “Tôi xấu hổ xin được tha thứ vì đã tham gia vào quá trình toàn cầu hóa với thái độ thờ ơ trước những thảm kịch đang biến các tuyến đường biển và biên giới giữa các quốc gia từ con đường hy vọng thành con đường chết chóc cho rất nhiều người di cư. Giá trị của con người luôn lớn hơn biên giới.”

Đức Phanxicô biến vấn đề di cư thành một trong những ưu tiên hàng đầu của ngài, ngài chỉ trích các chính phủ bảo thủ ở Đông Âu như Hungary của Viktor Orbán, phản đối vấn đề nhập cư, ngài nói đó là ích kỷ và không phải là người tín hữu kitô tốt.

Phát biểu của Giáo Hoàng Francis về 2 đối thủ một là đàn ông, một là đàn bà thì có nghĩa là : kẻ tám lạng, người nửa cân . Bầu bán là do dân Mỹ chọn lựa, cân đo, ai là kẻ làm điều ác ít hơn thì bầu cho người đó, theo lương tâm của mình .
Ngài không có dính dáng trong sự việc ủng hộ cho cho ai cả. 
Ngài chưa bao giờ nói là Ngài ủng hộ cho Ông Trump, hay cho Bà Harris .

Vậy theo giáo lý, 
Hỏi: Lương tâm là gì?
Thưa: Lương tâm là tiếng của Thiên Chúa nói trong thâm tâm của mình.

Vậy khi mình bầu cho kẻ chủ tâm giết thai nhi để lấy được nhiều phiếu của đám thiếu nữ , phụ nữ chủ trương : thân xác này là của tôi, tôi có quyền trên nó, tôi có quyền phá thai... Thì đó có phải là tiếng của Thiên Chúa nói cho mình không? 

Còn về chuyện bảo rằng không đón nhận dân nhập cư bất hợp pháp (xâm chiếm?) là một cái tội, thì  không phải là chỉ có TT Trump phạm cái tội này mà tất cả các chính phủ và dân chúng toàn thế giới, kể cả quốc gia thành Vatican, cũng phạm tội này ! 

Đối với các quốc gia Âu châu, ai cũng chán ngán với lớp người "xâm lược bất hợp pháp" nầy.  Họ đã thấy hiểm họa mất nước, mất nền văn hóa và tôn giáo truyền thống của họ vào tay của đám dân đang "xâm chiếm bất hợp pháp" này.  Đã có nhiều cuộc biểu tình đòi  "trả lại đất nước của chúng tôi !" 
Riêng hai nước Ba lan và Hung Gia Lợi, họ đã nhất quyết không nhận lớp dân bất hợp pháp này. 

Tại Hoa kỳ, chuyện có một đảng chính trị chủ trương mở cửa biên giới đón nhận di dân bất hợp pháp, không phải là vì đảng nầy nhân đạo mà đây là âm mưu thâm độc, có chủ đích của đảng đó nhằm kiếm phiếu từ lớp dân "xâm lược"  nầy, hầu có thể luôn được chiến thắng trong mọi cuộc bầu cử, bất chấp điều nầy ảnh hưởng không tốt đến đời sống của người dân lương thiện tại Mỹ.

Đại đa số đám dân "xâm lược" này là những thanh niên trai tráng khỏe mạnh và có nhiều tiền để trả cho cuộc hành trình của họ (riêng 
bọn dẫn đường và bọn buôn người, thì tha hồ mà hốt dollars !!)

Điều cần làm là các quốc gia giàu có trên thế giới nên hợp sức để giúp đở các quốc gia mà tình trạnh nghèo đói đang lên đến mức báo động, hoặc phải khiển trách các quốc gia có chính sách không đúng đã khiến dân chúng của họ phải bỏ nước ra đi , hơn là lên án những người không muốn tiếp nhận lớp dân tứ phương đến xâm chiếm bất hợp pháp đất nước của họ.  

Còn đối với quốc gia thành Vatican, Giáo hoàng Francis có nên rước những người xâm lược bất hợp pháp nầy vào định cư để làm gương sáng cho mọi quốc gia trên thế giới không ?




Đức Thánh cha gặp gỡ 17 nạn nhân bị lạm dụng tại Bruxelles


Chiều thứ Sáu, ngày 27 tháng Chín, sau khi từ Đại học Leuven trở về Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Bruxelles, Đức Thánh cha Phanxicô dành hai tiếng đồng hồ để gặp gỡ và lắng nghe 17 nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tính dục.

Cuộc gặp gỡ này đã được Hội đồng Giám mục Bỉ loan báo trong những ngày trước đó, nhưng không chính thức xác định. Trong diễn văn hôm 27 tháng Chín trước chính phủ và các tầng lớp xã hội của Bỉ, Đức Thánh cha cũng đã lên án những vụ lạm dụng ấy.

Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết trong cuộc gặp gỡ, các nạn nhân đã kể với Đức Thánh cha những đau khổ của họ và họ mong đợi Giáo hội dấn thân chống lại những vụ lạm dụng.

Đức Thánh cha đã lắng nghe và bày tỏ sự gần gũi với đau khổ của họ, cũng như cám ơn vì sự can đảm của họ. Đức Thánh cha nói lên tâm tình tủi hổ vì những gì họ đã chịu khi còn nhỏ vì các linh mục đã được ủy thác chăm sóc họ. Ngài ghi nhận những thỉnh cầu của họ để có thể cứu xét.

Sau cuộc gặp gỡ với Đức Thánh cha, một vài nạn nhân đã họp với giới báo chí, trong số này có ông Jean Marc Turine, tác giả một cuốn sách, trong đó ông kể lại mình đã bị bốn linh mục lạm dụng từ năm 13 tuổi, và sau đó tại trường thánh Micae ở Bruxelles. Ông kể: tình trạng bị lạm dụng đã đưa đẩy ông rơi vào nạn nghiện rượu. Ông nói: “Tôi không được bình an, nhưng tôi đã thấy một người rất tử tế, thông minh và đó là điều tôi chờ đợi nơi ngài.

Ông đã nói với Đức Giáo hoàng như một người lắng nghe và đã thấy ngài là một người cảm thương, một người đồng cảm”.

Còn bà Anne Sophie thì cho biết đã có ấn tượng mành vì thấy Đức Giáo hoàng xúc động, trong khi lắng nghe điều bà kể lại. Sau cùng, chính Đức Thánh cha xin lỗi chúng tôi. Ngài đã nói một điều rất quan trọng, đó là những tội ác này không thể rơi vào thời hiệu. Và các linh mục là những người trách nhiệm khi lạm dụng xảy ra, nhưng nếu giám mục biết mà không làm gì thì cả giám mục cũng phải chịu trách nhiệm”.





Kết thúc một ngày trọn vẹn trên đất Bỉ vào thứ Sáu, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp gỡ một nhóm những nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tính dục.

Đức Giáo Hoàng lên án hành vi lạm dụng 'đáng xấu hổ' trong bài phát biểu trước chính quyền Bỉ

Vào cuối một ngày trọn vẹn của chuyến tông du Bỉ, Đức Phanxicô đã gặp gỡ 17 nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng...

Một tuyên bố do Văn phòng Báo chí Tòa thánh công bố qua Telegram vào tối thứ Sáu lưu ý rằng cuộc gặp diễn ra sau khi ngài trở về Tòa Sứ thần Tòa thánh, nơi ngài lưu trú tại Brussels.

"Cuộc gặp gỡ kéo dài hơn hai giờ, đã tạo cơ hội cho các nạn nhân chia sẻ những câu chuyện riêng tư và nỗi khổ của họ với Đức Thánh Cha, cũng như bày tỏ hy vọng của họ về những nỗ lực liên tục của Giáo hội trong cuộc chiến chống lại tệ nạn lạm dụng", tuyên bố cho biết.

Văn phòng Báo chí Tòa thánh cũng cho hay rằng “Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lắng nghe chăm chú những trải nghiệm của họ, và bày tỏ sự gần gũi của mình với nỗi đau của họ”.

“Ngài bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với lòng dũng cảm của họ và bày tỏ cảm giác xấu hổ sâu sắc của mình về những hành vi lạm dụng mà họ phải chịu khi còn nhỏ dưới bàn tay của các linh mục được cho là kẻ bảo vệ họ”, tuyên bố nói thêm.

Kết luận, tuyên bố tiết lộ rằng “Đức Thánh Cha ghi nhận những yêu cầu mà họ trình bày để nghiên cứu thêm”.

Cuộc họp kết thúc trước 9:00 tối giờ địa phương.
                               

Đức Thánh cha trả lời phỏng vấn trên máy bay từ Bỉ trở về Roma


Trong cuộc họp báo trên chuyến bay, dài gần hai tiếng đồng hồ, từ thủ đô Bruxelles của Bỉ về Roma, Đức Thánh cha Phanxicô đã lên án sự thiếu tương ứng trong cuộc tấn công của Israel tại Liban là điều vô luân, tái lên án việc phá thai là giết người, và ngài bác bỏ xu hướng “nam giới hóa phụ nữ trong Giáo hội”.

Phá thai

Trả lời câu hỏi về việc làm án phong chân phước cho Vua Baudouin của Bỉ, đã can đảm thoái vị trong 36 tiếng đồng hồ để khỏi ký nhận dự luật cho phá thai, đã được quốc hội Bỉ thông qua trước đó, Đức Thánh cha nói: “Qua việc làm này, nhà vua đã nói lên một sứ điệp, và ông làm như thế vì ông là một thánh nhân. Nhân vật ấy là một vị thánh và tiến trình phong chân phước sẽ tiến hành, vì vua đã cho tôi bằng chứng về điều đó”.

Nữ ký giả nói đến quyền của phụ nữ có một cuộc sống không đau khổ, nhưng Đức Thánh cha nói: “Phụ nữ có quyền sống: sự sống của họ và sự sống của các con. Chúng ta đừng quên nói điều này: phá thai là giết người. Khoa học nói rõ điều này: trong tháng mới hoài thai, thai nhi đã có tất cả các cơ phận... Vì thế, giết thai nhi ấy là giết người và những bác sĩ nào thực hành phá thai là những sát nhân, những thích khách (sicari). Họ là những kẻ giết người! Về điểm này không thể tranh luận. Người ta giết một mạng sống con người. Và các phụ nữ có quyền bảo vệ sự sống. Các phương pháp ngừa thai là chuyện khác. Chúng ta đừng lẫn lộn. Ở đây, tôi chỉ nói về phá thai. Về điều này không thể tranh luận, đó là sự thật”.

Lạm dụng tính dục

Một ký giả đài truyền hình tiếng Flamand-Hòa Lan hỏi Đức Thánh cha về vấn đề lạm dụng tính dục và đề nghị có một bộ ở Vatican, một bộ độc lập để đương đầu với tai ương này trong Giáo hội và để phục hồi sự tín nhiệm của các tín hữu. Đức Thánh cha đáp:

“Đã có một cơ quan ở Vatican đối phó với vấn đề này rồi. Cơ quan này có một cơ cấu và chủ tịch là một giám mục người Colombia, để xử lý các vụ lạm dụng. Có một ủy ban do Đức Hồng y O’Malley thành lập và các cơ quan này đang hoạt động tốt: họ nhận tất cả đơn về các vụ được báo về Vatican, và thảo luận. Tại Vatican, tôi cũng tiếp những người bị lạm dụng, và tôi khích lệ để họ tiến bước”.

Đức Thánh cha nói thêm rằng: Một số người nói: thống kê cho biết có từ 40% đến 46% những vụ lạm dụng xảy ra trong gia đình và khu xóm, và chỉ có 3% trong Giáo hội. Nhưng tôi không quan tâm đến những vụ ở ngoài, mà quan tâm đến những vụ trong Giáo hội. Chúng tôi có trách nhiệm giúp những người bị lạm dụng và chăm sóc họ. Một số người cần chữa trị tâm lý. Và người ta nói đến việc bồi thường, vì trong luật dân sự cũng có. Trong dân luật tôi nghĩ có việc bồi thường 50.000 Euro ở Bỉ, quá thấp. Đó không phải là một điều hữu ích. Có con số đó nhưng tôi không chắc chắn. Chúng ta phải chăm sóc những người bị lạm dụng và trừng phạt những kẻ lạm dụng, vì lạm dụng không phải là một tội nay mới có và có lẽ mai sẽ không còn là tội nữa. Đó là một xu hướng, một thứ bệnh tâm lý và vì thế, chúng ta phải đưa thủ phạm đi chữa trị và kiểm soát họ. Không thể để một người lạm dụng tự do trong đời sống bình thường, với trách nhiệm trong các giáo xứ và trong các trường học. Một số giám mục có những linh mục đã lạm dụng, thì sau khi xét xử và lên án, các vị giao cho các linh mục ấy làm các công việc, ví dụ trong thư viện, mà không có những tiếp xúc với các trẻ em trong các trường học, giáo xứ. Nhưng chúng ta phải tiến bước, tôi đã nói với các giám mục Bỉ đừng sợ và tiếp tục tiến bước. Điều xấu hổ là che đậy, che đậy mới đúng là điều xấu hổ”.

Tình hình Liban

Một ký giả truyền hình Mỹ hỏi Đức Thánh cha về cuộc chiến tranh tại Liban: sáng ngày 29 tháng Chín, các bom nặng 900kg đã được Israel dùng để giết Nasrallah, thủ lãnh nhóm Hezbollah. Có hơn 1.000 người tản cư và bao nhiêu người thiệt mạng. Phải chăng người ta có thể giải quyết vấn đề như thế? Đức Thánh cha có sứ điệp nào cho những người ở đó?

Đức Thánh cha trả lời rằng “Sự phòng vệ phải luôn tương ứng với cuộc tấn công. Khi có gì không tương ứng, thì người ta tỏ ra một xu hướng thống trị đi quá luân lý. Một nước, với sức mạnh làm những điều đó, tôi nói là bất cứ nước nào thi hành điều đó một cách kiêu căng, thì đó là những hành động vô luân. Cả trong chiến tranh cũng phải tuân giữ luân lý. Chiến tranh là vô luân, nhưng những quy luật của chiến tranh bao hàm một luân lý nào đó. Khi người ta không giữ như vậy, thì đó là tình trạng như chúng tôi ở Argentina vẫn nói, đó là “xấu máu”.

Vai trò phụ nữ trong Giáo hội

Về vấn đề vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, Đức Thánh cha bác bỏ quan niệm nữ quyền chủ trương “nam giới hóa” phụ nữ trong Giáo hội và đòi truyền chức thánh cho phụ nữ. Ngài nói: “Quan niệm nữ quyền thái quá là điều không ổn. Trong Giáo hội, phụ nữ lớn hơn thừa tác vụ linh mục và đây là điều nhiều khi người ta không nghĩ tới. “Phụ nữ bình đẳng với người nam, đúng hơn trong đời sống Giáo hội phụ nữ cao trọng hơn, vì Giáo hội là nữ. Về thừa tác vụ thì sự thần bí của phụ nữ thì cao hơn thừa tác vụ. Có một đại thần học gia đã nghiên cứu về vấn đề này: ai cao trọng hơn, thừa tác vụ Phêrô hay thừa tác vụ Maria? Thừa tác vụ Maria cao trọng hơn, vì đó là một thừa tác vụ hiệp nhất, can dự vào, còn thừa tác vụ Phêrô là thừa tác vụ dẫn đường. Chức phận làm mẹ của Giáo hội là tình mẫu tử của phụ nữ. Thừa tác vụ là điều nhỏ bé hơn nhiều, vì nó là để đồng hành với các tín hữu, luôn ở trong tình mẫu tử. Có nhiều thần học gia khác đã nghiên cứu về điều này, và nói đó là một điều thực tế. Tôi không nói là điều tân tiến, nhưng là điều thực tế, không cổ xưa”.

Vào ngày 7/10/2023, Hamas đã bất ngờ tấn công vào các làng ở phía nam Israel gần biên giới Gaza khi người dân Israel đang mừng lễ Sukkot và mất cảnh giác. Hamas đã sát hại 1.200 thường dân Israel và bắt cóc 251 người. Sau đó, Israel đã đáp trả bằng các cuộc tấn công vào Gaza và cuộc chiến vẫn đang kéo dài cho đến nay, khiến cho hơn 40.000 người Palestine thiệt mạng.

Bên cạnh đó, tình hình chiến tranh giữa Lebanon và bắc Israel ngày càng căng thẳng với những cuộc tấn công bằng bom và bắn hỏa tiễn qua lại giữa hai bên khi Hezbollah ở Lebanon tuyên bố ủng hộ người Palestine. Cuộc tấn công hôm 23/9/2024 của Israel khiến ít nhất 558 người Lebanon thiệt mạng, trong đó có 50 trẻ em và 94 người lớn, cùng với gần 2.000 người bị thương.

Kitô hữu có nhiệm vụ dấn thân vì hòa bình

Trong thư đề ngày 26/9/2024 gửi đến các tín hữu thuộc Tòa Thượng phụ Giêrusalem, Đức Hồng y Pizzaballa viết: “Tháng 10 đang đến gần và cùng với đó là nhận thức rằng trong năm qua, Thánh Địa, và không chỉ nó, đã bị nhấn chìm vào vòng xoáy bạo lực và hận thù chưa từng thấy hoặc từng trải qua trước đây”.

Kể từ khi cuộc chiến bùng nổ, Đức Hồng y Thượng phụ Giêrusalem đã không ngừng kêu gọi hòa bình và ngừng bắn trong vùng. Trong thư, Đức Hồng y nói rằng các tín hữu phải tiếp tục kêu gọi các lãnh đạo tái dấn thân cho công lý, tự do, phẩm giá và hòa bình. Ngài nói rằng Kitô hữu chúng ta có nhiệm vụ dấn thân vì hòa bình, bằng cách giữ cho lòng mình tránh khỏi các tâm tình thù hận và nuôi dưỡng mong muốn tốt đẹp cho mọi người, trợ giúp những người thiếu thốn, hỗ trợ các cá nhân để giảm bớt đau khổ cho những người bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến này và thúc đẩy mọi hành động vì hòa bình, hòa giải và gặp gỡ.

Đức Hồng y Pizzaballa nhắc các tín hữu trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi, ngày 7/10, “bằng chuỗi Mân Côi hoặc bất kỳ hình thức nào mà chúng ta thấy phù hợp, cách cá nhân nhưng tốt hơn là trong cộng đoàn, hãy dành thời gian dừng lại và cầu nguyện, và dâng lên ‘Cha nhân từ và Thiên Chúa của mọi sự an ủi’ (2 Cr 1,3) ước muốn hòa bình và hòa giải của chúng ta”.





Đức Hồng y Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ Công giáo Latinh Giêrusalem

Ngày 07 tháng Mười tới đây: Ngày ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình tại Thánh địa


Đức Hồng y Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ Công giáo Latinh ở Jerusalem, đã ấn định thứ Hai, ngày 07 tháng Mười tới đây là ngày ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình tại Thánh địa.




Ngày 07 tháng Mười là kỷ niệm đúng một năm lực lượng Hamas đã tấn công khủng bố vào Israel, sát hại hơn 1.200 người và làm cho xung đột bùng nổ, kéo theo các cuộc tàn sát của Israel tại Gaza và nay đến Liban.

Trong thư gửi toàn giáo phận thuộc quyền ở Israel, Palestine, Gaza, Cipro và Giordani, Đức Hồng y Pizzaballa viết: “Tháng Mười đến gần, qua đó, ý thức rằng từ một năm nay, Thánh địa và cả nơi khác, lâm vào cái vòng bạo lực và oán ghét chưa từng có. Trong mười hai tháng này, chúng ta đã chứng kiến những thảm kịch, với cường độ và ảnh hưởng, đã xâu xé lương tâm và cảm thức về tình người của chúng ta một cách sâu đậm. Một lần nữa, các nhà cầm quyền và những người có trách nhiệm hệ trọng trong việc quyết định, cần dấn thân cho công lý, tôn trọng quyền tự do của mỗi người, phẩm giá và hòa bình”.

“Vì thế, tôi mới gọi cử hành một ngày cầu nguyện, ăn chay, thống hối vào ngày 07 tháng Mười tới đây, ngày này trở thành biểu tượng của thảm kịch chúng ta đang sống. Tháng Mười cũng là Tháng Đức Mẹ, và ngày 07 tháng Mười, chúng ta mừng kính Đức Mẹ Mân côi. Mỗi người, với kinh Mân côi hoặc với những hình thức mà mình thấy là thích hợp, cá nhân hoặc với cộng đoàn, hãy tìm một lúc để dừng lại và cầu nguyện, dâng lên Cha thương xót và là Thiên Chúa của mọi an ủi” (2 Cr 1,3), ước muốn hòa bình và hòa giải của chúng ta”.

Cuối lá thư, Đức Hồng y cũng phổ biến một bản kinh do ngài soạn thảo để đọc trong dịp này.

Thánh tích máu của Thánh Phanxicô được mang đến Đất Thánh trong một cuộc hành hương để cầu nguyện cho hòa bình

Rome theo Thông tấn xã Fides - "Sau 800 năm, máu Thánh Phanxicô được đưa trở lại Đất Thánh để cầu nguyện cho các địa danh linh thiêng trong một thời điểm khó khăn, tương tự như thời Thập tự chinh xưa kia, với mong muốn xây dựng những cây cầu kết nối hòa bình." Đây là lời phát biểu của Cha Matteo Brena, Ủy viên Đất Thánh của Dòng Anh Em Hèn Mọn ở Tuscany và là điều phối viên của Ủy ban kỷ niệm 800 năm ngày Thánh Phanxicô được in dấu thánh.

Thông báo cho hay từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 5 tháng 10, cùng với 10 anh chị em khác, gồm các tu sĩ và giáo dân, cha sẽ mang thánh tích máu của Thánh Phanxicô thành Assisi đến Đất Thánh, trong lúc chiến tranh đang hoành hành và người dân ở những vùng đất bất ổn này đang phải chịu những đau khổ, sợ hãi, tang tóc và bấp bênh.

Cha Matthew cho hay: "Chúng tôi lên đường, với một khát vọng lớn lao trong lòng: trở thành "phần còn sót lại nhỏ bé" biết cách trở thành người mang đến, trong tình hình bi thảm mới này cho Trung Đông, một dấu chỉ an ủi và một lời hy vọng. Từ những vết thương, một cuộc sống mới" là khẩu hiệu của lễ kỷ niệm tám trăm năm ngày Thánh Phanxicô được in năm dấu thánh; và chúng tôi, bằng cách mang đến Jerusalem và Bethlehem thánh tích máu của Người, chảy ra từ các dấu đanh của cuộc khổ nạn trên cơ thể Người, cố gắng nói với những anh chị em đó đây rằng có thể sống trong những vết thương với hy vọng và với mong ước cho tương lai."

Phái đoàn, bao gồm bốn tu sĩ và sáu giáo dân, bao gồm đại diện của Thanh niên Phanxicô và Dòng Phanxicô Thế tục, sẽ đi về Jerusalem và Bethlehem để mang thánh tích đến cho các cộng đoàn Kitô giáo trong khu vực, gặp gỡ người dân địa phương và thăm một số địa điểm biểu tượng của những cam kết của những người Kitô giáo nhằm bình thường hóa vùng đất nơi Chúa Giêsu đã sống.

Một trong những điểm nhấn của chuyến đi sẽ diễn ra vào ngày 2 tháng 10: sự kết hợp giữa Vương cung thánh đường Gethsemane, một nơi lưu giữ ký ức về những giờ phút bi thảm của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, và Đền thờ La Verna sẽ được phê chuẩn. Sự kết hợp này cũng sẽ phê chuẩn mối liên kết giữa hai nơi thánh. Buổi lễ sẽ diễn ra với sự hiện diện của Cha Francesco Patton, Giám quản Đất Thánh, và cha Livio Crisci, Giám tỉnh Tỉnh Dòng Phanxicô ở Tuscany.

"Năm nay," cha Brena nói thêm, "Nhà thờ Gethsemane đã tròn một trăm năm tuổi kể từ khi được xây dựng vào năm 1924, cùng với Nhà thờ Chúa Biến hình, do kiến trúc sư người Ý Antonio Barluzzi, người đã mất năm 1960 tại Rome trong tu viện đặc trách về Đất Thánh, thiết kế. Do đó, chúng tôi cũng sẽ tham gia vào các sáng kiến của lễ kỷ niệm một trăm năm này."

"Hiệp nhất trong lời cầu nguyện, chúng ta hãy đồng hành cùng anh chị em trong cuộc hành hương Jerusalem và Bethlehem", các Hội dòng Phanxicô trên khắp nước Ý cùng hiệp thông.

800 năm trước, vào tháng 9 năm 1224, Thánh Phanxicô Assisi đã được in Dấu Thánh trên núi La Verna, gần Arezzo. Vào dịp đó, ngài đã trở nên giống Chúa Kitô chịu đóng đinh và một phần áo dòng của ngài, thấm đẫm máu cạnh sườn, đã trở thành một thánh tích quan trọng, một chứng tích vĩnh cửu về sự kiện đó, được Dòng Phanxicô cẩn thận lưu giữ. (Theo Thông tấn xã Fides, 28/9/2024)


Các Giám Mục Đức trước Thượng Hội đồng Giám Mục và Giáo Hội Trung Đông

image.png

Trong khóa họp mùa thu từ 23 đến 26/9/2024 tại Thành phố Fulda, nơi có mộ của thánh Bonifaxio, bổn mạng của dân tộc Đức, ngoài các vấn đề thuộc Giáo hội địa phương như về việc mục vụ cho các cảnh sát và cử hành Năm Thánh 2025, HĐGM Đức còn đặc biệt bàn về khóa hai của Thượng HĐGM vào tháng 10 sắp tới tại Roma và về tình hình Giáo hội tại Trung Đông.

Bầu không khí khác biệt

Khóa họp này tương đối yên hàn so với khóa họp mùa xuân hồi tháng 2 năm nay tại thành phố Augsburg. Hồi đó, vài ngày trước khóa họp, 3 vị Hồng Y của Tòa Thánh gồm ĐHY Quốc vụ khanh Pietro Parolin, ĐHY Victor Manuel Fernández Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin và ĐHY Robert Prevost, Tổng trưởng Bộ GM, đã gửi thư yêu cầu các GM Đức đừng bỏ phiếu chấp thuận việc thành lập Ủy ban Con đường công nghị (Synodal Ausschuss) để tiến tới Hội đồng Con đường Công nghị (Synodalrat), một cơ quan tân lập trong đó các giáo dân cùng với các GM cùng nhau điều hành Giáo Hội tại Đức, một điều trái với đạo lý và kỷ luật của Giáo Hội.

Chương trình nghị sự

Trong khóa họp vừa qua, 61 GM thuộc 27 giáo phận tại Đức bàn về Thượng HĐGM thế giới: có 6 GM Đức tham dự công nghị này, đứng đầu là Đức Cha Chủ tịch Georg Baetzing và có cả Đức Cha Bohdan Dzyurakh, đặc trách các tín hữu Công Giáo Ucraina nghi lễ đông phương tại Đức và Bắc Âu. Các GM cũng bàn về tài liệu làm việc của Thượng HĐGM về hiệp hành, trong đó những đề nghị nào được 2 phần 3 số phiếu chung kết thì sẽ được đệ lên ĐTC. Điểm mới ở đây là không phải chỉ có các nghị phụ nhưng cả các “nghị mẫu” thuộc số 368 người tham dự Thượng HĐGM với quyền bỏ phiếu. Tuy nhiên những vấn đề “nóng bỏng”, như luật độc thân linh mục, hoặc truyền chức cho phụ nữ đã bị đưa ra khỏi khóa họp vì ĐTC đã thành lập 10 nhóm nghiên cứu về các vấn đề này, và chỉ có 1 bản tường trình cho Thượng HĐGM.

Các GM Đức cũng quan tâm đến tình hình Giáo Hội tại Trung Đông đang sống trong những cuộc xung đột như tại Gaza và Liban với Israel. ĐHY Pierbattista Pizzaballa, Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Jerusalem, được mời đến để thông tin và trao đổi với các GM Đức.

Đức Sứ thần Tòa Thánh kêu gọi các GM Đức

Trong buổi khai mạc khóa họp, 23/9, Đức TGM Nikola Eterovic, người Croát, Sứ thần Tòa Thánh tại Đức, đã đến chào thăm các GM Đức, đồng thời cũng nói lên lập trường và mong ước của Tòa Thánh. Ngài kêu gọi các GM nước này đẩy mạnh việc loan báo Tin Mừng và đào sâu đức tin.

Đức TGM Eterovic nói: “Khóa hai của Thượng HĐGM sắp khai diễn và Năm Thánh 2025 đến gần là thời điểm đặc biệt để củng cố đức tin của mọi tín hữu, bắt đầu từ chính chúng ta. Nếu không có đức tin sinh động nơi Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần, thì những toan tính cải tổ Giáo Hội sẽ không thành công và những canh tân cơ cấu Giáo Hội đều không có ý nghĩa... Chúng ta cần liên tục đón nhận ơn Chúa và tiếp tục là những tín hữu hạnh phúc vì đức tin lan tỏa trong toàn Giáo Hội và thế giới, để những lời khiển trách của Chúa Giêsu chống những người biệt phái và kinh sư vì khép cửa Nước Trời khỏi áp dụng cho chúng ta”.

Đức TGM Eterovic đã chuyển lời chào thăm của ĐTC đến các GM Đức, và sự khích lệ của Người hãy tiếp tục sứ mạng Loan báo Tin Mừng với một lòng hăng say mới mẻ, và thăng tiến con người trong thời đại ngày nay có nhiều thách đố, trong số những thách đố này có liên hệ tới sự thiếu đức tin một cách tỏ tường”.

Đức Sứ Thần Tòa Thánh nhắc lại rằng cách đây 5 năm (2019) trong thư (19 trang) gửi Cộng đoàn Dân Chúa tại Đức khi Giáo Hội tại nước này chuẩn bị tiến hành Con đường Công nghị để cải tổ sau những vụ lạm dụng tính dục trẻ thành niên trong quá khứ, ĐTC cũng đã bày tỏ đau buồn vì sự suy giảm đức tin ngày càng lan tràn. Đức TGM nói: “Từ đầu triều đại Giáo Hoàng, ĐTC Phanxicô đã cam kết củng cố mọi thành phần Giáo Hội trong đức tin và khích lệ các Kitô hữu sống đức tin một cách không mệt mỏi, khám phá sự phong phú trong đức tin và thông truyền cho những người khác, trước hết bằng cuộc sống chứng nhân, nhưng nếu cần cả bằng lời nói và những phương thế thích hợp. Sự loan báo Tin Mừng dẫn chúng ta tái khám phá niềm vui đức tin, niềm vui vì được làm Kitô hữu”.

Trong thư năm 2019 mà chính ĐTC mất 1 tháng để tự soạn thảo, ngài cũng mời gọi các GM Đức hãy quan tâm hiệp nhất với Giáo Hội hoàn vũ và tiêu chuẩn hướng dẫn cuộc canh tân Giáo Hội phải là để loan báo Tin Mừng.

Lập trường các Giám Mục Đức tại Thượng HĐGM thế giới

Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí hôm thứ tư 24/9, bên lề khóa họp của HĐGM Đức, 5 GM đại biểu của HĐGM Đức cho biết trong khóa họp này cũng nói về vấn đề trong tương lai các HĐGM có thể có tự do quyết định về vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ hay không. Các vị không có lập trường đồng nhất:

Đức Cha Franz-Josef Overbeck, GM giáo phận Essen, nổi tiếng là cấp tiến, cho biết đứng trước những khác biệt về văn hóa và xã hội trong các Giáo Hội địa phương, có thể có những quy luật khác biệt về sự bình đẳng hóa phụ nữ. Vì thế, Thượng HĐGM thế giới có thể cho các HĐGM quốc gia tự do quyết định về vấn đề truyền chức cho phụ nữ. Tuy nhiên Đức cha nói thêm ngay rằng: “Đề nghị này có thể là quá sớm hiện nay. Nó chỉ có thể khi người ta thấy rõ đây sẽ không phải là một sự mâu thuẫn phá vỡ tình hiệp nhất của Giáo Hội”.

- Một đại biểu khác là Đức Cha Georg Baetzing, Chủ tịch HĐGM Đức, cũng thuộc khuynh hướng cấp tiến, nhận định rằng sự tham gia của phụ nữ vào mọi cấp độ và lãnh vực của đời sống Giáo Hội là vấn đề quan trọng quyết định đối với tương lai của Giáo Hội Công Giáo. Ngài nói: “Tôi rất mong muốn các phụ nữ có thể được chịu chức phó tế”. Vấn đề này trong tương lai phải được địa phương quyết định trong tinh thần tản quyền về địa phương.

Đức Cha Bertram Meier, GM giáo phận Augsburg, có một lập trường khác. Theo Đức Cha, vấn đề cho phụ nữ chịu chức phó tế hoặc LM hiện nay là điều không có thể, vì Tông thư “Ordinatio Sacerdotalis” (Truyền Chức LM) do ĐGH Gioan Phaolô 2 ban hành, vẫn còn hiệu lực bó buộc. Trong văn kiện đó, Đức Thánh Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng Giáo Hội không có năng quyền truyền chức cho phụ nữ.

Về Thượng HĐGM thế giới, Đức Cha Meier nhận định rằng xác tín nòng cốt của Con đường công nghị thế giới là Giáo Hội không được điều khiển bằng những quyết định đơn độc do những người được quyền từ trên xuống dưới. Đúng hơn là sự tham gia, minh bạch và cởi mở, trách nhiệm trong các quyết định.

- Đại biểu thứ tư của các GM Đức là Đức Cha Felix Genn, GM giáo phận Muenster. Ngài cho giới báo chí biết rằng ngài muốn làm sao để Thượng HĐGM có một hướng đi rõ ràng: “Các vấn đề nêu lên cần có những câu trả lời. Một cuộc thảo luận minh bạch là điều quan trọng, kể cả những vấn đề được chuyển cho các nhóm nghiên cứu, như vấn đề bình quyền của phụ nữ”.

Đức Cha Genn là điều hợp viên của 1 trong 10 nhóm được ĐTC ủy thác nghiên cứu về những vấn đề các quyền và việc bầu các GM.

- Sau cùng, Đức Cha Stefan Oster, dòng Don Bosco, GM giáo phận Passau, vốn bênh vực đạo lý và kỷ luật truyền thống của Giáo Hội, thì nhắc lại cơ cấu phẩm trật căn bản của Giáo Hội, dành quyền quyết định nòng cốt dành cho ĐGH và các GM. Vì thế, Thượng HĐGM thế giới sẽ thảo luận về “sự hội nhập của Giáo Hội hiệp hành và đồng thời là Giáo Hội phẩm trật”. Điều chủ yếu là một cuộc khởi hành mới và một đường lối mới “cùng với nhau là Giáo Hội”.

Quan tâm của các GM Đức về Giáo Hội tại Trung Đông

Về tình hình Giáo Hội tại Trung Đông, có 3 vị đã trình bày lập trường trong cuộc họp báo hôm 25/9, cuối khóa họp vừa qua của HĐGM Đức.

ĐHY Pierbattista Pizzaballa và Đức Cha Meier

Trước hết là Pizzaballa, Thượng Phụ Công Giáo la tinh ở Giêrusalem, kêu gọi tìm giải pháp chính trị cho cuộc xung đột hiện nay ở Trung Đông.

ĐHY nhận xét rằng hiện nay thiếu những sáng kiến từ phía các cộng đoàn tôn giáo ở Trung Đông liên quan đến cuộc xung đột hiện nay. Ngài nói: “Ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ, trong những tháng gần đây người ta không nghe thấy những lần lên tiếng, suy tư hoặc cầu nguyện từ phía các vị lãnh đạo tôn giáo khác biệt với những lãnh đạo chính trị hoặc xã hội”.

ĐHY cho biết ngài có cảm tưởng mỗi vị lãnh đạo tôn giáo chỉ nói lên lập trường phải ánh quan điểm của cộng đoàn của mình, thường là chống lại cộng đoàn khác.”

HĐGM Đức cũng kêu gọi ngưng bắn tại Gaza và phê bình chính phủ Israel. Chủ tịch Ủy ban GM Đức về Giáo Hội hoàn vũ, Đức Cha Bertram Meier, GM giáo phận Augsburg, ví các cuộc oanh kích của Israel tại Gaza như các cuộc tấn công khủng bố.

Đức Cha Meier nhắc đến vụ Hamas tàn sát dã man hơn 1.200 người Israel ngày 7/10 năm ngoái, trong đó đa số là người Do thái. Tuy nhiên sự trả đũa của Israel về mặt quân sự không tương ứng, gây ra vô số các nạn nhân và thảm trạng nhân đạo tại Gaza.

ĐHY Pizzaballa kêu gọi cần thận trọng hơn trong ngôn ngữ, vì “ngôn ngữ đầy bạo lực, gây hấn, oán ghét và khinh rẻ, bác bỏ và loại trừ không giữ một vai trò phụ thuộc trong cuộc chiến tranh này, nhưng nó là một trong những phương thế chính của cuộc chiến này và nhiều cuộc chiến khác”. Oán ghét thường xuất hiện trên các mạng xã hội. Theo ĐHY, những kiểu nói phủ nhận nhân tính của người khác là một hình thức bạo lực có thể tạo thêm những bạo lưc khác vì có những kiểu nói có thể làm thương tổn hơn cả những cuộc thảm sát và bom đạn”.

ĐHY Pizzaballa tỏ ra nghi ngờ về những cuộc thương thuyết để giải thoát các con tin đang bị Hamas cầm giữ. Ngài tin rằng “những dấu hiệu về thành quả của cuộc thương thuyết này rất yếu… không có dấu hiệu chứng tỏ chiến tranh sẽ chấm dứt, và cuộc xung đột không thể được giải quyết với cuộc tấn công của quân đội Israel chống các vị trí của Hezbollah ở Liban, nhưng càng làm cho tình hình trầm trọng hơn. “Bạo lực không phải là giải pháp”, trái lại cần có những giải pháp sáng kiến về chính trị. Tuy nhiên ĐHY không tin rằng giải pháp một quốc gia với Israel và Palestine là điều có thể thực hiện được.

Đức Cha Udo Bentz

Chủ tịch nhóm làm việc của HĐGM Đức về Trung Đông, là Đức Cha Udo Bentz, TGM giáo phận Paderborn, nói trong cuộc họp báo rằng “Cho dù cuộc chấm dứt chiến tranh không có nghĩa là hòa bình, nhưng vẫn cần ngưng chiến càng sớm càng tốt, và làm cho tình hình lắng dịu, để thương thuyết và đối thoại, chẳng vậy, các cuộc thảm sát tiếp tục và cái vòng bạo lực càng gia tăng mau lẹ hơn”. Bênh vực an ninh của Israel cũng giúp ích cho người Palestine. Ngược lại, bảo vệ các quyền của người Palestine, cũng giúp cho an ninh của Israel.

Đức TGM Udo Bentz mạnh mẽ tố giác tình trạng nhân đạo ở Gaza: hàng trăm ngàn người đang bị nạn đói đe dọa, hơn 85% dân Gaza đang phải di tản. Họ thiếu nước uống, lương thực và thuốc men. Đức TGM kêu gọi nhân dân Đưc tiếp tục ủng hộ công việc khó khăn của các tổ chức từ thiện tại Gaza. Các tổ chức bác ái của Giáo Hội như Caritas quốc tế và Hội hiệp sĩ Mata đang tích cực trong lãnh vực này nhưng hiện nay ít nhận được tài trợ, vì thế Đức TGM Bentz kêu gọi chính phủ Đức gia tăng sức ép trên chính phủ Israel để dân chúng tại Gaza được hoàn toàn trợ giúp nhân đạo và y tế”


Kinh nghiệm bản thân, không phải là những điều tuyệt đối về đạo đức, để định hướng cho sự phân định của Nhóm nghiên cứu Thượng hội đồng về các vấn đề tình dục.

Theo Jonathan Liedl của National Catholic Register trong bản tin ngày 3 tháng 10, 2024, Nhóm nghiên cứu về các vấn đề tình dục đã trình bày đề xuất của mình về 'sự trung thành theo ngữ cảnh' tại kỳ họp Thượng hội đồng về tính đồng nghị vào ngày 2 tháng 10.

Thực vậy, nhóm nghiên cứu do Đức Giáo Hoàng Phanxicô thành lập để phát triển một cách thức đồng nghị để phân định giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo về điều gọi là các vấn đề gây tranh cãi, bao gồm đạo đức tình dục và các vấn đề về sự sống, đã đề xuất điều họ gọi là "mô hình mới" tập trung nhiều vào đạo đức hoàn cảnh nhưng giảm thiểu các điều tuyệt đối về đạo đức và giáo huấn đã được thiết lập của Giáo hội.

Nhóm này, một trong 10 nhóm nghiên cứu được Đức Giáo Hoàng thành lập vào tháng 2 để cung cấp "phân tích đào sâu" về "các vấn đề có liên quan lớn" đã xuất hiện trong phiên họp năm 2023 của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, đã trình bày những phát hiện của mình trước Kỳ họp vào ngày 2 tháng 10, ngày đầu tiên của kỳ họp năm 2024. Một văn bản của bài thuyết trình đã được chia sẻ với báo chí.

Nhóm đã nói về việc phân định học thuyết, đạo đức và các phương pháp tiếp cận mục vụ bằng cách đánh giá kinh nghiệm sống của người ta thông qua các cuộc tham vấn với dân Chúa và bằng cách phản ứng với những thay đổi về văn hóa. Nhóm đã trình bày những nguồn này như những nơi mà Chúa Thánh Thần lên tiếng theo cách có thể lấn át và dường như mâu thuẫn với những gì Giáo hội đã dạy một cách có thẩm quyền.

Nhóm này, với bảy thành viên bao gồm một nhà thần học gây tranh cãi nổi tiếng vì đặt câu hỏi về sự tồn tại của các giá trị tuyệt đối về đạo đức, đã mô tả cách tiếp cận này như một phần của “sự chuyển đổi tư tưởng hoặc cải cách các hoạt động theo sự trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng ‘là hôm qua, hôm nay và mãi mãi’, nhưng ‘sự phong phú và vẻ đẹp của Người là vô tận.’”

“Về mặt đạo đức, đây không phải là vấn đề áp dụng chân lý khách quan được đóng gói sẵn vào các tình huống chủ quan khác nhau, như thể chúng chỉ là những trường hợp đặc thù của một luật bất biến và phổ quát”, báo cáo tình hình của nhóm cho biết trước phiên họp Thượng hội đồng về tính đồng nghị hôm qua. “Các tiêu chuẩn để phân định nảy sinh từ việc lắng nghe sự Mặc khải [sống động] tự ban cho nơi Chúa Giêsu trong ngày hôm nay của Chúa Thánh Thần”.

Trong một sự tương phản tiềm tàng với báo cáo của nhóm, Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng “các phương thức truyền tải” cơ bản của mặc khải của Chúa Kitô là Kinh thánh và Truyền thống và việc giải thích có thẩm quyền các nguồn này “đã được giao phó cho văn phòng giảng dạy sống động của Giáo hội mà thôi”. Mặc khải của Kitô giáo cũng bao gồm các giới luật đạo đức tuyệt đối và có thể áp dụng phổ quát, dường như không thể thay đổi dựa trên kinh nghiệm chủ quan hoặc tham vấn rộng rãi. Nhóm nghiên cứu có ý định đưa ra "các hướng dẫn cụ thể để phân định" dựa trên mô hình mới của mình cho hai nhóm vấn đề: hòa bình và quản lý hoàn cầu; và "ý nghĩa của tình dục, hôn nhân, việc sinh con, và việc thúc đẩy và chăm sóc sự sống".

Giống như chín nhóm nghiên cứu khác của Thượng hội đồng do Đức Giáo Hoàng Phanxicô thành lập, nhóm tập trung vào việc phân định các vấn đề gây tranh cãi có nhiệm vụ kéo dài đến tháng 6 năm 2025, vượt xa thời điểm kết thúc Thượng hội đồng về tính đồng nghị vào ngày 27 tháng 10 năm 2024. Không rõ báo cáo cuối cùng của nhóm nghiên cứu sẽ có tư thế như thế nào.

Tại một cuộc họp báo vào ngày 3 tháng 10, thư ký đặc biệt của Thượng hội đồng, Cha Giacomo Costa, một tu sĩ dòng Tên, cho biết những người khác sẽ có thể gửi các đề xuất để các nhóm nghiên cứu xem xét và các nhóm nghiên cứu không nên được coi là "bị bao vây". Tổng thư ký của Thượng hội đồng giám mục, Hồng Y Mario Grech, sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo rằng các nhóm nghiên cứu tiến hành theo "phương pháp đồng nghị", những người tổ chức cho biết.

"Tôi mời các bạn đừng nghĩ rằng những nhóm này tách biệt khỏi đời sống của Giáo hội, nhưng chúng là những phòng thí nghiệm thực sự của đời sống đồng nghị", Cha Costa nói. "Thực sự là các cuộc tập huấn".

Theo văn bản trình bày của nhóm nghiên cứu, nhóm nhấn mạnh đến nhu cầu phát triển một nền nhân học và "đạo đức văn hóa-lịch sử" hài hòa với "kerygma [tín lý sơ truyền] và những hàm ý thiết yếu của nó" và cũng với "hàm ý mới được tiết lộ trong thực tại".

Nhóm đã liên kết sự phân định của những "tình thế mới nổi" này với cuộc thảo luận của Thượng hội đồng về tính đồng nghị về việc đưa những người không phải giám mục vào các quá trình ra quyết định của Giáo hội.

Đồng thời, mô hình được nhóm nghiên cứu đề xuất đã nhiều lần làm giảm tính liên quan của các tuyên bố đã được thiết lập của Giáo hội, nhấn mạnh nhu cầu phải vượt ra ngoài “việc công bố và áp dụng các nguyên tắc giáo lý trừu tượng” để “mở lòng đón nhận những thúc giục luôn mới mẻ của Chúa Thánh Thần”.

“Chỉ có sự căng thẳng quan trọng, hiệu quả và có đi có lại giữa giáo lý và thực hành mới hiện thân được Truyền thống sống động và có thể chống lại sự cám dỗ dựa vào sự cằn cỗi [cứng ngắc] của các tuyên bố bằng lời nói”, bản văn báo cáo của nhóm cho biết.

Tại nhiều điểm khác nhau, bài thuyết trình của nhóm mô tả chân lý đạo đức như phụ thuộc vào, thay vì là một phần không thể thiếu của, sự cứu rỗi nhân bản. Hàm ý là giáo lý về một vấn đề đạo đức nên thay đổi nếu nó được coi là rào cản đối với tư cách thành viên của một ai đó trong Giáo hội.

Bản văn trình bày không đề cập đến sự liên quan của các giá trị tuyệt đối về đạo đức trong việc phân định các vấn đề đạo đức, giáo lý và mục vụ. Trong thông điệp Veritatis Splendor (Sự huy hoàng của chân lý) năm 1993, Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng, trái ngược với chủ nghĩa tương đối về đạo đức, các chân lý đạo đức tuyệt đối hiện hữu, bắt nguồn từ bản chất con người và do đó có thể áp dụng phổ quát, và có thể tiếp cận được với lý trí con người.

Trước đây, những người quan sát Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã bày tỏ lo ngại rằng nền tảng thần học của nó phụ thuộc quá nhiều vào tư tưởng của Cha Karl Rahner (1904-1984), một nhà thần học Dòng Tên gây tranh cãi, người đã hạ thấp khả năng của các công thức giáo lý để đề cập một cách đáng tin cậy đến các thực tại siêu nhiên và nhấn mạnh sự mặc khải liên tục của Chúa thông qua kinh nghiệm bản thân của các tín hữu.

Các thành viên của nhóm nghiên cứu bao gồm Cha Maurizio Chiodi, một nhà thần học đạo đức đã bị chỉ trích trong những năm gần đây vì thách thức giáo lý đã được thiết lập của Giáo hội và phủ nhận các giá trị đạo đức tuyệt đối.

Cha Chiodi đã lập luận rằng việc sử dụng biện pháp tránh thai trong hôn nhân có thể được phép về mặt đạo đức trong một số trường hợp và đã nói vào năm 2017 rằng các mối quan hệ đồng tính "trong một số điều kiện nhất định" có thể là "cách hiệu quả nhất" để những người có ham muốn đồng tính "tận hưởng mối quan hệ tốt đẹp".

Vị linh mục người Ý, vừa là giáo sư tại Viện Thần học Giáo hoàng Gioan Phalô II về Hôn nhân và Khoa học Gia đình vừa là thành viên của Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Sự sống, gần đây đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm cố vấn cho Bộ Giáo lý Đức tin.

Cha Dòng Tên Carlo Casalone, một nhà thần học đạo đức tại Đại học Gregorian, cũng là người được Đức Phanxicô bổ nhiệm vào Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Sự sống, cũng là thành viên của nhóm nghiên cứu. Ngài đã gây ra tranh cãi vào năm 2022 khi ủng hộ luật hợp pháp hóa việc hỗ trợ tự tử ở Ý.

Các thành viên khác của nhóm bao gồm Tổng giám mục Carlos Catillo của Lima, Peru, cũng là thành viên của Học viện Giáo hoàng về Sự sống; Tổng giám mục Filippo Iannone Ý, chủ tịch của Bộ Văn bản Lập pháp; Cha Piero Coda của Ý, giáo sư thần học giáo điều tại Đại học Sophia ở Loppiano, Ý và là tổng thư ký của Ủy ban Thần học Quốc tế; Sơ Thánh Andrew Josée Nagalula của Cộng hòa Dân chủ Congo, giáo sư thần học giáo điều tại Đại học Công Giáo Congo ở Kinshasa và là thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế; và Stella Morra của Ý, một nhà thần học cơ bản tại Gregorian và cố vấn cho Bộ Giáo lý Đức tin.

Là một mô hình kinh thánh về "sự thay đổi mô hình đang được truyền bá bởi quá trình đồng nghị", nhóm đã chọn câu chuyện về Công đồng Giêrusalem trong Công vụ 15, dẫn đến việc Giáo hội không còn yêu cầu cắt bì nữa. Nhóm nghiên cứu cho biết sự kiện này làm nổi bật "lệnh cấm cản trở ý muốn cứu độ phổ quát của Chúa bằng bất cứ điều gì không còn ý nghĩa hiệu quả nào nữa".

Nhóm thừa nhận những khó khăn tiềm ẩn trong việc áp dụng khuôn khổ của mình, bao gồm “sự khan hiếm — và không quen thuộc với — vốn từ vựng và khái niệm cần thiết” và “những kháng cự ngầm định về mô hình”, nhưng vẫn bày tỏ sự tin tưởng rằng nhóm có thể phát triển mô hình được đề xuất của mình một cách đầy đủ hơn.

Chúng ta “được kêu gọi thực hiện một cuộc hoán cải hoàn toàn và đầy thử thách; một cuộc hoán cải có hình hài cụ thể trong cách chúng ta trình bày và diễn dịch chân lý của Tin Mừng”, nhóm cho biết trong bài thuyết trình của mình, “như được thể hiện và thực hành trong tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa trong Chúa Kitô”.

Đức Thánh cha chủ sự thánh lễ khai mạc Khóa II Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI


Lúc 9 giờ 30 sáng thứ Tư, ngày 02 tháng Mười năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Quảng trường thánh Phêrô để khai mạc Khóa II Thượng Hội đồng Giám mục thế giới thứ XVI, trước sự hiện diện của khoảng 20.000 tín hữu.

Đồng tế với Đức Thánh cha, có 270 hồng y, giám mục cùng với đông đảo linh mục.

Bài giảng của Đức Thánh cha

Trong bài giảng, dựa vào hai bài đọc trong thánh lễ: Trên đường tiến về Đất Hứa, Thiên Chúa dặn dò dân hãy lắng nghe tiếng thiên thần mà Ngài gửi đến (Xh 23,20-22). Và trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu gọi một trẻ em đến, đặt giữa các môn đệ và dạy họ hãy trở nên như trẻ nhỏ: “Ai trở nên như trẻ thơ thì sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời” (Xc Mt 18,1-5.10).

Đức Thánh cha nhắc nhớ rằng Thượng Hội đồng Giám mục là “một hành trình, trong đó Chúa đặt trong tay chúng ta lịch sử, những ước mơ và hy vọng của một đại dân tộc: các anh chị em chúng ta rải rác ở mọi nơi trên thế giới, được cùng một đức tin linh hoạt và vì họ, chúng ta tìm hiểu xem đâu là điều cần theo để tới nơi mà Chúa muốn đưa chúng ta tới. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể đặt mình nghe tiếng nói của thiên thần?

“Một con đường chắc chắn là chúng ta hãy kính trọng và chú ý đến trong kinh nguyện và dưới ánh sáng Lời Chúa, tất cả những đóng góp được thu tóm trong ba năm làm việc khẩn trương, chia sẻ, đối chiếu và kiên nhẫn cố gắng thanh tẩy tâm trí. Vấn đề ở đây là, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Linh, lắng nghe và hiểu những tiếng nói, tức là những ý tưởng, những mong đợi, đề nghị để cùng nhau phân định tiếng nói của Thiên Chúa nói với Giáo hội... Như đã được nhiều lần nhắc nhở, công nghị của chúng ta không phải là một nghị viện, nhưng là một nơi lắng nghe trong tình hiệp thông, như thánh Gregorio Cả đã nói, điều mà mỗi người biết một phần, thì được sở hữu không hoàn toàn nơi người khác và mặc dù vài người có những ơn đặc thù, nhưng tất cả đều thuộc về anh chị em trong tình bác ái của Chúa Thánh Linh”. (Omelie sui Vangeli, XXXXIV)

“Nhưng để điều đó xảy ra, có một điều kiện, đó là: chúng ta giải thoát mình khỏi những gì trong và giữa chúng ta có thể cản trở đức bác ái trong Thánh Linh, trong việc kiến tạo sự hòa hợp giữa những khác biệt. Không có khả năng nghe tiếng Chúa, những kẻ kiêu căng tự phụ và tự nhận mình độc quyền về khả năng đó”. (Xc Mc 9,38-39).

Đức Thánh cha cảnh giác trước những kẻ như thế, “những người nghĩ và chủ trương mình là những người độc quyền được nghe tiếng Chúa”. Và ngài kêu gọi các thành phần của Thượng Hội đồng Giám mục, trong khi quyết định, đừng biến những đóng góp của chúng ta thành những lập trường phải được bảo vệ hoặc chương trình hành động cần phải tiến hành, nhưng đúng hơn hãy cống hiến những điều ấy như những món quà chúng ta muốn chia sẻ, với thái độ sẵn sàng hy sinh phần của mình, nếu điều đó có thể giúp mang lại cái gì mới trong việc đồng hành theo kế hoạch của Chúa”.

Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng: “Trong chúng ta có nhiều người hùng mạnh, được chuẩn bị kỹ lưỡng, có khả năng đẩy mạnh những tư tưởng xuất sắc. Tất cả những điều đó là một sự phong phú gợi hứng cho chúng ta, hướng dẫn chúng ta, và đôi khi buộc chúng ta suy nghĩ cởi mở hơn và tiến bước một cách cương quyết, giúp chúng ta kiên vững trong đức tin, kể cả khi phải đứng trước những thách đố và khó khăn. Tuy nhiên, đó là một món quà cần phải được liên kết đúng lúc với khả năng giảm bớt những căng thẳng”.

Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Chúng ta hãy cầu xin Chúa, trong thánh lễ này, cho chúng ta được sống những ngày đang chờ đợi chúng ta trong dấu chỉ lắng nghe, gìn giữ nhau và khiêm tốn, để nghe tiếng Chúa Thánh Linh, để cảm thấy được đón nhận trong tình thương và để khỏi quên nhìn những đôi mắt tín thác, vô tội và đơn sơ của những người nhỏ bé, mà chúng ta muốn lên tiếng thay, và qua họ, Chúa tiếp tục kêu gọi tự do của chúng ta, kêu gọi chúng ta tiếp tục hoán cải”.

Lời mời tham gia ngày cầu nguyện cho hòa bình

Trong phần cuối của bài giảng thánh Lễ khai mạc Khóa II Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Thánh cha nhắc đến thời điểm bi thảm của lịch sử hiện nay của chúng ta, trong khi những luồng gió chiến tranh và lửa bạo lực tiếp tục đảo lộn nhiều dân nước. Ngài nói:

“Anh chị em thân mến, để cầu khẩn hồng ân hòa bình, nhờ sự chuyển cầu của Mẹ Maria chí thánh, Chúa nhật tới đây, tôi sẽ đến Vương cung thánh đường Đức Bà Cả và đọc kinh Mân côi. Tôi sẽ dâng lên Đức Mẹ lời khẩn cầu thống thiết, và tôi cũng xin anh chị em, các thành phần của Thượng Hội đồng Giám mục, hiệp với tôi trong dịp này”.

“Và ngày hôm sau, mùng 07 tháng Mười, tôi xin tất cả mọi người hãy cử hành ngày cầu nguyện và ăn chay cho hòa bình thế giới”.

“Chúng ta hãy đồng hành với nhau. Chúng ta hãy lắng nghe Chúa, hãy để cho mình được luồng gió của Thánh Linh hướng dẫn”.

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Thánh cha đưa ra sáng kiến thuộc loại này. Ngày 07 tháng Chín năm 2013, gần sáu tháng sau khi được bầu làm Giáo hoàng, tại Quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh cha đã cử hành ngày ăn chay cầu nguyện cho Syria tang thương vì chiến tranh. Một sáng kiến tương tự cũng được thực hiện ngày 23 tháng Hai năm 2017, cho hòa bình tại Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan.


Sau ba năm, Thượng hội đồng giám mục về tính đồng nghị đã đi đến hồi kết

image.png

Một phiên họp của Thượng hội đồng giám mục về tính đồng nghị vào tháng 10 năm 2023.

Tạp chí Crux, ngày 30 tháng 9 năm 2024, tường trình rằng sau ba năm thảo luận, tranh luận và đôi khi là chia rẽ, hành động kết thúc Thượng hội đồng giám mục của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về tính đồng nghị sẽ bắt đầu vào hôm nay với việc khai mạc kỳ tĩnh tâm kéo dài hai ngày trước khi 368 người tham dự kỳ họp thứ hai và cũng là kỳ họp cuối cùng tại Roma bắt đầu các cuộc thảo luận của họ.

Giống như trong kỳ họp đầu tiên của Thượng hội đồng năm ngoái, kỳ tĩnh tâm sẽ do Cha Timothy Radcliffe dòng Đaminh và Mẹ Ignazia Angelini dòng Biển Đức chủ trì, được tổ chức thành bốn “buổi suy niệm” trong hai ngày. Buổi tĩnh tâm cũng sẽ có Thánh lễ tối nay tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, và một nghi lễ sám hối vào tối mai với sự hiện diện của Đức Giáo Hoàng, trong đó, cùng với những việc khác, các nạn nhân của nạn lạm dụng, chiến tranh và sự thờ ơ với người di cư sẽ đưa ra các chứng từ.

Sự tha thứ sẽ được cầu xin cho một loạt tội lỗi, bao gồm lạm dụng, "sử dụng giáo lý như những viên đá để ném", và chiến tranh và bạo lực, cũng như những hành vi phạm tội chống lại sáng thế, dân bản địa, người di cư, phụ nữ, gia đình và thanh thiếu niên. Sự tha thứ cũng sẽ được cầu xin cho sự vắng mặt của "lắng nghe, hiệp thông và tham gia", những chủ đề chính của chính thượng hội đồng.

Trong số 368 người tham gia lần này, 272 người là giám mục và những người còn lại là sự kết hợp của các linh mục, phó tế, nam nữ tu sĩ và giáo dân. Ngoài ra còn có tám "khách mời đặc biệt" do Đức Giáo Hoàng đề cử, bao gồm, như lần trước, Luca Casarini, người đồng sáng lập tổ chức "Mediterranean Saving Humans" cứu hộ người di cư trên biển, nhưng đã bị cáo buộc ủng hộ nhập cư bất hợp pháp vào Ý.

Số lượng đại diện của các giáo hội khác lần này đã tăng từ 12 lên 16, bao gồm đại diện từ Giáo hội Chính thống giáo Syriac và Liên đoàn Luther thế giới, mặc dù Giáo hội Chính thống giáo Nga vẫn tiếp tục vắng mặt.

Thứ Tư, ngày 2 tháng 10, đánh dấu lễ khai mạc chính thức của chính thượng hội đồng với Thánh lễ tại Quảng trường Thánh Phê-rô lúc 9:30 sáng theo giờ Rome và phiên họp làm việc đầu tiên vào buổi chiều lúc 4:00 chiều, sẽ bắt đầu bằng lời chào của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.

Lịch trình quy định luân phiên giữa các phiên họp toàn thể và trao đổi trong 36 nhóm làm việc nhỏ hơn, được tổ chức thành năm bàn tròn theo ngôn ngữ: Hai bàn bằng tiếng Anh, một bàn bằng tiếng Ý, một bàn bằng tiếng Pháp, một bàn bằng tiếng Tây Ban Nha và một bàn bằng tiếng Bồ Đào Nha.

Các phiên họp toàn thể sẽ tiếp nhận ý kiến đóng góp từ các nhóm nhỏ hơn và sau đó bắt đầu tiến hành biên soạn một tài liệu cuối cùng - theo những người tổ chức, đây không phải là kết luận thực sự của thượng hội đồng mà chỉ đơn giản là cách truyền đạt các đề xuất của nó cho Đức Giáo Hoàng, người sau đó sẽ tự quyết định cách trình bày kết quả cho Giáo hội và thế giới rộng lớn hơn.

Mặc dù các hạn chế tương tự như vào tháng 10 năm 2023 đối với những người tham gia Thượng hội đồng tiết lộ hoạt động bên trong của nó cũng có hiệu lực vào lần này, nhưng sẽ có bốn biến cố công khai trong diễn trình: Hai biến cố vào ngày 9 tháng 10 và hai biến cố nữa vào ngày 16 tháng 10. Các phiên họp sẽ được tổ chức tại một học viện do dòng Augustinian điều hành và trụ sở của Dòng Tên, cả hai đều cách Quảng trường Thánh Phêrô một quãng ngắn.

Các chủ đề của các phiên họp công khai là: "dân Chúa, chủ thể của sứ mệnh"; "Vai trò và thẩm quyền của giám mục trong một Giáo hội công đồng"; "Mối quan hệ qua lại giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ"; và "Việc thực hiện quyền tối thượng và Thượng hội đồng giám mục".

Vào thứ Sáu, ngày 11 tháng 10, sẽ có một buổi lễ cầu nguyện đại kết tại Quảng trường Các vị tử đạo tiên khởi của Rome, nơi mà theo truyền thống, Thánh Phêrô đã bị đóng đinh ngược đầu. Ngày 11 tháng 10 đánh dấu kỷ niệm 62 năm ngày khai mạc Công đồng Vatican II năm 1962. 16 đại diện của nhiều giáo hội Kitô giáo khác nhau trong hội đồng sẽ tham dự, cũng như các đại diện đại kết khác có mặt tại Rome.

Vào Chúa Nhật, ngày 20 tháng 10, cũng sẽ có một Thánh lễ phong thánh cho Cha Manuel Ruiz López, người Tây Ban Nha, thuộc dòng Phanxicô và 10 người bạn đồng hành, bao gồm các tu sĩ Phanxicô và ba giáo dân thuộc giáo hội Maronite hiệp thông với Rome. Họ đã bị các chiến binh Druze bắt giữ ở Syria vào năm 1860 và cuối cùng bị giết, như một phần của nỗ lực xóa sổ cộng đồng Kitô giáo ở Damascus.

Nhóm này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong chân phước vào năm 1926, và hiện sẽ được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chính thức tuyên thánh.

Cũng sẽ được phong thánh trong cùng một buổi lễ là Giuseppe Allamano, người sáng lập ra các nhà truyền giáo Consolata; Elena Guerra, một người bạn của Đức Giáo Hoàng Leo XIII nổi tiếng với lòng sùng kính Chúa Thánh Thần; và Marie-Léonie Paradis, một nữ tu người Canada và là người sáng lập Dòng Tiểu muội Thánh gia.



Trong lễ sám hối khai mạc phiên họp lần thứ nhì Thượng Hội đồng về Tương lai của Giáo hội, các hồng y đã xin được tha thứ cho bảy tội bất thường. Tội chống lại hòa bình, chống phụ nữ, chống học thuyết…

Sau hai ngày tĩnh tâm, phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng “vì một Giáo hội mang tính đồng nghị hơn” đã khai mạc bằng một buổi lễ sám hối bất thường. Bảy hồng y lần lượt cầu xin tha thứ cho bảy “tội” khác với các tội trong bảy mối tội đầu. Đó là những tội nào?

1. Tội chống lại hòa bình

Hồng y Oswald Gracias, Tổng Giám mục Bombay (Ấn Độ) mở đầu với lời xin tha thứ “vì thiếu can đảm, lòng can đảm cần thiết trong việc tìm kiếm hòa bình giữa các dân tộc và các quốc gia”. Hồng y ca ngợi lòng can đảm của “cuộc gặp gỡ”, “tôn trọng các hiệp ước”, “chân thành” cũng như lòng can đảm cần có để nhìn nhận “phẩm giá vô hạn của mọi sự sống con người trong mọi giai đoạn đời sống”, ngay cả trong nhu cầu vật chất cơ bản: “Quyền có việc làm, đất đai, nhà ở, gia đình, cộng đồng để sống tự do. Tội của chúng ta còn nặng hơn nếu chúng ta kêu cầu danh Chúa để biện minh cho chiến tranh và sự phân biệt đối xử.”

2. Tội chống lại tạo vật, chống lại người dân bản địa, chống lại người di cư

Hồng y Michael Czerny, Bộ trưởng Bộ Phát triển Nhân bản Toàn diện xin tha thứ vì: “Những gì chúng ta làm biến đổi tạo vật từ khu vườn thành sa mạc, thao túng theo ý muốn của chúng ta. Tội bóc lột này làm suy yếu phẩm giá con người. Xin tha thứ cho các hệ thống ủng hộ chế độ nô lệ và chủ nghĩa thực dân, cho việc toàn cầu hóa đã thờ ơ trước những thảm kịch mà ngày nay ảnh hưởng đến rất nhiều người di cư. Tôi nghe thấy tiếng Chúa hỏi tất cả chúng ta: ‘Anh chị em của con ở đâu?’ Xin Chúa tha thứ cho chúng con.”

3. Tội lạm dụng

Hồng y Sean Patrick O’Malley, Tổng giám mục giáo phận Boston (Hoa Kỳ), nhậm chức năm 2003 ở một giáo phận bị các vụ lạm dụng tác động sâu sắc. Ngài cầu xin tha thứ cho tất cả các hình thức lạm dụng, đặc biệt là “lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương, đã cướp đi sự trong trắng và xúc phạm đến sự thánh thiện của những người yếu đuối, những người không có khả năng tự vệ, trong suốt thời gian qua chúng ta đã dùng địa vị của chức vụ và đời sống thánh hiến để phạm tội khủng khiếp này”.

image.png

Buổi cầu nguyện tại Đền thờ Thánh Phêrô trước khi bắt đầu phiên họp Thượng Hội đồng ngày thứ ba 1 tháng 10 năm 2024. 

4. Tội chống lại phụ nữ, gia đình, giới trẻ

Hồng y Kevin Joseph Farrell, Bộ trưởng Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống xin tha thứ: “Thay mặt cho tất cả các thành viên của Giáo hội, đặc biệt là nam giới chúng tôi, chúng tôi đã có một khinh thường với phẩm giá phụ nữ, bằng cách làm cho họ trở nên ‘câm lặng và phục tùng’. Giáo hội đôi khi bỏ bê nhu cầu của các gia đình, phán xét và lên án họ hơn là quan tâm đến họ. Đôi khi chúng tôi đã ‘đánh cắp niềm hy vọng và tình yêu của người trẻ khi chúng tôi chưa hiểu được giá trị của tình yêu và niềm hy vọng’. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người phạm sai lầm và những người bị bỏ rơi vào tù hoặc bị án tử hình.

5. Tội dùng học thuyết làm viên đá để ném

Hồng y Víctor Manuel Fernández, Bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin lấy làm tiếc về cách sử dụng sai trái giáo lý của Giáo hội. Ngài xin tha thứ: “Mục tử chúng tôi có trách nhiệm củng cố đức tin cho giáo dân nhưng chúng tôi đã không biết cách bảo vệ và cống hiến Tin Mừng như nguồn sống của sự mới mẻ vĩnh cửu. Chúng tôi xin được tha thứ cho những lần mà học thuyết đã biện minh cho sự đối xử vô nhân đạo hoặc đã cản trở các văn hóa hợp pháp khác nhau về sự thật của Chúa Giêsu Kitô, tạo khó khăn cho tình huynh đệ đích thực của toàn thể nhân loại.”

6. Tội chống lại nghèo đói

Hồng y Cristóbal Lopez Romero, Tổng giám mục giáo phận Rabat (Morocco) xin được tha thứ vì chúng tôi đã lấy bánh của người nghèo đói: “Chúng tôi xấu hổ vì chúng tôi trì trệ, chúng tôi  không chấp nhận lời kêu gọi một Giáo hội nghèo cho người nghèo, chính chúng tôi cũng khó để nhận tội này, với những quyến rũ của quyền lực, chúng tôi thích ở những vị trí đầu tiên, thích có những chức tước phù phiếm, thích đến những nơi bệnh hoạn để tự khen nhau, tất cả đã hạn chế chúng tôi hướng tới các vùng ngoại vi thân yêu của Đức Phanxicô.

7. Tội chống lại tính đồng nghị, thiếu lắng nghe, thiếu hiệp thông, thiếu tham gia của tất cả mọi người

Cuối cùng, Hồng y Christoph Schưnborn, Tổng Giám mục Vienna (Áo) đề cập đến tinh thần cần thiết để có thể có đồng nghị thực sự. Hồng y xin tha thứ: “Vì những trở ngại chúng tôi đã đặt ra trong việc xây dựng một Giáo hội thực sự có tính đồng nghị, hòa mình, ý thức mình là dân thánh của Thiên Chúa cùng nhau bước đi, nhìn nhận phẩm giá rửa tội chung của nhau. Tôi xấu hổ về những lần chúng tôi đã không lắng nghe Chúa Thánh Thần, chỉ thích nghe chính mình (…), vì tất cả những lần chúng tôi đã biến quyền hành thành quyền lực, bóp nghẹt tính đa nguyên.”

ĐTC Phanxicô: Giáo hội phải cầu xin sự tha thứ về những tội lỗi của mình

Chủ sự giờ canh thức thống hối vào chiều ngày 1/10/2024, Đức Thánh Cha nói rằng chúng ta cần cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa và từ những người mà chúng ta đã gây thương tổn. Ngài nói rằng chúng ta là những người hành khất xin ơn tha thứ của Thiên Chúa.


                                                                                                ĐTC Phanxicô chủ sự giờ canh thức thống hối vào chiều ngày 1/10/2024

Trong giờ canh thức, ba nạn nhân của tệ nạn lạm dụng, chiến tranh và sự thiếu bác ái đã trình bày chứng từ của họ.

Xưng thú tội lỗi

Bảy Hồng y đã đọc các lời thống hối và xin tha thứ “nhân danh toàn thể Giáo hội” vì tội chống lại hòa bình, chống lại môi trường, chống lại phẩm giá của phụ nữ và chống lại người nghèo; vì tội lạm dụng và sử dụng giáo lý như một “hòn đá để ném” vào người khác; và vì tội chống lại tính hiệp hành.

Khôi phục lại lòng tin vào và hướng tới Giáo hội

Trong bài suy tư, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Giáo hội, “trong bản chất đức tin và lời tuyên xưng của mình, luôn luôn có mối quan hệ – và chỉ bằng cách chữa lành các mối quan hệ bệnh hoạn, chúng ta mới trở thành một Giáo hội hiệp hành”.

Ngài đặt câu hỏi: “Làm sao chúng ta có thể đáng tin cậy trong sứ mạng nếu chúng ta không thừa nhận những sai lầm của mình và cúi mình để chữa lành những vết thương mà chúng ta đã gây ra bởi tội lỗi của mình?”

Thay vì phán xét người khác, tin rằng chỉ mình mới có công trạng, Đức Thánh Cha nói, chúng ta cần như người thu thuế, cúi mặt xấu hổ về tội lỗi của mình, cần dọn sạch không gian bị lấp đầy bởi sự tự phụ, giả hình và kiêu ngạo của chúng ta.

Đức Thánh Cha nói rằng canh thức thống hối này “là cơ hội để khôi phục lại lòng tin vào và hướng tới Giáo hội, một lòng tin đã bị phá vỡ bởi những sai lầm và tội lỗi của chúng ta; và để bắt đầu chữa lành những vết thương không ngừng chảy máu”. Ngài cũng xin các thế hệ trẻ tha thứ “nếu chúng ta chưa phải là những chứng nhân đáng tin cậy”.

Chúc bình an và trao Tin Mừng

Kết thúc giờ canh thức, Đức Thánh Cha chúc bình an cho những người đã trình bày chứng từ, và một số người khác. Ngài cũng trao cho các đại diện giới trẻ một sách Tin Mừng, ủy thác cho họ và các bạn đồng trang lứa với họ nhiệm vụ công bố Tin Mừng cho các thế hệ tương lai, với hy vọng về “một sứ mạng tốt đẹp hơn, ngày càng trung thành hơn với logic của Vương quốc Thiên Chúa”.



Bảy cách Thượng hội đồng về tính đồng nghị có thể thay đổi Giáo hội

Jonathan Liedl của National Catholic Register, ngày 23 tháng 9 năm 2024, có bài nhận định cho rằng cuộc họp vào tháng 10 của Thượng hội đồng có thể dẫn đến một số thay đổi lớn tác động đến đời sống hàng ngày trong Giáo Hội Công Giáo.

Những vấn đề gây tranh cãi nhất có thể không nằm trong chương trình nghị sự của cuộc họp Thượng hội đồng về tính đồng nghị vào tháng tới tại Rome. Nhưng đừng nhầm lẫn về điều này: Cuộc họp từ ngày 2 đến 27 tháng 10 vẫn có thể dẫn đến một số thay đổi lớn tác động đến đời sống hàng ngày trong Giáo Hội Công Giáo.

Các đại biểu tham dự Thượng hội đồng, nơi sẽ kết thúc quá trình Thượng hội đồng hoàn cầu kéo dài bốn năm tập trung vào cách tăng cường sự tham gia vào Giáo Hội Công Giáo, có khả năng sẽ thảo luận và có thể phê duyệt các đề xuất liên quan đến mọi điều, từ phụ nữ ở các vị trí lãnh đạo đến khả năng của các hội đồng giám mục quốc gia trong việc đưa ra các quyết định về tín lý.

Tiềm năng tạo ra những thay đổi có tác động vẫn còn ngay cả sau khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô quyết định chuyển các chủ đề gây tranh cãi — chẳng hạn như khả năng có nữ phó tế và việc phân định các vấn đề giáo lý gây tranh cãi (bao gồm cả những vấn đề liên quan đến tình dục) — cho các nhóm nghiên cứu chuyên biệt chứ không phải toàn bộ thượng hội đồng.

Trên thực tế, cả các nhà thần học quan tâm và các nhà hoạt động nhiệt thành đều suy đoán rằng bằng cách tập trung vào các chủ đề cơ bản hơn như việc ra quyết định trong đời sống của Giáo hội, thượng hội đồng thực sự có thể "mở ra cánh cửa" cho những nỗ lực thay đổi các tín lý và kỷ luật đặc thù.

Và trong khi những người tham gia như Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna cho biết các chủ đề chuyên biệt của thượng hội đồng "có phần mơ hồ", thì tài liệu sẽ hướng dẫn các cuộc thảo luận instrumentum laboris (IL) vào tháng 10, đã bao gồm các phác thảo ban đầu về một số đề xuất cụ thể.

Hơn 360 đại biểu bỏ phiếu — bao gồm, năm thứ hai liên tiếp, một số lượng lớn phụ nữ và nam giới không được thụ phong — sẽ thảo luận về các đề xuất này trong suốt tháng 10 trước khi bỏ phiếu cho một tài liệu cuối cùng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ cân nhắc văn bản này trước khi viết giáo huấn hậu Thượng hội đồng của riêng mình — trừ khi ngài quyết định chỉ chấp nhận văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng có tính huấn quyền, như một thay đổi gần đây đối với luật giáo hội cho phép ngài làm.

Dù trường hợp nào đi nữa, chúng ta sẽ có một tháng Mười quan trọng hơn nhiều so với những gì những người chỉ tập chú vào "các vấn đề nóng hổi" dẫn các bạn tin.

Sau đây là bảy cách cụ thể mà Thượng hội đồng vẫn có thể thay đổi Giáo Hội Công Giáo.

1. Phụ nữ trong các Chủng viện — và mọi nơi khác

Mong rằng Thượng hội đồng sẽ kêu gọi phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các chủng viện. Không, không phải với tư cách là ứng viên cho chức linh mục, mà là những người tham gia quan trọng vào quá trình đào tạo cho những người đàn ông đang là ứng viên linh mục.

Tài liệu Làm việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phụ nữ có thể tiếp cận các vai trò "giảng dạy và đào tạo" trong bối cảnh chủng viện, điều này sẽ cho phép các linh mục tương lai và phụ nữ "phát triển sự hiểu biết lẫn nhau và lòng tôn trọng lẫn nhau cũng như khả năng hợp tác của họ".

Đề xuất này chỉ là một trong nhiều đề xuất nhằm thúc đẩy vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Những mục tiêu khác bao gồm việc phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các quá trình ra quyết định, các vị trí trách nhiệm của giáo phận và với tư cách là thẩm phán trong các quy trình giáo luật. Tóm lại, mục tiêu là để phụ nữ đóng vai trò lớn hơn trong mọi lĩnh vực của Giáo hội, không chỉ dành riêng cho các giáo sĩ. Tất cả đều là một phần của những gì Tài liệu Làm việc mô tả là "phân bổ lại nhiệm vụ", mà việc thực hiện, có thể nói là không yêu cầu phải thụ phong.

Sự nhấn mạnh này có thể được thực hiện ở mọi bộ phận của Giáo hội, mặc dù cũng đúng là tính mới mẻ của nó — và do đó là tác động của nó — sẽ khác nhau tùy theo khu vực.

Ví dụ, ở những nơi như Hoa Kỳ, việc phụ nữ trở thành giảng viên chủng viện và giữ các vị trí lãnh đạo giáo phận như chưởng ấn hoặc giám đốc trường học là tiêu chuẩn, mặc dù không bắt buộc.

Không phải trong mọi bối cảnh đều như vậy. Ví dụ, ở nhiều quốc gia ở Châu Phi, tình trạng thiếu hụt các nhà thần học giáo dân có trình độ sẽ khiến việc đưa phụ nữ vào một việc như đào tạo chủng viện trở thành một thách thức lớn hơn, có lẽ nói lên nhu cầu về những thay đổi cơ bản hơn.

Do đó, trong khi các đề xuất cụ thể liên quan đến vai trò của phụ nữ trong Giáo hội có khả năng xuất hiện từ thượng hội đồng, việc chúng được tiếp nhận như một lời kêu gọi thay đổi mạnh mẽ hay chỉ đơn giản là "nhiều hơn thế nữa" có thể sẽ khác nhau tùy theo bối cảnh.

2. Các Hội đồng Giám mục được tăng cường

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã kêu gọi "phân quyền hợp lý" trong Giáo hội. Và tài liệu chuẩn bị của thượng hội đồng đề xuất tăng cường các hội đồng giám mục như một bước đi theo hướng đó.

Những người tham gia thượng hội đồng sẽ thảo luận liệu các hội đồng giám mục - các cơ quan giám mục tại một lãnh thổ nhất định như Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ - có nên trở thành "chủ thể giáo hội được công nhận theo giáo luật, được trao thẩm quyền về giáo lý" hay không, có khả năng đưa ra các quyết định về phụng vụ, kỷ luật và thậm chí là thần học.

Kiểu phân quyền này đã được ủng hộ trong thượng hội đồng bởi, trong số những người khác, những người tham gia Đức, những người có khả năng coi đó là một cách cho phép họ thực hiện những thay đổi mong muốn liên quan đến giáo huấn của Giáo hội về tình dục và khả năng truyền chức cho phụ nữ ở Đức.

IL lưu ý rằng loại "phong cách đồng nghị" này có thể giúp "vượt qua ý tưởng rằng tất cả các Giáo hội nhất thiết phải hành động cùng một nhịp đối về mọi vấn đề", mặc dù cũng nói thêm rằng các quyết định mang tính địa phương hơn không nên ảnh hưởng đến "sự thống nhất về giáo lý, kỷ luật và sự hiệp thông của Giáo hội".

Những thay đổi về tình trạng giáo luật của các hội đồng giám mục - và cấp độ thẩm quyền tương ứng của họ - có thể dẫn đến những thay đổi lớn trên thực tế. Những người chỉ trích cảnh báo rằng điều này có thể dẫn đến việc các Giáo hội địa phương đi theo con đường riêng của họ về các vấn đề chính về giáo lý và kỷ luật, về cơ bản chỉ là hiệp thông trên danh nghĩa. Dự kiến chủ đề này sẽ là một trong những chủ đề gây tranh cãi gay gắt nhất vào tháng tới.

3. Đánh giá các Giám mục

Để cổ vũ tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, thượng hội đồng có thể sẽ đề xuất những cách cụ thể mà các cộng đồng Giáo hội có thể đánh giá các nhà lãnh đạo của họ.

Ngoài các chuẩn mực giáo luật đã có, IL tuyên bố rằng cần phải phát triển "các cấu trúc và hình thức đánh giá thường xuyên về cách thi hành các trách nhiệm mục vụ thuộc mọi loại".

“Đánh giá, hiểu theo nghĩa không dạy đời (non-moralist), giúp các thừa tác viên thích nnghi nhanh chóng và phát huy sự phát triển cũng như khả năng thực hiện việc phục vụ của mình tốt hơn”, tài liệu nêu rõ.

Đề xuất này được trình bày như một cách để chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị và có thể sẽ được những người muốn các nhà lãnh đạo Giáo hội chịu trách nhiệm nhiều hơn với giáo dân của mình khi đưa ra quyết định, cho dù là về tài chính, tổ chức lại giáo phận hay thậm chí là lịch trình Thánh lễ của giáo xứ hoan nghênh.

Tuy nhiên, những người khác có thể bày tỏ lo ngại rằng việc đánh giá quá mức mối quan hệ giữa các thừa tác viên và những người mà họ phục vụ có thể gây căng thẳng cho mối quan hệ vốn được cho là gắn kết về mặt tinh thần.

Rốt cuộc, một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một tác động tương tự đã diễn ra ở Hoa Kỳ sau khi các giao thức phòng ngừa lạm dụng tình dục khiến nhiều linh mục cảm thấy như các giám mục của họ coi họ chủ yếu là những trách nhiệm pháp lý tiềm ẩn.

Các đại biểu của Thượng hội đồng, phần lớn là giám mục, có thể sẽ muốn bảo vệ chống lại những kết quả không mong muốn tương tự trong bất cứ quy trình đánh giá chính thức nào được thiết lập.

4. Thừa tác vụ lắng nghe

Tài liệu chuẩn bị đề xuất thành lập một “thừa tác vụ lắng nghe và đồng hành” mới như một cách để biến tính đồng nghị thành một trải nghiệm cụ thể hơn trong cuộc sống của những tín hữu bình thường.

Thừa tác vụ này sẽ đóng vai trò như một “cánh cửa mở” cho cộng đồng, cho phép mọi người bước vào mà không cảm thấy bị đe dọa hay bị phán xét.” Ngoài ra, chức vụ này được hình dung là cho phép sự phân định cộng đồng diễn ra ở bình diện địa phương, có thể bằng cách tạo điều kiện cho phương pháp “đối thoại trong Chúa Thánh Thần” của thượng hội đồng.

Việc thành lập thừa tác vụ mới này, theo Tài liệu Làm việc, sẽ chỉ ra “tính chất tiên tri” của việc lắng nghe, chứng minh rằng lắng nghe vừa là một phần bình thường của đời sống Giáo hội vừa là ưu tiên của Giáo hội.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chứng tỏ sự sẵn lòng thiết lập các thừa tác vụ mới để giải quyết nhu cầu được tri nhận, tạo ra thừa tác vụ giáo lý viên vào năm 2021. Với "thừa tác vụ lắng nghe" đã được nêu rõ trong tài liệu chuẩn bị cho phiên họp của Thượng hội đồng năm 2024, hãy mong đợi một số hình thức của thừa tác vụ này sẽ được đề xuất vào cuối tháng 10 — và Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ nhanh chóng hành động để thực hiện nó.

5. Các lá phiếu vượt tính tham vấn

Một trọng tâm chính vào tháng tới sẽ là đưa nhiều người tham gia hơn vào việc đưa ra các quyết định mục vụ trong Giáo hội.

Tài liệu Làm việc cho biết thẩm quyền giáo hội thích đáng sẽ được tự do đưa ra các quyết định cuối cùng mà không có "sự cạnh tranh hay xung đột", vì thẩm quyền này bắt nguồn từ "cấu trúc phẩm trật của Giáo hội do Chúa Kitô thiết lập".

Nhưng bản văn cũng ngụ ý rằng một giám mục phần nào bị ràng buộc phải chấp nhận "thỏa thuận chung phát sinh" từ các quá trình tham vấn.

Không rõ các xung đột có thể phát sinh cuối cùng sẽ được giải quyết ra sao theo cách tôn trọng cả hệ thống phẩm trật của Giáo hội lẫn viễn kiến đồng nghị được đưa ra.

Bức tranh này trở nên phức tạp hơn khi Tài liệu Làm việc đề xuất rằng công thức chuẩn mực nói về "chỉ là lá phiếu tham vấn" nên được sửa đổi, vì nó "làm giảm giá trị của tham vấn".

Mặc dù các chi tiết về những gì thực sự được đề xuất liên quan đến việc mở rộng sự tham gia vào quá trình ra quyết định vẫn còn rất mơ hồ, nhưng một sự thay đổi như vậy có thể gây ra hậu quả rất lớn. Mong đợi các đại biểu của thượng hội đồng yêu cầu nhiều rõ ràng hơn trong thời gian ở Rome.

6. Liên đới nội bộ Giáo hội

Do bản chất quốc tế của nó, Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã được những người tham gia ca ngợi là thời điểm liên đới sâu sắc hơn và làm giàu lẫn nhau giữa những người Công Giáo trong Giáo hội hoàn vũ. Ngoài ra, như Tài liệu Làm việc đã nói, "sự tồn tại của các Giáo hội giàu có và các Giáo hội sống trong khó khăn lớn là một điều tai tiếng".

Do đó, hãy mong đợi các đề xuất xuất hiện để chính thức hóa việc các Giáo hội địa phương chia sẻ những món quà tương ứng của họ, không chỉ là những món quà vật chất mà còn cả giáo lý và mục vụ.

Chắc chắn, những nỗ lực hợp tác giữa, chẳng hạn, các Giáo hội giàu có hơn ở phương Tây và các Giáo hội năng động hơn ở Nam Bán cầu đã tồn tại, bao gồm việc trao đổi linh mục và nguồn lực tài chính. Nhưng một đề xuất cụ thể từ thượng hội đồng có thể thúc đẩy sự cống hiến mới cho loại "chia sẻ quà tặng" này, tương tự như cách chỉ thị của Thánh Gioan XXIII đã khơi dậy phong trào các giáo xứ truyền giáo do Bắc Mỹ tài trợ ở Trung và Nam Mỹ vào những năm 1960.

7. Một Thượng hội đồng không bao giờ kết thúc

Bản dự thảo áp chót của bản tóm tắt phiên họp của thượng hội đồng năm 2023 bao gồm một đề xuất thành lập "một hội đồng thường trực gồm các Giám mục được các Hội đồng Giám mục bầu ra để hỗ trợ cho thừa tác vụ Phêrô" — nói cách khác, một "siêu hội đồng" thường trực, đại diện về mặt địa lý để cố vấn cho Đức Giáo Hoàng trên cơ sở liên tục.

Đề xuất này đã không được đưa vào bản văn hiệu đính cuối cùng khi đó, nhưng ngôn ngữ liên quan đã tìm được đường trở lại trong tài liệu chuẩn bị của phiên họp năm 2024.

Trích dẫn tông hiến Episcopalis Communio năm 2018 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tài liệu này kêu gọi chuyển đổi hội đồng "từ một sự kiện thỉnh thoảng thành một tiến trình của giáo hội kéo dài trong không gian và thời gian".

Mặc dù không có thông tin chi tiết cụ thể nào được cung cấp về cách chuyển đổi Thượng Hội đồng Giám mục từ một "sự kiện thỉnh thoảng" — thông thường là ba năm một lần về một chủ đề do Đức Giáo Hoàng quyết định — thành một "quy trình giáo hội" tiếp tục diễn ra, nhưng tài liệu đã khẳng định về "quy trình theo từng giai đoạn" của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị. Phiên họp bế mạc vào tháng 10 diễn ra sau ba năm các phiên họp cấp giáo phận, quốc gia và khu vực.

Thượng Hội đồng về tính đồng nghị có thể sẽ bế mạc vào cuối tháng 10. Nhưng nếu một điều gì đó giống như "siêu Thượng Hội đồng" được các đại biểu đề xuất và được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chấp thuận, chúng ta sẽ được nghe về các Thượng Hội đồng ở Rome trong thời gian dài hơn năm nay.



Tại Rôma, Thượng Hội đồng nữ tính nhất trong lịch sử bắt đầu “vòng” nhì
Phiên họp lần thứ hai của Thượng Hội đồng về tương lai của Giáo hội sẽ khai mạc ngày thứ tư  2 tháng 10, có khoảng năm mươi phụ nữ tham gia với quyền bỏ phiếu, một dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng vị trí của họ trong Giáo hội. Tuy nhiên, các vùng tối vẫn còn trong các vấn đề cụ thể của trao đổi
image.png

Khoảng 50 phụ nữ tham gia phiên họp lần thứ hai của Thượng Hội đồng về tương lai của Giáo hội khai mạc sáng thứ tư 2 tháng 10 tại Vatican 

Đây là biểu tượng của một cuộc cách mạng nhỏ. Trong bức hình ngày 19 tháng 10 năm 2023, khoảng 60 phụ nữ vẫy tay từ bậc thang của một cầu thang kiểu la-mã. Tất cả đều tham gia vào phiên họp đầu tiên được tổ chức tại Vatican về “Thượng Hội đồng về tính đồng nghị”, cuộc tham vấn toàn cầu rộng lớn này đã được Đức Phanxicô phát động tháng 10 năm 2021 để suy nghĩ về tương lai của Giáo hội. Hiện có 53 phụ nữ về lại Rôma để dự phiên họp lần thứ nhì kéo dài một tháng, bắt đầu ngày thứ tư 2 tháng 10.

Lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội công giáo, các “nghị mẫu” là nữ tu hay giáo dân sẽ được bỏ phiếu như các giám mục (chiếm 75%) trong hội đồng có 368 thành viên. Để đạt được sự cởi mở này, dù chưa bình đẳng, phụ nữ cần khẳng định mình là một trong những chủ đề chính của tiến trình đồng nghị. Nhìn lại ba năm tranh luận.

Tham vấn quốc gia

Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại hội trường Lyon. Tổng giám mục Éric de Moulins-Beaufort, chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp, giải thích: “Anh chị em thân mến, trên màn hình trước mặt anh chị em là văn bản các giám mục chúng tôi vừa bỏ phiếu (…) sau khi đã bỏ văn bản ban đầu”. Giống như các nơi khác trên thế giới, kể từ tháng 10 năm 2021, các giám mục ghi lại nguyện vọng của gần 150.000 giáo dân Pháp về tương lai của Giáo hội qua 48 câu hỏi.

Tại Lyon, các giám mục đã có những sửa đổi với bản tóm tắt các câu trả lời nhưng cuối cùng họ quyết định không sửa đổi và gởi về Rôma. Một nữ giáo dân cho biết: “Chúng tôi cảm nhận chúng tôi được lắng nghe, đây là cơ hội để bày tỏ những vết thương sâu sắc liên quan đến các tình huống bị loại trừ, về chức phó tế nữ, về việc có những nơi không cho các cô gái giúp lễ dù đã được Giáo hội cho từ năm 1994. Đó là những vấn đề chính vẫn còn trong chương trình của phiên họp này.”

Bản tóm tắt nguyện vọng của giáo dân Pháp có các chủ đề khác như: “Những khó khăn trong giao tiếp với các linh mục và giám mục, sự mất cân đối giữa số lượng phụ nữ tham gia vào Giáo hội và những người có quyền quyết định… Tinh thần phục vụ của phụ nữ được đánh giá cao nhưng tiếng nói của họ dường như bị phớt lờ. Cách thức đối xử với phụ nữ trong Giáo hội không được Giáo hội điều chỉnh theo sứ mạng ở thời điểm mà bình đẳng giữa nam và nữ đã trở nên hiển nhiên. Vì thế Giáo hội tự bỏ đi vô số đặc sủng và khả năng để ra khỏi tình trạng giáo sĩ trị.” Những kết luận này đã gây được tiếng vang rộng rãi trong Giáo hội, không chỉ ở phương Tây.

“Giai đoạn lục địa”

Praha, ngày 8 tháng 2 năm 2023. Thần học gia Baptist người Pháp Valérie Duval-Poujol phát biểu ở một khách sạn thủ đô Séc: “Nếu Giáo hội là một thân thể theo hình ảnh trong Kinh Thánh thì trong nhiều giáo phái kitô giáo, thân thể này bị tê liệt, bị liệt nửa người vì chúng ta tước đi một nửa ân sủng của các thành viên: phụ nữ.” Hội đồng các Giáo hội Châu Âu (CEC) mời bà đến nói chuyện với 200 đại diện công giáo – các hồng y, giám mục, linh mục, nữ tu, giáo dân nam nữ đến từ khắp Châu Âu để tham gia vào phiên họp lục địa chưa từng có này.

Thần học gia Baptist người Pháp Valérie Duval-Poujol

Bà khẳng định: “Sự tham gia của phụ nữ là một vấn đề lớn của phiên họp ở Praha, chúng tôi mong muốn giảm bớt các khía cạnh của hệ thống cấp bậc và chủ nghĩa giáo quyền trong Giáo hội…  Việc dựa vào phản hồi từ thực địa đã mang lại tính hợp pháp mạnh mẽ cho các cuộc thảo luận. Không có lễ rửa tội màu xanh cho con trai và màu hồng cho con gái! Chỉ có một lễ rửa tội!”

Được chính thức hóa trong “tài liệu tạm thời” đầu tiên – trước khi được tranh luận kín giữa các giám mục – những kỳ vọng bày tỏ ở Praha đã làm nảy sinh những điểm xung đột, giữa các tầm nhìn đôi khi hoàn toàn trái ngược nhau. Trước các phản đối của các Giáo hội Đông phương, một số tiếng nói của “khối Tây phương lấy làm tiếc cuộc tranh luận đã không tiến xa hơn – đặc biệt là về việc truyền chức linh mục cho phụ nữ -, sau những đề xuất của “con đường Thượng Hội đồng Đức”.

Phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng ở Rôma

Trong Hội trường Phaolô VI vào ngày 4 tháng 10 năm 2023, một số người tham dự tỏ ra bối rối. Đức Phanxicô đã mời 96 người không phải giám mục, trong đó có 54 phụ nữ. Một người tham dự cho biết: “Với một số giám mục từ các quốc gia ở Nam Bán cầu, nơi phụ nữ không được bình đẳng như ở Châu Âu, đây là lần đầu tiên họ thấy mình trao đổi một cách bình đẳng với một phụ nữ ở bàn ăn.” Tháng 10 năm 2023, một giám mục trả lời phỏng vấn: “Chúng tôi không nói giống nhau khi có phụ nữ trong nhóm.”


image.png

Phụ nữ trong Thượng Hội đồng tháng 10-2023

Theo hai nguồn tin, với ngày tháng trôi qua, sự khác biệt về thứ bậc đã ít rõ ràng, một số hồng y và giám mục chỉ mặc áo linh mục thường. Quá tập trung vào việc chia sẻ kinh nghiệm cá nhân – làm cho các thần học gia có mặt khó chịu –, một số chứng từ của phụ nữ đã được hoan nghênh như lời của một phụ nữ người Mỹ gốc Ba Lan có người chị tự tử vì cảm thấy mình tội lỗi vì mình là người đồng tính nữ.

Theo thông tin của báo La Croix, một cuộc họp kín đáo lẽ ra sẽ quy tụ hầu hết phụ nữ sẽ được tổ chức ở Rôma vào cuối kỳ họp, các “nghị mẫu” sẽ thảo luận về việc họ tham dự vào Thượng Hội đồng rất lịch sử này nhưng sẽ không thực hiện được vì có những bất đồng”

Một số người muốn công khai bày tỏ lòng biết ơn của họ với Giáo hội về lời mời tham dự nhưng cũng có những người muốn tận dụng văn bản dự kiến này để hỗ trợ một số yêu cầu nhất định, đặc biệt họ muốn có một vị trí lớn hơn cho phụ nữ trong các vị trí chịu trách nhiệm trong Giáo hội: “Cũng có lo ngại cho cách tiếp cận này sẽ bị cho là ‘một thượng hội đồng nhỏ trong thượng hội đồng”, bà lấy làm tiếc vì đã “bỏ lỡ cơ hội”.

Một vài ngày trước đó, những người tham gia đã tranh luận về chức phó tế nữ. Nếu việc đề cập đến chủ đề này cách đây vài năm là không thể tưởng tượng – nếu có một hoặc hai giám chức đi xa đến mức nói về các nữ linh mục – thì sẽ gặp sự phản đối cứng rắn của nhiều hồng y và giám mục.

Hiện diện trong phiên họp, Đức Phanxicô lắng nghe và ghi chép. Một trong những bài phát biểu hiếm hoi của ngài đã được Tòa Thánh công khai: ngài chỉ trích thái độ “trọng nam và độc tài” của một số linh mục bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa giáo quyền”, ngài nhắc lại – như ngài đã nhắc trong chuyến đi Bỉ từ ngày 27 đến 29 tháng 9 – “nữ tính” là đặc tính của Giáo hội.

Trích thư Thánh Phaolô gởi tín hữu thành Êphêsô (Êp 5:27), từ đó nảy sinh ra một nền thần học đã được ba giáo hoàng tiền nhiệm của ngài tiếp thu. Đức Bênêđíctô XVI viết năm 2006: “Mọi sự trong Giáo hội, mọi tổ chức và thừa tác vụ, kể cả thừa tác vụ Thánh Phêrô và những người kế vị đều được áo choàng của Đức Trinh Nữ che chở, trong không gian tràn đầy ân sủng của hai chữ “xin vâng” của Mẹ”. Ngày 28 tháng 9, tại trường đại học nói tiếng Pháp Louvain-la-Neuve, gần Brussels, quan điểm này là nguồn gốc của tranh cãi vì các sinh viên công giáo tại đây cho rằng ngài theo chủ nghĩa bản chất, phân biệt giới tính.

Trong báo cáo tóm tắt kỳ họp tháng 10 năm 2023, có một chương nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đấu tranh chống phân biệt đối xử với phụ nữ, mở rộng trách nhiệm của họ và áp dụng ngôn ngữ hòa nhập hơn. “Việc nghiên cứu thần học và mục vụ về khả năng tiếp cận chức phó tế nữ phải được các ủy ban thần học của Đức Phanxicô thành lập nghiên cứu. Một cách để loại chủ đề này ra khỏi các tranh luận của phiên họp lần thứ nhì này?” Một nguồn tin ở Vatican khẳng định: “Không,” đồng thời nhấn mạnh cần phát triển hơn nữa, chức phó tế nam chủ yếu vẫn được phát triển ở Châu Âu.

Nhiều câu hỏi liên quan đến vị trí phụ nữ vẫn còn ở trong chương trình làm việc của các cuộc tranh luận sắp tới. Tài liệu làm việc của phiên họp công bố ngày 9 tháng 7 năm 2024 đề cập đến các vị trí trách nhiệm của phụ nữ trong các giáo xứ, giáo phận và các thực thể khác của Giáo hội, kể cả trách nhiệm mục vụ và các hình thức mục vụ khác.

Tuy nhiên theo một quan sát viên ở Rôma, không nên mong chờ nhiều: “Nguyên tắc quan trọng nhất của Giáo hội là sự hiệp nhất. Vì vậy, như trong bất kỳ tranh luận nào thuộc loại này, các thành viên có khuynh hướng đồng thuận để kết thúc với một văn bản nhẹ nhàng về những câu hỏi có thể gây chia rẽ, như vấn đề phụ nữ.” Kết thúc phiên họp vẫn là quyết định của Đức Phanxicô. Theo truyền thống, một tông huấn sẽ được công bố vài tháng sau khi kết thúc các tranh luận để nói lên những gì Giáo hội giữ lại từ những tranh luận này. Một số người cho rằng có thể dùng báo cáo tóm tắt này cho tương lai, vì báo cáo này có thẩm quyền. Chắc chắn một quyết định sẽ mang tính đồng nghị nhưng nhiều người không tin.


Đức Thánh Cha Phanxicô điều hướng một cách tinh tế về vấn đề phụ nữ, Giáo hội và Thượng Hội đồng Hiệp hành năm 2024



Các đại biểu bỏ phiếu thông qua báo cáo tổng hợp tại phiên bế mạc Thượng Hội đồng về Hiệp hành vào ngày 28 tháng 10 năm 2023 (

Cuộc tranh luận về sự tham gia của phụ nữ trong Giáo hội Công giáo — bao gồm cả ý tưởng liệu phụ nữ một ngày nào đó có thể trở thành Phó tế hay không — không nằm trong chương trình nghị sự của phiên họp tháng này của Thượng Hội đồng Hiệp hành, nhưng các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng về chủ đề này vẫn tiếp tục, một số cuộc thảo luận theo lời mời gọi rõ ràng của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Vào ngày 2 tháng 10, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ khai mạc phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng Hiệp hành, phần cuối cùng của giai đoạn “phân định” của Tiến trình Hiệp hành bắt đầu vào năm 2021.

Mặc dù việc cho phép phụ nữ tham gia các Thừa tác vụ như Phó tế là một trong những chủ đề lớn tại hội nghị Thượng Hội đồng kéo dài một tháng vào năm ngoái, nhưng ban tổ chức cho biết vấn đề này hiện nằm trong tay các chuyên gia sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô thành lập một ủy ban tại cơ quan Giáo lý của Vatican để nghiên cứu vấn đề này theo yêu cầu của các đại biểu Thượng Hội đồng năm 2023.

Ủy ban tại Bộ Giáo lý Đức tin (DDF) sẽ cập nhật về công việc của mình trong cuộc họp tháng này với kế hoạch công bố tài liệu vào giữa năm 2025.

Trong khi các đại biểu và các tham dự viên khác tại cuộc họp Thượng Hội đồng sẽ tập trung vào cách thức trở thành một Giáo hội truyền giáo, thì cuộc thảo luận về phụ nữ cũng diễn ra ở những địa điểm khác: tại ủy ban nghiên cứu, tại các cuộc họp Thượng Hội đồng địa phương, trong các sự kiện trực tuyến và với Đức Thánh Cha cùng các Hồng y cố vấn của ngài.


Đức Thánh Cha Phanxicô và các đại biểu tại Thượng Hội đồng về Hiệp hành tại phiên bế mạc hội nghị vào ngày 28 tháng 10 năm 2023 (Ảnh: Truyền thông Vatican)

Đức Thánh Cha Phanxicô và các đại biểu tại Thượng Hội đồng về Hiệp hành tại phiên bế mạc hội nghị vào ngày 28 tháng 10 năm 2023 


Quan điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô

Khả năng cho phép phụ nữ Công giáo trở thành Phó tế vĩnh viễn là một vấn đề thường trực trong triều đại Giáo hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Mặc dù Đức Thánh Cha đã nhiều lần bày tỏ mong muốn nghiên cứu vấn đề này, đặc biệt là nhân vật nữ Phó tế trong lịch sử thời Giáo hội sơ khai, ngài cũng đã đưa ra câu trả lời chắc chắn rằng “các Phó tế có chức thánh” không phải là khả năng dành cho phụ nữ.

“Phụ nữ có thể phục vụ rất tốt với vai trò là phụ nữ, không phải trong vai trò Thừa tác viên trong lĩnh vực này, trong các chức thánh”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với người dẫn chương trình Norah O’Donnell của CBS News trong lần xuất hiện trên chương trình “60 Minutes” vào tháng 5.

Gần đây hơn, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về những vai trò khác nhau của nam giới và phụ nữ trong Giáo hội trong bài phát biểu trước các sinh viên tại Đại học Công giáo Louvain (UCLouvain) ở Bỉ vào ngày 28 tháng 9 trong chuyến Tông du bao gồm một ngày ở Luxembourg.

“Những gì đặc trưng cho phụ nữ, những gì thực sự nữ tính, không được quy định bởi sự đồng thuận hay ý thức hệ, cũng như phẩm giá được đảm bảo không phải bởi những luật lệ được viết trên giấy mà bởi một luật lệ ban đầu được ghi khắc trong trái tim chúng ta”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói, đồng thời cũng cho biết thêm rằng “thật kinh khủng khi một người phụ nữ muốn trở thành đàn ông”.

Trong thông cáo báo chí được đưa ra ngay sau cuộc gặp gỡ, cộng đồng trường đại học đã chỉ trích những phát biểu của Đức Thánh Cha về phụ nữ là phát biểu “liên quan đến thuyết định mệnh và giản lược”.

Tự bảo vệ mình trong cuộc họp báo trên chuyến bay Giáo hoàng trở về Rôma vào vào ngày hôm sau, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại nền tảng thần học trong nhiều tuyên bố hiện tại và trước đây của ngài về phẩm giá của phụ nữ và vai trò khác biệt của họ so với nam giới trong Giáo hội — điều gọi là “nguyên tắc Maria Phêrô” được được phát triển lần đầu tiên bởi thần học gia nổi tiếng người Thụy Sĩ Hans Urs von Balthazar và được viện dẫn trong giáo huấn của bốn triều đại Giáo hoàng gần đây nhất của Giáo hội.

Nguyên tắc này dựa trên chiều kích về Đức Maria và Thánh Phêrô như những biểu tượng minh họa cho vai trò khác nhau nhưng bổ sung cho nhau của phụ nữ và nam giới trong Giáo hội.

“Một Giáo hội chỉ có nguyên tắc Phêrô sẽ là một Giáo hội mà người ta nghĩ rằng bị thu hẹp lại chỉ còn là chiều kích thừa tác, không còn gì khác. Nhưng Giáo hội vượt xa khỏi chiều kích thừa tác đó. Đó là toàn thể dân Chúa. Giáo hội là một người phụ nữ. Giáo hội là một Hiền thê. Do đó, phẩm giá của phụ nữ được phản ánh theo cách này”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong một cuộc phỏng vấn với Tạp chí America năm 2022.

Phẩm giá của phụ nữ, Đức Thánh Cha tiếp tục trong cuộc phỏng vấn đó, phản ánh bản chất phu thê của Giáo hội, điều mà ngài gọi là “nguyên tắc Maria”.

“Phương pháp không chỉ là Thừa tác vụ có chức thánh. Giáo hội là một người phụ nữ. Giáo hội là Hiền thê. Chúng ta chưa phát triển một nền thần học về phụ nữ phản ánh điều này”, Đức Thánh Cha nói.


Một cuộc đối thoại cởi mở

Vào tháng 12 năm 2023, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời các giáo sư thần học đến để trò chuyện với ngài và Hội đồng Hồng y cố vấn của ngài về sự tham gia của phụ nữ trong Giáo hội. Đầu năm nay, những bài phát biểu này đã được xuất bản trong một loạt sách, một trong số đó có nhan đề: “Phụ nữ và các Thừa tác vụ trong Giáo hội Hiệp hành: Cuộc đối thoại cởi mở”.

Trong phần lời tựa cho cuốn sách tiếng Ý, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết rằng một khía cạnh quan trọng của tính Hiệp hành là phải có những cuộc đối thoại cởi mở.

“Tiến trình Hiệp hành, như một tiến trình phân định, bắt đầu từ thực tế và kinh nghiệm, trong cuộc đối thoại cởi mở và lòng trung thành sáng tạo với truyền thống tuyệt vời đã đi trước chúng ta và đồng hành cùng với chúng ta”, Đức Thánh Cha nói trong phần lời tựa vào ngày 25 tháng 3.

Các bài phát biểu trong các cuộc họp của các nhà thần học với Đức Thánh Cha Phanxicô và nhóm Hồng y vào tháng 12 năm 2023 và tháng 2 năm 2024 phần lớn chỉ trích cách đối xử hiện tại với phụ nữ trong Giáo hội và các lập luận thần học của một số Giáo hoàng gần đây về chức Linh mục và chức Phó tế chỉ dành cho nam giới.

Trong bài viết của mình, thần học gia và giáo sư người Ý, Nữ tu Linda Pocher, thành viên của Dòng Nữ tu Salêdiêng Don Bosco, cho rằng một số lập luận thường thấy về chức Linh mục chỉ dành cho nam giới không mạnh mẽ như thường thấy.

“Tôi không có ý nói rằng chúng ta nên xóa bỏ hoàn toàn sự dành riêng cho nam giới đối với Thừa tác vụ có chức thánh. Ý tôi là cơ sở lý luận đằng sau sự dành riêng đó không thuyết phục, và điều quan trọng là phải nhận ra và nhận thức được điều đó”, Nữ tu Pocher viết trong cuốn “Phụ nữ và các Thừa tác vụ trong Giáo hội Hiệp hành: Cuộc đối thoại cởi mở”.

Trong lời chứng của mình, thần học gia người Ý và là một phụ nữ tận hiến thuộc Dòng Ordo Virginum (“Dòng Trinh Nữ Thánh Hiến”), bà Giuliva Di Berardino, lập luận rằng Giáo hội Công giáo đang thiếu một Thừa tác vụ dành cho phụ nữ “công khai và chính thức”.

“Vấn đề mà chúng ta phải thừa nhận là thế giới Công giáo thiếu tính đặc thù của một Thừa tác vụ dành cho phụ nữ vốn có thể mở rộng thiên chức làm mẹ thiêng liêng của mỗi người phụ nữ, món quà đặc biệt của họ, đối với chiều kích phổ quát của Giáo hội”, thần học gia Giuliva Di Berardino cho biết.

Trong một cuốn sách tiếng Ý khác ra đời sau những cuộc gặp gỡ với các Hồng y, 3 thần học gia — 2 phụ nữ và 1 Linh mục — đã xem xét “nguyên tắc Maria – Phêrô” của thần học gia Hans Urs von Balthazar và đặt câu hỏi liệu những cách giải thích khác về Kinh Thánh và về Đức Trinh Nữ Maria có thể ủng hộ một Thừa tác vụ dành cho phụ nữ hay không.

Trong phần lời tựa của cuốn sách này có tựa đề “Giảm bớt nam tính hóa trong Giáo hội?”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết rằng “chúng ta đã nhận ra, đặc biệt là trong quá trình chuẩn bị và tổ chức Thượng Hội đồng, rằng chúng ta chưa đủ lắng nghe tiếng nói của phụ nữ trong Giáo hội và Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải học hỏi từ họ”.

Đức Thánh Cha cho biết điểm khởi đầu là sự suy tư của thần học gia Hans Urs von Balthasar về các nguyên tắc Maria và Phêrô trong Giáo hội, “một sự suy tư đã truyền cảm hứng cho Huấn quyền của các Giáo hoàng gần đây trong nỗ lực hiểu và đánh giá cao sự hiện diện khác nhau của nam giới và nữ giới trong Giáo hội”.

“Tuy nhiên, điểm cuối cùng nằm trong bàn tay của Thiên Chúa”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.

“Đây là điều tôi mong muốn tại thời điểm này trong Tiến trình Hiệp hành: chúng ta không mệt mỏi khi cùng nhau bước đi, vì chỉ khi chúng ta bước đi, chúng ta mới là chính mình, là thân thể sống động của Đấng Phục sinh đang chuyển động, đang ra đi, đang gặp gỡ anh chị em của chúng ta, không sợ hãi, trên các ngả đường phố của thế giới”, Đức Thánh Cha nói.

Đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, hành trình của Thượng Hội đồng về Hiệp hành chính là đích đến, và hành trình đó chính là lắng nghe thực tế sống động của anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô và đồng hành với họ.

Như triết gia và thần học gia Lucia Vantini đã nói trong bài trình bày của bà trước Hội đồng Hồng y Cố vấn năm ngoái: “Vấn đề về các Thừa tác vụ hiện không còn nằm trong chương trình nghị sự, nhưng giờ đây nó lấp lửng đây đó và áp lực của nó được cảm nhận: Giống như một bóng ma, nó lởn vởn trong các phòng họp của chúng ta, làm gián đoạn suy tư và ngăn cản sự thẳng thắn giữa chúng ta”.

Thượng Hội đồng: không có chức phó tế cho phụ nữ

Viễn cảnh mở chức phó tế cho phụ nữ thường thấy trong hành trình Thượng Hội đồng này nhưng không thành công. Phản ứng của thần học gia Anne-Marie Pelletier.

Đây là một bất ngờ hạnh phúc. Khi kết thúc các cuộc tham vấn quốc gia chuẩn bị cho Thượng Hội đồng năm 2023, có vẻ như vị trí của phụ nữ trong Giáo hội không chỉ là mối quan tâm chung mà còn là ưu tiên trên phạm vi toàn cầu. Vấn đề về chức phó tế nữ được đưa ra một cách quyết liệt. Vì thế không chỉ có yêu cầu của các phụ nữ kitô giáo ở rừng già Amazon đã khơi lại chủ đề này trong Thượng hội đồng năm 2019. Lòng tin tưởng rất mạnh, hy vọng vấn đề này cuối cùng sẽ được giải quyết.

Mệt mỏi! Kể từ đó thất vọng nhân lên! Chủ đề này đã biến mất khỏi chương trình của phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng: không có trong các chủ đề của 10 nhóm nghiên cứu được thành lập để hỗ trợ và kéo dài Thượng Hội đồng cho đến năm 2025. Cuối cùng, khi đài truyền hình Mỹ CBS phỏng vấn Đức Phanxicô tháng 5 năm 2024, ngài đã phản đối việc phong chức phó tế nữ. Bất chấp công việc của Thượng Hội đồng, vấn đề đã được giải quyết. Không có các nữ phó tế nào chịu trách nhiệm trả lời cho công việc này.

Mâu thuẫn khó chịu

Cú sốc thật nặng nề, nỗi thất vọng thật lớn lao. “Phụ nữ luôn có chức năng nữ phó tế nhưng không phải là phó tế,” là lời phản đối đau lòng trong cuộc phỏng vấn. Nói cách khác, phụ nữ bằng lòng với công việc phục vụ. Hiển nhiên họ luôn làm ở mọi nơi, hy sinh không mệt mỏi, để Giáo hội hoàn thành sứ mệnh của mình.

Nhưng làm sao chúng ta không ngạc nhiên khi nói đến chức phó tế nam vĩnh viễn được Công đồng Vatican II tái lập, văn bản công đồng (Ad gentes, 16) giải thích phó tế cần ân sủng bí tích để có thể triển khai đầy đủ sứ mệnh của mình? Liệu phụ nữ có thực hiện được chức vụ phó tế mà không cần đến ân sủng này không?

Sự mâu thuẫn đáng xấu hổ

Sự thật, dù được tách ra một cách rõ ràng khỏi chương trình giảng dạy của linh mục, chức phó tế nam vĩnh viễn vẫn gắn liền với địa vị linh mục và chủ nghĩa độc quyền nam giới. Ít nhất là trong tâm trí của những người từ chối chức phó tế nữ. Đặc biệt vì phó tế được quyền phục vụ bàn thờ, được giảng lễ, cũng như cử hành một số bí tích như rửa tội, chủ tế hôn phối. Tất cả những điều có thể tăng thêm sức nặng cho chức phó tế mà phụ nữ đã thực hiện, nhưng chính xác là chúng ta có ý định để ngoài tầm với của họ.

Thực ra, việc phong chức phó tế nữ sẽ buộc chúng ta đặt câu hỏi kỹ hơn một chút về cơ cấu thể chế, nền tảng của thể chế vẫn là chức linh mục được truyền chức cho người nam độc thân. Đây thực sự là điểm phản kháng bị ẩn giấu dưới sự phản đối cho rằng trong tất cả những điều này, đó sẽ là cuộc đấu tranh giành quyền lực của phụ nữ mà họ được giải thích sẽ chỉ là giáo sĩ hóa họ.

Thật đau khổ khi đối thoại với những người khiếm thính. Làm thế nào để họ có thể hiểu chính đời sống Giáo hội trong chiều kích trọn vẹn nam tính và nữ tính đang bị đe dọa? Làm thế nào để họ hiểu đây không phải là vấn đề quyền lực hay muốn được công nhận, nhưng cơ bản là sứ mệnh Giáo hội, để ân sủng của cuộc đời Chúa Kitô đến với thế giới, thông qua mọi hình thức gần gũi đương thời mà phụ nữ kitô giáo dự phần vào nhiệm vụ phục vụ? Trên thực tế, chính vì cuộc tranh luận chạm đến chiều sâu này mà nó tiếp tục bị đình trệ trong 50 năm bất chấp vô số công trình học thuật, những trao đổi trái ngược nhau, cho đến hai ủy ban do Đức Phanxicô triệu tập liên tiếp.

Sự trì hoãn này sẽ cảnh báo chúng ta. Trong một số trường hợp, chúng ta đã gần đạt được quyết định tích cực nhưng lại bị né tránh. Bất chấp tất cả, câu hỏi vẫn mở, không thể giải quyết được, như thể chúng ta đang đứng trên bờ vực thẳm. Tuyên bố gần đây của Giáo hoàng dường như muốn nói mọi sự đã làm xong. Nhưng hiện nay, về đời sống kitô giáo nữ tính, có rượu mới, thứ mà chúng ta phải hy vọng cuối cùng sẽ làm vỡ bầu da cũ.

If women cannot be deacons, we should stop ordaining men deacons

image.png

Sau những lời của Giáo hoàng, chúng ta có nên “chôn” chức phó tế nữ không?

Trong một phỏng vấn gần đây với đài truyền hình Mỹ CBS, Đức Phanxicô dường như loại trừ khả năng cho phụ nữ làm phó tế. Đã có nhiều phản ứng, một số Thượng Hội đồng Quốc gia nhấn mạnh điểm này trong phiên họp tháng 10 tại Rôma.

“Không,” Đức Phanxicô đơn giản trả lời. Trong một phỏng vấn ngày 24 tháng 4 năm 2024, phát sóng vào ngày 21 tháng 5, nhà báo Mỹ Norah O’Donnell hỏi: “Liệu một bé gái công giáo ngày nay khi lớn lên sẽ có thể làm phó tế và là thành viên giáo sĩ trong Giáo hội không?” Đức Phanxicô nói rõ: “Không, nếu đó là  phó tế với chức thánh thì không (…) Nhưng phụ nữ luôn có chức năng phó tế, phụ nữ luôn phục vụ tốt đẹp trong tư cách là phụ nữ chứ không phải trong tư cách là thừa tác viên của một thứ trật thiêng liêng.”

Một gáo nước lạnh?

Nhiều người công giáo đã phản ứng mạnh, nhất là phụ nữ, họ đặt nhiều hy vọng vào cải cách này. Bà Marie-Christine Conrath, thành viên của Mạng lưới Phụ nữ trong Giáo hội, ở Thụy Sĩ vùng tiếng Pháp nói với trang Công giáo Thụy sĩ: “Tôi buồn và tức giận, đó là một thất vọng lớn lao, một lần nữa chúng tôi thấy mức độ phụ nữ không được thừa nhận trong Giáo hội lớn đến như thế nào. Khi nào Giáo hội sẽ tỉnh thức?”

Lời của Đức Phanxicô càng gây sốc hơn khi có nhiều tin đồn cho rằng ngài sẽ thuận với chức phó tế nữ. Nữ tu Linda Pocher, một trong những cố vấn chính của ngài về chủ đề này cho biết “ngài ưu ái với chức phó tế nữ”.

Nhưng sau khi nghe kỹ cuộc phỏng vấn, các nhà quan sát thấy Đức Phanxicô không loại trừ khả năng này, nếu đó không phải là  “truyền chức”, là đưa phụ nữ vào thể chế. Một bước đi không làm hài lòng cho những ai muốn có một vị trí công bằng cho phụ nữ trong Giáo hội. Bà Marie-Christine Conrath bảo đảm: “Nếu sự phát triển một tổ chức dành cho phụ nữ được xác nhận, chúng tôi sẽ chấp nhận vì chắc chắn mọi thứ đang tiến triển theo từng bước nhỏ”. Nhưng đây là những bước chậm. Các nhà lãnh đạo Giáo hội không nhận ra vai trò “hạng hai” mà họ dành cho phụ nữ đã gây tổn thương cho phụ nữ đến như thế nào. Chúng tôi cảm thấy chúng tôi chỉ có thể im lặng, phục tùng, dù chúng tôi đã làm rất nhiều việc.”

Không “gia ân” cho chức phó tế nữ 

Bà Claire Jonard, điều phối viên tại Thượng Hội đồng tháng 10 năm 2023 nghĩ rằng Đức Phanxicô đã có thể vạch ra một “con đường thứ ba” cho chức phó tế nữ, không cần phải chịu chức: “Vấn đề về chức phó tế nữ đã có trong các báo cáo của Hội đồng Giám mục của nhiều quốc gia gởi về Rôma. Trường hợp Thụy Sĩ, tài liệu này kêu gọi đừng bằng lòng chức phó tế ‘gia ân’.” Trong bối cảnh Thụy Sĩ, một hình thức đặc biệt của chức phó tế ‘dành cho phụ nữ’ sẽ bị cho là chuyện xuống cấp phụ nữ như việc phân cấp chức phó tế liên quan đến thừa tác vụ chịu chức” (thư gởi Vatican tháng 5-2024).

Đức Phanxicô gắn kết với tầm nhìn thể chế được chia theo chiều kích ‘Phêrô’ và ‘Maria’

Chức phó tế nữ là chủ đề được được tranh luận nhiều nhất ở Thượng Hội đồng, phản ánh toàn cầu này là để Giáo hội tham gia và đón nhận nhiều hơn, ít tập trung hơn, ít mang tính giáo sĩ hơn. Trong lần họp tháng 10 năm 2023, các thành viên kêu gọi “tiếp tục nghiên cứu thần học” đặc biệt dựa trên kết quả của các ủy ban do Giáo hoàng thành lập năm 2016 và sau đó là năm 2020.

Mặc dù kết luận về công việc của họ chưa bao giờ được công khai, nhưng theo nguồn tin của I.Media (từ Vatican), chúng tôi biết công việc của ủy ban thứ hai – có các thành viên bị ràng buộc với bí mật giáo hoàng – đã được đệ trình lên Giáo hoàng cuối năm 2022. Trong tài liệu tóm tắt tháng 10, Thượng Hội đồng yêu cầu trình bày kết quả này tại phiên họp tiếp theo, cho rằng dự án này do đó có thể được tiến hành.

Theo Truyền thống hay theo Giáo hội nguyên thủy?

Tuy nhiên, Thượng Hội đồng bị chia rẽ giữa những người cho rằng chức phó tế nữ sẽ “không thể chấp nhận vì không liên tục với Truyền thống”, hoặc những người cho rằng như thế “thiết lập lại cách làm của Giáo hội nguyên thủy”.

Nếu các sử gia đồng ý về sự hiện diện của các nữ phó tế trong những thế kỷ đầu tiên của Giáo hội, thì có hai cách tiếp cận đối lập nhau liên quan đến bản chất của việc truyền chức cho nữ phó tế. Cách thứ nhất là họ được truyền chức bằng việc đặt tay và nghi thức này có chiều kích bí tích. Cách thứ hai ngược lại, chức phó tế nữ không bao giờ có thể tương đương với chức phó tế nam, đó không phải là một bí tích nhưng là một thừa tác vụ được thiết lập – như các mục vụ ngày nay, giáo lý viên hoặc người đọc sách, được mở ra cho giáo dân.

Một cuộc phỏng vấn không phải là một văn bản có tính giáo huấn

Vấn đề về tính hợp pháp của chức phó tế nữ được đặt chồng lên vấn đề bản chất của Giáo hội. Đức Phanxicô gắn kết tầm nhìn thể chế chia theo chiều kích ‘Phêrô’ và ‘Maria’. Một ý tưởng được thần học gia Thụy Sĩ Urs von Balthasar (1905-1988) khai triển, ngài có ảnh hưởng trên Giáo hoàng. Chiều kích Phêrô là tông truyền do các giám mục lãnh đạo, và chiều kích Maria là khía cạnh nữ tính của Giáo hội. Một khái niệm bị nhiều nhà quan sát chỉ trích vì lỗi thời và khái quát hóa. Lời “không” của Đức Phanxicô có xu hướng xác nhận ngài muốn bám vào đường nét khái quát của Truyền thống hơn là tiến tới những thay đổi lớn.

“Liệu chúng ta có thể hướng đến một ‘giải pháp phù hợp’ với những vấn đề nhạy cảm khác nhau của Giáo hội không?”

Như thế cuộc phỏng vấn của CBS dứt khoát “chôn vùi” ý tưởng về chức phó tế nữ, hay chúng ta vẫn có thể mong chờ một thay đổi? Bà Claire Jonard nhớ lại: “Đức Phanxicô sẽ là người đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng chúng ta phải nhớ, cuộc phỏng vấn không phải là một văn bản huấn quyền. Nó không xác nhận bất kỳ quyết định nào. Tôi nghĩ chúng ta phải chờ kết thúc tiến trình Thượng Hội đồng để biết ý kiến dứt khoát về việc này.” 

Hướng tới một chức phó tế theo “hình học biến thiên”?

Không phải là không thể xảy ra như trường hợp của tuyên bố Fiducia supplicans (tháng 12 năm 2023, cho phép chúc phúc cho các cẵp vợ chồng bất hợp lệ), đã có ảnh hưởng đến Giáo hoàng trong vấn đề chức phó tế nữ. Những phản ứng cực kỳ gay gắt theo sau tài liệu đã làm cho ngài phải tìm một thỏa hiệp, cho phép các giám mục Châu Phi không áp dụng văn bản. Đức Phanxicô có bị “cháy” vì kinh nghiệm không tốt này nên quyết định tạt một gáo nước lạnh vào những cải cách của mình không?

Vì thế liệu chúng ta có thể tiến tới, như với việc chúc lành cho các cặp đồng tính, hướng tới một “giải pháp riêng” cho những nhạy cảm khác nhau của Giáo hội không? Ý tưởng này đã được nữ thần học gia Mỹ Phyllis Zagano đưa ra. Bà bảo đảm chức phó tế nữ “chỉ là vấn đề thời gian”, bà nghĩ, nếu không chấp nhận một cách rõ ràng các nữ phó tế, thì Giáo hoàng có thể thiết lập một tình huống trong đó giáo phận có thể phong phó tế cho phụ nữ, sau đó họ sẽ được Vatican xác nhận. 

“Những lời của Đức Phanxicô có thể tạo gián đoạn trong cuộc bỏ phiếu của Thượng Hội đồng” Claire Jonard

Bà Helena Jeppesen, đại biểu Thụy Sĩ tại Thượng Hội đồng kêu gọi các giáo phận trong nước tự mình hành động: “Họ phải khẩn cấp giới thiệu những gì có thể làm trong phụng vụ mà không cần thánh hiến: rửa tội, cử hành Lời Chúa kèm rước lễ, giảng lễ.” Theo bà, chính hành động thực tế tại chỗ, ngoài sự hợp tác ở cấp Thượng Hội đồng Thế giới sẽ có ảnh hưởng và thay đổi Giáo hội, có lẽ thay đổi cả thần học”. 

Rắc rối về Thượng Hội đồng

Tuy nhiên, về mặt nội dung, hình thức can thiệp của Đức Phanxicô cũng đặt ra nhiều câu hỏi. Bà Claire Jonard thừa nhận: “Tôi không thể hiểu được ý nghĩa này. Có phải ngài muốn khơi dậy cuộc tranh luận về chủ đề này không? Tôi nghĩ dù sao điều này sẽ không làm cho việc đọc tiến trình Thượng Hội đồng trở nên rõ ràng hơn. Chức phó tế nữ là vấn đề được nhiều báo cáo quốc gia đưa vào chương trình nghị sự, dù sao nó sẽ được thảo luận và đưa vào Tài liệu Làm việc. Lời nói của Giáo hoàng chắc chắn có thể làm gián đoạn việc bỏ phiếu.”

Bà Marie-Christine Conrath cũng bối rối, dù bà bảo đảm bà sẽ tiếp tục tham gia Thượng Hội đồng, nhưng tình tiết mới này đã làm cho niềm tin của bà vào tiến trình này bị lung lay: “Nếu mục tiêu là lắng nghe lẫn nhau, nhưng cuối cùng chúng ta không nghe phụ nữ, như vậy tất cả những điều này mang lại ý nghĩa gì?”







Thượng Hội đồng: “Từ cả ngàn năm nay, phụ nữ làm cho hàng giáo sĩ sợ”

Khi phiên họp lần thứ nhì của Thượng Hội đồng khai mạc ở Rôma, thần học gia Anne Soupa lấy làm tiếc Giáo hội đã từ chối  các cuộc thảo luận về vị trí của phụ nữ trong các cuộc tranh luận. Một quyết định của các giáo hoàng đã là một phần của lịch sử lâu dài về hình thức xem thường, thậm chí “quỷ hóa” phụ nữ của hàng giáo sĩ.

Khi phiên họp thứ nhì của Thượng Hội đồng lần thứ nhì sắp bắt đầu, chúng ta có lý do để ngạc nhiên khi thấy vấn đề phụ nữ có quá ít chỗ đứng trong Thượng Hội đồng lần này cũng như trong Giáo hội, cả trong cách đối xử với phụ nữ.

Việc loại vấn đề phụ nữ ra khỏi các tranh luận ở Thượng Hội đồng là quyết định của Đức Phanxicô, ngài tái khẳng định loại họ ra khỏi “các sứ vụ thiêng liêng”, có nghĩa khỏi hàng giáo sĩ.

Chúng ta biết ngài không muốn “giáo sĩ hóa” phụ nữ. Ngài thích nhờ đến chức tư tế chung của tín hữu nhờ phép rửa tội, qua phép rửa tội họ được thăng tiến, nam cũng như nữ.

Nhưng vì sao ngài không kết hợp hai quyết định khiêm hèn này với những hành vi tích cực dành cho phụ nữ? Điều này chỉ có thể làm cho chúng ta nghĩ, phụ nữ không có giá trị gì trong tâm trí của ngài và của toàn bộ huấn quyền La Mã, vĩnh viễn vướng vào những căng thẳng liên quan đến tuyên bố của Fiducia supplicans về đồng tính. Bị mắc kẹt giữa những áp lực đối lập, ngài dường như bằng lòng với việc điều khiển kém, một cú chèo sang trái, một cú chèo sang phải và chèo dọc theo … Nhưng đằng sau những chiến lược tinh tế này, có một nửa nhân loại. Phụ nữ được xem trọng ở mức độ nào?

Khó hội nhập vào Giáo hội

Điều ngạc nhiên thứ hai là vì sao việc thúc đẩy sự hội nhập của phụ nữ trong Giáo hội lại khó đến vậy. Việc một thể chế “thế tục” đang phanh lại không có gì đáng ngạc nhiên: chủ nghĩa tập đoàn giới rất mạnh cũng như việc bảo toàn các đặc quyền.

Nhưng Giáo hội của Chúa Kitô không phải là thế giới: Giáo hội  phải là tình huynh đệ và tình chị em. Chúa Giêsu không bao giờ để phụ nữ bị tẩy chay và phải chịu khuất phục. Ngài muốn họ được tự do, tự do giống như các ông đã được tự do. Trong Giáo hội “chuyên gia về nhân loại”, chúng ta nên nghe tiếng kêu này từ trái tim: “Các chị yêu dấu, cánh cửa Giáo hội đang rộng mở chào đón các chị, chúng ta hãy cùng nhau xây dựng Vương quốc!”

 Nỗi sợ của hàng giáo sĩ

Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp này. Một mặt, trong hơn một ngàn năm, phụ nữ đã làm cho hàng giáo sĩ sợ, họ giữ khoảng cách với phụ nữ, bôi xấu phụ nữ vì họ bị lời khấn khiết tịnh đe dọa. Mặt khác, nam tính của giới giáo sĩ được xây dựng dựa trên nam tính của Thiên Chúa, tưởng tượng và sai sót, nhưng đã neo chặt đủ để ngăn cản việc xem phụ nữ cũng là đại diện của Chúa Kitô. Sau đó đến lượt giới tính cố định các chức năng, một bên là nam, một bên là nữ.

Cuối cùng, để thiết lập kiểu này, Rôma viện đến khái niệm “sự khác biệt” bằng cách gán cho phụ nữ “ơn gọi” làm vợ và làm mẹ, xác nhận việc họ bị loại trừ khỏi “các chức thánh”. Vì thế một bất bình đẳng về mặt bản thể được thiết lập hoàn toàn xa lạ với tinh thần của Chúa Giêsu. Rõ ràng, Giáo hội tuân thủ các luật lệ của chủ nghĩa tập đoàn thế tục hơn là tuân theo các hướng dẫn của Phúc âm. Nhưng khi cho rằng phụ nữ “kém” hơn nam giới, có phải điều này làm cho người công giáo trở thành thuộc địa cuối cùng trong thế giới phương Tây không? Đối diện với sức nặng của một nguy cơ như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi huấn quyền không vội vã chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc này càng nhanh càng tốt?

Trong mắt Chúa

Điều ngạc nhiên thứ ba liên quan đến phụ nữ chúng ta: vì sao chúng ta lại phải chịu đựng tình trạng này? Có phải vì chúng ta ít tự trọng, ít quan tâm đến bản thân mình? Có phải chúng ta không có giá trị trước mắt Chúa? Trên mảnh đất nhân quyền, trong một thể chế lẽ ra phải nêu gương về giải phóng, liệu chúng ta có chấp nhận vĩnh viễn bị giao cho việc thoái lui này không? Có phải chúng ta, như nhà văn Pháp La Boétie (1530-1563) nhắc nhở, là đồng phạm của tình trạng nô lệ tự nguyện không?

Chúng ta đừng nghĩ khi cúi lưng xuống là chúng ta có đức khiêm nhường, như một số tuyên úy vẫn thì thầm với các nữ tu: “Bằng sự hạ mình, các chị chia sẻ trong im lặng những đau khổ của Chúa Giêsu.” Không, sự khiêm tốn này chỉ là lười biếng, sợ hãi đội lốt nhân đức. Sự hạ mình bỏ qua những tài năng của Đấng Tạo Hóa ban nhờ thái độ của kẻ xấu, của người quản lý bị chủ khiển trách vì không làm lợi cho tài sản của mình.

Vì tài năng của chúng ta là tài sản của Đấng Tạo Hóa chứ không phải của riêng chúng ta. Khi coi thường bản thân, người quản lý cũng coi thường chủ: “Tôi biết ông là người chủ khắc nghiệt” (Mt 25, 14-30). Đây có phải là cách chúng ta nói về Chúa không? Lòng tự trọng trước hết là quý trọng hành động sáng tạo của Thiên Chúa. Thánh vịnh nói: “Thật ngạc nhiên là tôi lại như vậy” (Tv 139). Làm sao chúng ta có thể không làm mọi thứ để tôn vinh Ngài?

Phẩm giá của phụ nữ

Đúng là dưới chỉ dẫn của huấn quyền với phụ nữ có thể có vẻ nhẹ nhàng và đối với một số người, có vẻ thư giãn. Cuối cùng thì nên tránh xa những xung đột, hy vọng san bằng họ, chấp nhận vai trò thứ yếu giao cho họ… Tuy nhiên, ở đây không có lòng tự trọng. Chắc chắn, phẩm giá của phụ nữ được tái khẳng định, nhưng nó ở trên Thiên đàng; chắc chắn, những lời khen ngợi, đôi khi cuồng nhiệt, nhưng không có hậu quả thực tế; chắc chắn là có những trách nhiệm, nhưng phải xuất phát từ trọng tâm mục vụ mới tốt. Chúng ta có phải là những con ngỗng tuyết dễ lừa không?

Vậy chúng ta muốn gì? Sự quyến rũ kín đáo của chủ nghĩa bảo thủ gia trưởng hay tự do truyền giáo? Nếu chúng ta muốn Giáo hội của chúng ta trung thành với sứ điệp của Chúa Giêsu, thì vấn đề phụ nữ là một vấn đề cấp bách đối với mọi tín hữu công giáo.



Vatican lên kế hoạch cho tài liệu mới về phụ nữ trong Giáo hội

Ngày thứ tư 2 tháng 10, Hồng y Victor Fernandez, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin cho biết một tài liệu huấn quyền về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đang được chuẩn bị. Vấn đề về chức phó tế nữ cần được giải quyết.

Vai trò của phụ nữ trong Giáo hội không phải là chủ đề chính thức của Thượng Hội đồng lần này. Phiên họp lần này chủ yếu tập trung vào các phương thức quản trị trong Giáo hội, nhưng giáo dân mong chờ rất nhiều về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội. Có lẽ để giải quyết những quan tâm này, bộ Giáo lý Đức tin đã soạn một văn bản về chủ đề này. Một sáng kiến được Hồng y Fernandez công bố trước 369 thành viên tham dự.

Hồng y Fernández cho biết các chủ đề sẽ bàn luận trong phiên họp: bản chất của quyền năng bí tích, mối quan hệ giữa quyền lực này và các thừa tác vụ trong Giáo hội, nguồn gốc của các thừa tác vụ giáo hội, các thừa tác vụ và chức năng của giáo hội không truyền chức và các vấn đề phát sinh từ việc truyền chức sai lầm.

Đức Phanxicô nói “không”

Vấn đề với chức phó tế cho phụ nữ cũng phải được xem xét trong tài liệu tương lai. Ngài cho biết lúc này ngài chưa xem xét một quyết định tích cực nào theo hướng này. Trong một cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình Mỹ CBS tháng 5 năm 2024, Đức Phanxicô đã loại trừ chức phó tế nữ, trước đó có nhiều dấu hiệu cho thấy ngài khá ủng hộ tiến trình này.

Tài liệu mới về phụ nữ sẽ được Đức Phanxicô xem xét và phê duyệt. Hồng y Fernandez không nói thêm về tiến trình của dự án này.

Bộ Giáo lý đức tin sẽ công bố văn kiện về phụ nữ trong Giáo hội


Đức Hồng y Manuel Fernandez Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, cho biết có dự án công bố một văn kiện mới về phụ nữ trong Giáo hội.

Trong phiên khoáng đại đầu tiên, chiều thứ Tư, ngày 02 tháng Mười vừa qua, với sự tham dự của 350 người tại Thượng Hội đồng Giám mục ở nội thành Vatican, Đức Hồng y Fernandez, người Argentina, đã trình bày về hoạt động của nhóm nghiên cứu do Đức Thánh cha thiết lập về vấn đề này và thông báo quyết định soạn một văn kiện về đề tài trên đây, trong sự đối thoại với Văn phòng Tổng thư ký Thương Hội đồng Giám mục.

Văn kiện sẽ bàn về những vấn đề như: bản chất của quyền do thánh chức, tương quan giữa quyền này và các giáo vụ hay thừa tác vụ trong Hội Thánh, nguồn gốc các thừa tác vụ, các giáo vụ và chức năng không đòi phải có thánh chức, và sau cùng là các vấn đề nảy sinh do quan niệm về quyền bính trong Giáo hội.

Đức Hồng y Fernandez nhấn mạnh rằng, “chúng tôi biết rõ lập trường của Đức Thánh cha về vấn đề truyền chức phó tế cho phụ nữ. Ngài coi đây là một vấn đề chưa chín mùi. Những vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu rộng hơn để chuẩn bị cho văn kiện mới. Có những vấn đề khác cần được giải quyết trước khi nói về chức phó tế phụ nữ, chẳng vậy, chức này sẽ trở thành một phần thưởng an ủi đối với một số phụ nữ”.

Dự thảo sẽ được đệ trình lên Đức Thánh cha để ngài duyệt xét và phê chuẩn. Đức Hồng y không cho biết thời biểu nghiên cứu và soạn văn kiện mới này.

Gần đây nhất, hồi tháng Mười Hai năm 2023, Đức Hồng y Fernandez được các cơ quan truyền thông và dư luận nói tới rất nhiều, sau khi công bố Tuyên ngôn cho phép chúc lành ngoài phụng cho các cặp đồng phái. Văn kiện được nhiều người chào mừng, nhưng cũng bị nhiều Hội đồng Giám mục, đặc biệt tại Phi châu phê bình và cũng tạo nên những căng thẳng với các Giáo hội Chính thống và các Giáo hội khác, như Giáo hội Copte.

Trước đây, Đức Thánh cha Phanxicô đã thành lập hai Ủy ban nghiên cứu về chức phó tế phụ nữ. Nhưng cho đến nay không có quyết định nào được đề ra. Tuy nhiên, hơn một lần ngài đã nói rằng việc phục hồi vai trò của các nữ “phó tế” thời các tông đồ là điều có thể, nhưng việc truyền chức phó tế cho phụ nữ thì không được.


ĐTC Phanxicô được chiêm ngắm thánh tích Ngai tòa Thánh Phêrô
Sáng ngày 2/10/2024, trước khi cử hành Thánh lễ khai mạc phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về Hiệp hành, Đức Thánh Cha đã đến phòng thánh Ottoboni của Đền thờ Thánh Phêrô để chiêm ngắm thánh tích Ngai tòa Thánh Phêrô đang tạm thời được lưu giữ ở đó.


Theo thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh, Ngai tòa Thánh Phêrô là một ngai cổ xưa bằng gỗ và tượng trưng cho quyền tối thượng của Thánh Phêrô và đã được chuyển đến phòng thánh Ottoboni khi công trình trùng tu tán che trên Bàn thờ Tuyên xưng Đức tin được bắt đầu để chuẩn bị cho Năm Thánh 2025.

Cha Enzo Fortunato, giám đốc truyền thông của Đền thờ Thánh Phêrô, cho biết “việc trùng tu đã bắt đầu và khi [Đức Thánh Cha] ở trong Đền thờ, ngài muốn được nhìn thấy Ngai tòa này. Ngài đã thấy nhiều đồ vật khác nhau, bao gồm cả Ngai tòa”.

Trang web của Cơ quan bảo trì Đền thờ Thánh Phêrô cho biết, trong quá trình khôi phục tán che trên bàn thờ Tuyên xưng Đức tin, “Văn phòng Nghiên cứu Khoa học của Bảo tàng Vatican sẽ phụ trách các nghiên cứu khoa học, sẽ được thực hiện theo nhiều giai đoạn”.

Giáo hội cử hành lễ kính nhớ Ngai tòa Thánh Phêrô vào ngày 22/2 hàng năm nhằm tôn vinh quyền tối thượng của Thánh Phêrô và những người kế vị ngài. Việc cử hành này tưởng nhớ quyền năng được Chúa Kitô trao ban cho người đại diện cho Người trên trái đất, là người đứng đầu Giáo hội và là Đức Giáo Hoàng, như được viết trong các Tin Mừng đã chỉ ra: “Con là Đá và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được” 


Pew: Sự gia tăng của những người “không theo tôn giáo nào” là một trong những thay đổi lớn nhất ở Hoa Kỳ trong 20 năm
    Trung tâm nghiên cứu Pew đã đánh giá sự thay đổi trong dư luận trong hai thập kỷ qua, trong đó sự gia tăng của những người không theo tôn giáo là đáng kể nhất.



Trung tâm nghiên cứu Pew đang quay ngược lại hai thập kỷ để liệt kê những thay đổi lớn nhất đối với dư luận công chúng Hoa Kỳ. Trong số những thay đổi đáng chú ý nhất là sự gia tăng của những người “không theo tôn giáo nào” hoặc những người không có liên kết tôn giáo.

Một thuật ngữ bao trùm bao gồm những người vô thần, người theo thuyết bất khả tri hoặc những người chọn “không đề cập cụ thể” trong các cuộc khảo sát, những người không theo tôn giáo là những người không tuyên bố hoặc thực hành bất kỳ tôn giáo chính thức nào. Họ không nhất thiết phải hoàn toàn phản đối ý tưởng về Thiên Chúa – 13% những người không theo tôn giáo nói rằng họ tin vào Thiên Chúa trong Kinh Thánh – nhưng họ không tìm cách hình thành mối tương quan với Thiên Chúa thông qua tôn giáo.

Trong báo cáo, Pew phát hiện ra sự gia tăng đáng kể về số người không theo tôn giáo kể từ khi bắt đầu theo dõi, từ 16% người trưởng thành ở Mỹ vào năm 2007 lên 28% vào năm 2023.

Trong khi tỷ lệ người trưởng thành ở Mỹ tuyên bố không theo tôn giáo nào đã tăng đều đặn kể từ năm 2007, năm 2023 chứng kiến mức giảm lớn nhất (-3%) trong một năm. Pew lưu ý rằng hiện còn quá sớm để khẳng định chắc chắn rằng số lượng người không theo tôn giáo đã ổn định hay sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới.


“Nhóm tôn giáo” lớn thứ 2

Mặc dù họ không phải là một nhóm – vì họ không thuộc bất kỳ tôn giáo nào và không có lãnh đạo hay cộng đồng tập trung – Pew trích dẫn số lượng của họ ngang bằng với các nhóm tôn giáo khác và trên thực tế nếu xét tổng thể, họ sẽ là nhóm tôn giáo lớn thứ hai trong cả nước. 28% số lượng của họ vẫn còn kém xa so với các tín hữu Tin lành (43%) nhưng hiện nay họ có số lượng “thành viên” bằng người Công giáo (20%) và tất cả các tôn giáo khác (8%) cộng lại.

Thành phần tôn giáo của Hoa Kỳ chỉ là một yếu tố trong vô vàn những thay đổi về quan điểm mà Pew đã ghi nhận trong 20 năm qua. Những yếu tố khác bao gồm sự phổ biến của Internet và các công nghệ mới nổi khác, lòng tin vào các thể chế quốc gia ngày càng suy giảm, sự bất mãn ngày càng tăng với cả hai đảng chính trị chính thống, sự mất lòng tin ngày càng tăng đối với Trung Quốc và sự đảo ngược hoàn toàn trong việc ủng hộ hôn nhân đồng giới.


Đức Giáo hoàng Phanxicô có nói rằng mọi tôn giáo đều bình đẳng không? Giáo hội Công giáo dạy như thế nào?


    Đức Giáo hoàng Phanxicô có nói rằng mọi tôn giáo đều bình đẳng không? Giáo hội Công giáo dạy như thế nào?














ĐGH Phanxicô vẫy tay chào những người trẻ trong cuộc gặp mặt liên tôn tại Cao đẳng Công giáo ở Singapore vào ngày 13 tháng 9 năm 2024. 

Mọi tôn giáo đều bình đẳng không? Đức Giáo hoàng Phanxicô đã gây xôn xao với một số nhận định ngẫu hứng khi nói chuyện với các người trẻ liên tôn ở Singapore, trong chuyến đi gần đây của ngài tới Châu Á. Ngài nói: “Tất cả các tôn giáo đều là con đường đến với Thượng Đế. Tôi sẽ dùng một phép so sánh, chúng giống như những ngôn ngữ khác nhau thể hiện sự thiêng liêng".

Như thường lệ, đoạn trích từ một số nhận định ngẫu hứng đã được đưa lên mạng xã hội và nhiều người đọc nó theo hướng tiêu cực, như thể Đức Giáo hoàng đang nói rằng mọi tôn giáo đều đúng như nhau (điều này có vẻ vô lý, vì mọi tôn giáo, theo một số khía cạnh, đều mâu thuẫn với nhau). Nhưng quan điểm của Đức Giáo hoàng là mọi tôn giáo đều là những cách thức giao tiếp với Thiên Chúa, chứ không phải tất cả đều "giống nhau".

Một số nhà bình luận đã diễn giải những nhận định của Đức Giáo hoàng theo hướng bác ái hơn, và đây là cơ hội tốt để làm rõ hơn về những gì Giáo hội dạy về các tôn giáo khác và mối quan hệ của đức tin Công giáo với các tôn giáo đó.

Một trong những tuyên bố nổi tiếng nhất về vấn đề này được Đức Giáo hoàng Boniface VIII đưa ra trong tông sắc Unam Sanctam vào năm 1302: “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ”. Tuyên bố này từ lâu đã được nhiều người Công giáo (và nhiều người Tin lành) hiểu là một lời khẳng định rằng những người không được rửa tội và không hiệp thông với Giáo hội Công giáo sẽ phải xuống địa ngục.

Tuy nhiên, chúng ta được biết trong Lumen Gentium, một trong những văn kiện chính của Công đồng Vatican II, rằng những người ngoài Công giáo “nhưng lại thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng hành động để chu toàn thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ qua mệnh lệnh của lương tâm, thì vẫn có thể đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.” Giáo hội khẳng định rằng cánh cửa cứu độ mở ra cho tất cả mọi người (Gaudium et Spes, số 22).

Giáo hội cũng khẳng định trong Ad Gentes rằng “những hạt giống của Lời” có thể được tìm thấy trong mọi tôn giáo lớn. Những “hạt giống” này được nhắc đến nhiều lần trong các văn kiện và thông điệp của công đồng, ám chỉ những yếu tố được xác định trong các tôn giáo và nền văn hóa khác chứa đựng những tia sáng của cùng một chân lý mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng.

Điều này không phải là một sáng kiến mới. Ý tưởng này xuất phát từ một trong những nhà thần học vĩ đại đầu tiên của Giáo hội, Thánh Justinô Tử đạo, người đã viết rằng “những lời dạy của Chúa Kitô không xa lạ với triết học Plato”. Dante cũng miêu tả thiên đàng chứa đựng những người ngoại đạo tốt lành. Và các giáo hoàng như Alexander VIII và Clement XI sau đó đã lên án là lạc giáo những ý kiến cho rằng ân sủng của Chúa Kitô không hoạt động trong những người thuộc các tôn giáo khác (xem Sai lầm của những người theo giáo thuyết Jansenius và thông điệp Unigenitus năm 1713, những tuyên bố trong đó các giáo hoàng lên án phong trào lạc giáo Jansenius trong Giáo hội, thần học của họ ở một số khía cạnh giống với thuyết Calvin hơn là giáo lý Công giáo).

Trong thông điệp Redemptoris MissioThánh Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong mọi tâm hồn trên thế giới (số 6, 29), và rằng nhiều tôn giáo phản chiếu một tia sáng của chân lý duy nhất (số 56). Vị giáo hoàng này, người đã đạt được những bước tiến lớn trong đối thoại liên tôn, cũng đã viết trong cuốn sách Bước qua Ngưỡng cửa Hy vọng:

Công đồng Vatican II dạy rằng Chúa Thánh Thần hoạt động hiệu quả ngay cả bên ngoài cấu trúc hữu hình của Giáo hội, bằng cách sử dụng… nguồn gốc cứu độ chung hiện diện trong mọi tôn giáo. Chúa Kitô đã đến thế gian vì tất cả những dân tộc này. Ngài đã cứu chuộc họ và có những cách thức riêng để đến với từng người trong giai đoạn cánh chung hiện tại của lịch sử cứu độ.

Tất cả những điều này có nghĩa là Giáo hội, như chúng ta biết, không còn quan trọng nữa sao? Rằng việc một người là tín hữu Công giáo hay không cũng không còn quan trọng? Rằng tất cả các tôn giáo đều chân chính như nhau? Không phải như thế.

Chúng ta có thể khẳng định rằng Thiên Chúa luôn hoạt động cách ân cần trên toàn thể gia đình nhân loại, rằng các truyền thống đức tin lớn đều là những hành trình đích thực tìm kiếm Thiên Chúa và chứa đựng một tia sáng của cùng một chân lý, và rằng chúng ta tin Chúa Kitô đã thiết lập một Giáo hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền, ban các bí tích truyền đạt ân sủng, và rằng đức tin Công giáo chứa đựng sự trọn vẹn ân sủng và chân lý.

Giáo hội tin rằng đồng thời có thể khẳng định rằng mỗi người trên trái đất này đều được mời gọi đạt đến ơn cứu độ theo cách riêng của họ và rằng ơn cứu độ chỉ đến qua Thân Thể của Chúa Kitô. Giáo hội dạy rằng Chúa Kitô mong muốn "tất cả nên một" và con người có nghĩa vụ không ngừng tìm kiếm chân lý bằng đức tin tốt lành. Nhưng Giáo hội cũng dạy rằng Thiên Chúa không trừng phạt bất kỳ ai, những người thành tâm tìm kiếm chân lý và điều thiện, nhưng vẫn ở ngoài giới hạn hữu hình của Giáo hội vì hoàn cảnh, văn hóa, lịch sử hoặc thiếu hiểu biết.

Cùng với Giáo hội, chúng ta có thể nhìn một cách can đảm và hiếu kỳ vào "bất cứ điều gì là chân thật và thánh thiện" trong các đức tin khác mà không sợ làm tổn hại đến chân lý đức tin của mình. Sau đó, chúng ta có thể nhìn vào các bài thơ Sufi, hay các bài thơ ca ngợi cổ điển của truyền thống Trung Quốc hoặc truyền thống bản địa và tìm thấy những điều tuyệt vời để học hỏi, những điều này cộng hưởng với cùng một Logos (Lời) phổ quát trong cốt lõi đức tin của chúng ta. Chúng ta có thể nhìn những người anh em Hồi giáo, Khổng giáo hoặc Sikh của mình là những người cùng tìm kiếm Thiên Chúa, và tìm thấy sự đồng hành trong đó, ngay cả khi thực sự kiên định với trọn vẹn chân lý trong Giáo hội.

Điều này cho phép chúng ta đón nhận thái độ của Thánh Gioan Phaolô II, loan báo Tin Mừng theo cách thức chào đón những điều tốt đẹp trong các tôn giáo khác trong khi đồng thời giữ vững niềm tin rằng Giáo hội Công giáo "là bí tích phổ quát của ơn cứu độ" (Redemptoris Missio, số 9). Khi đó, chúng ta có thể hành động không phải vì sợ hãi hay mong muốn dập tắt các truyền thống khác, mà là để chia sẻ niềm vui trọn vẹn của Tin Mừng. Cuối cùng, chính niềm vui này làm cho tình bạn với Chúa Kitô trở nên hấp dẫn, và như G.K. Chesterton đã nói, là “chìa khóa mở ra mọi cánh cửa”.

____________________________
Tâm Bùi (TGPSG) chuyển ngữ
Nguồn: americamagazine.org



Mikali Nguyễn

unread,
Oct 11, 2024, 9:26:16 PM10/11/24
to alphonsefamily
“Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo,
anh sẽ được một kho tàng trên trời”. (Mc 10, 21)

Còn vài tuần nữa là cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2024. Theo quan điểm của người Công giáo, chúng ta phải chuẩn bị thực hiện bổn phận công dân của mình với lương tâm sáng suốt. 

Chúng ta đã nghe nhiều lần rằng “tôn giáo và chính trị không hòa hợp.” .  Nói bằng ngôn ngữ quen thuộc rằng một giáo sĩ không nên dính líu gì đến chính trị. Điều này đúng, nếu họ không nhắm đến các mục tiêu thế tục, đứng về phía một đảng phái chính trị nào đó.  Nhưng nếu hiểu là họ không nên bày tỏ ý kiến và gây ảnh hưởng theo cách này hay cách khác, thì rõ ràng là không phù hợp với Thánh Kinh.

Với tất cả sự tôn trọng đối với quyền lực thế tục, dù là Do Thái hay La Mã, và cả sự tách biệt khỏi tham vọng thế gian, không phải là các tông đồ vẫn lên án những người cai trị là độc ác, những kẻ đã đóng đinh và giết chết Chúa Kitô đó sao? Tất cả những điều này có thể được thực hiện mà không làm tổn hại đến sự hiền lành và khiêm nhường của Kitô hữu phải có, mặc dù rất khó để làm như vậy. Chúng ta không cần phải tức giận hay nói lời gây tranh cãi, nhưng vẫn có thể đưa ra ý kiến của mình một cách kiên quyết, tùy theo khả năng hình thành ý kiến của chúng ta, và nhiệt thành với Chúa trong mọi hoạt động phục vụ tốt lành, cẩn thận và rõ ràng tránh xa những kẻ xấu mà chúng ta sợ các thủ đoạn gian ác của họ.

Nói cách khác, một giáo sĩ không bao giờ được tham gia vào chính trị đảng phái; tuy nhiên, họ phải hỗ trợ người dân đưa các giá trị Phúc Âm vào việc hình thành chính sách công. Thật vậy, nếu không làm như thế sẽ sự phản bội sứ vụ linh mục của mình.

Nhưng mặc dù nền tảng của GOP (Grand Old Party, Republican Party, Đảng Cộng Hòa, biểu tượng là Con Voi) không còn kêu gọi lệnh cấm phá thai theo hiến pháp nữa, nhưng tuyên bố: “Chúng tôi tự hào bảo vệ các gia đình và sự sống. Chúng tôi tin rằng tu chính án 14 theo Hiến pháp Hoa Kỳ bảo đảm rằng không ai có thể bị từ chối sự sống hoặc tự do mà không có quy trình hợp pháp. Do đó, các tiểu bang có quyền tự do thông qua luật bảo vệ các quyền đó. Sau 51 năm, vì chúng tôi, quyền lực đó đã được trao cho các tiểu bang và cho cuộc bỏ phiếu của nhân dân. Chúng tôi sẽ phản đối phá thai muộn, đồng thời ủng hộ các bà mẹ và các chính sách thúc đẩy chăm sóc trước khi sinh, tiếp cận kiểm soát sinh sản và IVF (In Vitro Fertility, thụ tinh ống nghiệm).” Hai phần cuối cùng là sự thỏa hiệp không nên và không cần thiết.

Ngược lại, nền tảng của Đảng Dân Chủ là cấp tiến nhất trong lịch sử ở mọi cấp độ. Điều đáng quan ngại nhất là cam kết thúc đẩy sửa đổi hiến pháp để bảo vệ “Roe vs Wade” mãi mãi.

Về một vấn đề được Giáo hội thúc đẩy trong hơn một thế kỷ, chương trình của Đảng Cộng Hòa ủng hộ quyền tự do lựa chọn giáo dục của phụ huynh cũng như quyền tự do tôn giáo, trong khi Đảng Dân Chủ kêu gọi đàn áp cả hai, đây là chính sách nhất quán của họ trong nhiều thập niên.

Thứ nhất, muốn xóa tan một số thông tin sai lệch nghiêm trọng liên quan IVF.  Trong khi biện pháp tránh thai nhân tạo tách biệt sự hợp nhất khỏi các chiều kích sinh sản của hành vi tình dục, tìm cách trải nghiệm chiều kích trước, trong khi ngăn chặn chiều kích sau, thì thụ thai nhân tạo phạm tội theo hướng ngược lại, mong muốn có con (một mong muốn tốt đẹp và thánh thiện) nhưng lại không có hành động yêu thương.

Thụ tinh trong ống nghiệm lại gây ra một khó khăn về mặt đạo đức khác khi quy trình này tạo ra nhiều phôi thai, phần lớn trong số đó được đưa vào tủ đông lạnh sâu, cuối cùng sẽ chết.

Thứ hai, và rất quan trọng, xét đến sự thoái lui đáng tiếc của GOP đối với sự ủng hộ hết mình trước đây của đảng này đối với tính thánh thiêng của sự sống con người ngay từ khoảnh khắc đầu tiên thụ thai.  Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp  “Evangelium Vitae” năm 1995,  lưu ý rằng “khi không có chương trình chính trị nào là lý tưởng, người ta có thể bỏ phiếu cho chương trình gây ra ít tác hại hơn.” (số 73) Quan điểm đó được các giám mục Hoa Kỳ lặp lại trong tài liệu “Living the Gospel of Life” năm 1998. (¶ 31-32)

Trong tình hình hiện tại, điều đó có nghĩa là trong khi người Công giáo nào không thể ủng hộ đề xuất của Đảng Dân Chủ về việc phá thai, họ vẫn có thể ủng hộ nền tảng của Đảng Cộng Hòa với lương tâm trong sáng, ít nhất là phản đối việc phá thai ở những giai đoạn sau cùng và quyền của một tiểu bang trong việc cấm phá thai hoàn toàn.

Điểm cuối cùng:  Người ta không thể dựa vào lý do đạo đức để đứng ngoài cuộc. Giáo lý Công giáo (số 2240) khá trực tiếp về điểm này: “Nghĩa vụ đạo đức... là thực hiện quyền bỏ phiếu.”

Giáo hội đấu tranh và chịu đau khổ, tùy theo mức độ đóng vai trò của mình. Nếu Giáo hội không chịu đau khổ, đó là vì Giáo hội đang ngủ, và lúc đó các học thuyết và giáo điều của Giáo hội sẽ không thể được thế giới chấp nhận. Nếu thế giới không bách hại, đó là vì Giáo hội không rao giảng.

Các giám mục Hoa Kỳ đã kiên định trong “lời rao giảng” về sự thánh thiêng của sự sống con người, phẩm giá gia đình, quyền cha mẹ về giáo dục và tính trung tâm của sự tự do tôn giáo. Do đó, không gì ngạc nhiên khi Giáo hội phải đối mặt với sự đàn áp. Những người Công giáo trung thành sẽ ủng hộ tiếng nói của các giám mục bằng lá phiếu của họ. Tất nhiên, chính trị không bao giờ có thể trở thành một tôn giáo. Thật vậy, “vì trên đời này, chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai.” (Dt 13:14)

Tuy nhiên, điều này không giải thoát chúng ta khỏi nghĩa vụ công dân phải bỏ phiếu – đặc biệt là khi thực hiện việc bỏ phiếu theo lương tâm Công giáo có hiểu biết.

Vì phá thai, Harris Sẽ Hy Sinh Việc vận động thông qua một đạo luật

Emily Erin Davis (*), trên tạp chí First Thing ngày 30 tháng 9, năm 2024, cho hay vào năm 2017, các nhà Lãnh đạo McConnell và Schumer đã nhận được một lá thư cầu xin bảo vệ quyền vận động thông qua một đạo luật (filibuster), ngưỡng sáu mươi phiếu cần thiết để chấm dứt tranh luận và thúc đẩy luật. Lá thư lưu ý rằng việc duy trì quyền vận động thông qua một đạo luật sẽ bảo đảm việc Thượng Viện tiếp tục “phục vụ như cơ phận nghị viện vĩ đại nhất thế giới”. Lá thư này đã được ký bởi Kamala Harris lúc ấy còn là thượng nghị sĩ.



Ứng cử viên tổng thống Harris nay có một tâm trí khác. Tuần rồi, trong một cuộc phỏng vấn với Wisconsin Public Radio, Harris tuyên bố rằng bà muốn “loại bỏ cuộc vận động cho phán quyết Roe và đưa chúng ta tới điểm trong đó, 51 phiếu là điều cần để thực sự tái lập bằng luật lệ các bảo vệ cho tự do sinh sản”. Việc bà coi thường cơ phận nghị viện vĩ đại nhất thế giới nay chỉ còn bị khỏa lấp bởi việc bà coi thường tính thánh thiêng của sự sống.

Nơi nào Biden đôi khi lúng túng nói chữ “phá thai”, thì Harris réo nó cao giọng. Thực thế, bà không muốn "đem trở lại" Roe, mà muốn hệ thống hóa luật vượt quá các thông số của nó, ủng hộ điều gọi là Đạo luật Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ (WHPA). Dự luật này đề xuất một chế độ phá thai thậm chí còn nguy hiểm hơn Roe. Nó tạo ra quyền phá thai liên bang ở bất cứ giai đoạn nào của thai kỳ, vì bất cứ lý do gì, về cơ bản là áp đặt phá thai không giới hạn cho tất cả năm mươi tiểu bang. Cả Harris và người bạn đồng hành Tim Walz đều đồng bảo trợ cho dự luật trong nhiệm kỳ của họ tại Quốc hội.

Với Hạ viện và Thượng viện Dân chủ, Tổng thống Harris có thể biến việc giải tán thủ tục vận động thông qua đạo luật thành hiện thực. Đảng Dân chủ sẽ có thể thúc đẩy kế hoạch phá thai cấp tiến của họ trên toàn quốc, mặc dù các cuộc thăm dò cho thấy hầu hết người Mỹ phản đối mạnh mẽ việc phá thai trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba.

Khi chương trình nghị sự của Harris được hiểu rõ ràng, nó không được ưa chuộng. Các cuộc thăm dò liên tục cho thấy người Mỹ ủng hộ áp đảo việc hạn chế phá thai. Ngay cả NPR cũng phát hiện ra rằng hơn 70 phần trăm phụ nữ ngoại ô và gần một nửa phụ nữ Dân chủ ủng hộ việc hạn chế phá thai sau ba tháng đầu của thai kỳ.

Kế hoạch Đạo luật Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ sẽ bãi bỏ luật hiện hành của tiểu bang ủng hộ sự sống và vô hiệu hóa thẩm quyền của các tiểu bang trong việc thông qua bất cứ biện pháp bảo vệ nào phản ảnh ý chí của cử tri. Nó cũng sẽ cho phép những người không phải bác sĩ thực hiện phá thai mà không cần giấy phép hiện hành và cấp quyền tuyệt đối cho "bất ứ cá nhân nào" được vận chuyển con cái vị thành niên nào của người khác qua ranh giới tiểu bang để phá thai. Và bỏ qua Tu chính án Hyde, nó sẽ mở rộng nguồn tiền đóng thuế cho phá thai, vì bất cứ lý do gì.

Một lý do khiến Đạo luật Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ đặc biệt nguy hiểm là vì nó quảng cáo một cách gian dối về giới hạn có thể sống còn, chỉ để phá hoại nó bằng các ngoại lệ sức khỏe rộng rãi và không xác định. Dự luật này trao cho người phá thai - chính người có cổ phần tài chính trực tiếp trong quy trình này - thẩm quyền tối cao để định nghĩa "khả thể sống còn" [viability] và "sức khỏe" theo cách được họ thấy phù hợp. Kẽ hở này cho phép phá thai ở bất cứ giai đoạn nào.

Những người chuyên phá thai không hề ngại ngùng về những gì họ đang làm. Colleen McNicholas, giám đốc y khoa của một chi nhánh lớn của Planned Parenthood, tuyên thệ rằng: “Thực hành của tôi bao gồm [phá thai] cho đến thời điểm thai nhi có khả năng sống, và như chúng ta đã thảo luận trước đó, điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào”. Warren Hern, một bác sĩ phá thai muộn hơn năm mươi năm đến từ Colorado, giải thích với The Atlantic rằng ông tin rằng khả năng sống của đứa trẻ trong bụng mẹ “không được xác định bởi tuổi thai mà bởi sự sẵn lòng mang thai của người phụ nữ”. Theo định nghĩa linh hoạt này, hầu như không có ca phá thai nào mà ông không thể biện minh được, bao gồm cả phá thai lựa chọn giới tính, mà ông đã thực hiện nhiều hơn một lần.

Và trong khi những người vận động hành lang phá thai và những người ủng hộ Đạo luật Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ mô tả phá thai muộn là hiếm, thì sự thật đáng buồn là vào năm 2020, gần 56,000 trẻ em đã bị phá thai ở tuần thứ mười lăm hoặc muộn hơn. Con số đó đủ để lấp đầy mọi chỗ ngồi trong sân vận động Dodger mỗi năm. Ngay cả Viện Guttmacher ủng hộ phá thai, nhánh nghiên cứu trước đây của Planned Parenthood, đã thừa nhận trong nhiều năm rằng hầu hết các ca phá thai muộn đều liên quan đến những phụ nữ khỏe mạnh đang mang thai những đứa con khỏe mạnh.

Không có gì ngạc nhiên khi Harris ngay lập tức nhận được sự phản đối ngay cả từ chính đảng của bà sau khi tuyên bố ủng hộ việc bãi bỏ thủ tục vận động thông qua luật lệ để thông qua lệnh phá thai. Thượng nghị sĩ sắp mãn nhiệm Joe Manchin, người đã kiên quyết bảo vệ thủ tục này trong nhiều năm, đang từ chối ủng hộ Harris, cảnh báo rằng động thái này có thể "phá hủy đất nước chúng ta". Manchin cũng rất sáng suốt đối với luật phá thai của bà, tức Đạo luật Bảo vệ Sức khỏe Phụ nữ, khi nói rằng, "Họ đang cố gắng khiến mọi người tin rằng đây là điều tương tự như việc làm thành luật phán quyết Roe v. Wade.... Điều này không giống nhau. Nó mở rộng phá thai".

Phó Tổng thống Harris dường như không nghĩ nhiều đến việc phá hủy một công cụ chính phủ đã tồn tại hàng thế kỷ để phục vụ cho tham vọng mở rộng phá thai của bà. Trên thực tế, bà nói rằng việc bãi bỏ thủ tục vận động thông qua hoàn toàn là để phục vụ cho "quyền tự do sinh sản".

Tuy nhiên, Harris và đảng Dân chủ không tin rằng cử tri ở các tiểu bang bảo thủ nên được tự do trao quyền quyết định luật bảo vệ sự sống. Hoặc quyền tự do mở rộng quyền được sống cho trẻ sơ sinh trong bụng mẹ. Hoặc thậm chí là quyền tự do sử dụng tiền thuế của chính họ để tài trợ cho việc phá thai theo lựa chọn của người khác.

Năm 2017, Harris đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo Thượng viện không nên "hạn chế các quyền và đặc quyền hiện có của Thượng nghị sĩ để tham gia vào cuộc tranh luận toàn diện, mạnh mẽ và kéo dài". Chính thông qua quyền vận động thông qua một đạo luật mà những quyền đó có thể được hiện thực hóa.
________________________________
(*) Emily Erin Davis là Phó chủ tịch truyền thông tại Susan B. Anthony Pro-Life America. Cô đã viết cho USA Today, Newsweek, Fox News và nhiều tờ báo khác.

Các giám mục Công Giáo Hoa Kỳ kêu gọi hành động, khi phá thai được đưa vào danh sách bỏ phiếu.

Peter Pinedo của phòng tin CNA, ngày 30 tháng 9 năm 2024, tường trình rằng khi Ngày bầu cử đang đến gần và việc bỏ phiếu sớm bắt đầu, một số giám mục Công Giáo đang đưa ra những yêu cầu khẩn cấp tới cử tri, kêu gọi họ phản đối các sửa đổi toàn diện về phá thai trên lá phiếu tại tiểu bang của họ. Nếu được thông qua, các biện pháp này sẽ khiến việc ban hành luật ủng hộ sự sống trở nên cực kỳ khó khăn hoặc bất khả.



Tại Colorado, nơi phá thai đã được hợp pháp trong suốt chín tháng mang thai, Tổng giám mục Denver Samuel Aquila lạc quan rằng Tu chính án 79 có thể bị đánh bại, ngài nói: "Chúng ta có con đường dẫn đến chiến thắng" thông qua cầu nguyện và hành động.

Tu chính án Colorado sẽ sửa đổi hiến pháp tiểu bang để cấm rõ ràng mọi hạn chế hoặc trở ngại đối với "quyền phá thai" hoặc phạm vi bảo hiểm y tế cho phá thai.

Đối với ĐTGM Aquila, cũng như nhiều giám mục khác, vấn đề là phải truyền bá thông tin về phạm vi của những sửa đổi này. Trong một bức thư ngỏ được công bố vào ngày 27 tháng 9, ĐTGM Aquila chỉ ra rằng cuộc thăm dò gần đây cho thấy nếu nhiều người Colorado biết rằng tu chính án sẽ mở rộng phá thai đến mức nào, thì sự ủng hộ sẽ giảm xuống còn 47%, thấp hơn nhiều so với ngưỡng 55% cần thiết để biện pháp này được thông qua.

"Người Colorado cần biết rằng Tu chính án 79 tạo ra quyền phá thai theo hiến pháp và cấm mọi giới hạn đối với phá thai muộn", ngài nói. "Ngay cả những hạn chế đối với phá thai vào tháng thứ chín đối với những bà mẹ khỏe mạnh và những đứa trẻ khỏe mạnh cũng sẽ là bất hợp pháp".

Trong khi đó, Giám mục James Johnston của Kansas City-St. Joseph đã bày tỏ sự lo lắng về khả năng tu chính án Missouri được thông qua. Trong một tuyên bố được công bố vào ngày 20 tháng 9, Johnston lưu ý rằng "tỷ lệ đánh cuộc hiện tại dường như ủng hộ văn hóa tử thần".

Một cuộc thăm dò do Đại học St. Louis và YouGov công bố vào cuối tháng 8 cho thấy 52% người Missouri ủng hộ tu chính án phá thai, 34% phản đối và 14% không chắc chắn.

ĐC Johnston cho biết "quy mô và mức độ nghiêm trọng của thời điểm hiện tại đòi hỏi một phản ứng tinh thần nhiệt thành". Ngài bày tỏ hy vọng rằng tất cả người Công Giáo sẽ "phản ứng với cơn bão đang tụ tập này bằng lời cầu nguyện và hành động".

Ngoài việc bỏ phiếu chống lại tu chính án và truyền bá thông tin về mối nguy hiểm "cực độ" mà nó gây ra cho sự sống, ĐC Johnston cho biết ngài muốn người Công Giáo tăng cường cầu nguyện, ăn chay và hành động.

"Tôi hy vọng tất cả chúng ta có thể phản ứng với cơn bão đang tụ tập này bằng lời cầu nguyện và hành động, với sự giúp đỡ của Đức Mẹ và ân sủng của Chúa chúng ta", ngài nói. "Là người Công Giáo, chúng ta phải đổi mới và bổ sung vào những cách chúng ta hỗ trợ phụ nữ và gia đình đang trải qua thai kỳ bất ngờ hoặc chẩn đoán khó khăn và những đứa con chưa chào đời của họ thông qua sự chăm sóc hỗ trợ và tình yêu thương. Đây là phản ứng tốt nhất đối với điều được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi là 'văn hóa vứt bỏ'".

Tại Florida, nơi các tu chính án yêu cầu ngưỡng 60% để được thông qua và một số chuyên gia tin rằng phong trào ủng hộ sự sống có cơ hội thành công tốt nhất, Giáo Hội Công Giáo đã đi đầu trong các nỗ lực nhằm đánh bại tu chính án phá thai.

Hội đồng Giám mục Công Giáo Florida là một trong những nhóm đầu tiên phản đối tu chính án phá thai của tiểu bang, nói rằng nó "gây hiểu lầm" và "nguy hiểm". Các giám mục Florida đã giúp tổ chức các nỗ lực để đánh bại tu chính án. Tổng giám mục Miami Thomas Wenski đã nói với CNA vào tháng 8 rằng các giám mục đã cùng nhau quyên góp được hàng triệu đô la để nâng cao nhận thức về mối nguy hiểm của tu chính án và vận động bỏ phiếu chống lại nó.

Trong một chuyên mục được xuất bản vào tháng 5, Wenski cho biết "trẻ em chưa chào đời rất quan trọng — và cả mẹ của các em nữa".

"Khi thúc giục bỏ phiếu chống Tu chính án 4, chúng tôi không chỉ muốn bảo vệ trẻ em chưa chào đời — những đứa trẻ yếu đuối nhất, ngây thơ nhất và không có khả năng tự vệ nhất trong số chúng ta — mà chúng tôi còn muốn bảo vệ vô số phụ nữ khỏi tác hại của phá thai", ngài nói. "Đây không phải là để 'áp đặt quan điểm của chúng tôi' mà là để 'đưa ra đề xuất' về những gì cần thiết cho sự phát triển của con người trong xã hội. Bằng cách nhấn mạnh rằng mọi con người đều quan trọng, chúng tôi mang đến các cuộc tranh luận về chính sách công về các vấn đề về nhân phẩm, công lý và hòa bình một sự hiểu biết về con người, mặc dù được xây dựng trên Kinh thánh Kitô giáo, nhưng cũng dễ hiểu đối với lý trí con người".

Khi cuộc bầu cử vào tháng 11 đang đến gần, Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ (USCCB) cũng đã lên tiếng phản đối các tu chính án. Trong một tuyên bố đánh dấu sự khởi đầu của tháng 10 là Tháng tôn trọng sự sống”, Giám mục Arlington, Virginia, Giám mục Michael Burbidge, chủ tịch Ủy ban các hoạt động bảo vệ sự sống của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, đã kêu gọi tất cả người Công Giáo phản đối “các sáng kiến bỏ phiếu cực kỳ xấu xa sẽ đưa phá thai vào hiến pháp tiểu bang của họ”.

“Những gì chúng ta thấy hiện nay là 50 năm phá thai gần như không giới hạn đã tạo ra một cách bi thảm một tư duy quốc gia mà nhiều người Mỹ đã trở nên thoải mái với một số lượng phá thai. Điều này cho phép ngành công nghiệp phá thai tiếp tục cung cấp bất cứ lượng phá thai nào”, ĐC Burbidge nói.

Giống như các giám mục khác, ĐC Burbidge nói: “Chúng ta cần hồi sinh lời cầu nguyện và hành động”.

ĐC Burbidge kêu gọi tất cả người Công Giáo cùng cầu nguyện “Lời cầu nguyện cho sự sống với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể”.

Các giám mục này, những người đã lên tiếng gần đây, được tham gia bởi các giám mục anh em đại diện cho tất cả 10 tiểu bang nơi phá thai được đưa vào danh sách bỏ phiếu đã cân nhắc và kêu gọi cử tri phản đối các biện pháp này.


Khủng hoảng ngoại giao giữa Bỉ và Vatican


Khủng hoảng ngoại giao giữa Vatican và Bỉ: Chính phủ Bỉ phản đối với những lời của Đức Thánh cha lên án phá thai, trong cuộc họp báo trên chuyến bay từ Bỉ về Roma, chiều ngày 29 tháng Chín vừa qua, sau khi viếng thăm tại Bỉ, từ ngày 26 tháng Chín trước đó.

Đức Thánh cha lên án phá thai và nói với ký giả rằng: “Phụ nữ có quyền sống, và các những người con của họ cũng có quyền sống. Chúng ta đừng quên rằng phá thai là giết người và các bác sĩ phá thai là người giết mướn. Không có tranh luận về vấn đề này”.

Việc gọi những bác sĩ phá thai là những người “giết mướn” đã được Đức Thánh cha nhắc đến nhiều lần.

Hôm mùng 04 tháng Mười vừa qua, Thủ tướng Alexandre De Croo của Bỉ đã triệu Đức Tổng giám mục Franco Coppola, Sứ thần Tòa Thánh, đến để phản đối. Ông nói rằng: “Thật là một điều tuyệt đối không thể chấp nhận được đối với vị quốc trưởng của một nước ngoài đưa ra những tuyên bố như thế về quyết định dân chủ của đất nước chúng tôi... Nước Bỉ không cần những bài học về cách thức các đại biểu quốc hội của chúng tôi phải thông qua những đạo luật dân chủ như thế nào”.

Bỉ có dân số gần 12 triệu người và mỗi năm có ít nhất 16.000 thai nhi bị giết, theo thống kê chính thức. Con số này lên tới mức cao nhất, hồi năm 2011 với 20.000 vụ phá thai. Hiện nay, quốc hội Bỉ đang thảo luận về việc cho phép phá thai sau tuần lễ thứ 12 và muốn nới rộng đến tuần lễ thứ 18, điều này có nghĩa là cả các thai nhi hơn 4 tháng cũng có thể bị giết.

Thủ tướng De Croo thuộc đảng Tự do dân chủ Flamand cởi mở, gọi tắt là “Open VLD”. Trong cuộc bầu cử hồi tháng Sáu năm nay, đảng này chỉ được 5,5% số phiếu. Trước đó, năm 2019 đảng này được 8,5%. Sau hơn một năm thương thuyết, một chính phủ liên minh đã được thành lập với bảy đảng và ông De Croo được chọn làm thủ tướng.

Trước đó, hôm mùng 03 tháng Mười, Thủ tướng De Croo đã điều trần trước quốc hội Bỉ.

Bà Sarah Schlitz, thuộc đảng “xanh” tỏ ra phẫn nộ vì Đức Giáo hoàng ví những bác sĩ phá thai là những kẻ được thuê để giết người.

Còn bà đại biểu Caroline Désir, thuộc đảng xã hội, cựu bộ trưởng giáo dục thì chất vấn thủ tướng rằng: “Thủ tướng đã tiếp đón một vị lãnh đạo tôn giáo đã lạm dụng cuộc viếng thăm của mình để bày tỏ những lập trường hủ lậu và phụ hệ về phụ nữ”.

Thủ tướng De Croo trả lời: “Sứ điệp của tôi thật là rõ ràng. Những nhận xét của Đức Giáo hoàng Phanxicô như thế là không thể chấp nhận được”.

Sau cuộc thảo luận, với 95 phiếu thuận và 18 phiếu chống, quốc hội Bỉ đã thông qua nghị quyết “lên án lập trường không thể chấp nhận được của Đức Giáo hoàng và yêu cầu chính thức phản đối Tòa Thánh”.

Đây là lần đầu tiên một quốc hội Âu châu chính thức phán đối một vị Giáo hoàng.

Cũng nên nhắc lại rằng chiều thứ Bảy, ngày 28 tháng Chín, Đức Thánh cha đã đến viếng thăm mộ của Vua Baudoin, trị vì tại Bỉ trong 42 năm, từ năm 1951 đến 1993, và trong thánh lễ sáng Chúa nhật hôm sau đó, ngài ca ngợi lòng can đảm của nhà vua đã thoái vị trong 36 tiếng đồng hồ để khỏi ký nhận luật cho phá thai đã được quốc hội Bỉ thông qua trước đó. Ngài cũng tuyên bố khi trở về Roma sẽ xúc tiến án phong chân phước cho vua Baudoin, một người can đảm như vậy.

image.png

Tạp chí Crux, ngày 28 tháng 9 năm 2024, nhận định rằng chuyến đi Lục Xâm Bảo và Bỉ của Đức Phanxicô khởi đầu dường như có điềm gở ở chỗ ngài đã chỉ chào các nhà b1o trên chuyến máy bay từ Rome tới Lục Xâm Bảo, không nói chuyện với họ như thường lệ.


Và điều cũng có thể chắc chắn là thứ Sáu ở Bỉ cũng không giúp ngài phấn chấn hơn nhiều, vì đó là một trong những ngày khó khăn nhất mà ngài phải tạm trải qua trong diễn trình.

Ta có Thủ tướng Bỉ Alexander De Croo, chỉ trích ngài về các vụ tai tiếng lạm dụng tình dục của Giáo hội. Lại có Viện trưởng Luc Sels của Đại học Công Giáo Leuven, mở đầu bằng lời kêu gọi cho phép phụ nữ làm linh mục, một đề xuất mà Đức Phanxicô đã kiên quyết nói "không" và cũng thúc đẩy Giáo hội cởi mở hơn nữa với cộng đồng LGBTQ+.

Và, trong bài phát biểu trước các phóng viên, có Benedict Lemley, trưởng khoa thần học của Leuven, nói một cách bình thản rằng sự ám ảnh của Giáo hội với "chân lý phổ quát" có thể là vấn đề ở một trường đại học Công Giáo muốn "trung thành tuyệt đối" với đức tin.

Ngay cả cuộc họp trễ của Đức Giáo Hoàng vào tối thứ Sáu với một nhóm nạn nhân lạm dụng tình dục, được coi là một cử chỉ nhạy cảm về mặt mục vụ, cũng đã bị một nhóm vận động chỉ trích, coi phiên họp này chỉ là "chống đỡ thiệt hại".

Nhìn chung, không phải là một ngày dễ dàng để đại diện cho một tôn giáo định chế tại một trong những xã hội thế tục nhất trên trái đất - và tất cả những điều đó xảy ra cùng với sự kiện lạnh và mưa ở Brussels, làm tăng thêm bầu không khí hơi ảm đạm.

Trong suốt thời gian đó, Đức Phanxicô vẫn giữ vững thông điệp, nhấn mạnh rằng Giáo hội “không bao giờ tuân theo nền văn hóa chiếm ưu thế, ngay cả khi nền văn hóa đó sử dụng, theo cách thao túng, các giá trị bắt nguồn từ Tin Mừng, rút ra từ đó những kết luận không chân thực gây ra đau khổ và sự loại trừ”.

Ngày này bắt đầu bằng cuộc gặp gỡ của Đức Phanxicô với Vua Philippe & Hoàng hậu Mathilde, sau đó là cuộc gặp gỡ của ngài với De Croo, người hiện đang giữ chức quyền thủ tướng cho đến khi chính phủ mới có thể được thành lập.

Nếu đây là bài ca vĩnh biệt của ông, De Croo có vẻ quyết tâm tận dụng nó tối đa.
“Chúng ta không thể phớt lờ những vết thương đau đớn tồn tại trong cộng đồng Công Giáo và trong xã hội dân sự”, ông nói với Đức Giáo Hoàng. “Nhiều trường hợp lạm dụng tình dục và cưỡng ép nhận con nuôi đã làm suy yếu lòng tin”.

“Ngài đã cam kết thực hiện một cách tiếp cận công bằng và bình đẳng, nhưng con đường vẫn còn dài”, De Croo nói với Đức Giáo Hoàng. “Các mục tử của Giáo hội làm việc với niềm tin và lòng bác ái, nhưng nếu có điều gì đó không ổn, thì việc che đậy là không thể chấp nhận được”.

Bỉ đặc biệt bị ảnh hưởng nặng nề bởi các vụ tai tiếng lạm dụng của giáo sĩ, bao gồm vụ việc khét tiếng của cựu Giám mục Roger Vangheluwe, người đã từ chức sau khi thừa nhận đã lạm dụng trẻ vị thành niên, bao gồm cả hai người cháu trai của chính mình.
"Ngày nay, lời nói là không đủ", De Croo nói. "Cần phải có những bước đi cụ thể. Nạn nhân phải được lắng nghe và chiếm một vị trí trung tâm. Họ có quyền được biết sự thật và những bất công phải được thừa nhận".

"Để có thể hướng tới tương lai, trước tiên Giáo hội phải thành thật về quá khứ của mình", ông nói.
Đức Phanxicô không né tránh vấn đề, gọi lạm dụng là "một tai họa mà Giáo hội đang giải quyết một cách kiên quyết và dứt khoát bằng cách lắng nghe và đồng hành với những người đã bị tổn thương, và bằng cách thực hiện một chương trình phòng ngừa trên toàn thế giới".

Tuy nhiên, phản ứng tiêu cực đối với các vụ tai tiếng lạm dụng không phải là lời chỉ trích duy nhất mà Đức Giáo Hoàng nghe được, vì Sels, viện trưởng tại Leuven, cũng đã thúc đẩy ngài về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội.

“Quyền hạn của Giáo hội cũng phụ thuộc vào mức độ mà Giáo hội chào đón sự đa dạng trong xã hội”, Sels nói, lớn tiếng hỏi tại sao Công Giáo “dung thứ cho sự chia rẽ to lớn này giữa nam và nữ, trong một Giáo hội mà trên thực tế thường do phụ nữ lãnh đạo?”

“Giáo hội sẽ không thân thiện hơn nếu trao cho phụ nữ một vị trí nổi bật hơn, bao gồm cả chức linh mục sao”? ông hỏi - tất nhiên là biết rõ, giáo hoàng đã đưa ra câu trả lời của ngài, vì vậy đó là một câu hỏi có tính tu từ hơn.

Sels cũng kêu gọi có lập trường cởi mở hơn về các vấn đề LGBTQ+, nói rằng “Giáo hội trên toàn thế giới được kêu gọi đưa những khám phá khoa học gần đây vào cuộc đối thoại với thần học” và nói thêm rằng Công Giáo nên cảnh giác với những câu trả lời “một lần và mãi mãi”.

Cuối cùng, Lemley, trưởng khoa thần học và nghiên cứu tôn giáo tại Leuven, đã thông báo với Đức Giáo Hoàng rằng trong khi trường đại học “phục vụ Giáo hội của chúng ta”, thì cam kết đó được thể hiện theo cách mà ông gọi là “một cách trung thành có phê phán”.

“Một người bạn thực sự không phải lúc nào cũng nói với bạn những điều bạn thích nghe”, Lemley nói. “Ông ta cũng nói … những gì bạn cần cải thiện.”
Lemley đã tặng Đức Giáo Hoàng một cuốn sách có tựa đề The Bishop of Rome and the Theologians of Leuven [Giám mục Rôma và các Thần học gia Leuven], trong đó có một chương dành riêng cho việc “suy nghĩ lại về các chuẩn mực của Giáo hội về tình dục.”

Cuốn sách bắt đầu bằng một lời thừa nhận trung thực: “Chuyến viếng thăm của vị giáo hoàng này không phải là không có tranh cãi, một phần là do nhiều vụ tai tiếng xung quanh vấn đề tình dục, lạm dụng về mặt tình cảm và tinh thần trong Giáo hội,” phần giới thiệu viết. “Những người liên kết với Giáo hội không thể trông chờ nhiều thiện chí từ xã hội và văn hóa.”

Lemley gợi ý rằng Giáo hội có thể cần phải xem xét lại một số nguyên tắc cơ bản. “Tôi nghĩ rằng một vấn đề mà Giáo hội ngày nay đang phải đối đầu là Giáo hội có xu hướng tìm kiếm những chân lý phổ quát, ngài biết đấy, những giáo điều phổ quát, quan điểm phổ quát… cách nào đó, đấy là vấn đề vì chúng ta có quá nhiều quốc gia khác nhau với quá nhiều nền văn hóa khác nhau, và một số đã bị thế tục hóa, một số thì không.”

“Và vì vậy, bao lâu chúng ta cố gắng có một chân lý phổ quát, không thể chạm tới cho tất cả mọi người, thì điều đó thật khó khăn,” ông nói – một lần nữa tạo ra một chút đau đầu cho một vị giáo hoàng đại diện cho một Giáo hội tự cho mình là công bố những chân lý phổ quát như vậy.

Theo cách riêng của ngài, Đức Phanxicô đã không lùi bước trước thách thức, ngài nói với các giáo sư tại Leuven vào chiều thứ Sáu rằng “thật tuyệt khi coi các trường đại học là nơi tạo ra văn hóa và ý tưởng, nhưng trên hết là thúc đẩy niềm đam mê tìm kiếm chân lý, phục vụ cho sự tiến bộ của con người.”

Đức Phanxicô than thở về điều được ngài gọi là “sự mệt mỏi trí thức” của những người từ chối tìm kiếm chân lý và do đó vẫn ở trong “trạng thái bất định liên tục, thiếu mọi đam mê, như thể việc tìm kiếm ý nghĩa là vô ích và thực tế là không thể hiểu nổi”.

Nó tương đương với một phản biện mạnh mẽ vào cuối một ngày khó khăn – một ngày mà bản thân Đức Phanxicô có thể được tha thứ khi cảm thấy hơi mệt mỏi, nếu không phải về mặt trí thức thì ít nhất là về mặt thể chất và thậm chí có lẽ là về mặt mục vụ.

Đức Tổng Giám Mục Tarcisio Isao Kikuchi của Tokyo, Nhật Bản, bất ngờ và đầy ngạc nhiên vì có tên trong danh sách 21 tân Hồng y, mà Đức Thánh Cha sẽ trao mũ trong Công nghị ngày 08/12, lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Đức Thánh cha bổ nhiệm 21 hồng y mới


Sau khi đọc kinh Truyền tin với khoảng 20.000 tín hữu và du khách hành hương năm châu và tại Roma, tụ tập tại Quảng trường thánh Phêrô, trưa Chúa nhật, ngày 06 tháng Mười vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đã tuyên bố bổ nhiệm thêm 21 hồng y mới, vào ngày 08 tháng Mười Hai tới đây, Đại lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội.

Đức Thánh cha nói: “Tôi vui mừng thông báo rằng ngày 08 tháng Mười Hai tới đây, tôi sẽ nhóm Công nghị để bổ nhiệm các hồng y mới. Xuất xứ của các vị nói lên đặc tính hoàn vũ của Giáo hội tiếp tục loan báo tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho tất cả mọi người trên trái đất. Ngoài ra, việc tháp nhập các hồng y mới vào Giáo phận Roma, biểu lộ mối liên hệ không thể tách rời giữa Tòa Thánh và các Giáo hội địa phương rải rác trên thế giới. Đây là danh tính của các hồng y mới: 

1. Đức Tổng giám mục Angelo Acerbi, người Ý, 89 tuổi, cựu Sứ thần Tòa Thánh.

2. Đức cha Carlos Gustavo Mattasoglio, Tổng giám mục Giáo phận Lima, thủ đô Peru.

3. Đức cha Vicente Bokalic Iglic, Tổng giám mục Santiago del Estero, Giáo chủ Công giáo Argentina.

4. Đức cha Cabrera Gerardo Herrera, Tổng giám mục Giáo phận Guayaquil, Ecuador.

5. Đức cha Natalio Chomalí Garib, Tổng giám mục Giáo phận Santiago de Chile.

6. Đức cha Tarcisio Isao Kikuchi, Dòng Ngôi Lời, Tổng giám mục Giáo phận Tokyo, Nhật Bản.

7. Đức cha Pablo Virgilio Siongco David, Giám mục Giáo phận Kalookan, Philippines.

8. Đức cha Ladislav Nemet, Tổng giám mục Giáo phận Belgrade, thủ đô Serbia.

9. - Đức cha Ignace Jaime Spengler, Dòng Phanxicô, Tổng giám mục Giáo phận Porto Alegre, Brazil.

10. Đức cha Ignace Bessi Doglo, Tổng giám mục Giáo phận Abidjan, Côte d’Ivoire.

11. Đức cha Jean-Paul Vesco, Dòng Đa Minh, Tổng giám mục Giáo phận Alger, thủ đô Algérie.

12. Đức cha Paskalis Bruno Syukur, Giám mục Giáo phận Bogor, Indonesia.

13. Đức cha Joseph Mathieu, Tổng giám mục Giáo phận Teheran Isparan, Iran.

14. Đức cha Roberto Repole, Tổng giám mục Giáo phận Torino bắc Ý.

15. Đức cha Baldassare Reina, Phó Giám quản Roma, từ nay là Tổng Đại diện Giáo phận Roma.

16, Đức cha Francis Leo, Tổng giám mục Giáo phận Toronto, Canada.

17. Đức Tổng giám mục Rolandas Makrickas, người Lituani, Phó Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả.

18. Đức cha Mykola Bychor, 44 tuổi, Giám mục Giáo phận thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne, của Giáo hội Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương.

19. Cha Timothy Peter Radcliffe, 80 tuổi, người Anh, thần học gia, nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh.

20. Cha Fabio Baggio, Dòng Scalabrini, Phó Tổng thư ký Bộ Phát triển nhân bản toàn diện.

21. Đức ông George Jacob Koovakad, người Ấn Độ, chức sắc tại Phủ Quốc vụ khanh, đặc trách tổ chức các cuộc viếng thăm của Giáo hoàng.

Trong số các vị trên đây, có mười vị người Âu châu, trong đó có ba người Ý, bốn vị từ Á châu, năm vị từ Nam Mỹ. Từ ngày 08 tháng Mười Hai trở đi, Hồng y đoàn có 256 vị, trong số này có 141 hồng y cử tri và 115 vị trên 80 tuổi.



Nhiều báo chí đưa ra những nhận xét việc Đức Thánh cha Phanxicô tuyên bố, hôm Chúa nhật ngày 06 tháng Mười vừa qua, triệu tập Công nghị vào ngày thứ Sáu, ngày 08 tháng Mười Hai tới đây, để bổ nhiệm thêm 21 hồng y mới.


Đây sẽ là Công nghị bổ nhiệm hồng y thứ mười Đức Thánh cha Phanxicô triệu tập, trong mười một năm làm Giáo hoàng, so với con số bảy Công nghị Đức Thánh cha Gioan Phaolô II triệu tập, trong 27 năm Giáo hoàng. Còn Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI, trong tám năm Giáo hoàng, ngài bổ nhiệm các hồng y mới trong bốn công nghị.

Con số

Với số hồng y bổ nhiệm trong lần này, Hồng y đoàn sẽ có 256 vị, trong số này có 141 hồng y cử tri và 115 vị trên 80 tuổi. Số hồng y cử tri vượt xa con số tối đa 120 vị, theo quy luật do Đức Giáo hoàng Phaolô VI ấn định. Nhưng trong năm 2025 sắp tới, sẽ có 13 hồng y tròn 80 tuổi, trong số này có Đức Hồng y Oswald Gracias, Tổng giám mục Mumbai, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ấn Độ, thành viên Hội đồng Hồng y cố vấn của Đức Thánh cha.

Trong các hồng y tân cử, có mười vị người Âu châu, trong đó có bốn người Ý, bốn vị Á châu là từ Philippines, Nhật Bản, Ấn Độ và Iran, năm vị từ Mỹ châu Latinh. Nước Mỹ không có thêm hồng y nào và Canada được một vị, là Đức Tổng giám mục Giáo phận Toronto, lớn nhất tại nước này. Phi châu được một hồng y, là Đức Tổng giám mục Giáo phận Abidjan, thủ đô Côte d’Ivoire.

Những bổ nhiệm gây ngạc nhiên

Có vài bổ nhiệm gây ngạc nhiên trong dư luận: như Đức Tổng giám mục Angelo Acerbi, người Ý, 99 tuổi, cựu Sứ thần Tòa Thánh. Nhiệm sở chót của ngài là Giám chức của Hội Hiệp sĩ Malta, một tổ chức bác ái Công giáo hiện có 13.500 thành viên nam nữ trên thế giới, 100.000 thiện nguyện viên trên thế giới, trong đó có nhiều bác sĩ và nhân viên y tế. Phần lớn các hoạt động của Hội thuộc lĩnh vực từ thiện và y tế, tại 120 nước.

Tiếp đến là cha Timothy Radcliffe, thần học gia người Anh, cựu Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, sẽ tròn 80 tuổi ngày 22 tháng Tám năm tới, 2025. Ngài được biết đến nhiều trong hai Thượng Hội đồng Giám mục năm ngoái và năm nay, như người hướng dẫn tĩnh tâm trước khóa họp.

Vị trẻ nhất trong số 21 hồng y tân cử là Đức cha Mykola Bychor, 44 tuổi, Giám mục Giáo phận thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne, Australia, của Giáo hội Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương. Đây là một giáo phận tòng nhân với khoảng 32.000 tín hữu.

Đặc biệt là Đức ông George Jacob Koovakad, 53 tuổi, người Ấn Độ, thuộc Giáo hội Công giáo Syro Malabar, xuất thân từ trường ngoại giao Tòa Thánh, đã phục vụ tại một số Tòa Sứ thần Tòa Thánh, và có cấp bậc tham tán Sứ thần hạng I, hiện phục vụ tại tại Phủ Quốc vụ khanh và đặc trách việc tổ chức các cuộc viếng thăm của Giáo hoàng. Trước đây, cũng có cha Roberto Tucci, nguyên là Tổng giám đốc Đài Vatican, và đặc trách tổ chức các cuộc viếng thăm của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ngài được bổ nhiệm làm hồng y, sau khi đã kết thúc nhiệm vụ này.

Nay là trường hợp Đức Hồng y tân cử Koovakad. Nếu ngài còn tiếp tục làm nhiệm vụ tổ chức các cuộc tông du của Đức Thánh cha tại hải ngoại thì có nghĩa là ngài ngang hàng với Đức Hồng y Quốc vụ khanh và trên cấp Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng, Paul Gallagher.

Cũng vậy, trong số các hồng y tân cử, có cha Fabio Baggio, 59 tuổi (1965) Dòng Scalabrini, Phó Tổng thư ký Bộ Phát triển nhân bản toàn diện, đặc trách về vấn đề di dân và tị nạn. Cho đến nay, cha làm việc dưới sự điều hành của Đức Hồng y Bộ trưởng Michael Czerny, người Canada gốc Tiệp, thuộc Dòng Tên và nữ tu Alessandra Smerilli, Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, Tổng thư ký của Bộ. Báo chí có rằng Đức Hồng y Baggio sẽ thay thế Đức Hồng y Czerny sẽ nghỉ hưu, năm nay ngài đã 78 tuổi.

Cấp dưới có tước phẩm cao hơn cấp trên trong Tòa Thánh, đó cũng là trường hợp Đức Hồng y Mario Zenari, Sứ thần Tòa Thánh tại Syria, cấp trên của ngài là Đức Tổng giám mục Gallagher, Ngoại trưởng. Đức Thánh cha phong Đức Tổng giám mục Zenari làm hồng y dường như để nói lên quan tâm của ngài đối với Syria ở trong tình trạng chiến tranh, cuộc chiến vẫn chưa hoàn toàn kết thúc, sau 14 năm trời, và tình hình tại nước này bị thế giới quên lãng.

Ngoài ra, Iran đang ở giữa cơn lốc chiến tranh với Israel, một lò lửa có thể bùng lên. Đức Thánh cha bổ nhiệm làm hồng y vị Tổng giám mục tại thủ đô Teheran của nước này, là Dominique Matthieu, 61 tuổi (1963), thuộc Dòng Phanxicô Viện Tu. Giáo phận của ngài chỉ có 6.200 tín hữu Công giáo thuộc 5 giáo xứ, ít hơn cả Giáo hội tại Mông Cổ. Giáo hội tại đây phải chịu nhiều hạn chế.


NHÓM NGHIÊN CỨU TRÌNH BÀY CÔNG VIỆC VÀ MỤC TIÊU TẠI THƯỢNG HỘI ĐỒNG






WGPSG (04/10/2024) - Trong phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng vào ngày 2/10, các thành viên của mười nhóm nghiên cứu được Đức Thánh Cha thành lập vào tháng Hai vừa qua để tìm hiểu các khía cạnh thần học và giáo luật liên quan đến nhiều chủ đề khác nhau, cùng với đại diện của ba Ủy ban khác, đã trình bày công việc đã thực hiện cho đến nay và những định hướng tương lai.

Vai trò của phụ nữ và khả năng có nữ phó tế; nguy cơ biến mất các Giáo hội Đông phương do chiến tranh; cách tiếp cận “mục vụ” cho những người đa thê ở Châu Phi; việc loan báo Tin Mừng trong thời đại kỹ thuật số; mối tương quan giữa các Giám mục, linh mục và Dân Chúa; các tiêu chí chọn lựa ứng viên giám mục; góc nhìn “hiệp hành” về công việc của các Sứ thần Tòa Thánh; và đối thoại đại kết. Tại phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám mục, diễn ra vào chiều ngày 2/10 với bài phát biểu của Đức Thánh Cha cùng những lời giới thiệu của Đức Hồng y Grech và Tổng Tường trình viên, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, đại diện của từng nhóm nghiên cứu, đã trình bày công việc của họ.

Các đại diện của các nhóm, mỗi nhóm được giới thiệu bằng một đoạn video ngắn và có tối đa ba phút để trình bày, đã phác thảo những công việc đã thực hiện và các kế hoạch tương lai, dự kiến sẽ có một cuộc đối thoại liên tục giữa các thành viên Thượng Hội đồng và các Nhóm Nghiên cứu. Các “phản hồi” do các nhóm này thực hiện sẽ được trình lên Đức Thánh Cha vào năm 2025, một năm sau khi Thượng Hội đồng kết thúc, nhưng sẽ tính đến các đóng góp và kết quả từ Đại Hội đồng chung. Đức Hồng y Hollerich mô tả các nhóm này như là “những người đồng hành trên hành trình” và là “những người đối thoại.”

Đa Thê

Như đã đề cập, có mười nhóm nghiên cứu, bên cạnh một số Ủy ban được giao nhiệm vụ phân tích các chủ đề cụ thể. Một trong những nhóm này, giải quyết vấn đề phức tạp về đa thê ở một số quốc gia Châu Phi, đã được Đức Hồng y Fridolin Ambongo của Congo, Tổng Giám mục Kinshasa và Chủ tịch SECAM (Liên Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar) trình bày qua video. Ngài đặt ra câu hỏi về cách Giáo hội có thể đồng hành mục vụ với “những người đã đón nhận đức tin Kitô giáo nhưng đang sống trong tình trạng đa thê” hoặc “những người đã được rửa tội nhưng sau khi trở lại vẫn tiếp tục sống trong tình trạng đa thê.”

Các Giáo hội tại Châu Phi, mà cách đây vài tháng đã bày tỏ sự phản đối trước khả năng chúc lành cho người đồng giới (được đề xuất trong Tuyên ngôn Fiducia supplicans), giờ đây đang phải đối mặt với câu hỏi làm thế nào để đối xử với những người đàn ông có đến mười người vợ, cân nhắc đến những vấn đề như sự hiện diện của con cái, khó khăn kinh tế và các mối dây tình cảm. Đức Hồng y Ambongo cho biết SECAM có ý định phân tích những hình thức khác nhau mà hiện tượng này biểu hiện, cũng như động cơ của những người liên quan và giáo huấn của Giáo hội. Giáo huấn Công giáo khẳng định rằng đa thê “không phải là lý tưởng về hôn nhân theo thánh ý Thiên Chúa.” Tuy nhiên, ngày nay, điều này là chưa đủ: cần có sự “gần gũi,” “lắng nghe chủ động” và “hỗ trợ.” Công việc của nhóm, do một đội ngũ chuyên gia thực hiện, sẽ dẫn đến việc soạn thảo một tài liệu.

Vai trò của phụ nữ và nữ phó tế

Đức Hồng y Victor Manuel Fernández, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã đại diện cho Nhóm nghiên cứu về “các hình thức thừa tác vụ.” Ngài dự báo một “sự hồi sinh của một số suy tư của Đức Thánh Cha” – trong các tài liệu như Evangelii gaudiumQuerida Amazonia và Antiquum Ministerium – vốn “chưa được đón nhận đúng mức,” và nhấn mạnh đến “vấn đề cấp bách về sự tham gia của phụ nữ trong đời sống và lãnh đạo của Giáo hội.”

Điều này bao gồm khả năng phụ nữ có thể được thừa nhận vào chức phó tế, vốn là chủ đề của hai Ủy ban được Đức Thánh Cha thành lập. “Chúng ta ý thức về lập trường công khai của Đức Thánh Cha, Ngài cho rằng vấn đề này chưa chín muồi,” Đức Hồng y Fernández làm rõ. “Trong suy tư của Đức Thánh Cha, vẫn còn nhiều vấn đề khác cần phải được khám phá và giải quyết trước khi vội vàng bàn đến việc có khả năng phong chức phó tế cho một số phụ nữ.”

Theo vị Bộ trưởng của Bộ Giáo lý Đức tin, rủi ro là chức phó tế có thể trở thành “một hình thức an ủi cho một số phụ nữ,” trong khi “vấn đề quan trọng hơn về sự tham gia vào đời sống Giáo hội lại bị bỏ quên.” Dù sao đi nữa, Ngài cho biết, Bộ Giáo lý Đức tin vẫn tiếp tục “nghiên cứu nhiều hơn,” kết hợp phân tích về phụ nữ trong lịch sử Giáo hội “những người thực sự đã nắm giữ quyền hành” (như Matilda thành Canossa, Hildegard thành Bingen, Jeanne d’Arc, Teresa Avila, Mama Antula, Dorothy Day) với việc lắng nghe những phụ nữ ngày nay đang đảm nhận các vai trò quan trọng trong các Giáo hội tại những vùng đất xa xôi như Indonesia và Châu Phi. Như vậy, Đức Hồng y Fernández cho biết, vấn đề nữ phó tế “được thu gọn lại” và “chúng ta đang nỗ lực mở rộng không gian cho một sự hiện diện quyết định hơn của phụ nữ.”

Tiếng kêu than của người nghèo

Vai trò của phụ nữ cũng là trọng tâm trong các nghiên cứu của Nhóm chuyên về “lắng nghe” tiếng kêu của trái đất và của người nghèo. Làm thế nào để củng cố mối liên hệ giữa cộng đoàn Kitô giáo và những ai làm việc hàng ngày trong lĩnh vực bác ái, công lý và phát triển là điểm chính của những suy tư được điều phối viên Sandie Cornish, một người Úc, trình bày. Bà nhấn mạnh rằng “phụ nữ, ở mọi nơi trên thế giới, thuộc về những người nghèo nhất trong số những người nghèo.”

Công việc của Nhóm “sẽ được xây dựng dựa trên tiếng nói của họ,” cũng như tiếng nói của các tình nguyện viên và các chuyên gia đang “đồng hành” với những người đang chịu cảnh nghèo khó và bị gạt ra bên lề. Sự chú ý cũng sẽ được dành cho “các nhóm đã bị loại trừ trong nhiều năm, chẳng hạn như các nạn nhân của sự phân biệt giai cấp.” Bà Cornish cho biết các Giám mục và những người lãnh đạo giáo phận, mà các trở ngại đã được thảo luận trước đó, cũng sẽ được mời tham gia, đồng thời lưu ý rằng các trở ngại này có thể kích thích sự sáng tạo và các phản hồi cụ thể.

Các Giáo hội Công giáo Đông phương bị tàn phá bởi chiến tranh

Đề cập đến các sự kiện thời sự, Đức Hồng y Claudio Gugerotti, Bộ trưởng Bộ Các Giáo hội Đông phương, đã nêu bật “tình hình bi thảm trong những ngày gần đây: bom đạn, xe tăng tàn phá không chỉ con người mà còn cả niềm hy vọng,” nhắm vào một “thành phần nhỏ và dễ tổn thương”—các Giáo hội Công giáo Đông phương trong các vùng chiến sự. Ngài cảnh báo: “Các Giáo hội này đang đối diện nguy cơ biến mất,” và sự mất mát này “sẽ là một tổn thất không thể bù đắp đối với Giáo hội.” Nhóm làm việc đã nhận nhiệm vụ “kêu gọi các Giáo hội Latinh, vốn mạnh mẽ và tổ chức tốt hơn, giúp đỡ các anh chị em chúng ta sống tốt hơn sau khi phải di tản ra khỏi quê hương của họ.” Đối với một số Giáo hội, “phần lớn các tín hữu đang sống ở nơi hải ngoại, chứ không phải trên chính quê hương bị chiến tranh tàn phá của họ.” Đức Hồng y giải thích rằng chương trình của nhóm sẽ bao gồm một bản câu hỏi và việc khởi động một hành trình, không chỉ dừng lại trong khuôn khổ Thượng Hội đồng, mà còn tiến xa hơn, dưới sự chăm sóc của Bộ Các Giáo hội Đông phương.

Thời đại kỹ thuật số và việc loan báo Tin Mừng

Từ thế giới thực đến thế giới kỹ thuật số: Kim Daniel, chuyên gia người Mỹ, đã trình bày công việc của Nhóm về việc loan báo Tin Mừng trong môi trường kỹ thuật số.

Bà nói: “Một trang truyền giáo mới trong đời sống của Giáo hội” đã mở ra, “cho phép chúng ta vươn đến các vùng ngoại vi” và trở thành “lời rao giảng đầu tiên về Chúa trong một thế giới chưa biết đến Ngài.”

Tất nhiên, cần phải phân định những cơ hội và thách đố của “không gian linh hoạt” này, với động lực “hội nhập văn hóa” cho Giáo hội. Nhóm làm việc bao gồm các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực trong Giáo hội và học thuật; công việc của nhóm được đánh dấu bằng việc lắng nghe sâu rộng, đặc biệt là những người trẻ tham gia vào các mạng lưới văn hóa kỹ thuật số; trong dự án “Giáo hội lắng nghe bạn”; và trong bài suy tư mục vụ của Bộ Truyền thông về mạng xã hội, Hướng tới một sự hiện diện tròn đầy.

Quyền Tối thượng Phêrô trong bối cảnh đại kết

Mối quan hệ giữa tính hiệp hành và quyền tối thượng Phêrô, lòng hiếu khách Thánh Thể, và mối liên hệ với các phong trào canh tân Kitô giáo là những điểm sẽ được nhóm nghiên cứu, đại diện bởi Đức Cha Paul Rouhana, Giám mục Phụ tá của Giáo phận Joubbé, Sarba và Jounieh của Giáo hội Maronite, phân tích.

Chương trình làm việc, theo ngài, sẽ bao gồm việc phân tích “những hoa trái từ việc tiếp nhận hành trình đại kết trong thực hành giáo hội” và một số “đề xuất cụ thể cho việc thực thi quyền tối thượng Phêrô trong một khung cảnh đại kết mới.”

Văn kiện Giám mục Rôma sẽ là nền tảng cho các buổi gặp gỡ và suy tư, trong khi những kinh nghiệm từ các cuộc hôn nhân liên hệ phái, các gia đình và phong trào đại kết sẽ giúp mở rộng suy tư về lòng hiếu khách Thánh Thể.

Đồng thời, nhóm sẽ có một cái nhìn “tích cực” đối với các phong trào phi giáo phái để hiểu được “chúng ta có thể học được gì từ họ trong tinh thần trao đổi các hồng ân.”

Mối tương quan giữa Dân Chúa và các mục tử

Công việc của Nhóm về vai trò phục vụ của các giám mục, linh mục, và phó tế và mối quan hệ của họ với Dân Chúa mang tính chất thuần túy giáo hội.

Đức Cha Felix Genn của Giáo phận Münster nhấn mạnh sự cần thiết phải “đào sâu mối tương quan giữa giám mục và Giáo hội địa phương,” đặc biệt là theo ánh sáng của “những kỳ vọng Dân Chúa” về sự “minh bạch hơn”; sự tôn trọng lớn hơn đối với các bối cảnh địa phương; sự “tham gia tích cực hơn của Giáo hội địa phương trong việc lựa chọn các ứng viên để tránh những nghi ngờ về sự sắp đặt”; và nhu cầu khôi phục hình ảnh của “một Giáo hội thực sự hiệp hành.”

Đời sống thánh hiến

“Hiệp thông,” “hàng giáo phẩm,” “tính hiệp hành”; nhưng cũng là “tin tưởng,” “tình huynh đệ,” và “tình chị em” là những từ khóa hướng dẫn Nhóm Nghiên cứu về mối quan hệ giữa các giám mục và đời sống thánh hiến; và sự cộng tác giữa các Hội đồng Giám mục, các bề trên thượng cấp, các phong trào giáo dân, và các Giáo hội địa phương.

Nữ tu Simona Brambilla, Thư ký Bộ về các Tu hội Đời sống Thánh hiến và Các Tu đoàn Tông đồ, giải thích rằng nhóm sẽ đặc biệt xem xét “những khác biệt và sắc thái trong các phương thức sống mối tương quan giữa các giám mục và đời sống thánh hiến.” Ở một số khu vực trên thế giới, “mối quan hệ này hiệu quả và sinh hoa trái, trong khi ở những nơi khác lại mang nhiều thách đố và đời sống thánh hiến bị nhìn nhận một cách thuần túy chức năng.”

Đánh giá lại văn kiện ‘Ratio’ về linh mục trong viễn cảnh hiệp hành

Đức Hồng y José Cobo Cano đã trình bày, qua video, về công việc của Nhóm phụ trách việc đánh giá lại Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis, văn kiện năm 1985 về đời sống, việc đào tạo và thừa tác vụ của các linh mục, trong “viễn cảnh thừa sai hiệp hành.”

Đức Tổng Giám mục Madrid cho biết Ratio “vẫn đang được đón nhận và cần những hướng dẫn rõ ràng”; thông qua nhiều “mảnh ghép” của các đề xuất và sự hiểu biết, một “bức tranh khảm” định hướng lớn sẽ được chuẩn bị, bao gồm các vấn đề như đào tạo chủng viện, sứ vụ linh mục, mục vụ ơn gọi, mối tương quan với các giám mục, và giáo dục về tính hiệp hành.

Phương thức hoạt động mới cho các Sứ thần Tòa Thánh

Nhóm Nghiên cứu cuối cùng, theo Đức Tổng Giám mục Anthony Fisher của Sydney, được giao nhiệm vụ “tái định hình vai trò hiện tại của các Sứ thần Tòa Thánh,” không chỉ liên quan đến các chức năng ngoại giao cổ điển mà còn trong trách nhiệm thúc đẩy “sự hiệp nhất, tình huynh đệ, và tính hiệp hành giữa các giám mục.”

Tâm Bùi (TGPSG)

Chuyển ngữ từ: Vatican News

Nguồn: tgpsaigon.net









⛪⛪⛪⛪⛪






Các giám mục Hoa Lục và Đài Loan đối thoại bên lề Thượng Hội đồng Giám mục



Thượng Hội đồng Giám mục thế giới hiện nay không phải chỉ để bàn thảo về những vấn đề chính của Công nghị Giám mục này, nhưng còn là cơ hội gặp gỡ và trao đổi giữa các tham dự viên. Đó cũng là trường hợp của hai giám mục từ Hoa Lục và hai vị từ Đài Loan.


image.png

Bishop Yao Shun of Jining and Bishop Yang Yongqiang of Zhouchun (right) of the People’s Republic of China at the Synod on Synodality


Đức cha Norberto Phổ Anh Hùng (Pu Yingxiong), Giám mục Giáo phận Gia Nghĩa (Kiayi), đại biểu của Hội đồng Giám mục miền Đài Loan, năm nay 66 tuổi. Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Mỹ CNA, Đức cha cho biết mong được quen biết các giám mục, hồng y và các đại biểu tại Thượng Hội đồng Giám mục này. Đức cha nói đã gặp hai giám mục từ Hoa Lục và dự tính sẽ gặp lại các vị. Đức cha nói: “Đối thoại với các vị ấy là điều rất quan trọng, để tôn trọng lẫn nhau, và tôi nghĩ đây là điều tốt không những cho Giáo hội tại Trung Hoa, nhưng còn cho toàn Giáo hội”.

Đức cha Antôn Diệu Xuân (Yao Shun), Giám mục Giáo phận Tể Ning (Jining) là vị đầu tiên được thụ phong, theo hiệp định giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, về việc bổ nhiệm các giám mục. Ngài đã tham dự khóa I năm ngoái cùng với Đức cha Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), 54 tuổi. Trong khóa họp đó, hai giám mục đột ngột rời Thượng Hội đồng Giám mục, mà không có giải thích nào.

Đức cha Dương Vĩnh Cường thụ phong giám mục năm 2010, với phép của Tòa Thánh và làm Giám mục Giáo phận Chu Thôn (Zhoucun), tỉnh Sơn Đông, từ năm 2013 đến tháng Sáu năm nay, 2024.

Đức cha Diệu Xuân kể rằng nhiều tham dự viên hồi năm ngoái tại Thượng Hội đồng Giám mục tỏ ra quan tâm, muốn biết về sự phát triển của Giáo hội tại Trung Quốc, các vị muốn biết thêm và cầu nguyện cho chúng tôi”.

Thượng Hội đồng Giám mục cũng tạo cơ hội để các giám mục Hoa Lục đối thoại với Đức Hồng y Stephano Chu Thủ Nhân, Dòng Tên, Giám mục Hong Kong.

Hồi năm ngoái, Đức Hồng y và hai giám mục Hoa Lục đã cùng du hành đến thành phố Napoli, cách Roma 200 cây số và dâng thánh lễ tại nhà thờ Thánh Gia của các tín hữu người Hoa, một thánh đường được xây cất năm 1732, như thành phần của một Học viện do Đức Giáo hoàng Clemente XII thành lập để huấn luyện các chủng sinh người Hoa cũng như để dạy các thừa sai về tiếng Hoa, với mục đích loan báo Tin mừng tại Trung Quốc.

Năm nay, Đức cha Diệu Xuân được Đức cha Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu), Giám mục Giáo phận Mân Đông (Mindong), tỉnh Phúc Kiến (Fujian) thay thế. Đức cha Chiêm Tư Lộc năm nay 63 tuổi, đã chịu chức giám mục tại Bắc Kinh, không có phép của Đức Thánh cha, hồi năm 2000. Nhưng vạ này đã được thu hồi năm 2018, khi Tòa Thánh và Trung Quốc ký hiệp định về việc bổ nhiệm giám mục.

Khi ký giả hỏi Đức Hồng y Hollerich về lý do sự thay thế này, ngài đáp: “Phủ Quốc vụ khanh chỉ thông báo cho chúng tôi tên của các vị, nhưng chúng tôi không có thông tin về vấn đề này”.

Trong tuần lễ đầu tiên của Thượng Hội đồng Giám mục này, hôm mùng 02 tháng Mười, một số đại biểu đã dành thời giờ đến tham dự lễ quốc khánh lần thứ 113 của Đài Loan, tổ chức tại Đại sứ quán Đài Loan, ở đường Hòa Giải, không xa Quảng trường thánh Phêrô.


Thượng hội đồng họp báo, ngày 4: ‘chúng ta phải thắng vượt nỗi sợ nhau’

Antonella Palermo của Vatican News tường trình rằng vào hôm Thứ Bẩy, ngày 5 tháng 10, một số người tham gia Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã tóm tắt với các nhà báo về các báo cáo được trình bày trong các nhóm làm việc nhỏ và bày tỏ hy vọng rằng phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng có thể mang đến cơ hội tìm kiếm hòa bình và tôn trọng nhân quyền.

Thực vậy, Phiên họp Toàn thể Thượng hội đồng đã đưa ra lời kêu gọi khẩn cấp về hòa bình, được thảo luận vào ngày 4 tháng 10 trong quá trình làm việc tại Phiên họp thường kỳ lần thứ 16 của Thượng hội đồng về tính đồng nghị. Những người tham gia tại phiên họp đã lên án mọi hình thức của chủ nghĩa cực đoan chính thống, nói rằng: “tất cả chúng ta phải là những người thợ thủ công của hòa bình”.

Đồng thời, có một lời kêu gọi rộng rãi lên án “nguyên nhân chính của mọi điều xấu xa”, cụ thể là buôn bán vũ khí. Các thủ tục này của Thượng hội đồng đã được Paolo Ruffini và Sheila Leocádia Pires, chủ tịch và thư ký của Ủy ban thông tin của Thượng hội đồng, báo cáo vào ngày 5 tháng 10 tại cuộc họp báo trong ngày tại Văn phòng báo chí Tòa thánh.

Lời kêu gọi từ Lebanon tôn trọng quyền của những người bị áp bức

“Thật không may, thế giới vẫn im lặng hoặc bật đèn xanh cho mọi hành động bạo lực này vì có quá nhiều lợi ích chính trị và kinh tế không liên quan gì đến các giá trị của Kitô giáo”.

Đó là sự trình bầy được Đức Giám Mục Mounir Khairallah, Giám mục Công Giáo Maronite của Batrun đưa ra.

Tại Lebanon đang bị xung đột, Đức Giám Mục cho biết, hy vọng vẫn còn, để Vùng đất của những cây tuyết tùng có thể tiếp tục là thông điệp hòa bình.

Đức Giám Mục Khairallah nhắc lại rằng Nghị quyết về việc công nhận hai Nhà nước và hai dân tộc (Israel và Palestine) luôn bị các chính trị gia ở Israel bác bỏ.

“Tôi không nói rằng tất cả người Israel đều ủng hộ bạo lực”, ngài nhận xét, “chỉ nói rằng lợi ích được đặt lên hàng đầu, và ngay cả phương Tây cũng không ủng hộ chúng tôi vì họ không ủng hộ những người bị áp bức. Mong sao họ có quyền quyết định số phận của chính họ”, ngài nhấn mạnh.

Ngài nói thêm rằng Thượng hội đồng về tính đồng nghị là một cơ hội tốt để nhắc lại vị trí trung tâm của những người phải chịu đựng nhiều nhất do bạo lực và nghèo đói.

“Quyết định lớn nhất cần đưa ra là Giáo hội, thông qua Thượng hội đồng, trở thành sứ giả của sự chung sống, của sự tôn trọng người khác và của nhu cầu giải thoát bản thân khỏi nỗi sợ hãi người khác”, Đức cha Khairallah kết luận. “Đây sẽ là bước đầu tiên như một khuyến nghị tuyệt vời cho nhân loại”.

Tổng giám mục Haiti: ‘Chúng tôi đang tuyệt vọng’

Tổng giám mục Launay Saturné của Cap-Haïtien, Haiti, đã phát biểu với các phóng viên, lưu ý rằng đất nước của ngài đang sống trong tình trạng bất ổn kinh niên.

“Những người đáng lẽ phải mang lại trật tự và hòa bình cho đến nay đã không hoàn thành trách nhiệm của mình”, ngài nói và thêm rằng sự tôn trọng nhân phẩm “còn lâu mới trở thành thực tại ở đó”.

Tổng giám mục nhắc lại vụ thảm sát gần đây vào ngày 3 tháng 10 khiến 70 người thiệt mạng, nhiều ngôi nhà bị đốt cháy và nhiều người phải di dời, một hành động bạo lực do các băng đảng có vũ trang gây ra.

Mặc dù các băng đảng thậm chí đã công bố về vụ bạo lực, nhưng không có hành động nào được thực hiện để ngăn chặn, ngài nói.

“Chúng tôi đang tuyệt vọng”, ngài than thở, lưu ý rằng, tại thủ đô Haiti, 70 phần trăm dân số đã buộc phải chạy trốn.

Tổng giám mục Saturné nhấn mạnh tác động tiêu cực đến cuộc sống của những người trẻ tuổi và sứ mệnh của Giáo hội, vì nhiều giáo xứ đã bị đóng cửa.

Tổng giám mục giải thích rằng ngay cả về mặt kinh tế, năm năm qua vẫn không có tiến triển gì, vì đất nước bị chia cắt làm đôi mà không có khả năng giao tiếp giữa miền bắc và miền nam.

Trong bối cảnh này, “Hiệp thông, Tham gia, Sứ mệnh” xuất hiện như những giá trị cơ bản cần được củng cố, ngài nói, chỉ ra rằng nhiều nhóm tôn giáo đang cố gắng truyền đạt chúng cho các thế hệ mới, để một ngày nào đó họ có thể xây dựng một xã hội dựa trên chúng.

Hội đồng Giám mục Haiti đã yêu cầu điều gọi là thời gian chuyển tiếp chính trị không được quá dài và đã hành động như một người phát ngôn cho “các lực lượng đa quốc gia” vì đã đảm nhận trách nhiệm này.

Tổng giám mục Saturné cho biết, các Giám mục Haiti rất cảm ơn Đức Giáo Hoàng vì đã quan tâm đến các sự kiện ở quốc gia Caribe.

Phi Luật Tân và Giáo hội Truyền giáo

Giám mục Pablo Virgilio S. David, Giám mục Kalookan ở Phi Luật Tân, một thành viên của Ủy ban Thông tin Thượng hội đồng, đã phát biểu tiếp theo.

Ngài kể lại cuộc tham vấn lục địa với các linh mục giáo xứ diễn ra giữa hai phiên họp của thượng hội đồng, lưu ý mối quan hệ giữa tính đồng nghị và sứ mệnh dưới ánh sáng hiện tượng di cư ảnh hưởng đến Phi Luật Tân.

Ngài cho biết, di cư trong nước vừa mang tính quốc tế, với người Phi Luật Tân rời đi làm việc ở nước ngoài, vừa mang tính nội bộ, khi mọi người di chuyển từ vùng nông thôn đến các thành phố.

Do đó, một số cư dân thành thị coi những người từ vùng nông thôn là mối đe dọa. Ngài nói: “Khi Đức Giáo Hoàng đến vào năm 2015, ngài đã bảo chúng tôi đến vùng ngoại ô”. “Và chúng tôi đã làm như vậy. Chúng tôi đã thành lập 20 trạm truyền giáo trong giáo phận của tôi”. Do đó, các giáo xứ ngày càng biến đổi theo hướng truyền giáo.

Bùng nổ và suy thoái nhân khẩu học

Catherine Clifford, một giáo sư thần học hệ thống người Canada tại Đại học St. Paul ở Ottawa, sau đó đã nói chuyện với các nhà báo về tuần đầu tiên của phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng.

Bà lưu ý bầu không khí chân thành và thẳng thắn đang nổi bật giữa những người tham gia Thượng hội đồng, đặc biệt là vì họ đã biết nhau.

Giáo sư Clifford cho biết thế giới phương Tây cũng phải chấp nhận những thay đổi mà cộng đồng Giáo hội của mình đang phải đối diện.

“Chúng ta thấy rằng Nam bán cầu đang ngày càng đóng vai trò trung tâm trong các cuộc trò chuyện của chúng ta”, bà nói, đồng thời nói thêm rằng điều quan trọng là phải làm rõ rằng bất chấp nhiều thách thức từ góc độ nhân khẩu học và quá trình làm trống rỗng các nhà thờ, “Giáo hội không biến mất”.

Người nghèo, người trẻ, phụ nữ, giáo dân: Không phải là người thụ hưởng mà là những người tham gia tích cực

Tóm tắt các chủ đề được thảo luận vào chiều thứ Sáu và sáng thứ Bảy, Tiến sĩ Paolo Ruffini, Tổng trưởng Bộ Truyền thông cho biết kỳ họp của Thượng hội đồng đã nói về việc lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và nhu cầu đưa họ vào vai trò là người tham gia chứ không phải là người thụ hưởng đơn thuần.

"Con đường mà những người thấp kém nhất chỉ ra cho chúng ta là chúng ta phải lắng nghe tiếng kêu của trái đất và của các dân tộc", ông lưu ý, chỉ ra nhiều can thiệp về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội.

Những người tham gia Thượng hội đồng cho biết, điều này không được phép xảy ra nữa, khi phụ nữ và những người LGBTQ+ muốn phục vụ Giáo hội và làm như vậy với sự cam kết lớn lao lại thấy mình bị gạt ra ngoài lề.

Một trong những câu hỏi trọng tâm của nhiều suy tư liên quan đến những người trẻ tuổi, khi kỳ họp tự hỏi: "Điều gì thu hút họ đến với Giáo hội ngày nay?"

"Chủ nghĩa triệt để truyền giáo" là câu trả lời từ một số người tham gia. Sự tiếp thu phổ biến nhất là "những người trẻ tuổi cần phải thở" và người lớn phải thở cùng họ; do đó, có khả năng sẽ có được một ý thức đầy đủ và dễ hiểu về điều gọi là truyền giáo mới.

Chủ nghĩa đại kết, các công đồng giáo phận, vai trò của Giáo hoàng trong các kỳ họp hậu thượng hội đồng là một trong số các chủ đề khác được đề cập. Nhìn chung, người ta thấy rằng tính đồng nghị đưa ra một cách để chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị.




Tóm tắt Thượng hội đồng - Ngày 5: Thừa nhận nỗi đau của những nạn nhân chiến tranh

Tóm tắt Thượng hội đồng - Ngày 5: Thừa nhận nỗi đau của những nạn nhân chiến tranh

Cuộc họp báo ngày 5 của Thượng hội đồng cho thấy những tham dự viên tham gia Ngày cầu nguyện và ăn chay vì hòa bình và dành một khoảnh khắc đặc biệt tưởng nhớ tới biến cố Hamas tấn công tàn bạo vào Israel làm bùng nổ sự leo thang chiến tranh sau đó, và tập chú vào vai trò phụ nữ trong Giáo hội và việc xây dựng những nhịp cầu.

(Tiziana Campisi và Giampaolo Mattei)

Các phiên họp của Thượng hội đồng vào sáng thứ Hai, với 351 người tham dự, "đã diễn ra sau một lời cầu nguyện và khoảnh khắc thinh lặng cảm thương nỗi đau với dân chúng Trung Đông vì chiến tranh sau cuộc dội bom ngày 7 tháng 10 bùng nổ!"

ĐHY Paolo Ruffini, Chủ tịch Bộ Truyền thông, đã thông báo. Ngài cũng lưu ý rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi một lá thư cho những người Công Giáo ở Trung Đông "vào ngày buồn tẻ này".

Hơn nữa, Tiến sĩ Ruffini còn cho hay Đức Hồng Y Grech đã nhắc nhở những người tham dự Thượng hội đồng rằng Thứ Hai là “ngày cầu nguyện và ăn chay”, theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng, đọc Kinh Mân Côi cầu nguyện cho Hòa bình vào tối Chủ Nhật tại Vương cung thánh đường Đức Mẹ Cả.

Tiến sĩ Ruffini cho hay Đức Hồng Y Konrad Krajewski, quản gia công cuộc từ thiện Giáo hoàng, đã công bố một nỗ lực gây quỹ bắt đầu vào buổi chiều. Quỹ sẽ hỗ trợ cụ thể cho giáo xứ Công Giáo duy nhất ở Gaza và linh mục chính xứ, Cha Gabriel Romanelli, “người mà Đức Giáo Hoàng gọi điện thoại mỗi ngày để bày tỏ mối quan tâm của mình với những người đau khổ”.

9 trong số 21 tân Hồng Y được Đức Giáo Hoàng công bố vào Chủ Nhật sẽ tham gia sáng kiến này. Các ứng viên đó là: Luis Gerardo Cabrera Herrera, Tarcisio Isao Kikuchi, Pablo Virgilio Siongco David, Ladislav Nemet, Jaime Spengler, Ignace Bessi Dogbo, Dominique Mathieu, Roberto Repole và Timothy Peter Joseph Radcliffe.

Công việc của Thượng hội đồng

Cô Sheila Pires, thư ký của Ủy ban Thông tin, thông báo:

Thượng hội đồng kỳ tư đã được lên lịch vào thứ Ba: "Thượng hội đồng có kế hoạch bầu các thành viên cho các ủy ban soạn thảo Văn kiện cuối cùng, theo Điều 13 của các quy định nội bộ. Sau đó, các báo cáo từ các bảng ngôn ngữ sẽ được trình bày".

Theo mô hình đã được thông qua trong tuần đầu tiên, các thành viên của Thượng hội đồng sẽ bỏ phiếu chương trình nghị sự để thảo luận và ngày họp sẽ tiếp tục với các cuộc thảo luận mở.

Cô Pires lưu ý rằng hai diễn đàn đầu tiên về thần học mục vụ đã được lên lịch vào chiều thứ Tư với các chủ đề: "dân Chúa, Chủ thể của Sứ mệnh" và "Vai trò và Quyền hạn của Giám mục trong Thượng hội đồng".

Hành trình Thượng hội đồng ở Châu Á

Giáo hội phải xây dựng những nhịp cầu và biến mình thành một cây cầu. Điều này có nghĩa là phải chú ý đến các nền văn hóa và tôn giáo đa dạng, vun đắp đối thoại và tính đồng nghị.

Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng giám mục Bombay, đã bày tỏ sự khẳng định này. Ngài là thành viên của hội đồng thường trực của Ban thư ký Thượng hội đồng, Hội đồng Hồng Y và nhóm làm việc mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô thành lập vào đầu triều đại giáo hoàng của mình để trợ giúp ngài đều hành Giáo hội.

Trong buổi họp báo hôm thứ Hai, Đức Hồng Y nhấn mạnh đến tiến triển trong tính công nghị đòi hỏi sắc thái liên văn hóa. Ngài nói thêm rằng kể từ Công đồng Vatican II, sự chấp nhận và tôn trọng người khác là những khái niệm đã được thiết lập rộng rãi.

Đức Hồng Y Gracias đã xử dụng ví dụ về hành trình công nghị ở Châu Á, nơi một Hội đồng nhóm họp vào năm 2022 đã giải quyết các chủ đề hiện đang được thảo luận tại Thượng hội đồng, ĐHY lưu ý đến nhu cầu đổi mới các hoạt động mục vụ.

Hai điểm chính là làm việc và cùng nhau bước đi. Đức Hồng Y giải thích rằng điều cần thiết là xây dựng Vương quốc của Thiên Chúa ở các quốc gia có nền văn hóa địa phương đa dạng - không phải bằng cách cải đạo - những khác biệt phải được coi trọng. Một cách tiếp cận công nghị cần thiết để tránh áp đặt các quan niệm hoặc các khái niệm.

Đức Hồng Y Gracias trong Ngày cầu nguyện cho hòa bình và thúc đẩy tình huynh đệ

Ở Châu Á, các cuộc họp tiếp tục cho đến năm 2023, khi hai trăm giám mục tụ họp để thảo luận về việc tôn trọng các tôn giáo, các phong trào giáo dân và việc thánh hiến bằng phép rửa tội của mỗi cá nhân.

Đức Hồng Y Gracias nhấn mạnh rằng sự hợp tác rất quan trọng đối với mối quan hệ với các tôn giáo khác, rằng Giáo hội "không còn có thể gọi họ là các tôn giáo khác, mà là các tôn giáo bạn".

Các giám mục ở Châu Á cũng thừa nhận tầm quan trọng của thế giới kỹ thuật số và coi Thượng hội đồng là sự tiếp nối công việc của họ. Đức Hồng Y tiếp tục: "Tôi chắc chắn rằng mọi thứ sẽ tốt hơn và sẽ có nhiều tình huynh đệ và tình yêu hơn đối với Giáo hội".

Một gia đình

Trong buổi họp báo, Đức Tổng Giám Mục Gintaras Grušas, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Châu Âu và Tổng Giám mục Vilnius, đã tập trung vào ngày cầu nguyện và ăn chay cho hòa bình thế giới được nêu bật trong thượng hội đồng vào sáng Thứ Hai.

Ngài giải thích rằng sự đoàn kết với những người đang chịu đựng hậu quả của chiến tranh - như ở Trung Đông và Ukraine - thúc đẩy trải nghiệm rằng "tất cả chúng ta là một gia đình cầu nguyện cho hòa bình và thống nhất".

Đức Tổng Giám Mục nhấn mạnh nhu cầu củng cố mối quan hệ giữa các Giáo hội khi nói rằng, "đối thoại là sứ mệnh của chúng ta".

Lắng nghe ngày càng chú ý

Lắng nghe lẫn nhau là một kỹ năng đang phát triển trong Thượng hội đồng, Sơ Mary Teresa Barron, Chủ tịch Liên minh Quốc tế các Bề trên Tổng quyền (UISG), nhận xét.

Sơ tin rằng khả năng lắng nghe lẫn nhau cũng đã được cải thiện, cho phép phân định rõ hơn về niềm tin của người khác. Lắng nghe giúp mọi người gần gũi hơn với những người bị loại trừ và thiệt thòi.

Về phần mình, Liên minh Quốc tế các Bề trên Tổng quyền (UISG), là một sáng kiến của hội đồng, đã thành lập một văn phòng dành riêng cho tính hội đồng, với một nhóm liên văn hóa tập trung vào việc ưu tiên lắng nghe và các mối quan hệ để xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp hơn. Trên hết, mục đích là giúp đỡ những người ở vùng ngoại vi, Sơ Barron làm rõ, đặc biệt tập trung vào cách tiếp tục hành trình đồng nghị ở Syria, Lebanon, Nga, Ukraine, Việt Nam, Myanmar và Indonesia.

Khi được hỏi phụ nữ có thể có chỗ nào trong Giáo hội ngày nay, Sơ trả lời rằng, "Có nhiều khả năng và cơ hội lãnh đạo, nhưng chúng cần được khám phá và đánh giá."

Sơ nói rằng thực tế thì khác vì ở một số quốc gia có thể có những nhà lãnh đạo là phụ nữ trong Giáo hội và ở những quốc gia khác thì không, nhưng trọng tâm không phải là chức thánh. Và mặc dù đúng là có những phụ nữ cảm thấy được kêu gọi đến với chức linh mục, nhưng lĩnh vực này đề cập đến những chủ đề rộng hơn như tiếng gọi của Chúa Thánh Thần đến với các chức thánh, vốn không phải là chủ đề của Thượng hội đồng này.

Tuy nhiên, Đức Hồng Y Gracias lưu ý rằng phụ nữ là trung tâm của sự chú ý trong Giáo hội, báo cáo cho hay trong ba công nghị Hồng Y gần đây nhất, vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đã được thảo luận theo quan điểm thần học và mục vụ.

Về các chức thánh, đặc sủng và ơn gọi, Đức Tổng Giám Mục Grušas lưu ý rằng vai trò của giáo dân và gia đình có thể được thể hiện khác nhau ở nhiều phương diện, và do đó, vai trò của nam và phụ nữ phải được đánh giá cho phù hợp.

Sau đó, các câu hỏi đã được đặt ra về nhóm nghiên cứu liên quan đến việc bổ nhiệm giám mục, và Đức Hồng Y Gracias đã làm rõ rằng có hai nhóm tập trung vào: một nhóm tập trung vào vai trò của Giám mục và nhóm còn lại tập trung vào quy trình bổ nhiệm.

“Hình ảnh giám mục là nền tảng đối với Giáo hội và việc bổ nhiệm giám mục phải được thực hiện theo cách tốt nhất có thể”, Đức Hồng Y khẳng định, đồng thời làm rõ rằng hai nhóm đã bắt đầu hợp tác trong lĩnh vực quan trọng và thiết yếu này cho Giáo hội.

Tổng kết Thượng hội đồng - ngày 7 tháng 10 năm 2024

Những người hy vọng chức phó tế phụ nữ tỏ ra thất vọng

Một số người ban đầu phấn khởi và hy vọng Thượng Hội đồng Giám mục này sẽ đẩy mạnh tiến trình truyền chức phó tế vĩnh viễn cho phụ nữ, cảm thấy thất vọng.

G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA

Cha Thomas Schwartz, Giám đốc điều hành tổ chức bác ái Renovabis của Hội đồng Giám mục Đức, chuyên trợ giúp các Giáo hội tại Đông và Trung Âu cho biết như trên, trong một bài đăng trên trang mạng Công giáo của các giám mục Đức, truyền đi hôm mùng 04 tháng Mười. Cha là một trong số khách mời đặc biệt tại Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI đang tiến hành ở Vatican.

Cha kể rằng: “Gáo nước lạnh được dội trên mong đợi của những người ấy xảy ra trong phiên họp khoáng đại của Thượng Hội đồng Giám mục, chiều ngày 02 tháng Mười vừa qua, khi Đức Hồng y Manuel Fernandez, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, nói rằng “chúng ta biết rõ lập trường của Đức Thánh cha về vấn đề truyền chức phó tế cho phụ nữ. Ngài coi đây là một vấn đề chưa chín mùi”.

Đức Hồng y nói thêm rằng vấn đề này sẽ được nghiên cứu sâu rộng hơn để chuẩn bị cho văn kiện mới về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Có những vấn đề khác cần được giải quyết trước khi nói về chức phó tế phụ nữ. Chẳng vậy, chức này sẽ trở thành một phần thưởng an ủi đối với một số phụ nữ”.

Văn kiện được soạn thảo sẽ bàn về những vấn đề như: bản chất của quyền do thánh chức, tương quan giữa quyền này và các giáo vụ hay thừa tác vụ trong Hội Thánh, nguồn gốc các thừa tác vụ, các giáo vụ và chức năng không đòi phải có thánh chức, và sau cùng là các vấn đề nảy sinh do quan niệm về quyền bính trong Giáo hội.

Cha Schwartz viết: “Khi nghe những lời trên đây, tôi cảm thấy mình như con chó xù bị dội nước!”.

“Bây giờ thì tôi nóng lòng chờ đợi phúc trình của các nhóm ngôn ngữ, dự kiến được công bố vào thứ Sáu, ngày 04 tháng Mười này. Có lẽ thái độ thực tế đừng quá mong đợi sẽ là điều hữu ích. Vì khả năng thất vọng của tôi không còn ở mức độ cao nữa!”

Tổ chức Renovabis do cha Schwartz điều hành, được Hội đồng Giám mục Đức thành lập năm 1993 để giúp tái thiết Giáo hội tại 29 nước Đông và Trung Âu, thời hậu cộng sản và cho đến nay đã tài trợ hơn 26.000 dự án với 870 triệu Euro.






⛪⛪⛪⛪⛪








Đức Thánh Cha: Vai trò của phụ nữ ở Vatican đang thay đổi


Trong cuộc trò chuyện với các tu sĩ Dòng Tên ở thủ đô Brussels của Bỉ, trong chuyến tông du vừa qua, và được tạp chí Văn minh Công giáo (La Civiltà Cattolica) công bố ngày 08/10, Đức Thánh Cha đề cập đến vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, và không giới hạn điều này trong lĩnh vực mục vụ, đồng thời nhấn mạnh vai trò của phụ nữ tại Vatican đang thay đổi.

image.png

Chủ đề phụ nữ và vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đã được đề cập nhiều lần trong chuyến tông du đến Luxembourg và Bỉ, từ ngày 26 đến 29/9 vừa qua, cũng là trọng tâm của cuộc trò chuyện thân mật của Đức Thánh Cha với 150 tu sĩ Dòng Tên tại Brussels.

Trả lời câu hỏi “khó khăn trong việc mang lại cho phụ nữ một vị trí công bằng và thích hợp hơn trong Giáo hội”, Đức Thánh Cha tái khẳng định “Giáo hội là nữ”, và ngài thấy phụ nữ được ban cho các đặc sủng, vì thế không muốn giới hạn cuộc thảo luận về vai trò phụ nữ trong Giáo hội về chủ đề mục vụ. Đức Thánh Cha cho biết tại thời điểm này, ngài đang cố gắng “ngày càng nhiều hơn để đưa thêm phụ nữ vào Vatican với những vai trò có trách nhiệm ngày càng cao hơn. Và mọi thứ đang thay đổi. Người ta có thể thấy và cảm nhận điều này”.

Đức Thánh Cha đưa ra một số khuôn mặt cụ thể của phụ nữ đang phục vụ ở các vị trí quan trọng: Sơ Raffaella Petrini, Tổng Thư ký Phủ Thống đốc Thành Vatican; sơ Alessandra Smerilli, Tổng Thư ký Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện; trong Bộ Giám mục có ba thành viên là phụ nữ; sơ Simona Brambilla, Tổng Thư ký Bộ các Dòng tu; và trong Bộ Kinh tế, phó điều phối viên là bà Charlotte Kreuter-Kirchhof.

Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Tóm lại là đưa phụ nữ vào Vatican với những vai trò có trách nhiệm cao. Chúng ta sẽ tiếp tục con đường này. Mọi thứ đang hoạt động tốt hơn trước”.

Về vấn đề này, ngài cho biết chính những lời của bà Von der Leyen, Chủ tịch Uỷ ban châu Âu, đã làm ngài suy nghĩ rất nhiều về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Trong một cuộc gặp gỡ, ngài đã hỏi bà làm thế nào bà có thể đảm trách công việc của một Chủ tịch Uỷ ban châu Âu và vừa đảm nhận vai trò làm vợ và làm mẹ trong gia đình, bà đã trả lời: “Như những người mẹ chúng tôi vẫn làm”.

Cuộc đối thoại giữa Đức Thánh Cha và các tu sĩ Dòng Tên còn liên quan đến giáo xứ, cộng đoàn tín hữu, khi số linh mục phục vụ giáo xứ ngày càng ít. Đức Thánh Cha trả lời: “Cộng đoàn quan trọng hơn linh mục. Linh mục phục vụ cộng đoàn”, đồng thời đưa ra các ví dụ về trường hợp các nữ tu đảm nhận vai trò dẫn dắt một số nơi trên thế giới, như trường hợp các nữ tu ở Peru. Các nữ tu có “sứ vụ đặc biệt đi đến những nơi không có linh mục. Các chị làm mọi việc: giảng dạy, rửa tội… Và khi có một linh mục được sai đến, các nữ tu lại đi đến một nơi khác để tiếp tục thi hành sứ vụ”.


Nhóm phụ nữ tuyên bố phản đối cách tiếp cận thảm khốc tại Thượng hội đồng

Tạp chí Crux, ngày 5 tháng 10 năm 2024, tường trình rằng: Gọi cách xử lý các câu hỏi về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội tại Thượng hội đồng Giám mục về tính đồng nghị hiện tại là "thảm khốc", một liên minh các nhóm cải cách tiến bộ đã công bố kế hoạch tổ chức các cuộc biểu tình.

"Tôi không thấy Vatican có mong muốn giải quyết nghiêm túc vấn đề phụ nữ trong các chức vụ Giáo hội", Regina Franken, chủ tịch Hội đồng Phụ nữ Công Giáo châu Âu, cho biết trong bài phát biểu với KNA, dịch vụ tin tức chính thức của các giám mục Công Giáo tại Đức.

Trong bài trình bày vào ngày 2 tháng 10 trước hội đồng, Hồng Y người Argentina Víctor Manuel Fernández cho biết Bộ Giáo lý Đức tin, nơi ngài đứng đầu, đã kết luận rằng "không có chỗ" cho việc phong chức phó tế cho phụ nữ, đồng thời mô tả các kế hoạch nghiên cứu sâu hơn về những cách mà phụ nữ đã thực hiện thẩm quyền trong Giáo hội mà không cần phong chức bí tích.

Franken gọi nghiên cứu đó là "chiến thuật trì hoãn" và nói rằng "Phụ nữ không còn muốn chấp nhận những chiến lược này nữa".

Tuy nhiên, Franken cho biết "sự thất vọng hiện đang chuyển thành sự tức giận có ích", và nói rằng sẽ có các cuộc biểu tình ở Rome trong vài ngày tới.

"Chúng tôi muốn công khai cả ở Rome và trên các mạng xã hội các chiến lược và chiến thuật thao túng được sử dụng để đối xử với phụ nữ trong Giáo hội", bà nói.

Franken cho biết nghiên cứu thần học về điều kiện đủ của phụ nữ đối với các chức vụ khác nhau trong Giáo hội đã được tiến hành trong hơn 60 năm, bà bày tỏ sự thất vọng với kết quả. Bà cho biết tổ chức của bà luôn sẵn lòng làm việc với những người có trách nhiệm trong Giáo hội, nhưng câu hỏi hiện tại là liệu sự hợp tác này có còn khả hữu hay không.

Franken không phải là người duy nhất lên tiếng bày tỏ sự thất vọng. Cha Thomas Schwartz người Đức, người đứng đầu nhóm từ thiện Công Giáo Đức Renovabis và là người quan sát tại Thượng hội đồng, đang viết các bài đăng trên blog về những trải nghiệm của mình. Bài viết của ngài vào thứ Sáu có tiêu đề là "Đó là gì? Sự vỡ mộng thay vì nhiệt tình trong Hội trường Thượng hội đồng".

"Khi người đứng đầu bộ cuối cùng tuyên bố, liên quan đến vấn đề về chức phó tế của phụ nữ, rằng Đức Thánh Cha đã nói rõ rằng sẽ không có quyết định nào về vấn đề này trong tương lai gần, và rằng một văn bản chính thức từ Bộ Giáo lý Đức tin sẽ sớm được công bố, tôi cảm thấy hơi giống một con chó xù ướt", Schwartz viết.

"Là một người tham gia vào một hội đồng được cho là sẽ thực hiện nguyên tắc đồng nghị và có nhiệm vụ thực hiện tính đồng nghị sâu sắc hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống Giáo hội, tôi mong đợi một thủ tục khác ở đây", ngài nói. “Và tôi thừa nhận: Tôi khá khó chịu – cả về nội dung lẫn cách thức xử lý phiên họp của thượng hội đồng.”

Cha Schwartz cho biết ngài không phải là người duy nhất.

“Tôi thấy an ủi khi biết rằng tôi không phải là người duy nhất cảm thấy như vậy,” ngài viết. “Tôi phát hiện ra điều này trong một số cuộc trò chuyện trong giờ nghỉ giải lao ngày hôm sau khi điều gọi là ‘Circoli Minori’ [nhóm nhỏ] tụ họp tại các bàn tròn để họp làm việc đầu tiên.”

“Tôi có ấn tượng rằng nhiều người trong khán phòng nhận ra rằng bằng cách lên luật nguyên trạng, người ta tự đặt mình vào cáo buộc bám lấy một nhân chủng học lấy nam giới làm trung tâm và duy giản lược,” Cha Schwartz cho biết. “Đó là lý do tại sao ngay cả những người có sự dè dặt mạnh mẽ về sự tham gia của phụ nữ vào thừa tác vụ thụ phong, hoặc hoàn toàn phản đối, vẫn hoan nghênh một cuộc tranh luận nghiêm túc và có cơ sở thần học.”

Cha Schwartz ca ngợi điều mà ngài gọi là bầu không khí cố gắng “đặt mình vào vị trí của người khác” giữa những người tham gia thượng hội đồng, điều mà ngài cho biết khiến ngài “hòa giải hơn và có chút hy vọng.”

Hiện tại, một trang web của Hội đồng Phụ nữ Công Giáo có thông tin về hai sự kiện công cộng tại Rome được lên kế hoạch vào ngày 12 tháng 10: Một là cuộc tụ họp bên ngoài hội trường thượng hội đồng vào buổi tối để phát bưu thiếp cho những người tham dự với nội dung "bình đẳng", và sự kiện còn lại là một vở kịch hài hước vào buổi chiều có tên "Vaticanelle", trong đó các nhân vật được mô tả là "giám mục nữ" và "Giáo hoàng chị em" sẽ thảo luận về việc liệu nữ giới có đủ điều kiện để được phong chức linh mục hay không.

Các cuộc biểu tình ở Rôma đòi vị trí của phụ nữ trong Giáo hội

image.png

Phụ nữ Công giáo Hành động (CWC) dự định lên tiếng ở Rôma  © Hội Phụ nữ Công giáo Hành động

Thất vọng vì thiếu phối cảnh cho phụ nữ trong Giáo hội tại Thượng Hội đồng, một liên minh gồm các nhóm ủng hộ cải cách tuyên bố biểu tình ở Rôma. Các lời thoại kịch nghệ phải có trong bối cảnh “các nữ giám mục”.

Bà Regina Franken, chủ tịch Hội Phụ nữ Công giáo Châu Âu Hành động nói với trang tin KNA của Đức: “Tôi không thấy Vatican có mong muốn nghiêm túc giải quyết vấn đề chức vụ phụ nữ trong Giáo hội.” Được thành lập năm 2019, Hội Phụ nữ Công giáo Hành động là mạng lưới toàn cầu gồm các tổ chức và phong trào Công giáo hoạt động có mục đích công nhận phẩm giá đầy đủ và bình đẳng của phụ nữ trong Giáo hội. Hội bao gồm Liên đoàn Phụ nữ Công giáo Thụy Sĩ (SKF).

Không có chỗ cho các nữ phó tế

Bà Franken tuyên bố: “Sự thất vọng giờ đây đã chuyển thành tức giận.” Động lực của các nhóm được thúc đẩy do thông tin gần đây của bộ Giáo lý Đức tin về Thượng Hội đồng ở Rôma, Hồng y bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin Víctor Manuel Fernández  thông báo cho biết Bộ đang chuẩn bị một tài liệu về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội, ngài hứa hẹn có một “nghiên cứu sâu hơn” về những cách thức mà phụ nữ có thể hoạt động trong Giáo hội, một hướng đi đã được Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ ra vào tháng 5 năm 2024.

Đã thảo luận về khả năng hội đủ điều kiện nhận chức tư tế của nam giới

Bà Regina Franken mô tả cách tiếp cận này là “chiến thuật trì hoãn và là kỹ thuật thao túng”, phụ nữ không còn sẵn sàng chấp nhận những chiến lược này nữa. Bà nhắc lại, nghiên cứu thần học liên quan đến khả năng phụ nữ có đủ điều kiện đảm nhận các chức năng khác nhau trong giáo hội đã được tiến hành hơn 60 năm nay, với những kết quả đáng thất vọng. Nhưng bà bảo đảm tổ chức của bà sẵn sàng làm việc với các nhà lãnh đạo Giáo hội, vấn đề bây giờ là liệu sự hợp tác này có còn khả thi hay không.

Trang web của Hội đồng Phụ nữ Công giáo thông báo hai sự kiện công cộng được lên kế hoạch ở Rôma ngày 12 tháng 10: một cuộc tụ họp bên ngoài hội trường Thượng Hội đồng buổi tối để phát các tấm bưu thiếp có nội dung “bình đẳng” cho các thành viên và một vở kịch vào buổi chiều mang tên “Vaticanelle” trong đó các nhân vật được mô tả là “nữ giám mục” và “nữ Giáo hoàng” sẽ thảo luận về khả năng hội đủ điều kiện của nam giới cho chức tư tế.

Chức phó tế nữ: thất vọng và thắc mắc sau câu trả lời “không” của Đức Phanxicô

Trong cuộc phỏng vấn với kênh CBS Mỹ, Đức Phanxicô đã khép lại việc phong chức phó tế nữ. Giáo hội đã tranh luận vấn đề này từ hơn nửa thế kỷ nay.

Trong cuộc phỏng vấn với đài truyền hình CBS được phát ngày thứ ba 21 tháng 5, Đức Phanxicô bác bỏ việc phong chức phó tế nữ: “Phụ nữ luôn phục vụ rất tốt chức năng phó tế đúng không? Họ phục vụ rất tốt trong vai trò phụ nữ, không phải mục tử.” Một thông báo gây ngạc nhiên, chấm dứt những suy tư đã có từ nhiều năm nay.

Gần đây vấn đề này đã bị loại khỏi các chủ đề cần giải quyết của Thượng hội đồng về tính đồng nghị. Năm 2016 chức phó tế nữ đã được giao cho một ủy ban đặc biệt nhưng ủy ban này đã sớm giải thể, nhường chỗ cho một ủy ban nghiên cứu mới năm 2020, hiện nay ủy ban vẫn còn nhưng chưa hoàn thành công việc.

Bằng một câu nói trước các máy camera, Đức Phanxicô đã chấm dứt chủ đề. Bà Anne-Marie Pelletier, thần học gia và là thành viên của Ủy ban thở dài: “Tôi khó hiểu sự vội vàng này, tôi ngạc nhiên khi thấy ngài lên tiếng một cách gấp gác không cần thiết vì vấn đề này đã được tranh luận từ lâu.”

Linh mục Dòng Tên Étienne Grieu, khoa trưởng phân khoa Loyola Paris (trước đây là Trung tâm Sèvres) trả lời: “Thật là đáng tiếc khi vấn đề được giải quyết chỉ trong một câu, trong khi nó đáng được tranh luận, cân nhắc, phân định.” Theo linh mục, chức phó tế nữ mở ra khả năng khả năng phong chức linh mục cho phụ nữ; nhưng giáo hoàng chọn một kiểu ở giữa với các “nữ phó tế”, được hiểu là những phụ nữ phục vụ, ngay cả không nói rõ liệu họ có phải là thừa tác vụ được công nhận hay không, như chức đọc sách hay giúp lễ.

Bà Anne-Marie Pelletier giải thích: “Bằng cách từ chối chức phó tế nữ, Đức Phanxicô chỉ củng cố thêm sự bất cân xứng giữa nam và nữ trong Giáo hội, để phụ nữ ở một khoảng cách xa với linh mục.”

Vì thế thừa tác vụ thụ phong vẫn dành riêng cho nam giới theo ba thứ trật: hàng giám mục cho các giám mục; hàng linh mục cho linh mục; hàng phó tế cho phó tế. Linh mục Grieu nhấn mạnh: “Được chịu chức, phụ nữ có thể chú giải Lời Chúa trong phụng vụ. Chúng ta có thể nghe một giọng nữ mở đầu Tin Mừng cho chúng ta.”

Bà Anne-Marie Pelletier nhấn mạnh đến vị trí của “chức linh mục chịu phép rửa” lần đầu tiên kể từ Công đồng Vatican II. Với Đức Phanxicô, phụ nữ sẽ tiếp tục phục vụ như họ vẫn làm. Liệu điều này có cần đến việc công nhận một thừa tác vụ được thiết lập (nữ phó tế) bằng một phép lành đơn giản – trái ngược với việc truyền chức không? Đức Phanxicô không đề cập đến. Bà Pelletier hỏi: “Vì sao việc phục vụ Lời Chúa hoặc một số cử chỉ bí tích phụ nữ không được làm?”

Phản ứng trước những lời của giáo hoàng, bà Anne Soupa, thần học gia đồng sáng lập Ủy ban Phụ nữ cho biết: “Tôi cảm thấy bị xúc phạm, khi phủ nhận phụ nữ không có khả năng với chức thánh, đó là điều không thể chấp nhận về mặt trí tuệ.” Với nhà thần học tận tụy này, người đã đặt rất nhiều hy vọng vào Đức Phanxicô, những quyết định như vậy chỉ làm nổi bật khoảng cách với xã hội dân sự: bây giờ nước Pháp sẽ ra sao nếu không có các nữ dân biểu, quan tòa, cảnh sát, đó là chỉ nhắc đến các chức vụ tương đương.

Bị tổn thương với cuộc phỏng vấn trên đài CBS, bà ngạc nhiên khi thấy ngài đặt con số giới hạn cho phụ nữ được bầu ở Thượng hội đồng, bà tự hỏi “không biết trong các tranh cãi của Giáo triều, vấn đề phụ nữ có phải là một vấn đề lớn ở Vatican hay không”.

Cho đến cuối thời Cổ đại, vấn đề nữ phó tế vẫn chưa được giải quyết. Họ được công nhận bằng một phép lành đơn giản hay một phong chức? Theo Công đồng Chalceudonia (451), có cùng một truyền chức cho nữ phó tế cũng như cho nam phó tế.

Linh mục Étienne Grieu giải thích: “Vấn đề không phải là tái tạo lại những gì có thể đã tồn tại mà là tìm những gì Giáo hội ngày nay cần. Đây không phải chỉ là vấn đề của các chuyên gia. Chúng ta có thể dành một thượng hội đồng cho vấn đề này, vấn đề phụ nữ được công nhận như thừa tác viên được phong chức là rất quan trọng cho Giáo hội.”

Cuối cùng, nếu phụ nữ không thể làm phó tế, liệu có thể “giảm” chức phó tế nam thành thừa tác vụ đặt định ngang với nữ phó tế không? Tổng giám mục Jean-Paul Vesco của Algiers hỏi trong một chuyên mục của báo La Croix: “Không có sự phát triển đáng kể nào về vấn đề này cũng như những vấn đề khác có thể thực hiện được nếu không có một suy tư sâu sắc về bí tích truyền chức. Phải chăng mọi thứ trong đó đều vô hình, cố định mãi mãi chăng?”

Bực tức vì áp lực, giáo hoàng có vội vàng kết thúc cuộc tranh luận không? Dù một trích đoạn phỏng vấn không có sức mạnh thần học lớn thì cánh cửa hiện nay đã đóng lại trong một thời gian. Và vẫn cần một văn bản chính thức hơn.




Ngoài chức phó tế nữ: Thượng hội đồng còn và không còn những vấn đề nào?


image.png

Tại lễ khai mạc Phiên họp thứ nhì của Thượng Hội đồng ngày 2 tháng 10, giới truyền thông chú ý đến bài phát biểu của Hồng y Victor Fernández về khả năng phong chức phó tế cho phụ nữ.

Trọng tâm chú ý của dư luận là về chức phó tế nữ, nhưng trọng tâm của Thượng Hội đồng ở một hướng khác. Trong bài phát biểu, Hồng y Fernández nhận xét: “Có một câu hỏi về việc phụ nữ có thể đến với chức phó tế nữ không… Chúng ta biết lập trường công khai Đức Phanxicô, ngài không xem vấn đề này đã chín chắn.”

Hồng y nêu bật công việc của hai Ủy ban hiện có về chủ đề này và cho biết kết luận sẽ được đưa vào tài liệu cuối cùng. Hồng y lưu ý một số can thiệp “hiếm khi được lắng nghe” của Đức Phanxicô như Tông huấn Niềm vui Tin mừng, Tông huấn Querida Amazônia và Tông huấn Antiquum Ministerium.

Những Tông huấn này nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chức thánh giáo dân, cảnh báo việc “giáo sĩ hóa phụ nữ” – một quan niệm cho rằng phụ nữ sẽ có địa vị và tham dự nhiều hơn vào Giáo hội khi họ được nhận vào Chức thánh. Như thế là xem chức linh mục thừa tác là “quyền lực và thống trị”, chứ không phải phục vụ theo tinh thần hướng đến sự thánh thiện của các chi thể của Chúa Kitô.

Hồng y Fernández lưu ý: “Vẫn còn cơ hội để nghiên cứu sâu hơn, nhưng trong tâm trí Đức Phanxicô còn có những chủ đề khác phải được đào sâu và giải quyết, nếu không chức phó tế sẽ là một hình thức an ủi cho một số phụ nữ, và các vấn đề về việc tham gia của phụ nữ trong Giáo hội sẽ bị bỏ qua.”

Trong buổi họp báo ngày 4 tháng 10, Giám mục Anthony Randazzo, thành viên Ủy ban Thông tin của Hội đồng Thượng hội đồng đã giải thích rõ : “Hiện nay, có một câu hỏi liên quan đến việc phong chức đã diễn ra liên tục trong nhiều năm, không chỉ với Thượng Hội đồng, Đức Phanxicô đã xin nghiên cứu vấn đề này nhiều lần và hiện tại có một nhóm nghiên cứu ngài thành lập để đưa vấn đề này ra khỏi cuộc thảo luận chung.”

Giám mục Randazzo giải thích, mục đích không phải để loại bỏ chủ đề khỏi trao đổi chung nhưng để nghiên cứu vấn đề này ở những nơi khác, nhưng không nên thực hiện với cái giá là phẩm giá của phụ nữ trong Giáo hội và trên thế giới: “Hiện tại, khi chúng ta nói về phụ nữ trong Giáo hội, chúng ta xem phụ nữ bị đối xử như công dân hạng hai, bị bỏ rơi trong Giáo hội và trên thế giới, điều này thật đáng xấu hổ, tất cả chỉ vì một nhóm thiểu số nhỏ với tiếng nói mạnh mẽ của phương Tây bị ám ảnh phải thúc đẩy vấn đề này.”

Không chỉ các phó tế nữ mà còn nhiều chủ đề gây tranh cãi khác như thảo luận các vấn đề LGBTQ cũng bị loại khỏi chương trình nghị sự thảo luận chính của cuộc họp.

Ngay từ năm 2023, trong Phiên họp đầu tiên của Thượng hội đồng, Đức Phanxicô đã xin các nhà báo chuyển hướng tập trung của họ khỏi các vấn đề gây tranh cãi, thay vào đó nhấn mạnh nhiệm vụ chính của Thượng Hội đồng là lắng nghe tiếng thúc giục của Chúa Thánh Thần.

Trong Thượng Hội đồng về Gia đình, sự hiệp thông được trao cho những người đã ly hôn, và Thượng Hội đồng bắt đầu với tinh thần này. Trong Thượng Hội đồng Amazon, dư luận, áp lực cho rằng các ông đã lập gia đình viri probati sẽ được phong chức và chúng ta làm việc dưới áp lực này. Bây giờ có những suy đoán: “Thượng Hội đồng sẽ làm gì?, có lẽ nên phong chức cho phụ nữ… Tôi không biết, đó là những điều họ nói bên ngoài.”

Đức Phanxicô thúc giục các nhà báo làm tốt và công bằng công việc của họ, để Giáo hội và những người thiện chí có thể hiểu trong Giáo hội, việc lắng nghe là: “Xin anh chị em truyền đạt điều này: nó rất quan trọng.”

Lắng nghe, Lòng thương xót và Đón nhận Chúa Thánh Thần

Trong bài phát biểu khai mạc Thượng Hội đồng, Đức Phanxicô đã xin các thành viên tham dự suy nghĩ về “cách trở thành một Giáo hội theo tinh thần công đồng, truyền giáo và thương xót”. Trước đó trong buổi canh thức sám hối ngày 1 tháng 10, ngài giải thích chúng ta không thể là “Giáo hội theo tinh thần công đồng nếu không có hòa giải”. Tội lỗi luôn làm tổn thương các mối quan hệ với Chúa và với người anh em: “Chỉ bằng cách chữa lành những mối quan hệ tan vỡ này, chúng ta mới có thể là Giáo hội theo tinh thần công đồng.”

Buổi canh thức bao gồm chứng từ của các nạn nhân chiến tranh, bất công xã hội và các lạm dụng của Giáo hội. Thay mặt giáo dân, bảy Hồng y đã xin được tha thứ cho những tội lỗi Giáo hội đã phạm phải: “Tôi xấu hổ xin được tha thứ vì tất cả những lần chúng tôi không công nhận anh chị em khi không xem các lời khuyên trong Phúc Âm như nguồn sống mới mẻ vĩnh cửu, nhồi nhét và biến những lời khuyên này thành đống đá dùng để ném vào người khác.”

Ngài cũng xin lỗi về những trường hợp dùng “những biện minh giáo lý để bảo vệ những hành vi vô nhân đạo hoặc khi Giáo hội không làm tròn vai trò là chứng nhân đáng tin cậy, không có được sự hội nhập văn hóa hợp pháp về chân lý của Chúa Giêsu Kitô,” Đấng gặp gỡ tất cả những ai trên con đường đi tìm Ngài.

Hồng y đã thêm tội “hành động thiếu sót đã cản trở và tiếp tục cản trở sự hiệp nhất đức tin kitô giáo và tình huynh đệ đích thực của toàn thể nhân loại”.

Ngày hôm sau, trong Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Phanxicô nhấn mạnh: “Thượng hội đồng không phải là một phiên họp Quốc hội nhưng là nơi lắng nghe trong sự hiệp thông.”

Để có được điều này, Thượng Hội đồng phải tiếp nhận tất cả các đóng góp được thu thập trong ba năm của tiến trình “với sự tôn trọng và chú ý, trong lời cầu nguyện… để cùng nhau phân định tiếng nói của Chúa đang nói với Giáo hội”.

Ngài giải thích: “Những ai kiêu ngạo tuyên bố họ độc quyền nghe tiếng gọi của Chúa, thì họ không thể nghe được. Chúng ta không có giải pháp cho những vấn đề chúng ta phải đối diện, nhưng Chúa thì có. Không có vấn đề đa số và thiểu số… điều quan trọng là hòa hợp, một hòa hợp chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban được. Ngài là hòa hợp và có khả năng tạo ra tiếng nói chung giữa các tiếng nói khác nhau. chúng ta đã thấy Ngài làm việc trong Lễ Hiện xuống.”

Vì thế chúng ta được yêu cầu cùng nhau làm việc theo bản giao hưởng, trong một sáng tác hợp nhất để tất cả chúng ta phục vụ trong lòng thương xót Chúa, phù hợp với các chức vụ, các đặc sủng khác nhau mà Giám mục có nhiệm vụ công nhận và thúc đẩy.

Tóm lại, Thượng Hội đồng là quá trình “cùng nhau hành trình, trong đó Giáo hội được Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ đọc được các dấu chỉ của thời đại, liên tục đổi mới và hoàn thiện tính bí tích của mình”.

Có 10 nhóm nghiên cứu thần học trong Thượng Hội đồng, họ tập trung vào các chủ đề cụ thể như chăm sóc mục vụ cho giáo dân trong các hôn nhân đa thê ở Châu Phi, các thành viên được mời tham gia thảo luận về chủ đề này. Thượng hội đồng sẽ kết thúc ngày 27 tháng 10.

Pedro Gabriel, giáo dân, nhà văn, bác sĩ công giáo Bồ Đào Nha, chuyên gia về ung thư, hiện đang làm việc tại một bệnh viện công của Bồ Đào Nha.







“Đúng, Giáo hội có vấn đề”




Phụ nữ, tình huynh đệ, sự khác biệt: phỏng vấn Tổng Giám mục Jean-Paul Vesco, giáo phận Algiers

Tổng Giám mục người Pháp-Alger Jean-Paul Vesco, 61 tuổi, giáo phận Alger, ngài đã suy nghĩ rất nhiều về khái niệm tình huynh đệ và tính khác biệt, một trong những thành quả qua kinh nghiệm của ngài ở Algeria và việc ngài thuộc dòng Đa Minh đã soi sáng suy nghĩ của ngài về phụ nữ.

Giáo hội Công giáo có vấn đề với phụ nữ không?

Giám mục Jean-Paul Vesco. Câu hỏi của bà hơi khiêu khích, nhưng đúng vậy, trong nhiều thế kỷ, Giáo hội có vấn đề với phụ nữ, giống như hai tôn giáo đơn thần khác (hồi giáo và do thái giáo) và có lẽ là hầu hết các tôn giáo. Đây không phải là lời bào chữa, nó sẽ rất tốt và chính đáng nếu nó đã khác đi ngay từ đầu! Với một vài trường hợp ngoại lệ đáng mừng gần đây, ngoài ra phụ nữ gần như vắng mặt trong việc quản trị và giảng lễ, nhưng họ lại có mặt ở mọi nơi khác. Họ là xương thịt của các giáo xứ, là linh hồn của các giáo hội tại gia, là chuyên gia dạy giáo lý.

Trong cách chúng ta giới thiệu, theo định nghĩa Giáo hội là vượt thời gian, một Giáo hội phụ hệ nằm ngoài dòng thời gian, ngoài thời trang, ngoài sự đào thải của thời gian. Tuy nhiên, nếu Giáo hội không có sự tham dự mạnh mẽ hơn của phụ nữ vào các vị trí trách nhiệm và tầm nhìn, Giáo hội chúng ta có nguy cơ là một Giáo hội lỗi thời, không phải phi thời gian nhưng lỗi thời, lỗi thời trong tổ chức của mình. Giáo hội công giáo là Giáo hội phổ quát, nếu Giáo hội không thuộc về thế giới thì Giáo hội đã được khắc ghi rõ ràng trên thế giới và không thể dựa vào logic tự quy chiếu trong mối quan hệ với thế giới. Câu hỏi về trách nhiệm của giáo dân, từ đó là câu hỏi trách nhiệm của phụ nữ trong các cuộc tham vấn trước Thượng Hội đồng đã rõ ràng. Cuộc chiến giữa các cậu bé giúp lễ quanh bàn thờ như đã thấy ở một số nơi, không còn xảy ra nữa. Trong các thánh bộ của Vatican, nơi phụ nữ bắt đầu đông hơn trước, họ đảm nhận các trách nhiệm cao hơn, những nơi đó bầu khí đã hoàn toàn khác. Chỉ cần một vài phụ nữ là giáo triều không còn là cộng đồng giáo sĩ vốn rất dễ bị kỳ thị.

Người ta thường nói bây giờ không thể triệu tập một công đồng ở cấp độ Giáo hội hoàn vũ do khó khăn vật chất khi tập hợp hơn 5.000 giám mục. Nhưng bây giờ không còn là vấn đề nữa. Hình ảnh Thượng Hội đồng ở Hội trường Phaolô VI với các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân nam nữ ngồi quanh các bàn đồng cấp cho thấy thời đã thay đổi, nhận thức Thượng Hội đồng không thể chỉ do các giám mục quyết định. Một cách nào đó, Thượng Hội đồng về tính đồng nghị rất tự nhiên đã làm cho triển vọng về một Công đồng Vatican III trở nên lỗi thời! Ngày nay ai có thể tưởng tượng tương lai của Giáo hội chỉ được Hội đồng Giám mục chỉ định?



Vị trí của phụ nữ trong việc quản lý giáo phận Algiers là gì?

Trong giáo phận của chúng tôi, tôi muốn có một nhóm nhỏ phụ nữ bên cạnh các hội đồng khác nhau, bao gồm các nhân vật lãnh đạo giáo phận: tổng đại diện, tổng thư ký, thủ quỹ, phó thủ quỹ, chịu trách nhiệm về diakonia và tôi, tạo thành một đội gồm bốn phụ nữ và hai nam giới. Hầu hết các quyết định, chúng tôi đều cùng nhau suy nghĩ. Nói chung, tôi sống trong môi trường chủ yếu là nữ và đó là niềm vui của tôi mỗi ngày! Nhưng điều này không có nghĩa là không có va chạm. Một ngày nọ, một phụ nữ nói với tôi: “Cuối cùng thì việc này tùy thuộc vào cha!” Đó là sự thật và đó cũng là vấn đề. Trong Giáo hội công giáo chúng ta, các giám mục đưa ra quyết định và thực hiện chúng. Mô hình chắc chắn có thể phát triển. Về mặt này, các mô hình quản trị đời sống tu trì có thể cho cảm hứng: nhiều quyết định được đưa ra trong các cuộc họp tổng tu nghị hoặc trong Hội đồng đã được bầu chọn, và những hạn chế về quyền ra quyết định của bề trên không làm mất đi quyền lực biểu tượng của họ. Theo tôi, có vẻ như trong hầu hết các trường hợp, điều này nói lên lòng tin tưởng nảy sinh từ sự hiểu biết nhau và theo đuổi một dự án chung, có nghĩa phần lớn các quyết định đều đã được đồng thuận rộng rãi khi nói đến những vấn đề chưa nhất trí. Dù sao, ý kiến của mỗi người và mọi người đều được lắng nghe và cân nhắc theo cách này hay cách khác trước các quyết định có ảnh hưởng đến họ. Tôi nghĩ đó là một kinh nghiệm mạnh mẽ cho tất cả mọi người, kể cả tôi!

Đằng sau vấn đề của phụ nữ là vấn đề chỗ đứng của giáo dân…

Tất nhiên! Trong giai đoạn cấp giáo phận, tại giáo phận Algiers, mong muốn của giáo dân trong nước là được tham gia vào đời sống của Giáo hội. Họ xem Giáo hội là Giáo hội của họ một cách đúng đắn vì đó là Giáo hội Algeria. Tuy nhiên, họ cảm thấy bị gạt ra ngoài lề để ủng hộ những thành viên thường trực như chúng tôi, cơ bản là tu sĩ và là người nước ngoài, những người kể từ khi đất nước độc lập đã chiếm đa số trong sinh hoạt Giáo hội. Trên thực tế, họ gần như vắng mặt trong các cơ quan ra quyết định. Chúng tôi đã nghe thấy lời kêu gọi này và đã nghiêm túc xem xét trong các ban kinh tế và các ban mục vụ khác của Hội đồng Giám mục. Trong Hội đồng Giám mục có ba linh mục, một nữ tu, một giáo sĩ và bốn giáo dân người Algeria trong đó có hai phụ nữ. Và đã làm bầu khí thay đổi hoàn toàn. Một lần nữa, chúng tôi thoát ra tình cảnh chỉ có chúng tôi với nhau. Nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng, các chuyện cũ phải cất giữ trong tủ. Chúng tôi phải học cách hiểu bản thân và đo lường vực thẳm của sự khó hiểu, đôi khi ngăn cách mà chúng tôi không nhận thức vì  không có nơi để trình bày. Giáo hội phải thành Giáo hội ít giáo sĩ hơn, đây là một thách thức với Giáo hội hoàn vũ ở mọi cấp độ và mọi nơi. Vấn đề này không phải là không có yêu sách về quyền lực, với tất cả những gì có thể làm khó chịu. Nhưng trách móc người khác vì họ muốn nắm quyền thường có nghĩa là mình muốn thực hiện quyền đó nhưng lại không ý thức được điều này. Đó là lý do vì sao tôi cảm thấy rất khó nghe khi các yêu cầu của phụ nữ trong Giáo hội bị bác bỏ với câu hỏi: “Tại sao họ lại muốn quyền lực?”

Trong một số xã hội, hoạt động của Giáo hội bị căng thẳng vì  những vấn đề này với lý tưởng dân chủ!

 Nguyên tắc tổ chức thứ bậc của Giáo hội bắt nguồn từ chế độ quân chủ… việc kế thừa cha truyền con nối phải được bảo tồn! Chính tổ chức của con người đã bảo đảm cho sự thống nhất gần như ngay từ đầu và nó đã chứng tỏ được mình. Trong mọi trường hợp, chúng ta là như vậy. Điều này không loại trừ các hoạt động và cơ quan dân chủ hơn bên trong, giống như các chế độ quân chủ hiện đại. Anh chị em của chúng ta trong các Giáo hội tin lành về bản chất có văn hóa dân chủ này, nghĩa là có tính đồng nghị, chắc chắn chúng ta sẽ học được rất nhiều từ họ trong phong trào lớn lao về tính đồng nghị theo kiểu công giáo do Đức Phanxicô khởi xướng. Động lực đồng nghị sẽ không dừng lại, nó sẽ mở rộng và lan rộng đến mọi cấp độ của Giáo hội mà không đặt câu hỏi về cơ cấu bí tích của nó. Bất kỳ bước lùi nào cũng sẽ thành lỗi thời hoàn toàn vì Giáo hội là công việc của tất cả những người đã được rửa tội. Niềm tin sâu sắc của tôi là trách nhiệm trong Giáo hội, trong đó các vấn đề về quyền lực bị bóp méo, trách nhiệm sẽ gia tăng cùng lúc với việc nó được chia sẻ. Chia sẻ trách nhiệm có nghĩa là tăng trách nhiệm này và Giáo hội chúng ta đang gặp tình trạng thiếu sót lớn trong việc đảm nhận trách nhiệm.

Cha nghĩ gì về chức phó tế nữ?

Cá nhân tôi, tôi hy vọng được như vậy! Theo tôi, dường như không thể lấy đi quyền của các tín hữu, và do đó cũng là của cả tôi, trong việc nữ giới tiếp nhận Lời Chúa. Không có một lý lẽ nào biện minh thuyết phục được tôi. Vì vậy, đúng, tôi muốn vấn đề chức phó tế nữ sẽ được đi tới hoặc ít nhất một bước nữa được thực hiện theo hướng trao quyền cho phụ nữ và những giáo dân được đào tạo để chú giải Lời Chúa trong thánh lễ ngày chủ nhật. Khác với thừa tác vụ linh mục, chức phó tế nữ có nguồn gốc từ truyền thống của Giáo hội và tôi thấy khó khăn khi gặp phản đối. Vấn đề mục vụ này cũng như vấn đề quản trị, chân trời sẽ mở rộng ra khi chúng ta tiến bước. Những gì ngày hôm qua tưởng như không thể, ngày mai sẽ thành dễ dàng. Ngày nay sự hiện diện độc quyền nam giới trong đoàn rước khi tiến lên bàn thờ là chuyện hiển nhiên. Nhưng liệu một ngày nào đó nó sẽ thành lỗi thời không? Chỉ riêng việc đặt câu hỏi đã mang lại sự thay đổi trong cách nhìn…

Có phải vấn đề xuất phát từ thực tế, ơn gọi của phụ nữ thường không được cho là tự thân nhưng liên quan đến ơn gọi của nam giới không?

Đúng vậy, theo truyền thống, ơn gọi của phụ nữ trong Giáo hội được cho là ơn gọi bổ sung. Điều này không còn đủ, ơn gọi này phải được nghĩ theo một dạng khác. Ơn gọi nữ giới tự nó có giá trị riêng của nó. Chiều kích khác biệt này có trong đời sống hôn nhân. Các nhiệm vụ được chia sẻ, cha mẹ đều làm việc, đều chăm sóc con cái… mỗi người hoàn thành công việc của mình theo giới tính, theo tính cách… Nhiệm vụ giống nhau nhưng cách thực hiện khác nhau và đúng cho tất cả mọi người. Làm sao chúng ta có thể nghĩ không có tiếng vang của sự tiến hóa xã hội trong Giáo hội theo cách thực thi các đặc sủng và mục vụ; truyền thống không phải là một xác chết nhưng là một thân thể sống, vừa bất động vừa luôn chuyển động.

Câu hỏi về sự khác biệt này là câu hỏi về tình huynh đệ. Thật vậy, tình huynh đệ vừa đòi hỏi, vừa làm cho sự khác biệt trở nên khả thi. Điều này không hoàn toàn đúng với tình phụ tử thiêng liêng. Tôi tin vào tình phụ tử thiêng liêng, là tu sĩ được Dòng Đa Minh đào tạo, tôi trải nghiệm được điều này. Nhưng tình phụ tử thiêng liêng này tôi nhận được từ người anh em của tôi, của một bản ngã khác tiến bộ hơn tôi rất nhiều trong đời sống tu trì cũng như trong sự thánh thiện. Nếu ngài không chết trước đó, tôi đã có thể là bề trên Tỉnh Dòng của ngài. Tôi gặp khó khăn với tình phụ tử thiêng liêng bị thể chế hóa như chúng ta có kinh nghiệm trong Giáo hội. Các vai trò này không bao giờ đảo ngược, giống như vai trò làm cha trong đời thực với các mối quan hệ tiếp tục phát triển giữa cha mẹ và con cái trong suốt cuộc đời. Sẽ có ngày con cái chăm sóc cha mẹ. Việc gia trưởng giữ quyền của mình cho đến chết lại là một chuyện khác. Theo nghĩa này, với tôi, tình phụ tử thiêng liêng bị thể chế hóa dường như giống mô hình gia trưởng hơn là tình cha cha con. Tình huynh đệ, giống như anh chị em thực sự, làm cho mọi hình thức quan hệ trở nên khả thi. Trong một thời gian, người chị lớn có thể đóng vai người mẹ cho em trai mình. Sẽ luôn còn lại một điều gì đó, nhưng mọi người sẽ trải nghiệm sự khác biệt cơ bản mà họ nhận được khi họ là con cùng một cha một mẹ. Cuộc sống sẽ làm phát triển mối quan hệ và có thể có khi làm đảo ngược mối quan hệ này.

Tôi tin sâu sắc Giáo hội chúng ta nên xem mình như một cộng đồng gồm các anh chị em. Đó là lời chứng cao nhất Giáo hội có thể đưa ra cho thế giới. Hơn cả tranh giành quyền lực, sự tái cân bằng cần thiết giữa giáo sĩ và giáo dân, giữa nam và nữ là vấn đề của sự khác biệt và tình huynh đệ. Nếu tôi thích được gọi là sư huynh hơn là cha hay Đức ông thì không phải vì khiêm tốn hay làm bộ làm tịch, nhưng chính vì khác biệt ở đây không phải là một lựa chọn, nhưng là điều hiển nhiên: Tôi cần các anh, các chị của tôi ở giáo phận của tôi, tôi cần anh em Đa Minh của tôi để tôi là của họ.






Tổng giám mục Vesco về các nữ phó tế: “Điều dường như không thể hôm nay sẽ trở thành điều tự nhiên ngày mai”

Tổng giám mục Jean-Paul Vesco, giáo phận Alger

Ngày 21 tháng 5, trong một phỏng vấn với kênh truyền hình CBS Mỹ, Đức Phanxicô đã đóng cánh cửa chức phó tế nữ. Tổng giám mục Jean-Paul Vesco, giáo phận Alger đưa ra ba lý do chính của việc từ chối cho thấy vấn đề này phức tạp như thế nào.

Trong cuộc phỏng vấn ngày 21 tháng 5 trên kênh CBS, Đức Phanxicô  xác nhận việc loại trừ chức phó tế nữ để suy ngẫm về tính đồng nghị của Giáo hội. Chắc chắn ngài có nhiều lý do cho quyết định này. Có thể xem đây là xác tín sâu xa của ngài được hun đúc trong lời cầu nguyện, thế là đủ. Tuy vậy chúng ta có thể xem xét ít nhất ba lý do.

Lý do đầu tiên: ngài mang trách nhiệm người bảo vệ cuối cùng cho sự hợp nhất Giáo hội. Ngài định giới hạn cho “tính co giãn” này trong sự đa dạng to lớn về địa lý, lịch sử, văn hóa và ý thức hệ. Việc tiếp nhận tài liệu Fiducia supplicans về chúc phúc từ nay cho thấy thật cực kỳ khó khăn để có tiếng nói đồng nhất khả dĩ nghe được trên khắp các châu lục, vì nhiều xã hội và mối quan hệ giữa Giáo hội và một số xã hội này rất khác nhau.

Khi đi mới thấy đường đi

Tính chất đặc biệt của động lực đồng nghị trong Giáo hội công giáo là “Cùng với Phêrô và dưới quyền Phêrô, cum Petro sub Petro”. Giáo hoàng vừa là thành viên của Thượng hội đồng, vừa có vị trí quyền lực với Thượng hội đồng. Đó là lợi thế mà trong mỗi Thượng hội đồng, ý của giáo hoàng thường hướng Giáo hội đi về một hướng đã định. Nhưng trên con đường này, theo ngữ học là cùng đi chung nhưng theo một tiến trình thường chậm nhất. Việc lượng định tốc độ này là trách nhiệm riêng của giáo hoàng.

Về vấn đề nóng bỏng vị trí của phụ nữ trong đời sống Giáo hội, đây là cả một cách biệt lớn so với vị trí của họ có được trong các xã hội trên thế giới, Đức Phanxicô đã làm lay chuyển các con đường khó tưởng tượng có thể lay chuyển. Khi đi mới thấy đường đi, những gì ngày hôm qua khó hình dung như việc bổ nhiệm phụ nữ ở chức vụ có trách nhiệm cao trong Giáo triều, hôm nay đây là chuyện tự nhiên.

Vấn đề về bí tích truyền chức

Lý do thứ hai: tìm vấn đề ở trọng tâm bí tích truyền chức. Đây là cột sống của các cơ quan giáo hội. Cột sống này giới hạn sự tăng trưởng hay giữ cơ thể đứng vững trong tính đặc trưng của nó? Không khó để tìm ra những vết nứt sâu xa chung quanh câu trả lời cho câu hỏi này. Chúng ta tất cả đều có tham vọng thay đổi cơ thể mình, làm ốm đi, có bắp thịt hơn, nhưng chúng ta biết chúng ta không thể thay đổi cơ thể mà không thay đổi căn tính. Mở ra cho phụ nữ bí tích truyền chức qua việc truyền chức phó tế có cho thấy đây là tiến trình lành mạnh trong đoàn thể giáo hội hay cho thấy sự thay đổi thân xác không thể thực hiện được? Giáo hoàng có vẻ quyết định cho câu trả lời thứ hai. Có một điều chắc chắn, không có sự phát triển đáng kể nào về vấn đề này cũng như những vấn đề khác có thể thực hiện được nếu không có một suy tư sâu sắc về bí tích Truyền Chức. Có phải tất cả mọi thứ trong đó đều vô hình, cố định mãi mãi không? Cột sống đồng hành cùng sự phát triển của cơ thể con người. Nếu nó cản trở sự phát triển, nó sẽ làm cho cơ thể thành tàn tật.

Rủi ro của chủ nghĩa giáo sĩ trị

Lý do thứ ba có thể tìm thấy trong quyết tâm của giáo hoàng để chống với những rủi ro lệch lạc cố hữu của cái gọi là chủ nghĩa giáo quyền, những lệch lạc giữa nam tính với nhau thì không có gì là xa lạ. Thành phần thượng hội đồng, phương thức hoạt động và diễn tả của nó làm vô hiệu hóa mọi ý tưởng của một Công đồng Vatican III, theo mẫu của Vatican II cho những định hướng lớn lao của Giáo hội trong nhiều thập kỷ đã được thực hiện trong nhiều năm. Cuộc (tái) cách mạng không phải không có những hậu quả sâu đậm với vai trò của giáo dân, và do đó với phụ nữ trong Giáo hội.

Vì tất cả những điều đó, nếu ngày nay chức phó tế nữ bị ngăn cản, thì việc phân chia sứ vụ giữa giáo sĩ và không giáo sĩ không phải là bất di bất dịch. Trong câu trả lời cho nhà báo Mỹ, Đức Phanxicô nói “phụ nữ luôn có chức năng của các nữ phó tế mà không phải là phó tế!” Thực vậy, phụ nữ không cần phải chờ có bí tích phó tế để phục vụ, để đảm nhận những điều thiết yếu cho các công việc phục vụ lớn nhỏ trong Giáo hội!

Mở ra với việc phục vụ Lời

Tuy nhiên đây là việc phục vụ mà họ bị từ chối mỗi ngày, đó là phục vụ Lời Chúa, trong những gì vừa cao quý nhất, vừa phổ biến nhất: Bí tích Thánh Thể. Số phụ nữ được đào tạo giống hoặc còn cao hơn các giáo sĩ. Chúng ta biết cách tốt nhất để duy trì mối liên kết mang tính biểu tượng giữa bàn của Lời Chúa và bàn của Bí tích Thánh Thể khi chủ tế không giảng bài giảng.

Khi đó làm sao biện minh cho việc chỉ có sự nhạy cảm nam tính được thể hiện trong những chú giải lời Chúa về Bí tích Thánh Thể không? Làm sao biện minh chúng ta không hiểu Lời Chúa qua tiếng nói của phụ nữ? Tôi hy vọng rằng cuối cùng cũng đến lúc mở Lời Chúa ra cho các giáo dân được đào tạo, kể cả phụ nữ.





Lạm dụng tình dục: Bà Natalia Trouiller xem xét kỹ sự tiến bộ và những điểm mù của Giáo hội


Ba năm sau khi công bố báo cáo của Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp (Báo cáo Sauvé), bà Natalia Trouiller, tác giả, cựu giám đốc truyền thông của giáo phận Lyon đã thành nhân viên hỗ trợ nạn nhân, bà đưa ra quan điểm không khoan nhượng về việc quản lý bạo lực tình dục trong Giáo hội.


Bà Nathalie Trouiller, tác giả, cựu giám đốc truyền thông của giáo phận Lyon / Flavien Edenne –  La Croix

Xin bà cho biết về bà và bà khám phá chủ đề bạo lực tình dục trong Giáo hội như thế nào? 

Bà Natalia Trouiller: Tôi đã lập gia đình, là mẹ của ba đứa con, đó là công việc chính của tôi (Cười). Tôi là nhà báo của báo công giáo và tôi cũng là tác giả. Năm 2013, tôi được yêu cầu phụ trách truyền thông cho giáo phận Lyon và tôi đã làm việc hai năm rất tốt đẹp ở đây. Năm 2015, tôi bị bệnh và dần dần nghỉ việc. Năm sau, vấn đề bạo lực tình dục nổi lên ở giáo phận với các vụ lạm dụng ấu dâm của linh mục Preynat.

Tôi bị sốc nhưng chưa lập tức dự vào cuộc chiến. Thậm chí tôi còn bảo vệ Hồng y Barbarin, tôi thấy thật bất công khi ngài là biểu tượng của cái ác tuyệt đối, thậm chí còn vượt xa trường hợp của linh mục ấu dâm Bernard Preynat. Nhưng Báo cáo Ciase năm 2021 như một cú sét đánh từ trên cao. Khi đó tôi hiểu chúng tôi phải xắn tay áo. Trên Twitter, tôi bắt đầu nói về nỗi đau của các nạn nhân và dần dần tôi thu thập chứng từ của họ.

Hiện nay bà làm công việc gì với các nạn nhân bạo lực tình dục và thiêng liêng trong Giáo hội công giáo?

Tôi nhanh chóng hiểu, chỉ nghe thôi chưa đủ. Các nạn nhân không chỉ làm chứng về bạo lực mà còn về việc Giáo hội thiếu phản ứng thích đáng. Thật đáng sợ, vì nếu việc chạm trán với kẻ săn mồi có thể xảy ra ở bất cứ đâu trong Giáo hội, thì nạn nhân sẽ phải chịu thêm một loạt hình phạt nữa. Công lý theo giáo luật quan tâm đến sự cứu rỗi của linh mục hơn là của nạn nhân, các nạn nhân thường bị bỏ mặc trong sự thiếu hiểu biết và đôi khi còn bị loại trừ khỏi cộng đồng.

Công việc của tôi trước hết là vì tình bạn: tôi duy trì liên lạc, tôi nhận được tin tức dù nguồn lực dường như đã cạn kiệt. Sự hỗ trợ này là cần thiết để phá vỡ sự cô đơn của họ. Sau đó, tôi cố gắng đáp ứng nhu cầu cụ thể của từng người. Tôi giúp họ định hướng trong các ngõ ngách của giáo luật, tòa án, luật sư, tâm lý gia… Cùng với đội ngũ giáo dân giúp, tôi cố gắng đưa ra các giải pháp phù hợp.

Kể từ khi báo cáo Sauvé được công bố năm 2021, bà thấy Giáo hội đã tiến bộ như thế nào?

Việc công bố báo cáo Sauvé là hết sức cần thiết để chúng ta hiểu lạm dụng trong Giáo hội là một hiện tượng mang tính hệ thống ở một quy mô rộng lớn. Nhưng ngày nay tôi thấy vấn đề ở chỗ, nhiều người dựa vào tầm nhìn hiệu quả của Báo cáo này, như thể vì nó đã diễn ra nên mọi thứ đang diễn ra trong giáo phận là tốt, không còn “lạm dụng nào” nữa. Nhưng lạm dụng luôn luôn có. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là chúng ta áp dụng quy trình nào để khi có lạm dụng, các vụ này sẽ được xử lý một cách chuyên nghiệp ngay lập tức để hành vi này không tiếp tục tác hại trên người khác và kẻ lạm dụng sẽ bị vô hiệu hóa.

Cụ thể, trong những năm gần đây, sau các vụ lạm dụng đã được biết, nhiều linh mục bị trừng phạt không bị sa thải khỏi hàng giáo sĩ, lại được đưa về những nơi họ có thể lạm dụng tiếp trên các nạn nhân khác. Làm thế nào để hành động?

Tôi không có tất cả các câu trả lời, nhưng tôi thấy có một ảo tưởng nguy hiểm chúng ta cương quyết phải đấu tranh: Tôi thường nghe tốt hơn nên để các linh mục lạm dụng tiếp tục công việc và Giáo hội giám sát. Nhưng hoàn toàn sai. Giáo hội không có phương tiện để giám sát kẻ xâm lược cũng như không chống lại kẻ thao túng. Các giám mục và linh mục không phải là cai ngục, họ không được đào tạo để làm việc này. Đó là trách nhiệm họ không thể gánh vác.

Thông thường, các linh mục này được đặt vào những vị trí ít bị lộ diện hơn một chút, ở đó, cộng đồng không biết, họ không được phép gặp phụ nữ hoặc trẻ em, cũng như không được hỗ trợ, nhưng cuối cùng điều này lại biến thành một vụ tái phạm. Giáo hội phải ý thức Giáo hội không có phương tiện cũng như kỹ năng để kiểm soát kẻ gây hấn hoặc kẻ thao túng. Nếu muốn các biện pháp trừng phạt có hiệu quả tối thiểu, Giáo hội không thể thoát khỏi cuộc tranh luận về việc công bố các hành động này. Sự minh bạch là đồng minh của việc tôn trọng các biện pháp trừng phạt do Giáo hội áp đặt và bảo vệ tín hữu.

Tương tự như vậy, trong những tháng gần đây, tin tức tiết lộ một số linh mục lạm dụng đã được giám mục bổ nhiệm bất chấp sự phản đối của hội đồng chủng viện. Đây có phải là một vấn đề phổ biến?

Tất nhiên. Chúng ta có các giám mục, và tôi hiểu họ, họ ở trong các giáo phận không thể đứng vững theo nghĩa đen của thuật ngữ này. Quá nhiều giáo họ, quá nhiều việc phải làm. Họ bị áp lực rất lớn để có linh mục. Vì vậy, họ thỏa hiệp với các linh mục này, đây là một vấn đề rất lớn. Thay vì chạy theo con số, tôi muốn chúng ta bắt đầu bằng một suy tư thần học về sa mạc mà Giáo hội đang trải qua.

Bà thấy có những tiến bộ nào trong cuộc chiến chống bạo lực tình dục trong Giáo hội không?

Tôi thấy có hai tiến bộ chính: việc thành lập tòa án hình sự giáo luật quốc gia (TPCN) và các Ủy ban bồi thường (CRR). Tòa án hình sự là một bước tiến quan trọng, giúp cho công việc của các giáo phận, một điều hoàn toàn cần thiết, họ được đào tạo để lo các vụ án và khi họ xét xử, họ làm tốt, nhưng vì thiếu phương tiện nên họ làm việc chậm.

Về Ủy ban bồi thường, họ làm việc rất tốt khi làm việc tự nguyện, khi không tự nguyện thì đó là một con đường gay go. Inirr – cơ quan bồi thường cho các nạn nhân vị thành niên của các linh mục giáo phận – đã thành công tốt. Họ đưa ra những quy trình thậm chí chưa có ở nơi nào khác, họ đặt nạn nhân vào trọng tâm. Tôi thán phục công việc của họ. Và nếu các Ủy ban khác làm theo cách làm của họ thì thật tốt đẹp.

Còn cách Giáo hội xử lý các trường hợp bạo lực tình dục và thiêng liêng với người lớn thì như thế nào?

Trong Giáo hội, có quan điểm cho rằng lạm dụng người lớn không thực sự là lạm dụng vì về cơ bản, người lớn có phương tiện để nói lên sự không đồng ý của họ, không giống như trẻ em. Điều này đúng, nhưng lại hoàn toàn bỏ qua các hình thức chế ngự tinh thần có hệ thống trước mỗi tấn công tình dục. Bạo lực tình dục thường là mắt xích cuối cùng trong chuỗi áp đặt quyền lực trên người khác. Một ý tưởng đã định sẵn: hậu quả của tấn công trên người lớn sẽ ít nghiêm trọng hơn. Nhưng đặt câu hỏi như vậy là bắt đầu từ việc nạn nhân cố gắng đánh giá tác hại của họ. Bây giờ chúng ta phải bắt đầu từ Chúa.

Nói chung, việc dùng Chúa để thao túng sự mật thiết thiêng liêng nhất của con người, dù họ là người lớn hay trẻ em, có nghiêm trọng không?

Câu trả lời của tôi là có, nó rất nghiêm trọng. Và hậu quả sẽ khác, dù người lớn nhưng khi chúng ta đặt niềm tin vào người của Chúa thì chúng ta cũng như trẻ con cần đến người mẹ. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng, chúng ta đầu hàng và chúng ta từ bỏ phần thiêng liêng nhất của chính mình. Và phần thiêng liêng nhất này bị ô uế, bị chà đạp. Như thế dù trẻ em hay người lớn, chuyện này thật kinh tởm. Sẽ có những hậu quả vô cùng tàn khốc. 

Theo bà, vấn đề chính mà Giáo hội phải tiến tới để trở nên đáng tin cậy trong việc điều trị và ngăn ngừa bạo lực tình dục là gì?

Giáo hội phải chuyển từ phản ứng sang chủ động. Chúng ta phải ngừng loại phản ứng đơn giản trước các vụ bê bối và công bố những thông cáo báo chí như: “Chúng tôi thất vọng khi biết linh mục…”. Hai tháng sau, chúng ta biết các cấp cao đã biết việc này, họ chờ vụ bê bối nổ ra trên báo chí để lên án.

Ngay khi một nạn nhân tiềm năng xuất hiện hoặc được biết đến, chúng ta nên tiến hành kêu gọi nhân chứng nhưng phải tôn trọng quy luật suy đoán vô tội. Điều quan trọng là phải bảo đảm hỗ trợ cụ thể cho các nạn nhân: tiếp xúc với các giám mục, thanh toán chi phí chăm sóc, chi phí pháp lý. Chính nhờ hành động chủ động và minh bạch mà Giáo hội mới có thể lấy lại được uy tín trong cuộc chiến chống lạm dụng.

Đại diện Dòng Phanxicô tại Thánh Địa: Thế giới văn minh, nhân quyền và tự do sẽ phải xấu hổ

Một năm sau chiến tranh, xung đột ngày càng lan rộng, cha Ibrahim Faltas, Đại diện Dòng Phanxicô tại Thánh Địa viết trên nhật báo Al-Quds của Palestine, số ra ngày 07/10: “Mất hy vọng là rất nguy hiểm”, “Tất cả các nhà lãnh đạo và những dân tộc yêu chuộng hòa bình phải đoàn kết và hành động trước khi sợi dây hy vọng mong manh này bị đứt”.

Mô tả tình hình thực tế, cha Ibrahim Faltas viết: “Mỗi bình minh của ngày mới trong năm nay đều mang đến niềm hy vọng rằng hận thù này có thể chấm dứt, cỗ máy phá huỷ sẽ dừng lại, những người cầm quyền sẽ khôi phục ý thức trách nhiệm, và lần đầu tiên, thế giới có thể làm cho những lời này thành hành động. Nhưng đáng tiếc, vết nhơ và bùn lầy chiến tranh đã lan rộng. Sau vụ tấn công bi thảm ngày 07/10 năm ngoái, bạo lực tiếp tục diễn ra ở Gaza và lan rộng sang bờ Tây, Libăng và toàn Trung Đông, tiếp tục bước vào giai đoạn tối đen hơn trước”.

Vị đại diện Dòng Phanxicô tại Thánh Địa khẳng định, sau 35 năm phục vụ ở đây, trải nghiệm đau khổ này khác với tất cả những trải nghiệm trước đây. Không chỉ vì mức độ tàn phá khủng khiếp và số lớn nạn nhân vô tội, mà còn vì những gì ngài thấy trong mắt mọi người: sự tuyệt vọng và thiếu hy vọng.

Cha Ibrahim Faltas nói ngài bị sốc trước cuộc di cư của các gia đình nói chung và của các Kitô hữu nói riêng, đặc biệt là ở Bêlem. Hàng ngàn trẻ em bị giết và hàng ngàn trẻ khác mồ côi. Chiến tranh không chỉ liên quan đến quân đội, tên lửa mà còn là khủng hoảng kinh tế và hủy hoại mọi kỳ vọng và cơ hội cuộc sống.

Ngài mạnh mẽ viết: “Những người nắm giữ quyền lực thế giới sẽ bị lịch sử ghi nhớ vì những vụ giết người và huỷ diệt, sẽ phải xấu hổ. Đây là nền văn minh gì? Những người vô tội bị giết về thể xác, bị giết vì đói khát và vì một tội duy nhất: sinh ra ở Thánh Địa”.

Trong bài báo, đại diện Dòng Phanxicô tại Thánh Địa mời gọi mọi người cầu nguyện để những người cầm quyền chuyển từ lời nói sang hành động cụ thể và có ý thức. “Nếu hy vọng bị mất ở Thánh Địa yêu dấu và biến mất ở nơi khác, ai có thể mang trở lại?”, ngài đặt câu hỏi và nói đây là lý do tại sao tất cả các nhà lãnh đạo và những dân tộc yêu chuộng hòa bình phải đoàn kết và hành động trước khi sợi dây hy vọng mong manh này bị đứt.

 

Hoàn thành việc tu bổ bức mái che trên bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô

Sau chín tháng tiến hành, việc tu bổ mái che nghệ thuật bên trên bàn thờ chính của Đền thờ thánh Phêrô đã được hoàn tất sớm hơn dự định và sẽ được Đức Thánh cha làm phép trước thánh lễ Chúa nhật, ngày 27 tháng Mười tới đây, để bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới thứ XVI.




image.png



Cái tán, hay mái che này do kiến trúc sư Gian Lorenzo Bernini (1598-1680) thực hiện hồi thế kỷ XVII. Tán cao 29 mét, với 4 cột chống đỡ được thực hiện bằng đồng, đá cẩm thạch, gỗ và vàng, trong khoảng thời gian từ 1624 đến 1635, theo sự ủy nhiệm của Đức Giáo hoàng Urbano VIII. Tán và 4 cột đã được thanh tẩy bụi bặm bám vào trong 250 năm qua, và phí tổn là 700.000 Euro, do Hội Hiệp sĩ Colombo ở Mỹ tài trợ.

Trong thông cáo, hôm mùng 08 tháng Mười vừa qua, cơ quan bảo trì Đền thờ thánh Phêrô cho biết việc hoàn tất này cũng đúng chương trình dự định, trước lễ mở cửa Năm Thánh, vào ngày 24 tháng Mười Hai tới đây.

Ban tu bổ mái che Đền thờ bao gồm 16 người, trong đó một nửa là phụ nữ, và dưới sự điều động của ông Giorgio Capriotti.

Cả ngai tòa thánh Phêrô ở phía đầu của Đền thờ thánh Phêrô cũng được tu bổ. Ở cửa sổ phía trên ngai tòa này có hình chim bồ câu, biểu tượng Chúa Thánh Thần.

Với thời gian, đã có thêm các tượng các thánh Giáo phụ, như Atanasio, Ambrosio, và Augustino. Cả các tượng này cũng được tu bổ trong dịp này.

Thượng Hội đồng Giám mục quyên góp được 62.000 Euro giúp giáo xứ Gaza

Hôm mùng 07 tháng Mười vừa qua, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới đã quyên góp được 62.000 Euro để trợ giúp giáo xứ Công giáo duy nhất ở Gaza.

Sáng kiến này do Đức Hồng y Konrad Krajewski, người Ba Lan, Bộ trưởng Bộ Bác ái của Đức Thánh cha, đề xướng, để giúp dân chúng tại Gaza, bị kiệt quệ vì các cuộc dội bom của Israel, và được thực hiện đúng ngày ăn chay và cầu nguyện cho hòa bình, ngày 07 tháng Mười, theo lời kêu gọi của Đức Thánh cha.

Trong cuộc họp báo, trưa ngày 08 tháng Mười, ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Bộ Truyền thông của Tòa Thánh, cho biết kết quả trên đây. Trong số 62.000 Euro này, có 32.000 do các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục đóng góp và 30.000 còn lại do Bộ Bác ái. Tổng cộng, 62.000 Euro được chuyển ngay cho cha Gabriel Romanelli, chánh sở giáo xứ Thánh Gia, qua trung gian Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở Israel. Mọi người đã nhiệt liệt vỗ tay chào mừng, khi xem Video do cha Romanelli và một số thiếu niên cùng với giáo dân ở địa phương gửi đến lời cảm ơn đến Đức Thánh cha và mọi người.

Trong Video, cha Romanelli cũng kể lại những kinh hoàng đã xóa bỏ bao nhiêu sinh mạng và đảo lộn các tâm hồn.

Ủy ban soạn Văn kiện chung kết

Trong cuộc họp báo, ông Ruffini cũng cho biết trong phiên khoáng đại sáng ngày 08 tháng Mười, 350 thành viên Thượng Hội đồng Giám mục đã bầu bảy trong số mười bốn thành viên của Ủy ban soạn Văn kiện chung kết của Công nghị Giám mục này.

Thực tế, Ủy ban không đích thân soạn văn kiện nhưng giám sát dự án công việc. Văn kiện sẽ được các tham dự viên bỏ phiếu trong ngày áp chót của khóa họp, nếu được đa số thì các đề nghị sẽ được đệ trình lên Đức Thánh cha để tùy ngài sử dụng và quyết định.

Luật độc thân linh mục

Có ba hồng y tân cử cũng được mời tham dự cuộc họp báo, trong đó có Đức Hồng y Jaime Spengler, Tổng giám mục Giáo phận Porto Alegre, bên Brazil và cũng là Chủ tịch Liên Hội đồng Giám mục Mỹ châu Latinh, gọi tắt là CELAM. Một ký giả đã hỏi ngài về vấn đề độc thân linh mục, nhất là ở miền Amazon, nơi rất khan hiếm linh mục và đa số các tín là thổ dân bản địa. Từ lâu, đã có vấn đề có nên truyền chức linh mục cho những người nam thổ dân chín chắn và có gia đình hay không. Đức Hồng y nói: “cần phải thẳng thắn và cởi mở” và trưng dẫn trường hợp một giám mục được bổ nhiệm cho vùng Rio Xingu, ở miền trung Brazil, rộng gấp đôi nước Ý (tức là gần gấp đôi Việt nam). Hôm sau ngày lễ nhậm chức giám mục, chỉ còn lại tại địa phương vị giám mục và một linh mục duy nhất.

Và Đức Hồng y tân cử Spengler kết luận rằng: “Từ kinh nghiệm chức phó tế vĩnh viễn, có lẽ trong tương lai những người ấy có thể được truyền chức linh mục cho một cộng đoàn đặc thù nào đó? Tôi không biết, nhưng chúng ta có thể cứu xét vấn đề này, để ý đến những khía cạnh thần học cũng như các dấu chỉ thời đại”.

Cũng nên nhắc lại rằng trong Thượng Hội đồng Giám mục về miền Amazon, hồi tháng Mười năm 2019, trong Văn kiện chung kết được Công nghị Giám mục này thông qua, đề nghị truyền chức linh mục cho những người nam chín chắn có gia đình, gọi là Viri probati, được thông qua với đại đa số phiếu, nhưng không được Đức Thánh cha chấp nhận.







Chủ tịch HĐGM Haiti: Chúng tôi đã kiệt sức, nhà nước phải giúp chúng tôi

Đức Tổng Giám Mục Max Leroy Mésidor của thủ đô Port-au-Prince, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Haiti, nói trong sứ điệp chia sẻ với các nạn nhân của vụ thảm sát ngày 03/10 vừa qua, ở Pont Sondé: “Người dân đã kiệt sức, nhà nước phải giúp chúng tôi”.





Vụ thảm sát xảy ra vào rạng sáng ngày 03/10 do các thành viên của nhóm vũ trang Gran grif de Savien thực hiện, đã làm ít nhất 70 người thiệt mạng, trong đó có 10 phụ nữ và 3 trẻ em. Ngoài sát hại, những kẻ tấn công còn đốt 45 ngôi nhà, làm cho hơn 6.000 người đã chạy trốn. Mặc dù các băng đảng đã thông báo về cuộc tấn công bạo lực, nhưng không có hành động nào được thực hiện để ngăn chặn.

“Đất nước bị bệnh hoàn toàn. Nhưng tình hình ở phía tây và ở Artibonite, là những nơi tồi tệ nhất”, Đức Tổng Giám Mục Mésidor nói và cho rằng có một âm mưu muốn phá hủy hai khu vực này. Bởi vì thực tế, hai nơi này đã bị lãng quên trong hai năm qua, không có sự hiện diện của cảnh sát. Điều tương tự cũng xảy ra với thành phố Liancourt. Hai khu vực nơi cuộc sống từng sôi động giờ đây bị tràn ngập bởi sự tuyệt vọng.

Trong những năm gần đây, khu vực Artibonite, phía tây đất nước, bị chìm trong bạo lực băng đảng với dân thường ở giữa các làn đạn. Theo Văn phòng Tổng hợp Liên Hiệp Quốc tại Haiti (BINUH), từ tháng 4 đến 6/2024, các cuộc tấn công đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 76 người, trong đó có cả trẻ em.

Artibonite được coi là vựa lúa của Haiti. Sự bất ổn mạnh mẽ trong khu vực đã góp phần gây ra cuộc khủng hoảng lương thực, làm tình hình an ninh càng căng thẳng ở một đất nước dường như không thể có được hòa bình.

Theo dữ liệu do một nhóm tổ chức phi chính phủ hoạt động tại Haiti công bố, 5,4 triệu người Haiti đang phải đối diện với tình trạng mất an ninh lương thực nghiêm trọng, trong đó 2 triệu người - khoảng 18% dân số - bị đói nghiêm trọng.

Trên khắp Haiti kể từ năm 2023, hơn 700.000 người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa để thoát khỏi bạo lực nhóm vũ trang và tình trạng bất ổn lan rộng. Trong sáu tháng đầu năm 2024 Liên Hiệp Quốc ghi nhận 3.638 vụ giết người, tăng gần 74% so với năm 2023.

Thủ tướng lâm thời Garry Conille đã tới Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Kenya để yêu cầu tăng cường sứ mệnh an ninh quốc tế ở Haiti, cho đến nay chỉ có 400 cảnh sát, chủ yếu là người Kenya.

Đức Tổng Giám Mục Launay Saturné của Cap-Haïtie đang tham dự phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng cũng cho biết, mặc dù có sự xuất hiện của lực lượng cảnh sát được Liên Hiệp Quốc hậu thuẫn từ Kenya, và các cuộc họp quốc tế và sự hiện diện của phái bộ Hỗ trợ an ninh đa quốc gia do Kenya đứng đầu tại Haiti, tình hình an ninh vẫn chưa được cải thiện. Ngài than phiền sự tôn trọng nhân phẩm ở quốc gia châu Phi này còn lâu mới trở thành hiện thực. Cho đến nay, những người đáng lẽ phải mang lại trật tự hoà bình vẫn đã không hoàn thành trách nhiệm. Mọi người đang rất tuyệt vọng.







⛪⛪⛪⛪⛪

Xung đột công khai hiếm hoi tại Vatican về việc hoàn tục một linh mục người Á Căn Đình

Trong một phán quyết rất bất thường, vào tháng 9, Vatican đã hủy bỏ lệnh hoàn tục đối với một linh mục người Á Căn Đình bị kết tội lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên.

Nhưng vào ngày 7 tháng 10, Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố rằng tuyên bố trước đó vào tháng 9 là vô hiệu và lệnh hoàn tục đối với linh mục này vẫn có hiệu lực.

Tranh chấp công khai hiếm hoi giữa các bộ của Vatican khiến Bộ Giáo Lý Đức Tin xung đột với Phủ Quốc vụ khanh. Đức Tổng Giám Mục John Joseph Kennedy, thư ký của Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã đưa ra lời nhắc nhở rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin của ngài chịu trách nhiệm về các vụ kỷ luật liên quan đến các linh mục bị cáo buộc lạm dụng, và Phủ Quốc vụ khanh không tham gia vào quá trình đó.

Bộ Giáo Lý Đức Tin—và đặc biệt là bộ phận kỷ luật do Đức Tổng Giám Mục Kennedy đứng đầu—là cơ quan duy nhất có thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ lạm dụng tình dục. Nhưng với tư cách là sostituto hay Phụ Tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh—thực tế là chánh văn phòng của Đức Giáo Hoàng—Đức Tổng Giám Mục Pena Parra có ảnh hưởng rất lớn. Vì vậy, khi giáo phận Rio Cuarto của Á Căn Đình nhận được thông điệp từ Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh hủy bỏ lệnh hoàn tục, các nhà chức trách Giáo Hội ở đó rõ ràng cho rằng đó là thẩm quyền.

Một tòa án ở Cordoba, Á Căn Đình, đã khuyến nghị trục xuất Cha Ariel Principi khỏi chức linh mục; hình phạt đã được một tòa án khác ở Buenos Aires xác nhận. Nhưng Đức Tổng Giám Mục Peña Parra—trích dẫn kết quả thông tin thu được trong một “thủ tục đặc biệt”, mà không có lời giải thích nào thêm—đã phán quyết rằng Cha Principi sẽ vẫn là một linh mục, mặc dù có chức thánh bị hạn chế nghiêm ngặt. Các quan chức Á Căn Đình có thể đã kết luận rằng “thủ tục đặc biệt” đòi hỏi sự can thiệp cá nhân của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người duy nhất có thẩm quyền bác bỏ phán quyết của Bộ Giáo Lý Đức Tin. Trong quá khứ, Đức Giáo Hoàng đã có hành động để giảm nhẹ hình phạt kỷ luật đối với những kẻ bị cáo buộc lạm dụng.

Tuyên bố của Đức Tổng Giám Mục Pena Parra cho biết Cha Principi sẽ không được phép tiếp xúc với trẻ vị thành niên, làm việc với phong trào canh tân đặc sủng hoặc thực hiện mục vụ thông thường; ngài chỉ được phép cử hành Thánh lễ một cách riêng tư.

Đức Tổng Giám Mục Kennedy, phản bác lại tuyên bố đó, cho biết “Ông Principi” đã bị hoàn tục, trục xuất khỏi hàng giáo sĩ. Ngài cho biết không có kháng cáo nào về bản án đó đang được xem xét.


Rare public conflict at Vatican over laicization of Argentine priest





Còn 4.000 vị tử đạo tại Tây Ban Nha có thể được phong chân phước


Cho đến nay, đã có 3.500 vị tử đạo bị sát hại vì sự oán ghét đức tin, trong thời nội chiến từ năm 1936 đến năm 1939, tại Tây Ban Nha đã được phong chân phước, và hiện còn 4.000 vị khác có thể được tôn phong trong những năm tới đây, theo nhận định của cha José Carlos Martín de la Hoz, thỉnh nguyện viên phong thánh của Giám hạt tòng nhân Opus Dei.

Cha Martín de la Hoz cho biết như trên, trong buổi giới thiệu tại Madrid cuốn sách tựa đề: “Tổ ấm tình thương và tha thứ II” (Hogares de amor y perdón II), do nhà xuất bản của Hiệp hội “Ăn rễ trong Chúa Kitô” (Enraizados en Cristo) ấn hành, trong đó có trình bày chứng tá của 23 gia đình nổi bật về lòng tận tụy và trung thành của các hội viên đến độ hy sinh mạng sống.

Cha kể rằng: “Cách đây vài tháng, theo lời yêu cầu của Bộ Phong thánh, một cuộc kiểm kê đã được thực hiện, qua cuộc nói chuyện với tất cả các đại biểu của các giáo phận, và một danh sách 4.000 vị tử đạo Tây Ban Nha đã được thiết lập. Khi công việc này hoàn tất trong vòng bốn năm, thì sẽ có tổng cộng 7.500 chân phước tử đạo được tôn vinh trên bàn thờ.

Cha de la Hoz nhấn mạnh rằng “điều gây ấn tượng mạnh nhất, đó là 7.500 vị tử đạo, chân phước ấy, có tài liệu và chứng tích chứng tỏ họ bị sát hại vì sự oán ghét đức tin, và cũng có những bằng chứng họ tha thứ cho những kẻ giết mình.

Trong số những chứng từ về sự tha thứ được kể trong sách vừa nói, có những lời kể của Luis García Chillón về người chú ruột của ông Hermenegildo Chillón Cabrera, quen gọi là Mere, tử đạo tại thị trấn Talavera de la Reina, thuộc tỉnh Toledo, Tây Ban Nha.

Mere bấy giờ 29 tuổi, là một người canh gác trong thị trấn, bị Thị trưởng Francisco Cancho, thuộc đảng Mặt trận nhân dân, sa thải. Một đêm trong tháng Hai năm 1936, Mere bị một nhóm 20 người đánh đập và để ông nửa sống nửa chết. Ông trải qua 12 ngày tại nhà thương và khi được xuất viện, ông cố gắng dưỡng bệnh tại thành phố Tarancón, tỉnh Cuenca. Sau khi nội chiến bắt đầu hồi tháng Bảy cùng năm 1936, họ đến lùng bắt để cầm tù ông trong tu viện nữ “Ilfonsas”, hôm đó là ngày 22 tháng Tám.

Sau một phiên xử sơ sài của toà án nhân dân, ông Mere bị còng tay đưa ra khỏi nơi xử, ở cổ thì đeo cái chuông bò, trong lúc tòa bàn luận xem nên thiêu sinh hay là bắn bị can. Sau cùng, họ dẫn ông Mere tới nơi hành quyết. Trước khi chết, ông Mere xin các lý hình trao cái ví của ông cho thân mẫu của mình và dặn dò người lý hình: “xin hãy ôm hôn mẹ tôi và một cái hôn khác của tôi cho anh để anh có thể tha thứ cho tôi, nếu tôi có làm phật lòng anh cách nào”.

Ông Luis, cháu vị tử đạo, kể rằng mặc dù không biết chú mình, nhưng từ những lời ấy, người ta có thể biết vị tử đạo đã tha thứ cho những kẻ hành quyết mình: “Điều này chứng tỏ một tâm hồn quảng đại đặc biệt” và cho thấy rõ, dù chú ấy sống đạo thế nào đi nữa, máu tử đạo cũng tẩy sạch và chữa lành mọi sự”.

Cha Martín de la Hoz nhắc lại rằng Bộ Phong thánh là cơ quan Tòa Thánh đầu tiên được thiết lập trong Kitô giáo, như chúng ta thấy trong sách Tông đồ Công vụ, có nói đến quyết định đầu tiên do Giáo hội đề ra, là bảo tồn ký ức về các vị tử đạo, và trong thời các Kitô hữu tiên khởi, thánh lễ được cử hành trên mộ các vị tử đạo.”

Mikali Nguyễn

unread,
Oct 18, 2024, 8:26:08 PM10/18/24
to alphonsefamily

Đức Thánh Cha Phanxicô: Vị Giáo hoàng cao niên nhất cai quản Giáo hội

Từ ngày 17 tháng Mười vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô trở thành vị Giáo hoàng cao niên nhất cai quản Giáo hội, ít nhất trong số các vị có tiểu sử chắc chắn.

Đức Thánh cha Phanxicô sinh ngày 17 tháng Mười Hai năm 1936, và ngày 17 tháng Mười, ngài tròn 32.082 ngày từ khi sinh ra. Vị Giáo hoàng đứng thứ I về phương diện này là Đức Lêô XIII, tục danh là Vincenzo Gioacchino Pecci, qua đời ngày 20 tháng Bảy năm 1903, thọ 93 tuổi, tức là 34.108 ngày. Để vượt vị Giáo hoàng tiền nhiệm này, Đức Thánh cha đương kim phải tiếp tục cai quản Giáo hội hơn 5 năm rưỡi nữa tức là cho đến ngày 07 tháng Năm năm 2030.

Đứng thứ ba sau Đức Thánh cha Phanxicô là Đức Giáo hoàng Clemente XII, tục danh là Lorenzo Corsini, sinh ngày 07 tháng Tư năm 1652, và thọ 87 tuổi, qua đời năm 1740, tức là ngài sống 32.081 ngày.

Cũng nên nói rằng vị trẻ nhất trong lịch sử Giáo hội khi làm Giáo hoàng là Gioan XII, hay là Octaviano miền Tusculum, Hoàng tử của Vua Alberic II. Nhà vua đích thân bổ nhiệm con của mình làm Giáo hoàng. Ngày 16 tháng Mười Hai năm 955, khi bắt đầu sứ vụ, Đức Gioan XII được 18 tuổi và cai trị Giáo hội trong gần chín năm, cho đến ngày 14 tháng Năm năm 964, lúc mới được khoảng 26-27 tuổi.

Vị cao niên nhất khi được bầu làm Giáo hoàng là Agathon, người miền Sicilia, gốc Hy Lạp, được bầu lên hồi tháng Sáu năm 678, khi đã hơn 100 tuổi, theo một số nguồn sử liệu và cai quản Giáo hội trong hai năm bảy tháng, cho đến ngày 10 tháng Giêng năm 681.

Vài thống kê về Giáo hội Công giáo, nhân Ngày Thế giới Truyền giáo

Nhân Ngày Thế giới Truyền giáo lần thứ 98, được cử hành vào Chúa nhật, ngày 20 tháng Mười tới đây, hãng tin Fides của Bộ Loan báo Tin mừng đã công bố một vài con số thống kê về tình trạng Giáo hội Công giáo trên thế giới.

Những con số này rút từ “Niên giám Thống kê của Giáo hội”, được cập nhật đến ngày 31 tháng Mười Hai năm 2022, theo đó dân số thế giới là hơn bảy tỷ 838 triệu người (7.838.944.000), tăng hơn 53 triệu 175.000 người so với năm trước đó. Sự gia tăng này diễn ra tại mọi châu lục, ngoại trừ Âu châu.

Số tín hữu Công giáo là gần một tỷ 390 triệu người (1.389.573.000), tức là tăng 13 triệu 721.000 người so với năm trước đó và chỉ có Âu châu chẳng những không tăng tín hữu Công giáo, nhưng còn giảm sút 474.000 người. Sự tăng trưởng này mạnh nhất ở Phi châu, tăng gần bảy triệu 230.000 (7.271.000). Tiếp theo đó là Mỹ châu tăng gần sáu triệu (5.912.000), Á châu có thêm 900.000 tín hữu Công giáo (889.000) và Châu Đại Dương tăng 123.000 tín hữu. Bình quân cứ sáu người trên trái đất thì có một tín hữu Công giáo.

Con số các giám mục trên thế giới tăng thêm 13 vị, và hiện có 5.353 giám mục, trong số này có gần 2.700 giám mục giáo phận (2.682) và 2.670 giám mục dòng. Hai con số xấp xỉ nhau.

Tổng số linh mục trên thế giới giảm bớt và hiện còn 407.730, tức là giảm 142 linh mục so với năm trước đó. Âu châu giảm nhiều nhất: 2.745 vị, tiếp đến, Mỹ châu giảm 164 vị, trong khi đó, số linh mục gia tăng tại Phi châu, gần 1700 vị (1.676) và Á châu có thêm 1.160 linh mục. Còn Úc châu, sau khi tăng hồi năm ngoái, thì nay lại giảm mất 69 linh mục. Điều đáng nói là số linh mục giáo phận giảm 438 vị (279.171), trong khi linh mục dòng tăng thêm 297 vị (128.559).

Số chủng sinh giáo phận và dòng tu ở ba châu lục đều giảm sút và chỉ gia tăng tại Phi châu và Châu Đại Dương.

Các cử hành phụng vụ của ĐTC Phanxicô trong hai tháng 11 và 12


Ngày 12/10/2024, Văn phòng cử hành phụng vụ của Đức Thánh Cha đã thông báo về các cử hành phụng vụ do Đức Thánh Cha chủ sự trong hai tháng 11 và 12; đặc biệt có Công nghị vào ngày 7/12, thay vì ngày 8/12 như Đức Thánh Cha đã thông báo hôm Chúa Nhật ngày 6/10, để trao mũ và nhẫn cho 21 tân Hồng y.

Một cử hành phụng vụ trong đền thờ Thánh Phêrô 

Theo lịch cử hành phụng vụ này, Công nghị Hồng y sẽ diễn ra vào chiều ngày 7/12 tại Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày hôm sau, 8/12, vào lúc 9:30, Đức Thánh Cha và toàn thể Hồng y đoàn sẽ cử hành Thánh lễ tạ ơn cũng tại Đền thờ Thánh Phêrô. Sau đó, vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày, Đức Thánh Cha sẽ đến Quảng trường Tây Ban Nha ở Roma để kính viếng Đức Mẹ.

Cũng theo thông báo của Văn phòng cử hành phụng vụ của Đức Thánh Cha, vào ngày 4/11, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho các Hồng y và Giám mục qua đời trong vòng một năm qua.

Tiếp đến, vào ngày 17/11, Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ 8, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ vào lúc 10 giờ sáng tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Sau đó, vào ngày 24/11, lễ trọng Chúa Kitô Vua Vũ trụ, như Đức Thánh Cha đã ấn định, ngài sẽ chủ sự Thánh lễ Ngày Giới trẻ Thế giới vào lúc 9:30 sáng tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Cuối cùng, chiều ngày 12/12, lễ Đức Mẹ Guadalupe, vào lúc 6 giờ chiều, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ bằng tiếng Tây Ban Nha cũng tại Đền thờ Thánh Phêrô.






Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ các Hồng Y tân cử: Hãy ngước mắt lên, chắp tay cầu nguyện và bước đi với đôi chân trần.

Trong Công nghị ĐTC tấn phong 21 tân Hồng Y, gia nhập vào Hồng Y đoàn, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn nhủ các Hồng Y tân cử, mời họ thể hiện ba thái độ đặc trưng của Thánh Gioan Thánh Giá: ngước mắt lên, chắp tay lại và đi chân trần.


Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết một lá thư cá nhân gửi đến 21 tân Hồng Y – các Giám mục và linh mục trên khắp thế giới – những người mà ngài sẽ nâng lên hàng Hồng Y đoàn tại một công nghị được tổ chức vào ngày 8 tháng 12, Lễ trọng kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội.

ĐTC lưu ý rằng việc nâng lên Hồng Y đoàn sẽ gắn kết họ với Giám mục Rôma, nhắc nhở họ rằng là thành viên trong Hồng Y đoàn “là biểu hiện của sự hiệp nhất của Giáo hội và của mối dây liên kết tất cả các Giáo hội với Giáo hội Rôma này”.

'Mắt hướng lên, tay chắp và đôi chân trần'

Trong bức thư của mình, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời các tân Hồng Y "thể hiện ba thái độ mà một nhà thơ người Argentina (Francisco Luis Bernárdez) từng mô tả về Thánh Gioan Thánh Giá, và cũng áp dụng cho chúng ta: 'mắt hướng lên, tay chắp lại, và bước đi với đôi chân trần.'"

Giải thích về ba thái độ này, Đức Thánh Cha nói với các Hồng Y sắp nhậm chức rằng công việc mới của họ trong Giáo hội sẽ đòi hỏi họ phải "mở rộng tầm nhìn và mở rộng trái tim" để nhìn xa hơn và yêu thương nồng nhiệt hơn.

Họ phải luôn chắp tay cầu nguyện để có thể "chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô", Đức Giáo Hoàng nói, đồng thời nói thêm rằng cầu nguyện là "lãnh địa của sự phân định" giúp phân định ý muốn của Chúa và tuân theo.

Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng nói, họ phải giữ đôi chân trần "vì họ chạm đến thực tế khắc nghiệt của tất cả những nơi trên thế giới đang bị nhấn chìm bởi nỗi niềm đau khổ", điều này đòi hỏi các Hồng Y mới phải có "lòng trắc ẩn và lòng thương xót lớn lao".

Kết thúc bức thư, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cảm ơn các Hồng Y tân cử vì lòng quảng đại và ngài cam kết cầu nguyện cho họ trở nên đúng theo “tước hiệu là ‘người phục vụ’, một danh hiệu mà ngày càng ngày càng bị lu mờ đi trước tước hiệu ‘người cao trọng’”.

Đức Hồng y tân cử Timothy Radcliffe được Đức Thánh cha cho phép không mặc áo đỏ của hồng y


Đức Hồng y tân cử Timothy Radcliffe, nguyên Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, đã được Đức Thánh cha Phanxicô cho phép mặc áo trắng, thay vì mặc áo đỏ của Hồng y, sau khi được tấn phong ngày 07 tháng Mười Hai tới đây.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài BBC ở Anh quốc, truyền đi hôm Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười vừa qua, Đức Hồng y Radcliffe kể là đã hỏi Đức Thánh cha xem mình có được miễn mặc áo đỏ của Hồng y hay không. Trong cùng ngày hôm đó, ngài nhận được câu trả lời của Đức Thánh cha bày tỏ sự cảm thông hoàn toàn đối với tình trạng của cha và chuẩn chước cho cha “khỏi phải mang bộ áo cầu kỳ”. Phẩm phục chính thức của Hồng y, gồm áo khoác màu đỏ, biểu tượng lòng trung thành với Đức Giáo hoàng, áo chùng với đai, cũng như mũ đỏ.

Đức Hồng y Radcliffe sinh ngày 22 tháng Tám năm 1945, tại Luân Đôn, được bầu làm Bề trên Tổng quyền Dòng Đa Minh, với nhiệm kỳ 9 năm, từ năm 1991 đến năm 2001. Sau đó, ngài được mời diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới và là tác giả của nhiều tác phẩm, sách thần học. Trong Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI hồi tháng Mười năm ngoái và năm nay, ngài được mời giảng tĩnh tâm cho các tham dự viên vào đầu mỗi khóa họp.


Hòa Lan trả lại bia mộ cổ kính cho Tòa Thánh


Hòa Lan đã trả lại một bia mộ cổ kính và quý giá cho Tòa Thánh, bị mất cắp trong thập niên 1980.



Ủy ban Tòa Thánh về khảo cổ thánh cho biết bia mộ này viết bằng tiếng Hy Lạp có những chữ cổ nhất nhắc đến tên Chúa Kitô. Bia bị lấy trộm từ hang toại đạo Ad Decimum, ở thành Grottaferrata, cách Roma 20 cây số về hướng nam.

Hồi tháng Mười Một năm ngoái, cảnh sát Ý và Hòa Lan đã tìm lại được bia mộ và trước tiên được lưu giữ tại Bảo tàng viện quốc gia Hòa Lan, ở thành phố Utrecht.

Lễ nghi trao trả diễn ra hôm Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười này, với sự hiện diện của các đại diện của Vatican, Ý và Hòa Lan, tại hang toại đạo Ad Decimum. Hang này là một nghĩa trang hầm có từ thế kỷ thứ III và thứ V, được tình cờ khám phá hồi năm 1905 và chứa đựng một số bích họa với chủ đề về Kitô giáo.



⛪⛪⛪⛪⛪

Đại sứ Đài Loan cạnh Tòa Thánh nhấn mạnh mối quan hệ đối tác trong hoạt động bác ái và hòa bình

Bên lề một sự kiện tại Roma nhân kỷ niệm Ngày Quốc khánh của Đài Loan, được tổ chức hàng năm vào ngày 10/10/2024, ông Matthew Lee, Đại sứ Đài Loan cạnh Tòa Thánh, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ đối tác Vatican-Đài Loan, đặc biệt là trong việc thúc đẩy hòa bình và tự do tôn giáo.

Sự kiện có sự tham dự của Đức Hồng y Giovanni Battista Re, Đức Hồng y Óscar Rodríguez Maradiaga, Đức Hồng y Silvano Tomasi, Đức Tổng Giám mục Salvatore Pennacchio và một số quan chức Vatican khác và ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh.

Ông Matthew Lee nói: “Đài Loan đã có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh trong 82 năm. Điều đó rất quan trọng vì nó có nghĩa là Tòa thánh công nhận Đài Loan là một quốc gia coi trọng tự do tôn giáo và sự hiệp thông với Giáo hội hoàn vũ”. “Ở Đài Loan, người Công giáo [chiếm] khoảng 3%, nhưng họ rất mạnh mẽ”.

Đại sứ Đài Loan cạnh Tòa Thánh đã nhấn mạnh cách Đài Loan và Vatican đã chung tay làm việc để cung cấp viện trợ nhân đạo và đóng góp cho cộng đồng quốc tế. Ông cho biết “Trong tương lai, Đài Loan sẽ tiếp tục hợp tác với Tòa Thánh và các nền dân chủ cùng chí hướng để cùng nhau bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực, bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tạo ra một xã hội công bằng và hòa bình hơn cho nhân loại”. Ông nhấn mạnh cam kết của Đài Loan đối với lời kêu gọi của Thánh Cha về việc thúc đẩy hòa bình trên thế giới, đặc biệt là ở Eo biển Đài Loan. Ông lưu ý rằng đại sứ quán đã tổ chức “tuần chín ngày cho hòa bình” để đáp lại lời kêu gọi hòa bình của Đức Thánh Cha.

Đức Cha Noberto Phổ Anh Hùng (Pu Yingxiong) của Đài Loan đã cho thấy ý nghĩa của việc Vatican công nhận người Công giáo Đài Loan. Ngài nói: “Chúng tôi hy vọng chúng tôi luôn có thể duy trì mối quan hệ chính thức và tốt đẹp này với Vatican. Bởi vì đối với Đài Loan, điều này rất quan trọng. Chúng tôi hy vọng rằng thế giới sẽ thấy điều này vì Đài Loan là một quốc gia dân chủ và tự do, được các quốc gia khác tôn trọng”

Cảnh sát tài chính Ý thu giữ 100 ngàn tràng hạt ảnh tượng giả mạo in logo Năm Thánh 2025

Theo các tờ báo lớn của Ý, cảnh sát tài chính Ý đã tịch thu các hàng hóa giả mạo, gồm hơn 100.000 tràng hạt, ảnh tượng, hình ảnh Đức giáo hoàng, có in vương miện Giáo hoàng và logo Năm Thánh 2025.


image.png

Logo Năm Thánh 2025 

Theo Ủy ban tổ chức Năm Thánh và chính quyền Roma, dự kiến sẽ có khoảng 30 triệu người hành hương Roma trong Năm Thánh 2025. Do đó, các cửa tiệm bán các ảnh tượng và tràng hạt tại đây đang chuẩn bị các ảnh tượng cho nhu cầu của tín hữu hành hương.

Hàng hóa giả

Các thanh tra viên của cảnh sát tài chính Ý đã tìm thấy các tràng hạt và ảnh tượng giả mạo được in logo Năm Thánh tại ba cửa tiệm trên Đại lộ Hòa giải (Via della Conciliazione), một tuyến đường hành hương nổi tiếng giữa Vatican và Lâu đài Thiên thần (Castel Sant'Angelo). Những kẻ chủ mưu được cho là công dân Trung Quốc.

Nhiều mặt hàng giả khác cũng được tìm thấy trong các nhà kho ở ngoại ô Roma, bao gồm các tượng Đức Mẹ nhỏ, bưu thiếp có hình Đức Giáo hoàng Phanxicô, "mề đay" và Thánh Giá; tất cả đều được sản xuất tại Trung Quốc và mang nhãn hiệu của Vatican cho Năm Thánh: với mũ vương miện "Tiara" của giáo hoàng và logo "Giubileo 2025 - Pellegrini dell'Esperanza" ("Năm Thánh 2025 - Những người hành hương của Hy vọng"). Những hàng hóa giá rẻ này đôi khi được bán với giá gấp mười lần giá trị thực.

Logo Năm Thánh 2025

Logo Năm Thánh 2025 được thiết kế bởi Giacomo Travisani. Tác giả cho biết mình đã tưởng tượng cách thế tất cả mọi người cùng nhau tiến bước, có thể tiến bước "nhờ ngọn gió Hy vọng là Thánh giá của Chúa Kitô và chính Chúa Kitô."

Logo trình bày bốn nhân vật cách điệu, diễn tả tất cả nhân loại từ bốn phương của trái đất. Mọi người đều ôm nhau, biểu thị tình liên đới, huynh đệ đoàn kết các dân tộc. Người thứ nhất đang bám vào Thánh giá. Những con sóng bên dưới vỗ mạnh để chỉ ra rằng cuộc hành hương của cuộc sống không phải lúc nào cũng trên mặt nước phẳng lặng. Bởi vì các hoàn cảnh cá nhân và các sự kiện thế giới thường mời gọi một cảm giác hy vọng lớn hơn, một mô tả của logo với phần dưới của Thánh giá được thuôn dài biến thành mỏ neo, làm im chuyển động của các ngọn sóng. Mỏ neo thường được sử dụng như ẩn dụ cho hy vọng. Hình ảnh cho thấy cuộc hành trình của người hành hương không phải là cá nhân, mà là mang tính cộng đồng, với những dấu hiệu của một sự năng động ngày càng tiến về phía Thánh Giá.

Án phạt

Những nghi phạm trong vụ hàng giả mạo bị cáo buộc nhập khẩu và quảng cáo tiếp thị hàng giả. Ngoài ra, một số sản phẩm có chứa các chất bị luật pháp Liên minh Châu Âu cấm. Những người bị cáo buộc đã bị phạt từ 5.000 đến 40.000 euro.

Theo thông tin, cảnh sát tài chính đang lên kế hoạch kiểm tra thêm trước Năm Thánh. Chỉ riêng trên Đại lộ Hòa giải đã có khoảng 30 cửa hàng bán đồ tôn giáo và đồ lưu niệm; hầu hết đều do người Trung Quốc điều hành. Theo báo La Repubblica, họ kiểm soát toàn bộ chuỗi cung ứng các hàng hóa như vậy, từ xuất khẩu từ Trung Quốc đến buôn bán.


Chức phó tế nữ và các linh mục đã kết hôn đang được thảo luận ở Thượng Hội đồng

Geert de Cubber là phó tế vĩnh viễn duy nhất của Thượng Hội đồng 

Ngày thứ tư 9 tháng 10, trong một họp báo, Phó tế vĩnh viễn người Bỉ Geert De Cubber, phó tế duy nhất tham dự Thượng Hội đồng cho biết, trong số nhiều chủ đề được nêu ra tại Thượng Hội đồng hiện nay ở Rôma, chức phó tế nữ và khả năng phong chức linh mục cho các phó tế đã kết hôn đang được thảo luận.

Bộ Giáo lý Đức tin được Đức Phanxicô ủy nhiệm nghiên cứu việc phụ nữ tham gia Giáo hội cho biết, các thành viên của Thượng hội đồng đã thảo luận vấn đề này, Phó tế Geert De Cubber trả lời báo chí: “Đây là một vấn đề tế nhị vì lẽ ra chúng tôi không được nói về chức phó tế nữ trong Thượng Hội đồng nhưng chủ đề này đã được nêu ra. Đó là lẽ tự nhiên dù chúng ta không đưa ra quyết định.” Sứ vụ đặc biệt của chức phó tế đòi hỏi phải thụ phong và dành riêng cho nam giới là một trong những chủ đề Đức Phanxicô giao cho một trong 10 ủy ban chuyên gia, các ủy ban này sẽ đệ trình công việc của họ vào tháng 6 năm 2025.

Phó tế “rất khác với linh mục”

Phó tế De Cubber người Bỉ đã lập gia đình và là cha của ba người con, cho biết điều quan trọng là phải hiểu bản chất của phó tế. Phó tế nhấn mạnh: “Phó tế rất khác với linh mục. Đó là phục vụ Giáo hội và con người, một loại mục vụ khác.” Khi được hỏi về giả thuyết cho phép phụ nữ làm phó tế ở một số nơi trên thế giới, phó tế Cubber cho biết đó là vấn đề tiến tới một cách chung “có tính đồng bộ” để “không để mất ai trên con đường”.

Chủ đề này chưa được nhất trí trong Thượng Hội đồng. Trong cuộc họp báo ngày 7 tháng 10 Giám mục Anthony Randazzo của giáo phận Broken Bay Úc cho biết: “Rất tiếc phụ nữ thường bị bỏ qua trong Giáo hội. Một thiểu số nhỏ có tiếng nói ở phương Tây đã ngăn cản việc này.”

Công việc của nhóm 5

Vào tháng 2 năm 2024, chủ đề chức phó tế nữ là một trong những chủ đề được Đức Phanxicô giao cho nhóm số 5 dưới sự chỉ đạo của bộ Giáo lý Đức tin. Trong một thông báo về tiến độ công việc trước phiên họp Thượng Hội đồng ngày 2 tháng 10, hồng y bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin Víctor Manuel Fernández khẳng định chủ đề này vẫn phải được xem xét và giải quyết và có thể thực hiện được cho một số phụ nữ.

Theo bộ Giáo lý Đức tin “không có chỗ cho một quyết định thuận lợi của Huấn quyền về việc phụ nữ tiếp cận chức phó tế được hiểu như một cấp độ của bí tích Dòng”, theo ngài, vấn đề chưa chín muồi nhưng nhóm làm việc cho rằng “công việc chuyên sâu” là khả thi.

Ngày 9 tháng 10, hồng y Fernández cho biết các nhóm làm việc đã bắt đầu “giai đoạn tham vấn” mở cho cả các phụ nữ không phải là cố vấn của thánh bộ. Ngài cho biết tất cả các thành viên và các thần học gia của Thượng Hội đồng gởi những đóng góp của họ cho Bộ trong những tháng tới.

Ngày 18 tháng 10, hai nhân viên của Bộ sẽ có mặt để nhận những suy tư về chủ đề này. Các chuyên gia của 10 nhóm sẽ làm việc ngày hôm đó.

Truyền chức cho phó tế đã lập gia đình làm linh mục?

Một cái nhìn khác về sự phát triển của chức phó tế được đề cập trong cuộc họp báo ngày thứ ba 8 tháng 10. Tân hồng y Jaime Spengler của Porto Alegre ở Brazil cho biết việc truyền chức linh mục cho các ông đã lập gia đình ở vùng Amazon đang rất cần ở những vùng lãnh thổ rộng lớn. Một câu hỏi đã thu hút sự chú ý trong Thượng Hội đồng về Amazon năm 2019.

Giám mục Spengler cho biết, đã cân nhắc hết sức thận trọng khả năng truyền chức linh mục cho các ông đã lập gia đình và đã là phó tế vĩnh viễn: “Theo thực tế những gì tôi thấy, vì thực tế thì khác, tôi nghĩ chúng ta không thể khái quát hóa từ kinh nghiệm của chức phó tế vĩnh viễn, trong tương lai không xa, liệu chúng ta sẽ thấy những phó tế này sẽ làm linh mục cho một cộng đồng cụ thể hay không,” theo ngài, vấn đề này cần được “đào sâu” hơn và đòi hỏi “lòng can đảm và khả năng cởi mở của trái tim”.



Tính đồng nghị mang tính tiên tri trong hình thức của nó

image.png

Tiến trình Thượng Hội đồng về tính đồng nghị đang mang lại một luồng gió mới cho việc thực thi dân chủ. Sự kiện rất công giáo này có điều gì đó để truyền cảm hứng cho thế giới thế tục một cách đẹp đẽ nhất.

Đối diện với những cuộc khủng hoảng và tình trạng khẩn cấp về tình hình chính trị hiện nay, thời gian dường như đang trôi nhanh, làm hại cho nền dân chủ và cho sự cân nhắc. Có vẻ như đã đến lúc phải có những bài phân cực và những hình ảnh của các nhân vật độc tài để “trấn an”. Châu Âu cũng bị ảnh hưởng bởi những cám dỗ dân túy lợi dụng nỗi sợ của kẻ thù nội bộ. Phe cực hữu tiếp tục trỗi dậy ở tất cả các nước Châu Âu, chẳng hạn ở Áo vào cuối tháng 9 năm 2024 với chiến thắng của đảng FPƯ.

Làm thế nào chúng ta có thể chống lại động lực gây hỗn loạn này? Điều đáng chú ý nhất trong những tháng gần đây ở Châu Âu là khoảng cách đáng lo ngại đang ngày càng gia tăng giữa sự nối tiếp nhanh chóng của các sự kiện nghiêm trọng và sự tan rã của bộ máy chính trị của các nền nước dân chủ phương Tây mà dường như không thể làm gì được.

Tuy nhiên, đồng thời, vào đầu tháng 10 năm 2024, Thượng hội đồng về tính đồng nghị họp lại, quy tụ các đại diện từ tất cả các châu lục tại Rôma, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, nam nữ để suy nghĩ về tương lai Giáo Hội, mang tham vọng nghĩ ra những hình thức phù hợp để công bố Tin Mừng cho thiên niên kỷ mới, khi chúng ta chỉ nói về những trường hợp khẩn cấp và khủng hoảng. Mang hoài bảo của một tầm cao?

Học cách cùng nhau thảo luận

Phiên họp Thượng Hội đồng khai mạc trong bối cảnh quốc tế đầy bạo lực và căng thẳng. Nhưng Đức Phanxicô phát động tiến trình này không phải để trả lời các câu hỏi mà để Giáo hội công giáo có thể trải nghiệm tính đồng nghị. Điều đó có nghĩa là gì? Cùng nhau học cách thảo luận, mọi bậc sống cùng hiệp nhất trong Giáo hội. Nhưng trên hết là nói về tất cả các chủ đề, cấm kỵ hay không. Không nhằm mục đích quyết định mà nhằm đưa ra những bất đồng.

Một trong những thách thức của tính đồng nghị là thoát khỏi cạm bẫy tranh luận để tạo điều kiện cho việc lắng nghe và đối thoại chung. Tìm kiếm sự chắc chắn trong mọi việc là dấu hiệu của một tâm trí không ngừng nghỉ, Đức Phanxicô đã viết trong quyển Một thời để thay đổi (Un temps pour changer, nxb. Flammarion, 2020). Hồng y Newman cho thấy, bằng cách chấp nhận những sự thật mâu thuẫn, chúng ta vẫn đạt được một sự thật lớn hơn, vượt quá chúng ta. Vì thế Thượng Hội đồng được xem là tiến trình thiên về một trải nghiệm sống để cùng nhau gặp gỡ và lắng nghe Chúa Thánh Thần hơn là một phương pháp làm việc.

Các vấn đề đang được nêu lên ở Pháp, vì Thượng Hội đồng chưa cải cách đủ mức, đặc biệt là về vị trí của phụ nữ. Chúng ta có thể xin thứ lỗi một cách hợp pháp. Nhưng trong bối cảnh chính trị chúng ta biết, chúng ta đã đo lường mức độ mà tính đồng nghị mang tính tiên tri, có lẽ không phải ở nội dung mà ở hình thức của nó chưa? Mang tính tiên tri cho Giáo hội và tràn đầy hy vọng cho thế giới: làm chứng cho một gặp gỡ và đa dạng vẫn có thể xảy ra. Rằng đây là nơi và là hình thức hiệp thông, và chúng ta sẽ không nhượng bộ trước cám dỗ rút lui vào bản sắc riêng.

Thượng Hội đồng Giám mục: Đa số bác bỏ đề nghị công nhận thẩm quyền của Hội đồng Giám mục Miền về đạo lý


Tại Thượng Hội đồng Giám mục đang tiến hành ở Roma, đề nghị tản quyền về địa phương để cho các Hội đồng Giám mục quốc gia và miền được một số thẩm quyền về đạo lý, đã bị đa số phê bình.



Theo cuộc họp báo, trưa ngày 16 tháng Mười vừa qua, các đại biểu của các nhóm ngôn ngữ khác và thuộc các vùng địa lý khác nhau đã bày tỏ lo âu về đề nghị tản quyền vừa nói.

Thật ra, vấn đề thẩm quyền của các Hội đồng Giám mục về đạo lý đã được bàn luận từ lâu: những người bênh vực sự tản quyền thì cho rằng cần đặt đạo lý của Giáo hội trong bối cảnh địa phương, trình bày và thích ứng đạo lý làm sao để các tín hữu hiểu và sống đạo lý Công giáo. Nhưng những người phê bình lập trường này thì nói rằng dành quá nhiều quyền giải thích đạo lý cho mỗi địa phương có thể đưa tới những sai lệch và ngộ nhận.

Hồi tháng Năm năm 1998, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã công bố hai văn kiện, trước tiên là Tự sắc: “Apostolos Suos” kèm theo Tông thư “Ad Tuendam Fidem”, Để bảo vệ đức tin, cất đi thẩm quyền giáo huấn khỏi các Hội đồng Giám mục, kể cả thẩm quyền về đạo lý.

Một thành viên Thượng Hội đồng Giám mục hiện nay nói với trang mạng NcRegister.com, ở Mỹ rằng mức độ chống đối đề nghị tản quyền đạo lý này rất lớn: đại đa số các thành viên chống lại đề nghị tản quyền nói trên. Một thành viên nói rằng: “Một đức tin bị phân hóa có nghĩa là một Giáo hội bị phân hóa”.

Về phần Đức Tổng giám mục Anthony Fisher, Dòng Đa Minh, Tổng giám mục Giáo phận Sydney, Australia, ngài nói với Đài truyền hình “Lời Vĩnh Cửu” (EWTN) ở Mỹ rằng: “Giáo hội không thể tái sáng chế đức tin Công giáo” hoặc “giảng dạy một đạo Công giáo khác nhau tùy, theo mỗi nước”.


Các nhóm tranh đấu cho lợi ích đặc biệt làm việc ra sao tại Thượng hội đồng về tính đồng nghị


Đức Giáo Hoàng Phanxicô phát biểu với một người tham dự Thượng hội đồng vào ngày 10 tháng 10 tại một cuộc họp của Thượng hội đồng về tính Thượng hội đồng tại Hội trường Khán giả Phaolô VI của Vatican

Jonathan Liedl của National Catholic Register, ngày 15 tháng 10 năm 2024, có bài phân tích sau đây:

Sự kiện ‘phong chức cho phụ nữ’ vào thứ Ba, mà các đại biểu Thượng hội đồng được mời tham dự qua email hàng loạt, là một minh họa tốt về cách các sự kiện bên lề cố gắng tác động đến quá trình này.

Thực vậy, trong một hoặc hai ngày tới, đừng ngạc nhiên khi thấy một loạt tin tức mới về việc ủng hộ việc phong chức cho phụ nữ tại Thượng hội đồng về tính đồng nghị.

Đây là một dự đoán hợp lý, vì vào đầu ngày hôm nay, một nhóm ủng hộ đã gửi một email, do Register thu thập được, mời các đại biểu Thượng hội đồng tham gia cùng họ vào ngày mai tại một biến cố thúc đẩy mục đích này.

Được tổ chức bởi AmerIndia, một mạng lưới những người Công Giáo Mỹ Latinh tiến bộ, và có tên là "Được kêu gọi trở thành một nữ phó tế", bữa tiệc trưa pizza ngày 15 tháng 10 sẽ có sự góp mặt của một số ít phụ nữ có cùng một lý do tại sao họ tin rằng họ được kêu gọi vào thừa tác vụ thụ phong theo bí tích (điều mà Giáo hội dạy là không thể).

Các nhà báo có thiện cảm có thể sẽ khuếch đại biến cố này, đảm bảo ghi nhận rằng những người thuyết trình đến từ nhiều châu lục, thậm chí có thể ngụ ý rằng điều này làm suy yếu lời chỉ trích cho rằng việc phong chức cho phụ nữ chỉ là một "vấn đề thích hợp" do những người phương Tây giàu có thúc đẩy. Họ cũng có thể chỉ ra số lượng đại biểu của Phiên họp đang tham dự — nghĩa là, nếu tổng số thuận lợi.

Khi làm như vậy, họ sẽ tuân theo một kịch bản quen thuộc đang được sử dụng để tác động đến Thượng hội đồng về tính đồng nghị — hoặc ít nhất là nhận thức về nó.

Các biến cố tương tự khác được tổ chức bên lề thượng hội đồng đã đóng vai trò như một chất xúc tác cho các bài báo và nội dung truyền thông xã hội khuếch đại một loạt các mục tiêu cấp tiến, tạo ấn tượng rằng chúng là chủ đề chính tại thượng hội đồng.

Ví dụ, vào ngày 8 tháng 10, nhóm ủng hộ LGBTQ Outreach của Cha James Martin thuộc Dòng Tên đã tổ chức một biến cố bên lề thượng hội đồng. Biên cố này có sự tham gia của một số người Công Giáo tự nhận là LGBTQ kêu gọi Giáo hội phải bao gồm nhiều hơn, bao gồm một người đàn ông đã kết hôn dân sự với một người đàn ông khác, người này nói rằng người Công Giáo phải "cho phép tình yêu được phát biểu".

Giống như biến cố AmerIndia hôm thứ Ba, biến cố Outreach đã bị ngăn chặn đối với báo chí. Nhưng nhóm đã công bố báo cáo riêng về biến cố này, sau đó được National Catholic Reporter khuếch đại trong một bài viết. Ngoài ra, Cha Martin đã sử dụng ảnh hưởng đáng kể của mình trên phương tiện truyền thông xã hội để tăng cường khả năng hiển thị của biến cố mà ngài mô tả là "lịch sử".

(Điều đáng lưu ý là, Reporter tuyên bố rằng có hơn 70 đại biểu của thượng hội đồng có mặt, mặc dù Outreach không đưa bất cứ thông tin nào về tổng số người tham dự trong mô tả của họ về biến cố không được báo chí biết đến. Đối với những gì đáng nói, nhà thần học và nhà tổ chức German Synodal Way Thomas Söding, một chuyên gia tại thượng hội đồng, đã viết về biến cố này trong blog hàng ngày của mình rằng "không có nhiều người tham gia, nhưng một số thì có.")

Những biến cố bên lề này và phạm vi đưa tin sau đó về chúng dường như nhằm mục đích tạo áp lực, tăng sức ép lên các đại biểu của thượng hội đồng và giới lãnh đạo Vatican bằng cách ám chỉ rằng phong trào đằng sau các mục đích như điều gọi là "phong chức cho phụ nữ" và thay đổi giáo huấn của Giáo hội về tình dục là rất lớn, và nếu không hành động thì có nguy cơ bị coi là không lắng nghe và ngoan cố.

Bất chấp sự nhấn mạnh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng thượng hội đồng không phải là quốc hội, một lời nhắc nhở mà ngài đã nhắc lại vào đầu phiên họp từ ngày 2 đến ngày 27 tháng 10 năm nay, những dấu hiệu khác của chủ nghĩa đấu tranh chính trị vẫn hiện diện xung quanh và thậm chí trong hội trường thượng hội đồng.

Như Katholisch, dịch vụ truyền thông của các giám mục Đức, đưa tin, "các chuỗi bài phát biểu được phối hợp khéo léo" trong hội trường của thượng hội đồng được sử dụng để đạt được một loại "tập trung chủ đề" trong các phiên họp chung, thường khuếch đại các vấn đề như phong chức cho phụ nữ và ủng hộ LGBTQ.

"Số lượng bài phát biểu về một số chủ đề nhất định làm cơ sở cho tính cấp thiết của chúng", Ludwig Ring-Eifel đã viết về chiến thuật này.

Katholisch cũng báo cáo rằng hộp thư của các đại biểu thượng hội đồng thường xuyên được nhét đầy lời mời tham gia các biến cố bên lề, được cho là thường xuyên hơn và tiến bộ hơn so với phiên họp năm ngoái.

Những biến cố bên lề này là một yếu tố đặc biệt đáng lưu ý tại một biến cố dành riêng cho tính đồng nghị. Một yếu tố quan trọng của tính đồng nghị, chúng ta đã được cho biết, là lắng nghe và sự tồn tại của một loại tính tuần hoàn giữa các cấp cao nhất của Giáo hội hoàn vũ và các cấp địa phương nhất của các Giáo hội đặc thù.

Bản thân Thượng Hội đồng về tính đồng nghị đã là một thao tác về tính tuần hoàn này, tiến triển từ giáo phận đến quốc gia, đến lục địa và bây giờ là giai đoạn hoàn cầu, nhưng với những nỗ lực thường xuyên để có được "phản hồi" từ các bình diện trước đó khi quá trình diễn ra.

Sự hiện diện của các nhóm tranh đấu cố gắng tác động đến Phiên họp thượng hội đồng dường như làm gián đoạn tính tuần hoàn đó. Giống như cách thức vận động hành lang chính trị ở Hoa Kỳ, động lực này dường như ủng hộ những nhóm có nguồn lực, thời gian và lợi ích chuyên biệt để đầu tư vào việc đến Rome để vận động hành lang với thượng hội đồng.

Nói cách khác, không có nhiều người Công Giáo bình thường tham dự.

Do đó, rủi ro không chỉ là một số vấn đề nhất định bị thổi phồng trong nhận thức rộng hơn về thượng hội đồng. Mà còn là những mối quan tâm khác, có thể quan trọng hơn đối với nhiều người Công Giáo hơn, bị lu mờ trong quá trình này.

Ví dụ, những người tổ chức thượng hội đồng đã nhấn mạnh vào tuần trước rằng bài phát biểu của một người mẹ về tầm quan trọng của việc khai tâm Kitô giáo cho thanh thiếu niên đã nhận được tràng pháo tay lớn nhất từ trước đến nay tại hội trường thượng hội đồng. Nhưng có lẽ bạn chưa bao giờ nghe về bài phát biểu này.

Bởi vì "khai tâm Kitô giáo cho thanh thiếu niên" không phải là một mối quan tâm đặc biệt được ủng hộ bên lề hội đồng và được các phương tiện truyền thông đồng cảm khuếch đại. Cái gọi là "phong chức cho phụ nữ" và các vấn đề LGBTQ mới là.

Sự hiện diện của nhóm tranh đấu cho các lợi ích đặc biệt tại Thượng Hội đồng về tính đồng nghị làm nổi bật sự căng thẳng giữa cam kết lắng nghe của Giáo hội và ảnh hưởng của các nhóm được tổ chức tốt, bị thúc đẩy bởi nghị trình. Trong khi tính đồng nghị nhấn mạnh tính tuần hoàn hiệu quả, các sự kiện vận động hành lang ở Rome có nguy cơ làm lệch lạc cuộc thảo luận.

Giới lãnh đạo Thượng hội đồng hiện đang phải đối đầu với câu hỏi liệu hình thức hoạt động này có làm gián đoạn tiến trình của Thượng hội đồng hay không và liệu những nỗ lực như vậy có phản ảnh tiếng nói đích thực của dân Chúa hay chỉ đơn giản là khuếch đại quan điểm của những người tranh đấu mạnh mẽ nhất.



Giám mục Trung Quốc tại Thượng HĐGM: Chúng tôi hiệp thông với Giáo hội


Bên lề Đại hội Thượng Hội đồng Giám mục thứ 16 đang diễn ra tại Vatican, hai Giám mục Trung Quốc tham gia Thượng Hội đồng - Đức Cha Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), Giám Mục Hàng Châu, thủ phủ của Tỉnh Chiết Giang, và Đức Cha Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu), Giám Mục Hạ Phố - đã chia sẻ về đức tin và sự hiệp thông của người Công giáo Trung Quốc



Đức Cha Giuse Dương Vĩnh Cường, Giám Mục Hàng Châu, và ĐTC Phanxicô 

Đức Cha Giuse Dương Vĩnh Cường chia sẻ: “Giáo hội tại Trung Quốc cũng giống như Giáo hội Công giáo ở các quốc gia khác trên thế giới: chúng tôi cùng chung một đức tin, cùng chung một phép rửa tội và tất cả chúng tôi đều trung thành với Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”.

Đức Cha nói thêm: “Chúng tôi theo đuổi tinh thần truyền giáo ‘trở thành tất cả cho mọi người’. Chúng tôi thực sự thích nghi với xã hội, phục vụ xã hội, theo đuổi định hướng đưa Công giáo “hội nhập vào văn hóa Trung Quốc” và rao giảng Tin Mừng. Giáo hội Công giáo tại Trung Quốc đã khởi xướng các cuộc trao đổi tích cực với các cộng đồng Công giáo trên khắp thế giới dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau. Chúng tôi tiến hành trao đổi về các chủ đề như truyền giáo và chăm sóc mục vụ trong Giáo hội, các dịch vụ xã hội và nghiên cứu thần học; chúng tôi tích cực tham gia các cuộc họp quốc tế và hoạt động cầu nguyện của các tôn giáo vì hòa bình; chúng tôi cố gắng trở thành ‘ánh sáng và muối’ cho hòa bình thế giới và thúc đẩy một cộng đồng nơi nhân loại có thể chia sẻ vận mệnh; cuối cùng, chúng tôi thúc đẩy phát triển thông qua nhiều loại dự án khác nhau”.

Còn Đức Cha Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc, trong bài chia sẻ, đã nhắc lại hình ảnh của nhà truyền giáo Dòng Tên, Cha Matteo Ricci, và “thí nghiệm” của cha nhằm “thích ứng Phúc âm Kitô giáo cho phù hợp với các tập tục khác nhau của con người”. Cha nói rằng “Là một Giáo hội hiệp hành tham gia vào sứ mạng truyền giáo có nghĩa là tôn trọng và lắng nghe tiếng nói của những câu chuyện, nền văn hóa và truyền thống khác nhau trong hành trình tìm kiếm mục tiêu cuối cùng của nhân loại, đó là Thiên Chúa”.

Đức Cha cũng cho biết rằng Giáo hội Trung Quốc phải “giải quyết những thách thức mà hôn nhân hỗn hợp đặt ra đối với giáo dục gia đình; làm thế nào để thích ứng với luật pháp và quy định của địa phương; hoặc làm thế nào để giải quyết sự nhầm lẫn tồn tại trong giáo dân giữa các niềm tin dân gian và một số khía cạnh của văn hóa truyền thống”. Ngài kết luận rằng “việc học hỏi một cách khiêm nhường từ cả những kinh nghiệm lịch sử và hiện tại là một cách quan trọng để truyền giáo, tức là phân định con đường mới mà Chúa đang chỉ ra cho Giáo hội”.







Đức Phanxicô lắng nghe chứng từ của người công giáo chuyển giới và liên giới tính


Ngày 12 tháng 10 năm 2024, Đức Phanxicô gặp các thành viên của phái đoàn Các Con đường Sứ vụ Mới (New Ways Ministry) gồm các tín hữu công giáo chuyển giới và liên giới tính, những người ủng hộ LGBTQ+ và một bác sĩ săn sóc họ tại Nhà nguyện Thánh Marta ngày. Buổi tiếp kiến kéo dài 90 phút.



Trái sang phải: Bà Cynthia Herrick, bà Laurie Dever, Phó tế Ray Dever, Michael Sennett và Nicole Santamaria. 
Thông cáo ngày 12 tháng 10 của New Ways Ministry cho biết, từ 50 năm nay, Sơ Loretto Jeannine Gramick, người đồng sáng lập mục vụ đã giúp người LGBTQ+ hòa nhập vào xã hội và vào Giáo hội.
Trong số 11 thành viên gặp Đức Phanxicô, năm thành viên đã chia sẻ chứng từ và kinh nghiệm cá nhân, kinh nghiệm làm việc với người liên giới tính và chuyển giới. Ông Michael Sennett, người chuyển giới và là thành viên hội đồng quản trị của New Ways Ministry kể, khi ông 8 tuổi, ông bị một linh mục khiển trách vì đã mặc váy trong ngày rước lễ lần đầu thay vì mặc vét. Ông kể: “Tôi đã khóc vì tôi nghĩ Chúa ghét tôi. Sau lần tự tử hụt năm 17 tuổi, một y tá công giáo đồng tính nữ chia sẻ câu chuyện của cô với ông, và ông nghĩ ‘mình có thể là chính mình’”.
Bà Nicole Santamaria, một phụ nữ liên giới tính ở El Salvador cho biết: “Những người liên giới tính hoặc lưỡng tính là những người vô hình nhất, ngay cả trong cộng đồng LGBT” dù họ phổ biến hơn trong xã hội so với những gì mọi người có thể nhận ra. Theo các nghiên cứu học thuật vẫn còn tranh cãi, ước tính có khoảng 1,7% trẻ sơ sinh sinh ra là liên giới tính.”
Bà Santamaria cho biết kinh nghiệm của riêng bà về người liên giới tính và đức tin công giáo đã định hình công việc của bà với người chuyển giới và liên giới tính: “Chúa đã đặt tôi vào công việc phục vụ những người bị cho là không tồn tại, là bí ẩn của những người bị khinh thường, bị lên án.”
Phó tế công giáo Ray Dever đã nghỉ hưu và là cha của một phụ nữ chuyển giới trưởng thành, nói với Đức Phanxicô: “Qua kinh nghiệm của con gái, gia đình tôi đã học, đơn giản không có mối liên hệ nào giữa lý thuyết giới tính và những người chuyển giới, vì chứng rối loạn bản năng giới tính không phải là lựa chọn cá nhân hoặc kết quả của một số hệ tư tưởng.”
Ông cho biết sự nhầm lẫn như vậy dẫn đến việc những người chuyển giới bị loại khỏi đời sống của nhà thờ ở nhiều giáo phận và giáo xứ, họ không được nhận các phép bí tích và bị các trường công giáo từ chối. Khi nuôi dạy người con gái chuyển giới, ông nhận thấy sự thiếu lòng trắc ẩn đáng kinh ngạc trong rất nhiều nhà thờ với người chuyển giới: “Tôi rất đau lòng khi phải nói lên điều này, nhưng tôi nghĩ hiện nay Giáo hội đã làm hại nhiều hơn là giúp đỡ trong việc giao tiếp với lý thuyết giới tính và người chuyển giới.”
Tháng 3 vừa qua, Đức Phanxicô gọi lý thuyết giới tính là “một hệ tư tưởng xấu của thời đại, xóa bỏ sự khác biệt và làm cho mọi thứ trở nên bình đẳng”. Ngài đã gặp Sơ Gramick trước đó tại Vatican năm 2023 sau hai năm ngài và Sơ trao đổi thư từ với nhau. Trước đó, Sơ bị các Giám mục Hoa Kỳ và Vatican điều tra. Năm 1999, khi Hồng y Joseph Ratzinger làm Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, ngài đã ra lệnh cấm Sơ Gramick và Linh mục Robert Nugent, người đồng sáng lập New Ways Ministry không được làm mục vụ cho người đồng tính, cho rằng lập trường của họ “không thể chấp nhận về mặt giáo lý, liên quan đến bản chất xấu của các hành vi đồng tính và sự rối loạn khách quan của khuynh hướng đồng tính.
Với sự chấp thuận của Đức Phanxicô, tháng 4, Bộ Giáo lý Đức tin đã công bố Tuyên bố Phẩm giá con người “Dignitas Infinita” lên án sự phân biệt đối xử người LGBTQ+ và đặc biệt là những tình huống họ “bị giam cầm, tra tấn và thậm chí bị tước đoạt quyền sống chỉ vì khuynh hướng tình dục của họ”.
Tuyên bố này cũng lên án “lý thuyết giới tính là cực kỳ nguy hiểm vì nó hủy bỏ những khác biệt trong việc làm cho mọi người bình đẳng”, cảnh báo các can thiệp chuyển đổi giới tính có nguy cơ “đe dọa đến phẩm giá độc nhất mà chúng ta đã nhận được từ thời điểm thụ thai.





⛪⛪⛪⛪⛪








Họp báo tại Thượng Hội đồng Giám mục


Trong cuộc họp báo hầu như hằng ngày, bên lề Thượng Hội đồng Giám mục đang tiến hành ở Roma, hôm 15 tháng Mười vừa qua, có một số vấn đề được các tham dự viên Công nghị Giám mục này bàn tới, đó là sự bao gồm những người khuyết tật, vai trò của phụ nữ và tình trạng khẩn cấp tại Brazil.


image.png


Hiện diện trong cuộc họp báo, trưa thứ Ba vừa qua, có nữ tu Nirmala Alaex Maria Nazareth, Dòng Cát Minh Tông Đồ, Đức Hồng y tân cử Leonardo Ulrich Steiner, Dòng Phanxicô, Tổng giám mục Giáo phận Manaus, bên Brazil và Đức Hồng y tân cử Roberto Repole, Tổng giám mục Giáo phận Torino, bắc Ý.

Ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Truyền thông và cũng là Trưởng ban thông tin của Thượng Hội đồng Giám mục hiện nay, cho biết: ban sáng và ban chiều ngày 15 tháng Mười, các tham dự viên đã họp trong hơn 30 nhóm nhỏ, ở Đại thính đường Phaolô VI, với sự hiện diện của 347 người, trên tổng số hơn 370 thành viên.

Trước đó, Đức Hồng y Jean Claude Hollerich, người Luxemburg, Tổng tường trình viên, đã trình bày nội dung tóm tắt của Phần III trong Tài liệu Làm việc, trong đó có đề cập đến những nơi cụ thể để thi hành sứ mạng của Giáo luật, đặc biệt là các thành thị, với vấn đề di dân.

Trong cuộc họp báo, Đức Hồng y Steiner nói về vai trò các phụ nữ trong Giáo phận Manaus của ngài, rộng 90.000 cây số vuông, thuộc miền Amazonia bên Brazil, với rất nhiều thổ dân và ngài ủng hộ ý tưởng nên có các nữ phó tế vĩnh viễn và cả các linh mục có gia đình, vì từ hơn 100 năm nay, miền này rất khan hiếm linh mục.

Đức Hồng y cũng nói đến tình trạng khẩn cấp về khí hậu ở miền Amazonia, ví dụ như nạn hạn hán vì thiếu mưa. Đức Hồng y nói: “Chúng tôi không có nước từ một tháng nay, các sông lớn không còn có thể di chuyển bằng thuyền trên đó, vì thế nhiều cộng đoàn không thể lui tới được. Ngoài ra, nước sông ở nhiều nơi bị ô nhiễm do thủy ngân thải ra từ việc khai thác khoáng sản.






⛪⛪⛪⛪⛪






Marie-Jo Thiel: “Không thể viện dẫn Kinh thánh cũng như truyền thống Giáo hội để buộc các linh mục phải sống độc thân”
51

Một chủ đề tranh luận không ngừng, đời sống độc thân của các linh mục kết tinh những hiểu lầm. Theo thần học gia Marie-Jo Thiel, bà đã viết một quyển sách về vấn đề này, luật không còn tính bắt buộc nhưng là tùy chọn. Có nguy cơ mất đi điều gì làm nên sự độc đáo của Giáo hội la-tinh không?

Thần học gia Marie-Jo Thiel 

Trong một thế giới tục hóa, việc linh mục độc thân tạo khó hiểu và hiểu lầm. Thậm chí còn hơn thế nữa vì các vụ bạo lực tình dục trong Giáo hội đã ngập tràn trên tin tức. Gần đây vụ Abbé Pierre đã làm mọi người ghê tởm. Trong Giáo hội, vấn đề này thường được giáo dân đặt lên bàn thảo luận, đặc biệt khi Đức Phanxicô loại nó ra khỏi các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng.

Là bác sĩ và là thần học gia, bà Marie-Jo Thiel viết quyển sách Ân sủng và Trọng lực (La Grâce et la Pesanteur, nxb. Desclée de Brouwer). Bà nghiên cứu nền tảng và những biện minh cho kỷ luật tình dục được các giáo sĩ từ thời Trung cổ áp dụng. Bằng ngôn ngữ uyên bác nhưng dễ tiếp cận, bà kêu gọi một tiến hóa, đi ngược lại truyền thống của Giáo hội. Bà giải thích trên báo La Vie.


Quần chúng nghĩ có mối liên hệ trực tiếp giữa đời sống độc thân của các linh mục và bạo lực tình dục của một số linh mục, như vụ Abbé Pierre gần đây. Như thế là hiểu lầm sao?

Thần học gia, bà Marie-Jo Thiel: Đúng, rõ ràng như vậy. Ủy ban Độc lập về các vụ Lạm dụng tình dục trong Giáo hội Pháp (Ủy ban Ciasegiải thích rõ ràng, đời sống độc thân không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lạm dụng, nhưng là một phần trong cái nhìn nào đó về linh mục có thể tạo điều kiện cho lạm dụng sinh sôi. Sống như vợ chồng không bao giờ ngăn được tội bạo lực. Dù vậy, hiểu lầm vẫn tiếp diễn. Nhưng tôi nghĩ chính Giáo hội góp phần duy trì khi nhầm lẫn giữa độc thân, tiết dục và khiết tịnh.

Trong thực tế, đức khiết tịnh liên quan đến tất cả mọi người dù bậc sống của họ là gì. Thần học gia Xavier Theuvenot đã nói rõ ràng: castus (khiết tịnh) ngược với incastus (loạn luân). Loạn luân là không được hợp nhất, là phải cắt đứt. Tiết dục là kiêng quan hệ tình dục. Độc thân là không kết hôn. Vì thế chúng ta có thể sống độc thân mà không cần phải khiết tịnh và tiết dục.


Trong quyển sách của bà, bà nghĩ Giáo hội phải về với nghĩa vụ độc thân của các linh mục. Hành trình cá nhân của bà về chủ đề này là gì?

Tôi được giáo dục trong môi trường công giáo với ý tưởng bất kỳ đời sống thánh hiến nào cũng là một ân sủng đặc biệt, đến mức đôi khi tôi quên hôn nhân cũng là một ân sủng. Sau đó, tôi phát hiện các vụ tai tiếng tuyệt đối về những người thánh hiến hoặc các linh mục phạm tội lạm dụng. Điều này làm tôi tự đặt câu hỏi: đời sống độc thân có liên quan gì đến nó không? Dần dần, tôi nhận ra có nhiều yếu tố góp phần tạo những hành vi lạm dụng này, nhưng cũng có nhiều yếu tố góp phần vào việc che giấu. Chúng ta phải rất rõ ràng: đời sống độc thân không liên quan trực tiếp đến việc lạm dụng. Nhưng đó là một trong những yếu tố có thể phối hợp với những yếu tố khác để góp phần tạo bạo lực trên trẻ vị thành niên hoặc với những người dễ bị tổn thương.


Làm sao đời sống độc thân phù hợp với cơ chế mục nát này?

Nền văn hóa giáo sĩ đặt linh mục lên trên giáo dân với sự bất cân xứng có thể là dốc trơn trượt dẫn đến nguy cơ bạo lực tình dục. Văn hóa này được ủng hộ bởi luật buộc sống độc thân, đặt họ lên bệ thờ trong quan hệ với giáo dân, được sự hỗ tương của họ, đôi khi cảm giác ưu việt làm cho giáo dân bị ấu trĩ hóa. Thêm vào đó họ có quá nhiều quyền lực, thường xuyên làm họ bị suy yếu, họ phân biệt đối xử với phụ nữ, và khó công nhận tính dễ bị tổn thương của chính mình… tất cả những yếu tố này phối hợp với nhau góp phần tạo nên chiều hướng “có hệ thống” được báo cáo Ciase nói rõ.



Nhưng bậc sống độc thân được một số linh mục đón nhận nồng nhiệt.

Đó là ơn được Thiên Chúa ban! Vì thế tựa đề của tác phẩm đảo ngược tựa đề quyển sách của triết gia Simone Weil: ân sủng, theo nghĩa ơn của Chúa đi trước sự nặng nề của xác thịt và thế gian, Thiên Chúa kêu gọi thời gian và ngược thời gian. Nhưng như Thánh Tôma Aquinô đã nói, ân sủng bao hàm bản chất. Điều này có nghĩa là nó phải mang lấy tính xác thịt, phải nhập thể để sinh hoa trái. Do đó, nó không thể tách rời khỏi trọng lực hấp dẫn chống lại nó, nhưng còn để kích thích nó. Sức hấp dẫn có thể được nâng lên nhờ tác động của ân sủng. Nếu ai được Thiên Chúa kêu gọi sống độc thân, tạ ơn Chúa! Nhưng tùy thuộc từng người. Ân sủng của Thiên Chúa luôn nảy mầm một cách độc đáo trong tâm hồn mỗi con người.


Ngoài vấn đề lạm dụng, bà xem lại các nền tảng của đời sống độc thân của các linh mục. Bà cho rằng ngày nay chúng không còn hoàn toàn có giá trị nữa. Vì sao?

Quyển sách của tôi không nói về đời sống độc thân của các linh mục, nhưng về nghĩa vụ sống độc thân. Vấn đề này không phải là giáo điều nhưng là kỷ luật. Vì thế yêu cầu về đời sống độc thân không phải là bất biến. Và việc xem lại nó có còn hợp lý hay không là hợp pháp. Bây giờ sau khi xem xét chi tiết, sau khi nhận định, tôi đi đến kết luận độc thân là một lựa chọn khả thi của một số người, nhưng việc trở thành linh mục không bắt buộc phải độc thân.


Truyền thống Giáo Hội từ những cộng đồng kitô giáo đầu tiên như thế nào?

Theo tôi, cả Kinh thánh lẫn truyền thống Giáo hội đều không thể được viện dẫn để buộc các linh mục phải sống độc thân. Chúa Giêsu đã cư xử một cách cực kỳ cởi mở với những người nam nữ ở thời đại của Ngài. Ngài tương đối hóa mạnh mẽ mọi liên quan đến việc thánh hóa tôn giáo: với Ngài, trái tim con người là trên hết chứ không phải ngày Sabát. Thánh Phaolô là một trong những người đầu tiên hiểu, ngài tổ chức các cộng đồng kitô giáo đầu tiên vào khoảng 20 năm sau khi Chúa Giêsu qua đời, dựa trên sự bình đẳng trong phép rửa tội.

Sau khi Thánh Phaolô qua đời, một lần nữa giá trị của phụ nữ bị giảm sút, càng ngày họ càng bị loại trừ, xa bàn thờ, phụ nữ bị cho là ô uế… Vào khoảng năm 200, đồng trinh được cho là cao hơn hôn nhân, hôn nhân bị cho là không đủ tư cách. Văn hóa tu viện ngày càng phát triển, văn hóa này được dùng để làm gương mẫu cho việc ưu tiên đời sống độc thân của các giáo sĩ. Và vào giữa thế kỷ thứ 3, những người cố gắng duy trì sự tiết dục, khiết tịnh và độc thân được cho là cao hơn giáo dân. Việc họ làm chủ được tình dục là dấu hiệu cho thấy sự làm chủ là cần thiết cho việc quản trị Giáo hội.


Bà nghĩ chúng ta có nên quay về mô hình ban đầu của Thánh Phaolô để tách rời bậc sống độc thân khỏi quyền lực giáo hội không?

Bằng cách duy trì tình trạng độc thân bắt buộc với các linh mục, chúng ta duy trì sự khóa chặt quyền lực-tình dục-giới tính, vốn là nguồn gốc của quyền lực giáo sĩ trong Giáo hội. Khi Thánh Phaolô xây dựng cộng đồng đầu tiên của ngài dựa trên sự bình đẳng trong phép rửa tội và sự đa dạng của các đặc sủng. Điều này làm giảm các mối quan hệ bất đối xứng giữa giáo sĩ và giáo dân và mở ra sự hợp tác. Công đồng Vatican II đã cố gắng trình bày điều này trong Hiến chế Tín lý về Hội thánh Lumen Gentium, nhưng đã không theo được trực giác của mình, vì cần phải tìm ra những thỏa hiệp giữa người cấp tiến và người bảo thủ.


Chủ đề này không nằm trong chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng, phiên họp thứ hai đã khai mạc tại Rôma ngày 1 tháng 10 với các giám mục (và một số giáo dân) từ khắp nơi trên thế giới. Bà có tiếc không?

Tình trạng các mục vụ và vấn đề về đặc sủng vẫn còn trong chương trình, vì thế vấn đề truyền chức cho các ông đã lập gia đình không bị loại trừ hoàn toàn. Nhưng trên thực tế, Giáo hội chỉ có thể tự cải cách bằng cách suy ngẫm về cách đọc Kinh thánh mới liên quan đến các mục vụ và đoàn sủng. Chúng ta nên tách biệt đặc sủng độc thân khỏi đặc sủng chức linh mục.



Việc những người đương thời không còn hiểu việc sống độc thân bắt buộc là một trong những cánh cửa dẫn đến việc xin có một  thay đổi kỷ luật. Có phải sự lệch thời này là một cách tiên tri tốt không?

Tôi không nói ngược lại. Cuộc sống độc thân có tính chất lật đổ chủ nghĩa tiêu dùng trong thế giới chúng ta. Đó là dấu hiệu của lời kêu gọi theo sự tận căn của Phúc Âm. Tôi cho rằng đời sống độc thân có thể là trọng tâm của quan điểm này. Nhưng chúng ta không được đưa lý tưởng linh mục đi quá xa bằng cách đòi hỏi việc này với những người không có khuynh hướng này. 


Hình ảnh linh mục hiến dâng đời mình cho Tin Mừng gắn liền với đời sống độc thân. Chúng ta có mạo hiểm thay đổi khi tách chức linh mục với đời sống độc thân không?

Nếu bà hỏi các linh mục đã kết hôn trong Giáo hội công giáo la-mã – vì có một số trong Giáo hội phương Đông, các ông góa bụa hoặc mục sư của các Giáo hội khác chuyển sang Giáo hội công giáo -, cuối cùng chúng ta nhận thấy cuộc sống gia đình không có vấn đề gì. Những người bình thường sẽ nói với chúng ta điều này giúp linh mục hiểu họ hơn. Và chức linh mục có thể cùng tồn tại với một nghề, miễn là nó không quá xâm phạm, nghề nghiệp là một sinh kế.


Hôn nhân có miễn được tình trạng mệt mỏi hay cô đơn không?

Chúng ta cũng đừng lý tưởng hóa hôn nhân! Giống như cuộc sống độc thân, hôn nhân không phải là dòng sông dài yên tĩnh. Nhưng cả hai đều là những con đường để đi. Và việc linh mục buổi tối có thể chia sẻ niềm vui với người bạn đời có thể giúp họ bớt căng thẳng.


Bà đề xuất một giải pháp là truyền chức cho các ông đã lập gia đình (viri probati) giống như các Giáo hội Đông phương, hiện nay trong các Giáo hội này, các linh mục chưa lập gia đình được xem trọng hơn các linh mục đã kết hôn. Độc thân luôn là một yếu tố của thứ bậc.

Đối với mô hình Đông phương, tôi thích mô hình đoàn sủng quay trở lại sự bình đẳng trong bí tích rửa tội. Đời sống độc thân là một trong những cánh cổng khả thi để phi giáo sĩ hóa Giáo hội, nhưng nó không phải là cánh cổng duy nhất. Chúng ta đừng quên chúng ta ở trong một hệ thống nơi tất cả các yếu tố hoạt động tương tác nhau. Khi bạn kéo một sợi chỉ, toàn bộ quả bóng sẽ ở phía sau: mục vụ, phụ nữ, chăm sóc mục vụ và cả vấn đề đọc Kinh thánh, luôn được đọc theo căn tính của người đọc.


Bà là thần học gia nhưng cũng là bác sĩ. Kỹ năng bác sĩ mang lại cho bà điều gì?

Quá trình đào tạo y khoa cho tôi những hiểu biết về hoạt động của cơ thể và tâm lý. Nó luôn ẩn sâu trong cách nhận thức của tôi, ngay cả khi nó không xuất hiện đầu tiên. Điều này rất cần thiết vì chúng ta có thể nhanh chóng suy luận một cách trừu tượng. Ngoài y học, khoa học nhân văn còn góp phần vào hoạt động của cơ thể con người. Chúng rất cần thiết để hiểu con người một cách tổng thể. Bởi vì chính con người phức tạp này là lời của Chúa Kitô: “Hãy theo Ta!”

Ân sủng và Trọng lực, Marie-Jo Thiel, nhà xuất bản Desclée de Brouwer.

Hồng y Brazil Steiner: “Nhiều phụ nữ của chúng tôi đã là phó tế”




Hồng y Leonardo Ulrich Steiner, Tổng Giám mục Manaus (Brazil) phát biểu về chức phó tế nữ tại Thượng Hội đồng

Trong cuộc họp Thượng Hội đồng ngày thứ ba 15 tháng 10, khi công khai đề cập đến việc phụ nữ phục vụ trong cộng đồng Brazil, Hồng y Leonardo Steiner, Tổng Giám mục Địa phận Manaus (Brazil) khẳng định: “Phụ nữ là những người lãnh đạo trong cộng đồng chúng tôi. Hiện nay họ phục vụ ở những vùng xa xôi nhất, cử hành một số bí tích như rửa tội khi không có linh mục. Rất nhiều phụ nữ của chúng tôi đã là phó tế, dù họ chưa được phong.” Hồng y lên tiếng về những yêu cầu của của một số vùng, đặc biệt vùng Amazonia nơi chỉ có 163 linh mục phục vụ cho hàng ngàn cộng đồng: “Chúng tôi muốn gọi họ là phó tế, nhưng để không tạo nhầm lẫn với thừa tác vụ thụ phong, chúng tôi chưa tìm được từ thích hợp.”

Đề cập đến vấn đề này ở Rôma – Đức Phanxicô đã thành lập hai Ủy ban để nghiên cứu – Hồng y Steiner cho biết: “Nếu chúng ta thấy phụ nữ phó tế đã có trong lịch sử Giáo hội, vì sao chúng ta không khôi phục lại như chúng ta đã làm với chức phó tế nam.” Trong một phỏng vấn tháng 5 vừa qua, Đức Phanxicô đã loại trừ khả năng phụ nữ tiếp cận với chức phó tế.

Đức Phanxicô cũng chưa giải quyết vấn đề ‘viri probati’

Về việc phong chức linh mục cho các ông đã lập gia đình (viri probati), đã được nêu ra trong Thượng hội đồng Amazon năm 2019, Hồng y Steiner cho biết một số người đã “thất vọng” vì vấn đề này đã không được đề cập trong phần kết luận của Thượng hội đồng. Ngài cho biết việc thiếu linh mục ở khu vực Amazon đã là mối lo ngại cho các cộng đồng ở đây, vì không chỉ liên quan đến Bí tích Thánh Thể mà còn liên quan đến đời sống bí tích của các cộng đồng.

Nhưng theo Hồng y: “Đức Phanxicô vẫn chưa kết thúc vấn đề, ngài sẽ tiến về phía trước, nhưng vì tính nhạy cảm cao độ nên ngài chưa làm vì vẫn còn các chia rẽ trong Giáo hội. Trong một số thực tế, không khó để chấp nhận các ông lập gia đình được thụ phong; với các thực tại khác của Giáo hội, điều này là một khó khăn lớn vì cuộc sống độc thân ở một số nơi là một khó khăn lớn, chúng ta còn phải tiếp tục suy nghĩ về vấn đề này.”

Không thể đồng ý về các đề xuất cụ thể?

Tài liệu Làm việc là kim chỉ nam cho công việc của Thượng hội đồng đưa ra giả thuyết giáo dân có thể giảng lễ, Hồng y Steiner cho biết một số nhận xét đã được đưa ra trong các cuộc tranh luận: “Tôi không biết điều này sẽ như thế nào trong văn bản cuối cùng. Với một số thành viên được hãng tin I.Media phỏng vấn, họ cho biết mỗi đoạn trong Tài liệu Làm việc phải được đa số 2/3 biểu quyết – đây là một trở ngại cho bất kỳ tiến bộ cụ thể nào về các chủ đề nhạy cảm.”


Đức Hồng y Giáo chủ Công giáo Hòa Lan: Cải tổ cơ cấu Giáo hội không phải là con đường tương lai cho Giáo hội

Đức Hồng y Willem Jakobuc Eijk, Tổng giám mục Giáo phận Utrecht, Giáo chủ Công giáo Hòa Lan, cảnh giác đừng đặt ơn cứu độ ở trong các cuộc cải tổ.

Đức Hồng y Eijk năm nay 71 tuổi, vốn là một bác sĩ y khoa, trước khi đi tu làm linh mục. Trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Communio, ấn bản trực tuyến, truyền đi ngày 16 tháng Mười vừa qua, ngài nói rằng từ kinh nghiệm sai lầm của Giáo hội Hòa Lan, với những lập trường cấp tiến, Giáo hội hoàn vũ có thể học được những bài học để khỏi đi vào cùng một con đường. “Ai gieo rắc sự hỗn độn thì làm cho người ta xa lìa Giáo hội. Làm như thế, bạn sẽ không bao giờ dẫn đưa được ai trở về với Giáo hội”.

“Thay vào đó, tốt hơn Giáo hội phải tập trung vào việc loan báo Tin mừng và cử hành phụng vụ, để có thể sẵn sàng đón nhận tương lai. Tại các giáo xứ, trong đó đức tin được loan báo tốt đẹp và phụng vụ được cử hành xứng đáng, thì nhà thờ đầy các tín hữu. Vấn đề ở đây là để Chúa Kitô ở trung tâm. Theo mức độ dân chúng khám phá Chúa Kitô và hiểu rõ hơn về Kinh thánh, họ sẽ hiểu rõ hơn về Giáo hội”.

Hòa Lan thuộc vào số những nước bị tục hóa cao độ nhất thế giới. Hơn một nửa dân chúng coi mình là những người vô thần hoặc không biết gì về tôn giáo.

Giáo hội Công giáo Hòa Lan đã cử hành công đồng mục vụ từ năm 1966 đến năm 1970, để áp dụng những kết luận của Công đồng chung Vatican II (1962-1965). Đức Hồng y Willem Eijk nhận định rằng tiến trình “Con đường công nghị” hiện nay của Giáo hội Công giáo tại Đức rất giống con đường Giáo hội Công giáo Hòa Lan hồi cuối thập niên 1960. Hồi đó, cũng như bây giờ, có những mong đợi thái quá, như bãi bỏ luật độc thân linh mục, rốt cuộc sau đó, từ những chủ trương như vậy chẳng có gì tốt đẹp nảy sinh.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Tổng giám mục Utrecht cũng nói đến việc cải tổ Giáo hội, như truyền chức cho phụ nữ, và ngài chống lại những giải pháp gọi là để tùy mỗi địa phương. Ngài nói: “Chúng ta phải theo con đường chung và đừng tách rời khỏi Giáo hội hoàn vũ. “Nếu hiệp nhất không còn nữa trong việc loan báo Tin mừng thì chúng ta sẽ mất. Giáo hội không còn đáng tín nhiệm nữa. Dầu sao, đa số các tham dự viên tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, đang nhóm tại Roma đến cuối tháng Mười này, không phấn khởi về những vấn đề như truyền chức thánh cho phụ nữ.”

Đức Hồng y nói thêm: “Chúng ta phải nhớ rằng Âu châu chỉ là một phần nhỏ của Giáo hội hoàn cầu và đang giảm sút. Hơn nữa, tất cả các dân tộc ở Âu châu và Bắc Mỹ không có cùng lập trường về những vấn đề này”.

Phải chăng Công Giáo là một tôn giáo liên tục đổi mi hay vẫn tuân theo lời dạy của Chúa Kitô?


Tác giả Donald DeMarco có bài nhận định với nhan đề  “Is Catholicism a Religion-in-Progress or Does It Abide in Christ’s Teaching?” nghĩa là “Phải chăng Công Giáo là một tôn giáo liên tục đổi mới hay vẫn tuân theo lời dạy của Chúa Kitô?”.

Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.


Thư thứ hai của Thánh Gioan viết rằng: “Phàm ai đi quá xa, không ở lại trong giáo huấn của Đức Kitô, thì không có Thiên Chúa. Còn ai ở lại trong giáo huấn, thì người ấy có Chúa Cha và Chúa Con.” (2 Ga 1:9)

“Xin chào, đây là phi công trưởng của các bạn. Để cập nhật cho các bạn, chúng tôi đang bay ở độ cao 25.000 feet và di chuyển với tốc độ 500 dặm một giờ. Chúng tôi không thấy có bất kỳ sự nhiễu động nào. Tuy nhiên, chúng ta đã bay lạc rồi!”

Hoặc, theo lời của GK Chesterton, “Như đã nêu ra ngày hôm nay, cấp tiến là một phép so sánh mà chúng ta chưa giải quyết được mức độ siêu việt.” Trước khi trở thành tổng thống, diễn viên Ronald Reagan đã từng là người chào hàng cho General Electric. Ông nhắc nhở khán giả của mình rằng, “Tại General Electric, bạn biết đấy, tiến bộ là sản phẩm quan trọng nhất của chúng tôi.”

Tiến bộ là thứ khó nắm bắt. Tuy nhiên, nó đã trở thành phương châm không chính thức của thế giới hiện đại. Tiến bộ dường như ở khắp mọi nơi: trong ngành công nghiệp xe hơi, trong y học, trong truyền thông, trong du lịch, trong sản xuất thực phẩm và trong việc khám phá không gian. Không thể tránh khỏi, câu hỏi nảy sinh: Giáo Hội Công Giáo cũng nên có những tiến bộ phải không?

Không tiến bộ sẽ dẫn đến những nhãn hiệu không hấp dẫn: tĩnh tại, trì trệ, cứng nhắc, bảo thủ và không hợp thời. Vào những năm 1970, người ta nói nhiều về sự tổng hợp Công Giáo và chủ nghĩa Mác. Người ta nói rằng Giáo hội có tình yêu và chủ nghĩa Mác có cấu trúc. Tuy nhiên, khi điều tra sâu hơn, người ta phát hiện ra rằng chủ nghĩa Mác không hề có “cấu trúc” và người ta cũng thấy rằng Công Giáo và chủ nghĩa Mác hoàn toàn là những hệ thống niềm tin tách biệt.

Thông điệp Humanae Vitae của Thánh Giáo hoàng Phaolô Đệ Lục đã làm thất vọng nhiều người Công Giáo, những người nghĩ rằng việc chấp nhận biện pháp tránh thai sẽ là một ý tưởng tự do và đưa Giáo hội vào thế giới hiện đại một cách trọn vẹn hơn. Một số người Công Giáo đã rời bỏ Giáo hội vì các vấn đề liên quan đến các biện pháp tránh thai, tin rằng dạo Công Giáo đã trở nên “lỗi thời”. Việc từ chối phong chức cho phụ nữ cũng được coi là sự từ chối trở thành “tiến bộ”.

Công đồng Vatican II tuyên bố rằng phá thai là một “tội ác ghê tởm”. Nancy Pelosi, một người tự nhận là Công Giáo, đã đảo ngược cụm từ này và nhấn mạnh rằng việc ngăn cản phá thai mới chính là một “tội ác ghê tởm”. Ginette Paris cho rằng Giáo Hội thiếu mất một bí tích để có thể trở thành một Giáo Hội hợp thời, đó là Bí tích phá thai. Bà ta lập luận rằng Giáo Hội cần phải làm sao cho quyết định phá thai có thể xuất phát từ tình cảm tôn giáo rằng đó là một điều đúng đắn cần phải làm. Nhưng thay vì xoa dịu những người theo chủ nghĩa nữ quyền bằng cách thiết lập phá thai là bí tích thứ tám của mình, Giáo hội vẫn ngoan cố giữ số lượng bí tích là bảy — một sự toàn vẹn nội tại từ chối khuất phục trước thế gian là một phước lành lớn lao khi Giáo hội có ngay từ khi thành lập.

Giáo Hội Công Giáo không thể là cấp tiến xu thời, vì Chúa đã ban cho Giáo hội mọi thứ cần thiết để hoàn thành sứ mệnh của mình. Nhưng một số thành viên của Giáo hội, thay vì đấu tranh để thay đổi và tiến lên trong sự thánh thiện, lại thấy rằng việc đòi hỏi Giáo hội thay đổi bản chất của chính mình hấp dẫn hơn.

Nhưng nếu Giáo hội thực hiện tất cả các nhượng bộ mà những người “tự do” yêu cầu, sẽ không còn Giáo hội nữa. Giáo Hội sẽ hoàn toàn trùng khớp với thế giới thế tục và khiến bản thân trở nên hoàn toàn không liên quan.

Trong cuốn sách Nguyên lý của Thần học Công Giáo, Nền tảng cho Thần học Cơ bản, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, sau này là Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16, đã chỉ trích, “Chủ nghĩa cấp tiến quá ngây thơ đó... vui vẻ tuyên bố sự đoàn kết của mình với mọi thứ hiện đại, với mọi thứ hứa hẹn tiến bộ, và đấu tranh với lòng nhiệt thành tự giác của một cậu học sinh mẫu mực để chứng minh sự tương thích của những gì là Kitô giáo với mọi thứ hiện đại...”

Điều trớ trêu ở đây là rất nhiều Kitô hữu, rất nhiều linh mục, Giám Mục tuyên bố một lòng nhiệt thành tôn giáo mạnh mẽ hơn đối với chủ nghĩa hiện đại, hơn là đối với Chúa Kitô. Giống như thể những người như vậy đang nói rằng, “Nếu Giáo hội không đến với tôi, tôi sẽ không đến với Giáo hội.” Đức Hồng Y Ratzinger đã nghĩ đến một điều gì đó cơ bản hơn, một điều gì đó đóng vai trò như một khối xây dựng. Giáo hội được xây dựng trên một “tảng đá”, không phải là một xu hướng. Và đó là lý do tại sao Giáo Hội Công Giáo đã tồn tại hơn 2.000 năm.

Charles Péguy đã viết một cách khôn ngoan khi ông viết những dòng sau: “Kitô giáo không phải là và không có nghĩa là một tôn giáo đang tiến triển bất tận: cũng không là một tôn giáo xu thời nịnh thế. Đó là tôn giáo của sự cứu rỗi.” Nếu từ “tiến bộ” có bất kỳ ý nghĩa nào ở đây, thì đó là theo nghĩa của từ mà John Bunyan đã sử dụng trong tác phẩm kinh điển của ông, Pilgrim's Progress, năm 1678.

Đối với tác giả, nền tảng là Kinh thánh, truyền cảm hứng cho người hành hương đến với cuộc sống đức hạnh. Do đó, tiến bộ là thông qua đức hạnh được neo vào một nguồn không thay đổi theo thời gian. Trong một giai đoạn lịch sử, ẩn dụ của Bunyan là cuốn sách được đọc nhiều thứ hai sau Kinh thánh.

“Trong một thế giới của những kẻ chạy trốn,” TS Eliot đã viết, “người đi theo hướng ngược lại sẽ có vẻ như đang chạy trốn.” Người ta đã dành quá nhiều sự chú ý cho những người bất đồng chính kiến chạy trốn khỏi Giáo hội đến nỗi những người trung thành dường như ở phía sai lầm của lịch sử. Vấn đề liên quan đến sự tiến bộ theo hướng sai trái đã có một lịch sử lâu dài. Đức Giáo Hoàng Piô thứ 10 đã ám chỉ đến điều này trong một bài phát biểu khá mạnh mẽ vào năm 1914: “Ôi! Có bao nhiêu hoa tiêu, bao nhiêu phi công, và — xin Chúa đừng để xảy ra! — bao nhiêu thuyền trưởng, tin tưởng vào những điều mới lạ thế tục và vào khoa học lừa dối của thời đại, đã bị đắm tàu thay vì đến được cảng!”

Giáo hội sẽ tiếp tục tồn tại vì Chúa chúng ta đã thiết lập để Giáo Hội trường tồn. Những cuộc tấn công, hỗn loạn, nghi ngờ và lừa dối chỉ để chứng minh rằng nhiệm thể của Chúa Kitô mạnh mẽ hơn những đối phương của Chúa Kitô. Nếu Giáo hội không cấp tiến, đó là vì Giáo hội không thể bị phá hủy.





Vấn đề tăng cường bảo vệ các nữ tu chống lạm dụng


Trong cuộc họp báo trưa ngày 14 tháng Mười vừa qua, về Thượng Hội đồng Giám mục đang tiến hành ở Vatican, có nói đến yêu cầu tăng cường bảo vệ các nữ tu chống sự lạm dụng.


Nữ tu Sheila Leocádia Pires

Nữ tu Sheila Leocádia Pires, người Mozambique, phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục miền nam Phi châu, cho biết như trên và nói thêm rằng yêu cầu này đã được các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục hưởng ứng bằng tràng pháo tay dài.

Trả lời câu hỏi của báo chí, nữ tu Pires cho biết hiện tượng lạm dụng này không phải chỉ xảy ra ở Phi châu, nhưng cả các đại lục khác.

Trước câu hỏi: đề tài này có được đề cập đến trong Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục hay không, nữ tu Pires nói là không biết. Vấn đề được nói đến là mọi hình thức lạm dụng, kể cả sự bạo hành về tính dục từ phía giáo sĩ.

Chủ tịch Hiệp hội các dòng tu Mỹ châu Latinh, gọi tắt là CLAR, nữ tu Gloria Franco Echevăerri, tuyên bố rằng trong vấn đề này, Giáo hội phải dấn thân vào con đường hoán cải. Cả trong các cộng đoàn nữ tu cũng cần thay đổi để ngăn chặn mọi hình thức lạm dụng. Nếu phẩm giá và quyền của các nữ tu bị thương tổn, thì phải trình báo. Giáo hội cần có một nền văn hóa cảnh giác”.

Đức cha Zbignev Stankevics, Tổng giám mục Giáo phận Riga, thủ đô Cộng hòa Lettoni, hay Latvia, nhấn mạnh rằng, theo ý ngài, vấn đề lạm dụng này cũng thuộc đề tài của Thượng Hội đồng Giám mục, vì gương mù cản trở sứ mạng truyền giáo của Giáo hội.

Trách nhiệm của các giám mục

Theo ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Truyền thông của Tòa Thánh, trong Thượng Hội đồng Giám mục cũng có đề cập đến vấn đề: làm thế nào để tránh những sai lầm của các giám mục trong việc xử lý những vụ lạm dụng. Một số quyết định sai lầm được chính các giám mục nhận thấy hoặc dưới sức ép. Đàng khác, cũng cần những cuộc gặp gỡ và tham khảo ý kiến với giám mục khác và một thái độ minh bạch và trách nhiệm.






⛪⛪⛪⛪⛪







Các giám mục Công Giáo từ Trung Quốc đại lục và Đài Loan đối thoại tại Thượng Hội đồng về tính đồng nghị


Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, được coi là thời điểm gặp gỡ và đối thoại cho Giáo hội toàn cầu, đã tạo ra một địa điểm để các giám mục Công Giáo từ Trung Quốc đại lục và Đài Loan gặp gỡ nhau.

Đức Cha Nobertô Phổ Anh Hùng (Norbert Pu Ying-hsiung, 浦英雄), Giám Mục giáo phận Gia Nghĩa (Chiayi, 嘉義), là giám mục bản địa đầu tiên của Đài Loan. Ngài là thành viên của cộng đồng người Chu và đã dịch các văn bản phụng vụ sang tiếng Chu. Vị Giám mục 66 tuổi của Gia Nghĩa là đại biểu trong hội đồng kéo dài gần một tháng với tư cách là đại diện của Hội đồng Giám mục khu vực Đài Loan.

Trong một cuộc phỏng vấn với CNA, Đức Cha Phổ Anh Hùng cho biết điều ngài mong muốn nhất là được làm quen với các giám mục, Hồng Y và đại biểu thượng hội đồng từ các nơi khác trên thế giới tụ họp tại Vatican trong phiên họp thứ hai của Đại hội đồng giám mục lần thứ 16.

Đức Cha Phổ Anh Hùng lưu ý rằng ngài đã gặp hai giám mục từ Trung Quốc đại lục tham gia Thượng hội đồng và có kế hoạch gặp lại họ một lần nữa.

“Điều rất quan trọng là phải đối thoại với họ, tôn trọng lẫn nhau. Tôi nghĩ điều đó tốt… không chỉ cho người Trung Quốc, mà cho toàn thể Giáo hội,” vị giám mục Đài Loan nói.

Giám mục Antonio Nghiêu Thuấn (Yao Shun, 尧舜) của Tế Ninh, là giám mục đầu tiên được tấn phong tại Trung Quốc theo các điều khoản của thỏa thuận Trung Quốc -Vatican, đã đại diện cho Giáo hội tại Trung Quốc tại hội nghị thượng hội đồng vào tháng 10 năm 2023 cùng với Giám mục Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang, 杨永强) của Chu Thôn trước khi hai người đột ngột về sớm mà không có lời giải thích.

Giám mục Antonio Nghiêu Thuấn cho biết nhiều người tham dự hội nghị thượng hội đồng năm ngoái “đã thể hiện sự quan tâm đến sự phát triển của Giáo hội tại Trung Quốc, mong muốn tìm hiểu thêm và cầu nguyện cho chúng tôi”.

Thượng hội đồng cũng tạo cơ hội cho các giám mục từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dành thời gian với Hồng Y Stêphanô Châu Thủ Nhân (Stephen Chow, 周星馳), giám mục Hương Cảng.

Trong hội nghị thượng hội đồng năm ngoái, Đức Hồng Y và hai giám mục thậm chí còn có chuyến đi ngắn cùng nhau đến Naples, nơi họ cử hành Thánh lễ tại Chiesa della Sacra Famiglia dei Cinesi hay Nhà thờ Thánh gia Trung Quốc, một nhà thờ được xây dựng vào năm 1732 như một phần của học viện do Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII thành lập để đào tạo các chủng sinh Trung Quốc và dạy tiếng Trung cho các nhà truyền giáo để hỗ trợ công cuộc truyền giáo tại Trung Quốc.

Trong đại hội năm nay, Đức Cha Nghiêu Thuấn đã được thay thế bởi Đức Cha Ignatiô Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu) của giáo phận Mân Đông ở tỉnh Phúc Kiến, miền nam Trung Quốc.

Giám Mục Chiêm Tư Lộc, 63 tuổi, trước đây đã bị vạ tuyệt thông vì được tấn phong giám mục mà không có sự ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng tại Bắc Kinh vào năm 2000. Vạ tuyệt thông của ông đã được dỡ bỏ vào năm 2018 khi Vatican ký một thỏa thuận tạm thời mang tính lịch sử với chính phủ Trung Quốc về việc bổ nhiệm giám mục.

Khi được hỏi tại sao Đức Cha Nghiêu Thuấn lại bị thay thế bởi Đức Cha Chiêm Tư Lộc, Hồng Y Jean-Claude Hollerich, tổng tường trình viên của Thượng hội đồng đã trả lời: “Phủ Quốc vụ khanh đã thông báo tên cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không có thông tin nào khác về vấn đề này”, theo Asia News.

Không có Đức Cha Nghiêu Thuấn, Tổng Giám Mục Dương Vĩnh Cường, 54 tuổi, là cựu chiến binh của Thượng hội đồng trong số hai giám mục Trung Quốc. Kể từ khi tham gia hội đồng năm ngoái, Giám Mục Dương Vĩnh Cường đã được chuyển đến Tổng giáo phận Hàng Châu, một động thái diễn ra “trong khuôn khổ đối thoại” của thỏa thuận tạm thời với Trung Quốc, theo Vatican. Sự thay đổi này đã nâng ngài lên hàng Tổng Giám Mục.

Đức Cha Dương được thụ phong giám mục với sự chấp thuận của Vatican vào năm 2010 và đảm nhiệm vai trò giám mục của Chu Thôn, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc đại lục từ năm 2013 đến tháng 6 năm 2024.

Ngài đã tham gia Ủy ban toàn quốc Hội nghị chính trị hiệp thương nhân dân Trung Quốc năm 2023, một cơ quan cố vấn chính trị thuộc hệ thống mặt trận tổ quốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nơi đã quyết định rằng Giáo Hội Công Giáo nên thống nhất tư tưởng với đảng và đoàn kết chặt chẽ hơn với Tập Cận Bình, theo trang web chính thức của Hiệp hội Công Giáo yêu nước.

Đức Cha Chiêm Tư Lộc và Tổng Giám Mục Dương Vĩnh Cường nằm trong số 368 đại biểu bỏ phiếu tham dự phiên họp thượng hội đồng lần thứ hai tại Vatican từ ngày 2 đến 27 tháng 10.

Thượng hội đồng đang diễn ra trong bối cảnh cuộc đối thoại đang diễn ra giữa Bắc Kinh và Rôma về việc bổ nhiệm giám mục. Vatican vẫn chưa công bố liệu họ có gia hạn thỏa thuận tạm thời với Trung Quốc hay không, dự kiến sẽ được gia hạn vào mùa thu năm nay lần thứ ba kể từ lần đầu tiên được ký vào năm 2018.

Thượng Hội Đồng cũng diễn ra trong bối cảnh Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ, gọi tắt là USCIRF vừa công bố báo cáo hôm 01 Tháng Mười, khẳng định rằng chính sách “Hán hóa tôn giáo” của Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn vi phạm quyền tự do tôn giáo được quốc tế bảo vệ. Thuật ngữ Hán hóa có nghĩa là tuân theo văn hóa Trung Quốc, nhưng về cơ bản, chính sách này đặt các tín ngưỡng phụ thuộc vào “chương trình nghị sự chính trị và tầm nhìn Marxist của Đảng Cộng sản Trung Quốc về tôn giáo”, theo báo cáo.

Theo báo cáo, các quan chức Trung Quốc đã ra lệnh gỡ bỏ thánh giá khỏi các nhà thờ và thay thế hình ảnh Chúa Kitô và Đức Mẹ Đồng Trinh bằng hình ảnh Chủ tịch Tập Cận Bình. Họ cũng kiểm duyệt các văn bản tôn giáo, buộc các thành viên giáo sĩ rao giảng ý thức hệ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và ra lệnh trưng bày các khẩu hiệu của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong các nhà thờ.

Một số du khách đến dự lễ tại nhà thờ Nam Đường ở Thủ đô cho biết họ ngạc nhiên thấy bài ca nhập lễ ở ngôi thánh đường này có tiết tấu rất lạ hoàn toàn không giống một bài thánh ca. Hỏi ra mới biết đó là một bài hùng ca của cộng sản. Nhà thờ Nam Đường được coi là nhà thờ chính tòa của Giám Mục Lý Sơn. Có lẽ ông ấy muốn bảo đảm rằng giáo dân hướng về đảng và Tập Cận Bình hơn là hướng về Chúa khi bắt đầu thánh lễ.

Quan hệ Vatican-Đài Loan

Trong tuần đầu tiên của hội nghị, một số đại biểu thượng hội đồng đã tạm nghỉ các cuộc họp trong ngày để tham gia lễ kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 113 của Đài Loan tại một buổi tiệc chiêu đãi do Đại sứ quán Trung Hoa Dân Quốc tại Tòa thánh tổ chức ngay bên cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô.

Thành quốc Vatican là quốc gia duy nhất còn lại ở Âu Châu công nhận Đài Loan là một quốc gia.

Tòa thánh đã có quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, trước đây gọi là Trung Hoa Dân Quốc, gọi tắt là ROC, kể từ năm 1922, trong khi Giáo hội không có sự hiện diện ngoại giao chính thức tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, gọi tắt là PRC kể từ khi bị Bắc Kinh chính thức trục xuất vào năm 1951.

Đảo Đài Loan, cách bờ biển Trung Quốc chưa đầy 177 km và là nơi sinh sống của hơn 23 triệu người, vẫn duy trì nền dân chủ năng động với các quyền tự do dân sự mạnh mẽ bất chấp áp lực ngày càng tăng từ Bắc Kinh về tình trạng của hòn đảo này.

Không giống như Trung Quốc đại lục — nơi hình ảnh Chúa Kitô và Đức Mẹ Đồng Trinh đã được thay thế bằng hình ảnh của Chủ tịch Tập Cận Bình, theo một báo cáo được công bố tuần trước — người Công Giáo ở Đài Loan được hưởng quyền tự do tôn giáo, điều này được ghi nhận trong hiến pháp của nước này.

Theo Bộ Ngoại giao Đài Loan, hơn 10.000 người đã tham dự Đại hội Thánh Thể toàn quốc tại Đài Loan vào cuối tuần trước.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi một thông điệp tới đại hội, viết rằng ngài hy vọng đại hội sẽ “gợi lên trong lòng các tín hữu Kitô giáo lòng tôn thờ và tình yêu đích thực dành cho Bí tích Thánh Thể”. Đại hội tại Giáo phận Cao Hùng là đại hội Thánh Thể thứ năm được tổ chức tại Đài Loan kể từ năm 2011.

Đức Cha Nobertô Phổ Anh Hùng nói với CNA rằng đại hội này là cơ hội để nhiều người dân Đài Loan biết đến Bí tích Thánh Thể và tầm quan trọng cốt lõi của bí tích này đối với đức tin Công Giáo.

“Chúng tôi hy vọng chúng tôi có thể luôn duy trì mối quan hệ chính thức và tốt đẹp này với Vatican. Bởi vì đối với Đài Loan, điều này rất quan trọng. Chúng tôi hy vọng rằng thế giới sẽ thấy điều này vì Đài Loan là một quốc gia dân chủ và tự do, được các quốc gia khác tôn trọng”

Bishop Yao Shun of Jining and Bishop Yang Yongqiang of Zhouchun (right) of the People’s Republic of China


Truyền chức linh mục ngụy tạo trên sông Tevere ở Roma


Hôm 17 tháng Mười vừa qua, một buổi lễ truyền chức linh mục và phó tế ngụy tạo cho các phụ nữ, đã diễn ra tại một con tàu trên sông Tevere ở Roma, cách Vatican khoảng 3 cây số.


The Synod scrapped the idea of allowing women to be deacons 


Trang mạng của Hội đồng Giám mục Đức truyền đi, ngày 18 tháng Mười vừa qua, cho biết buổi lễ được làm trên tàu để tránh bị ngăn cản hoặc phá rối, và diễn ra trong lúc Thượng Hội đồng Giám mục thế giới kỳ thứ XVI đang tiến hành ở Vatican, và vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ bị loại khỏi chương trình nghị sự của Thượng Hội đồng.

Giáo luật Công giáo không trù định việc truyền chức thánh cho phụ nữ và người nào tích cực cử hành hoặc cộng tác vào việc làm này, sẽ bị vạ tuyệt thông.

Trong buổi lễ do “Hiệp hội quốc tế các nữ linh mục Công giáo” tổ chức, có ba phụ nữ chịu chức linh mục là Belen Repiso Carrillo, người Tây Ban Nha, Anne La Tour và Mary Katherine Daniels từ Mỹ. Tiếp đến là Loan Rocher người Pháp, Maria Teresa Ribeiro Rosa và Txus Garcia Pascual, người Tây Ban Nha, là ba người chịu chức phó tế. Tham dự buổi lễ, có 70 người và nhiều người khác thuộc giới truyền thông.

Bà Bridget Mary Meehan, người Mỹ, từ 16 năm nay (2009) tự xưng là giám mục ở bang Florida, đã cử hành buổi lễ truyền chức ngụy tạo, dài 2 tiếng đồng hồ, với mọi nghi thức như buổi lễ truyền chức thực sự.

Trong bài giảng, bà giám mục tự xưng Meehan nói rằng trong Giáo hội, thực tế là phụ nữ đã thi hành các công tác của phó tế, tuy không được truyền chức chính thức. Kinh thánh kể có nhiều phụ nữ được Chúa Giêsu kêu gọi và theo Chúa. Maria Madalena được sai đi như tông đồ đầu tiên loan báo tin Chúa sống lại cho các tông đồ. Bà Meehan kêu gọi Giáo hội hãy truyền chức linh mục và phó tế cho phụ nữ, rồi kết thúc với câu: “Chúng tôi sẵn sàng!”, trước những tiếng vỗ tay của mọi người!

Phong trào tên là “Chúng tôi là Giáo hội” (Wir sind Kirche), đang hô hào Thượng Hội đồng Giám mục trong việc truyền chức này, với khẩu hiệu: “Bình đẳng cho mọi tín hữu đã chịu phép rửa. Bình đẳng tại Thượng Hội đồng!”

Từ khi có buổi lễ truyền chức linh mục ngụy tạo hồi năm 2002, trên sông Danube, bên Áo, hiện nay có mười tám phụ nữ xưng mình là giám mục và khoảng 300 phụ nữ xưng là linh mục đã được thụ phong.



Một nhà thờ Công Giáo ở Los Angeles đã bị phá hoại bốn lần trong hai tháng qua.

Cha Michael Wakefield, cha xứ của Nhà thờ St. Francis de Sales ở Sherman Oaks, cho biết ngôi thánh đường đã bị hư hại do các cuộc tấn công bằng graffiti và đốt phá bốn lần, bắt đầu từ tháng 8 và kéo dài đến tháng 9.

Vào ngày 7 tháng 8, bức tượng Thánh Phanxicô de Sales được giáo xứ yêu quý — vị thánh bảo trợ của giáo xứ — đã bị phá hoại bằng sơn màu vàng. Bức tượng đứng trước cửa chính của nhà thờ ở Thung lũng San Fernando.

Chỉ hơn một tuần sau đó, vào ngày 16 tháng 8, một cửa sổ tại nhà xứ nơi Cha Wakefield sống đã bị đốt cháy. Góc dưới bên phải của cửa sổ đã bị đốt cháy, và ngọn lửa đã thiêu rụi bên trong, làm cháy xém các tấm rèm venetian bên trong. Cha Wakefield kể lại rằng:

“May mắn thay, đám cháy đã được dập tắt trước khi có thêm thiệt hại nào xảy ra”

Chỉ hơn một tháng sau, vào ngày 20 tháng 9, bức tượng Thánh Phanxicô de Sales đã bị phá hoại lần thứ hai. Cha Wakefield giải thích rằng “Các chữ cái 'chomo' là tiếng lóng có nghĩa là 'kẻ xâm hại trẻ em'“. Ông cho biết hành động phá hoại này đang được cảnh sát địa phương coi là “tội ác thù hận”.

Một tuần sau, vào ngày 8 tháng 9, bức tượng lại bị phá hoại lần thứ ba bằng sơn phun màu đen, mặc dù không có chữ viết nào được khắc trên đó.

Cha Wakefield cho biết: “Nhân viên bảo trì của chúng tôi đã lau chùi bức tượng hai lần và đang trong quá trình lau chùi lần thứ ba”.

Cha Wakefield đã thông báo cho Sở Cảnh sát Los Angeles Van Nuys mỗi lần và cho biết giáo xứ có kế hoạch lắp đặt thêm camera an ninh trong tuần này.

“Các cảnh sát đã đến và lấy lời khai của tôi và hoàn thành một báo cáo để lại cho chúng tôi số vụ việc,” ngài nói. “Vụ cháy ở cửa sổ nhà xứ đã khiến cảnh sát cũng như các điều tra viên đốt phá phải đến.”

“Thật nản lòng và khó chịu,” Cha Wakefield nói khi được hỏi về phản ứng của ngài đối với các sự kiện. “Các nhà thờ của chúng tôi là nơi bình yên, nơi tình yêu của Chúa được công bố.”

“ Tôi cảm thấy buồn cho những người đang phải chịu sự dày vò như vậy khi thực hiện những hành động như thế này. Những hình ảnh tôn giáo của chúng tôi, dù bằng đá cẩm thạch, thạch cao hay gỗ, đều hướng đến vị thánh mà mỗi người đại diện. Do đó, một cuộc tấn công vào một hình ảnh tôn giáo là một hành động báng bổ.”

“Nhưng chúng ta tiến bước với lòng tin tưởng vào sự chuyển cầu của Đức Mẹ Thiên Chúa và Thánh Phanxicô de Sales. Tình yêu của Thiên Chúa luôn mạnh mẽ hơn bất cứ điều gì con người có thể tạo ra.”

Một báo cáo địa phương ghi nhận rằng đã có nhiều vụ phá hoại xảy ra trong khu vực trong những tháng gần đây, bao gồm đốt phá, đập vỡ cửa sổ và đột nhập vào các doanh nghiệp địa phương, theo KTLA 5.




The statue of the patron saint of St. Francis de Sales Parish in Sherman Oaks has been vandalized three times total in September and August. 
The vandalism in the photograph is being investigated as a “hate crime” by local police, according to the church's pastor. 

Los Angeles Catholic church repeatedly vandalized in possible ‘hate crime’

Nhà thờ cổ nhất ở Chilê bị hỏa hoạn thiêu rụi

Hôm 11/10/2024, một đám cháy kinh hoàng đã thiêu rụi Nhà thờ Thánh Antôn và tu viện dòng Phanxicô ở thành phố Iquique ở Chile, một nhà thờ có từ thế kỷ 17. Các nhà chức trách đang điều tra nguyên nhân vụ cháy, may mắn là không có thương vong.


Đây là một trong những tòa nhà Công giáo lâu đời nhất ở Chile, chủ yếu được làm bằng gỗ và có niên đại từ thế kỷ 17. Nhà thờ được xây dựng vào thời điểm Tây Ban Nha chinh phục Nam Mỹ và là nơi đầu tiên dòng Phanxicô đến khu vực này, và từ năm 1994 đã được công nhận là di tích quốc gia.

Ngọn lửa bùng phát vào ngày hôm trước bên dưới tượng của một vị thánh và ban đầu đã được đội cứu hỏa khống chế. Sau đó, không rõ lý do, ngọn lửa tiếp tục 24 giờ sau đó. Các đơn vị chữa cháy, tổng cộng có 12 người, đã không thể ngăn chặn ngọn lửa thiêu rụi hoàn toàn tòa nhà bằng gỗ. Các nhân chứng mô tả vụ cháy là một sự tàn phá hoàn toàn, một thảm họa cho khu vực.  

Các nhà chức trách đã mở một cuộc điều tra và một nhóm điều tra viên hiện đang làm việc để tìm bằng chứng về nguyên nhân ban đầu của vụ cháy.

Trong một video đăng trên Facebook, Đức Cha Isauro Covili của giáo phận Iquique nói: “Chúng ta đang đối diện với một tình huống đau lòng như vậy, một thảm kịch về mặt di sản của chúng ta, về nhà thờ giáo xứ Thánh Antôn thành Padova đã bị thiêu rụi, cũng như tu viện Phanxicô”. Ngài nói thêm: “[Đó] là một tòa nhà, như chúng ta đều biết, rất có giá trị lịch sử và quan trọng đối với thành phố và khu vực. Chúng ta thực sự đau lòng vì vụ cháy và hậu quả của nó”.

Trong khi nhắc các tín hữu rằng dù nhà thờ bị thiêu rụi hoàn toàn, “Giáo hội, thân thể của Chúa Giêsu Kitô, thân thể sống động của Chúa Giêsu, sẽ vẫn tiến bước giữa đau buồn, bi kịch và nước mắt để cử hành với niềm vui và hy vọng đức tin và lời tuyên bố của Chúa Giêsu Kitô”, Đức Cha Covili cũng cám ơn đội cứu hỏa đã làm việc chăm chỉ, cũng như cảm ơn sự gần gũi và quan tâm của nhiều người. 



Các tu sĩ Phanxicô phải trốn chạy bom đạn của Israel

Cha Toufic Bou Mehri, thuộc Dòng Phanxicô tại Thánh địa và là cha sở Công giáo Latinh ở miền nam Liban, đã cùng với các anh em cùng dòng, phải rời bỏ tu viện ở thành Tiro, miền nam nước này, để tránh bom đạn của Israel.


Tu viện Dòng Phanxicô ở Tiro đã đón tiếp nhiều gia đình tị nạn tại miền này, trước các cuộc tấn công của Israel. Nay dân chúng thuộc khu vực Hồi giáo ở miền nam Liban, trong đó có tu viện Phanxicô, phải di tản.

Cha Toufic Mehri kể với trang mạng Tempi.it ở Ý rằng: “Tôi đã nói các anh em Dòng Phanxicô: chúng ta ở lại đây không phải vì chúng ta là những anh hùng, không phải để canh giữ các tảng đá. Nếu dân chúng không cần chúng ta nữa, nếu tất cả đã di tản, thì cả chúng ta cũng ra đi. Chúng ta sẽ hữu dụng hơn ở Beirut.”

Cha Toufic chỉ mang theo được những gì cần thiết, các di tích thánh và Mình Thánh Chúa, rồi đi Beirut.

Trong đêm trước đó, làng Kitô ở Deir Mimas, gần biên giới Israel, đã bị oanh kích nặng nề. Dân chúng buộc lòng phải tản cư. Họ chia thành nhiều nhóm để di tản bằng xe hơi. Cả những con đường dẫn đến Beirut cũng bị dội bom.

Tin mới nhất cho biết, một làng Kitô Aitou ở miền bắc Liban cũng bị Israel không kích, mặc dù đây là vùng ở ngoài sự kiểm soát của dân quân Hezbollah mà Israel đang tìm cách tiêu diệt. Bom đã san bằng một tòa nhà nhỏ được các gia đình tản cư thuê, khiến cho khoảng 20 người bị thiệt mạng dưới các đống gạch vụn.

Trong hai tuần qua, từ khi Israel tấn công Liban, đã có 2.300 người bị thiệt mạng. Liban đang có nguy cơ trở thành Gaza thứ hai.

Phản ứng của Tin Lành so với Công Giáo đối với cuộc chiến Israel-Hamas.

Peter Wolfgang, trên trang mạng của CatholicCulture ngày 04 tháng 10 năm 2024, có bài viết so sánh thái độ của Tin lành và Công Giáo đối với cuộc chiến tranh giữa Israel và Hamas hiện nay:

Thứ Hai, ngày 7 tháng 10, đánh dấu kỷ niệm một năm kể từ cuộc tấn công khủng bố vào Israel của nhóm khủng bố Hamas. Chính cuộc tấn công này đã khởi đầu cho Chiến tranh Israel-Gaza.

Có vấn đề nào trong đời sống công cộng của chúng ta căng thẳng hơn Chiến tranh Israel-Gaza không? Ý tôi là, đối với người Công Giáo. Chúng ta đều biết những người Công Giáo trung thành có lập trường như thế nào về vấn đề phá thai. Nhưng Israel-Gaza? Chúng ta ở khắp mọi nơi. Đây là một vấn đề nan giải đến mức một chuyên gia viết bài cho Công Giáo sẽ được khuyên không nên đề cập đến chủ đề này, trừ khi anh ta có chuyên môn về vấn đề này.

Tôi không có chuyên môn nào như vậy. Và dù sao thì tôi cũng sẽ viết về nó. Tôi như vậy đấy.

Khi xem xét các sự kiện của năm ngoái, tôi thấy có ba phản ứng riêng biệt của Ki-tô giáo: một phản ứng của Tin Lành, một phản ứng của Công Giáo và phản ứng của tôi.

Phản ứng của Tin Lành là dễ mô tả nhất. Họ ủng hộ Israel đến cùng, không hỏi han gì, hết chuyện.

Theo quan điểm Công Giáo của tôi, những người Tin lành thường có vẻ như đánh đồng sai lầm nhà nước Israel hiện đại với vương quốc Israel trong Kinh thánh. Nhưng thực tế không phải vậy. Thay vào đó, họ "coi Israel hiện đại là sự ứng nghiệm của lời tiên tri trong Kinh thánh, tin rằng Chúa đang tập hợp họ trở về quê hương trong khi họ vẫn chưa tin vào Chúa Giêsu là Đấng cứu thế của họ", như một người bạn Tin lành đã từng giải thích. Anh ấy nói với tôi:

“Những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái theo nhiều giáo phái khác nhau tin rằng Chúa sẽ thực sự thực hiện những lời hứa mà Người đã hứa với Israel như một dân tộc, trong khi những người Công Giáo Rôma và nhiều người Tin lành có xu hướng coi những lời hứa đó là thiêng liêng và/hoặc áp dụng chúng vào Giáo hội. “Trong khi Giáo Hội Công Giáo tin vào Kẻ chống Chúa và một phiên tòa cuối cùng (Sách Giáo lý, các số 675—677), những người Tin lành có nhiều khả năng tin vào tính nghĩa đen của giai đoạn bảy năm trong tương lai trước khi Chúa Kitô tái lâm, trong đó người Do Thái và Ki-tô giáo bị đàn áp. Kinh thánh được đề cập ở đây bao gồm nhiều lời nhắc tới người Do Thái ở trên đất này và thậm chí vận hành hệ thống Đền thờ của họ trước khi Chúa Giêsu trở lại. Đó là lý do tại sao nhiều người theo đạo Tin lành coi sự tồn tại của Israel hiện đại là sự ứng nghiệm cực kỳ quan trọng của lời tiên tri.”

Người Công Giáo, như người bạn Tin lành của tôi nói, nói chung không áp dụng cụ thể lời tiên tri trong Kinh thánh vào các sự kiện hiện tại. Tôi không biết có lý do thần học Công Giáo rõ ràng nào để ủng hộ Israel. Trên thực tế, các bình luận rõ ràng của Công Giáo mà tôi đã thấy về Chiến tranh Israel-Gaza có xu hướng đi theo hướng khác.

Bài khai tâm hay nhất về vấn đề này là “Chống lại chủ nghĩa Sion Công Giáo”, một bài báo trên tạp chí Crisis của Matthew Tsakanikas, một giáo sư tại Christendom College. Tiến sĩ Tsakanikas viết rằng “Rõ ràng là Chúa không bao giờ muốn xây dựng Đền thờ thứ ba trên trái đất”. “Ki-tô giáo đã trở thành sự ứng nghiệm của Giao ước Sinai.” Ông lập luận rằng Vatican đã chấp nhận một cách không chính thức Chủ nghĩa Xi-on ban đầu, “một phong trào thế tục của dân tộc Do Thái”, nhưng việc Israel chuyển đổi thành một “nhà nước đức tin” đã thay đổi phương trình.

Chắc chắn, có hai vấn đề khác nhau đang diễn ra ở đây. Sự tồn tại của chính Israel và Chiến tranh Israel-Gaza. Nhưng cả hai đều rất gắn bó với nhau. Trong khi những người Tin lành liên hệ Israel hiện đại với Kinh thánh, thì những người Công Giáo lại cảm thấy có mối quan hệ mật thiết hơn với các Ki-tô hữu Palestine ở Đất Thánh, nhiều người trong số họ theo đạo Công Giáo. Hãy xem bài viết "Các Ki-tô hữu Palestine bị đe dọa" của Sean Fitzpatrick và, chỉ trong tuần này, bài viết "Sự ủng hộ vô điều kiện của Hoa Kỳ dành cho Israel: Một chính sách sai lầm" của Cha Mario Alexis Portella.

Tôi đánh giá cao quan điểm thần học sâu sắc và hoàn cầu của những người đồng Công Giáo, những quan điểm thường không có trong các nguồn thiên hữu khác ở Hoa Kỳ. Và tôi không đồng ý với các giả định thần học hỗ trợ cho sự ủng hộ của những người Tin lành dành cho Israel.

Tuy nhiên, tôi vẫn ủng hộ Israel. Không phải "hoàn toàn, không cần hỏi, hết chuyện". Nhưng cuối cùng thì, đúng vậy, tôi ủng hộ Israel và chống lại kẻ thù của họ. Đây là lý do tại sao.

Luận lý diệt chủng của việc "phi thực dân hóa"

Đầu tiên, về chính nhà nước Israel. Tôi xin lưu ý ở đây rằng cha tôi là người Do Thái Ashkenazi. Mẹ tôi thì không. Và tôi theo đạo Công Giáo. Điều đó khiến tôi...hoàn toàn không phải người Do Thái. Ít nhất là không phải trong mắt người Do Thái. Nhưng còn kẻ thù của người Do Thái thì sao? "Mischling" là thuật ngữ miệt thị của Đức Quốc xã dành cho một người như tôi, một "người Do Thái lai cấp độ một". Những người ghét người Do Thái cũng ghét tôi. Tôi hiểu toàn bộ bài thơ của Martin Niemöller ("Đầu tiên họ đến..."). Chúng ta nên lên tiếng chống lại sự thù hận nói chung chứ không chỉ khi nó đến vì chúng ta. Nhưng như một người Do Thái, tôi cảm thấy những gì họ cảm thấy. Vào ngày 7 tháng 10, nó đến vì chúng tôi.

Chính những cảm xúc tương tự đã làm nảy sinh nhà nước Israel hiện đại ngay từ đầu. Một cảm thức cho rằng, dưới mắt những người Ngoại giáo, không có thứ gì như, chẳng hạn, một người Do Thái Đức hay một người Do Thái Áo. Họ chỉ nhìn thấy người Do Thái, người khác, chứ không phải một người trong số họ. Và người Do Thái, do đó, cần một nhà nước của riêng họ. Lương tâm tội lỗi của phương Tây, khiến họ chấp nhận sự thành lập hiện đại của Israel, là hoàn toàn xứng đáng… đặc biệt là sau thảm họa diệt chủng Holocaust.

Thứ hai, về Chiến tranh Israel-Gaza, người ta không cần phải là người Do Thái để hiểu rằng nó đến với chúng ta. Tất cả chúng ta. Kẻ thù của Israel là kẻ thù của chúng ta. Hãy xem xét Najma Sharif, một cây bút của Teen Vogue, người đã tweet tán thành các cuộc tấn công vào ngày 7 tháng 10: "Các bạn nghĩ phi thực dân hóa có nghĩa là gì? rung cảm? bài báo? bài luận? kẻ thua cuộc." Tweet của ông đã được thích 100,000 lần trong hai ngày đầu tiên.

Sau đó, hãy xem xét Thống đốc Connecticut Ned Lamont, người đã nói để đáp lại cuộc biểu tình ủng hộ người Palestine vào ngày 10 tháng 1: "Họ có quyền phản đối. Nhưng tôi sẽ nói với bạn điều khác. Sẽ không ai lắng nghe họ trừ khi họ bắt đầu bằng sự thật rằng họ thừa nhận và lên án cuộc tấn công diệt chủng tàn bạo vào ngày 7 tháng 10 và những gì nó đã gây ra cho tất cả những thường dân vô tội đó.

Vậy tại sao họ không làm vậy? Hãy đọc lại tweet. Bởi vì ngày 7 tháng 10 là ngày mà họ thực sự muốn nói đến khi nói đến “phi thực dân hóa”.

Tôi không thấy những người biểu tình chống Israel là những người tốt bụng chỉ muốn bảo vệ những người Palestine vô tội khỏi bị tổn hại thêm nữa. Tôi thấy những người theo chủ nghĩa Marx biến dạng muốn làm với người Mỹ những gì Hamas đã làm với người Israel vào ngày 7 tháng 10.

Đối với tôi, đây chính là cốt lõi của Lý thuyết Chủng tộc Có Phê phán. Và “sự công nhận đất đai”. Và những cuộc tấn công nửa vời thiếu hiểu biết về mặt lịch sử vào Christopher Columbus. Và dự án 1619. Và cứ thế tiếp diễn.

Những hệ tư tưởng này, đang lan truyền nhanh chóng, nhìn nhận mọi hoạt động của con người qua lăng kính của kẻ áp bức so với người bị áp bức. Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Khi cả một nhóm người, theo chính bản sắc của họ, được cho là mang một loại tội lỗi đổ máu vĩnh cửu nào đó?

Mục tiêu là làm mất tính hợp pháp của chính sự hiện diện của chúng ta trên lục địa này. “Hoa Kỳ rời khỏi Trung Mỹ” là một câu nói của phe cánh tả vào những năm 1980. Thỉnh thoảng, một người theo chủ nghĩa cánh tả sẽ nói đùa “Hoa Kỳ cũng rời khỏi Bắc Mỹ”. Họ không đùa nữa.

Không có gì trong số này là phủ nhận nỗi đau khổ của những người khác, dù là khi Israel mới thành lập hay trong cuộc chiến hiện tại. Chúng ta có thể và nên lên án những hành vi vi phạm các nguyên tắc Chiến tranh chính nghĩa. Hay đúng hơn là, tương đương với Do Thái, “Sự trong sạch của vũ khí”.

Nhưng cuối cùng, tôi đã có một ý tưởng khá hay về việc ai muốn chúng tôi chết và ai thì không. Ai sẽ nhảy múa trên đường phố vào ngày 11/9 và ai sẽ không. Những kẻ đã gây ra tội ác ngày 7 tháng 10 sẽ làm điều tương tự với bạn và tôi, nếu họ có thể. Và với những người thân yêu của chúng ta nữa. Thật vậy, các hệ tư tưởng mà tôi đã đề cập ở trên đã chuẩn bị cho chúng ta điều đó. Chúng ta đã nếm trải điều đó lần đầu tiên trong bản tuyên ngôn của kẻ xả súng ở trường học Nashville. Có thể sẽ còn nhiều hơn nữa.

Tất cả đều là một phần của cùng một điều, một cuộc chiến chống lại nền văn minh của chúng ta. Chúng ta cần hiểu điều này. Và chúng ta cần ủng hộ Israel, mục tiêu đầu tiên—nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng—của cuộc chiến.


Giáo hội Công giáo Ba Lan có 1.662 thừa sai tại nước ngoài


Giáo hội Công giáo tại Ba Lan hiện có 1.662 thừa sai nam nữ đang hoạt động truyền giáo tại 99 nước năm châu.


Theo thống kê được phổ biến trên trang mạng Ekai, Công giáo Ba Lan, nhân Ngày Thế giới Truyền giáo, Chúa nhật, ngày 20 tháng Mười tới đây, các thừa sai Ba Lan hoạt động đông nhất tại Phi châu và Madagascar, với 660 vị, gồm 66 linh mục giáo phận, 257 nam tu sĩ và 322 nữ tu, 15 giáo dân. Đứng đầu trong số các nước có đông thừa sai Ba Lan là Cameroon, với 101 vị, tiếp đến là 65 vị tại Tanzania.

Mỗi năm, vào ngày 01 tháng Mười, Ủy ban Giám mục Ba Lan về truyền giáo, công bố các thống kê về các nhân sự và các hoạt động thừa sai của Giáo hội nước này. Tại Mỹ châu Latinh, có 646 thừa sai Ba Lan, đứng đầu là tại Brazil với 193 vị.

Tại Á châu, có 280 thừa sai Ba Lan hoạt động. Từ nhiều năm nay, quốc gia có số thừa sai Ba Lan đông nhất vẫn là Kazachstan, với 97 vị. Nhật Bản có 24 và Philippines có 23 thừa sai Ba Lan.

Có 23 thừa sai Ba Lan là giám mục, hầu hết thuộc các dòng tu, đông nhất tại Mỹ châu Latinh và Caraibí, với 11 vị. Tiếp đến là 5 vị tại Phi châu, 2 tại Á châu và 3 vị tại Úc châu, 2 giám mục tại Bắc Mỹ.

Con số trên đây tuy có vẻ nhiều, nhưng thực ra số thừa sai Ba Lan tại nước ngoài liên tục giảm sút, vì số ơn gọi linh mục và nữ tu trong nước tiếp tục suy giảm, nên cũng không gửi các thừa sai ra nước ngoài. Trung tâm đào tạo thừa sai ở thủ đô Varsava, những năm trước đây thường có khoảng 30 học viên, năm ngoái chỉ có 15 người và năm nay còn 7 người.











image.png







image.png
image.png
image.png

Mikali Nguyễn

unread,
Oct 25, 2024, 6:05:46 PM10/25/24
to alphonsefamily




Xin lưu ý:  Những quy định nầy chỉ có hiệu lực tại tổng giáo phận Sàigòn, các giáo phận khác có thể có những quy định khác.

THÔNG BÁO PHỤNG VỤ

VỀ CỬ HÀNH THÁNH LỄ CHIỀU THỨ BẢY 02/11/2024

  Kính gởi quý cha và các cộng đoàn trong giáo phận.

  • Sau khi tham khảo những chỉ dẫn trong văn bản “Lịch Phụng vụ mở rộng” về trường hợp cử hành Thánh lễ chiều thứ Bảy 2 tháng 11 trùng với chiều thứ nhất của ngày Chúa nhật 31 TN (x. Notitiae 1984, số 219, trang 605);
  • Đặc biệt, căn cứ vào quy định trong Quy chế Tổng quát Sách lễ Roma, số 374, về quyền hạn của Đức Giám mục giáo phận khi gặp một nhu cầu hay lợi ích mục vụ quan trọng (x. Missale Romanum 2008, trang 81);
Đức Tổng giám mục Giuse cho phép: 
  • Cử hành bản văn Thánh lễ Cầu cho các tín hữu đã qua đời (x. Sách Lễ Roma 1992, các trang 723-726) vào chiều thứ Bảy ngày 2/11/2024 thay cho bản văn Thánh lễ CN 31 TN B.

 - Những ai tham dự thánh lễ Cầu cho tín hữu đã qua đời vào chiều thứ Bảy 2/11/2024, thì đã chu toàn luật buộc tham dự thánh lễ Chúa Nhật (x. Bộ Giáo Luật 1983, số 1248, triệt 1). 

  • Chiều thứ Bảy 2/11/2024: cử hành Phụng vụ Giờ kinh Chiều I về CN 31 TN B. Tuy nhiên, có thể cử hành Giờ Kinh Chiều II về Các tín hữu đã qua đời, nếu cử hành chung trong cộng đoàn (x. Liturgia Horarum 2000, quyển IV, trang 1336).

LM. Phaolô Nguyễn Đức Nguyên

Trưởng ban phụng vụ giáo phận


Giáo Hội Công Giáo trên thế giới: tóm tắt dữ liệu

Vatican (Theo Thông tấn xã Fides) – Như mọi năm, trước Ngày Truyền giáo Thế giới, năm nay kỷ niệm 98 năm vào Chủ Nhật, ngày 20 tháng 10 năm 2024, TTX Fides công bố một số số liệu thống kê được chọn để đưa ra bức tranh toàn cảnh về Giáo hội trên thế giới.

Tất cả dữ liệu trong hồ sơ này và quá trình xử lý biểu đồ và bảng biểu tiếp theo đều được lấy từ ấn bản mới nhất của «Sách Thống kê của Giáo hội» được xuất bản trong năm nay (cập nhật ngày 31 tháng 12 năm 2022) liên quan đến các thành phần của Giáo Hội Công Giáo, cơ cấu Giáo hội, chăm sóc sức khỏe, phúc lợi và giáo dục. Cuối cùng, bức tranh về phạm vi Giáo hội phụ thuộc vào Bộ Truyền giáo, Bộ Truyền giáo đầu tiên và các Giáo hội địa phương mới được báo cáo.

Giáo Hội Công Giáo trên thế giới: tóm tắt dữ liệu

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, dân số thế giới là 7.838.944.000, tăng 53.175.000 so với năm trước. Xu hướng tích cực được xác nhận ở tất cả các châu lục, ngoại trừ Châu Âu.

Cùng ngày, ngày 31 tháng 12 năm 2022, số lượng người Công Giáo trên toàn thế giới là 1.389.573.000 với mức tăng chung là 13.721.000 người Công Giáo so với năm trước. Ngay cả trong trường hợp này, sự gia tăng ảnh hưởng đến bốn trong số năm châu lục. 
Chỉ có ở Châu Âu, số lượng người Công Giáo giảm: - 474.000
Giống như những năm trước, mức tăng được ghi nhận nhiều nhất ở Châu Phi (+7.271.000) và Châu Mỹ (+5.912.000)Tiếp theo là Châu Á (+889.000) và Châu Đại Dương (+123.000)
Tỷ lệ người Công Giáo trên thế giới tăng nhẹ (+0,03) so với năm trước, đạt 17,7%. Các Châu lục ghi nhận những thay đổi nhỏ.

Tổng số Giám mục trên thế giới tăng 13 vị so với năm trước, đạt 5.353. Số lượng Giám mục giáo phận tăng (+19) và Giám mục dòng giảm (-6). Giám mục giáo phận có 2.682, trong khi Giám mục dòng là 2.671.

Tổng số linh mục trên thế giới tiếp tục giảm, còn 407.730 (-142 trong năm ngoái). Một lần nữa, Châu Âu cho thấy sự sụt giảm liên tục (-2,745), tiếp theo là Châu Mỹ (-164). Giống như năm ngoái, sự gia tăng đáng kể đã được ghi nhận ở Châu Phi (+1.676) và Châu Á (+1.160). Châu Đại Dương, sau sự gia tăng của năm ngoái, ghi nhận sự sụt giảm (-69). Linh mục giáo phận trên thế giới giảm 439 vị, đạt 279.171. Linh mục dòng đã tăng trong năm ngoái, đạt 128.559 (+297).

Phó tế vĩnh viễn trên thế giới tiếp tục tăng (+974), đạt 50.159. Sự gia tăng được ghi nhận ở Châu Phi (+1), Châu Á (+15) và Châu Âu (+267). Sự sụt giảm được ghi nhận ở Châu Mỹ (-308) và Châu Đại Dương (-1).

Số lượng linh mục không phải là Công Giáo giảm 360 vị so với năm trước, đạt 49.414. Sự sụt giảm được ghi nhận ở Châu Phi (-229), Châu Âu (-382) và Châu Đại Dương (-27) trong khi sự gia tăng được ghi nhận ở Châu Mỹ (+27) và Châu Á (+251). 

Ngay cả trong năm nay, số lượng nữ tu nói chung cũng giảm, đạt 599.228 (-9.730). Một lần nữa, sự gia tăng được ghi nhận ở Châu Phi (+1.358) và Châu Á (+74), trong khi sự sụt giảm được ghi nhận ở Châu Âu (-7.012), Châu Mỹ (-1.358) và Châu Đại Dương (-225).

Số lượng đại chủng sinh, giáo phận và dòng tu giảm trong năm nay, toàn cầu là 108.481 (năm trước là 109.895). Chỉ có Châu Phi (+726) và Châu Đại Dương (+12) ghi nhận tăng, trong khi Châu Mỹ giảm (-921), Châu Á (-375) và Châu Âu (-859). Tổng số tiểu chủng sinh, giáo phận và dòng tu giảm 95.161 (-553). Chỉ có Châu Phi (+1.065) ghi nhận tăng, trong khi tất cả các châu lục khác ghi nhận giảm: Châu Á (-978), Châu Mỹ (-475), Châu Âu (-153) Châu Đại Dương (-12).

Trong lĩnh vực giáo dục, Giáo Hội Công Giáo điều hành 74.322 trường mẫu giáo với 7.622.480 học sinh; 102.189 trường tiểu học với 35.729.911 học sinh; 50.851 trường trung học với 20.566.902 học sinh. Ngoài ra, 2.460.993 học sinh học tại các trường trung học và 3.925.393 học sinh tại các học viện đại học.

Các trung tâm từ thiện và chăm sóc sức khỏe do Giáo hội điều hành trên thế giới là 102.409 và bao gồm: 5.420 bệnh viện và 14.205 trạm xá; 525 Nhà chăm sóc cho người mắc bệnh phong; 15.476 Nhà cho người già hoặc người bệnh mãn tính hoặc người khuyết tật; 10.589 nhà trẻ; 10.500 trung tâm tư vấn hôn nhân; 3.141 trung tâm phục hồi chức năng xã hội và 33.677 loại viện khác.

Các ranh giới giáo hội (Tổng giáo phận, Giáo phận, Tu viện Lãnh thổ, Đại diện Tông tòa, Phủ doãn Tông tòa, Phái bộ Sui iuris, Giáo hạt Lãnh thổ, Quản lý Tông tòa và Giáo hạt Quân đội) phụ thuộc vào Thánh bộ Truyền giáo là 1.123 (+2). Hầu hết các ranh giới giáo hội được giao phó cho Thánh bộ có trụ sở tại Piazza di Spagna đều ở Châu Phi (525) và Châu Á (481). Tiếp theo là Châu Mỹ (71) và Châu Đại Dương (46).

Phụ lục: phân tích – tăng giảm trong 25 năm (1998-2022)

Để chuẩn bị cho Năm Thánh 2025 sắp tới và để giúp hiểu xu hướng biến động trong dữ liệu số liên quan đến sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội Công Giáo trên thế giới, ngoài hồ sơ thông thường, năm nay TTX Fides cũng xuất bản một phụ lục tóm tắt dữ liệu được thu thập trong khoảng thời gian hai mươi lăm năm, từ năm 1998 đến năm 2022. Bao gồm dữ liệu về dân số Công Giáo, số lượng linh mục, số lượng nam và nữ tu sĩ, và số lượng lễ rửa tội được thực hiện trên toàn thế giới.

Phụ lục này cũng thu thập và xử lý dữ liệu và bảng từ «Sách thống kê của Giáo hội» được xuất bản trong năm nay (cập nhật đến ngày 31 tháng 12 năm 2022). Không giống như hồ sơ cổ điển, dữ liệu được xem xét trong Phụ lục không đi sâu vào chi tiết về từng châu lục riêng lẻ mà chỉ minh họa bằng các số liệu về sự phát triển chung ở cấp độ toàn cầu trong bối cảnh rộng hơn.

Từ dữ liệu thu thập được trong giai đoạn 1998-2022, có thể thấy rõ ràng rằng số lượng người Công Giáo trên toàn thế giới đã tăng lên trong suốt 25 năm được nghiên cứu. Dữ liệu về tỷ lệ người Công Giáo trong dân số thế giới rất đáng kể: năm 1998, 17,4% dân số thế giới là người Công Giáo. Trong cuộc khảo sát mới nhất có sẵn, con số này là 17,7%. Tỷ lệ phần trăm sau vẫn không thay đổi kể từ năm 2015, sau khi đạt đỉnh ngắn ngủi vào năm 2014 (17,8%).

Một diễn biến quan trọng khác liên quan đến số lượng linh mục. Nhìn chung, số lượng linh mục trên toàn thế giới đã tăng từ 404.628 lên 407.730 trong suốt 25 năm được nghiên cứu. Trong khi số lượng nam và nữ tu sĩ đã giảm. Theo dữ liệu, số lượng nam tu sĩ chưa bao giờ vượt quá 60.000 trong suốt 25 năm được nghiên cứu. Đường cong đi xuống tương tự cũng thấy rõ trong trường hợp của các nữ tu, số lượng đã giảm từ 814.779 xuống còn 559.228 trong vòng hai mươi lăm năm.

Trong khi dân số Công Giáo đang tăng lên trên toàn thế giới, số lượng rửa tội đã giảm. Nó đã giảm từ 17.932.891 người rửa tội trên toàn thế giới vào năm 1998 xuống còn 13.327.037 người rửa tội vào năm 2022 (TTX Fides, 17/10/2024).





Công bố Thông điệp của Đức Thánh cha về lòng sùng kính Thánh Tâm


Thứ Năm, ngày 24 tháng Mười, Thông điệp thứ tư của Đức Thánh cha Phanxicô được công bố, với tựa đề: Dilexit nosChúa đã yêu thương chúng ta, về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhân dịp kỷ niệm 350 năm Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho thánh nữ Margarita Alacoque, năm 1673.

Chính Đức Thánh cha đã thông báo sẽ ban hành văn kiện này, trong buổi Tiếp kiến chung, ngày 05 tháng Sáu năm nay, tại Quảng trường thánh Phêrô, nhân tháng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Thông điệp được công bố vào một trong những thời điểm bi thảm nhất của lịch sử nhân loại. Những cuộc chiến làm hao mòn, những chênh lệch xã hội và kinh tế, trào lưu duy tiêu thụ thái quá, các kỹ thuật mới có nguy cơ làm biến thái chính bản chất con người, đánh dấu thời đại tân tiến ngày nay. Qua thông điệp này, Đức Thánh cha mời gọi mọi người hãy thay đổi cái nhìn, thay đổi viễn tượng, mục tiêu, đồng thời phục hồi điều quan trọng và cần thiết nhất, đó là con tim.

Văn kiện được công bố có tiêu đề là “Thông điệp về tình yêu nhân trần và thần linh của Thánh Tâm Chúa Giêsu”, hoàn toàn nói về lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa.

Hiện nay là thời kỳ mừng kỷ niệm 350 năm Chúa Giêsu tỏ lộ Trái Tim của Ngài cho thánh nữ Magarita Maria Alacoque, Dòng Thăm viếng, ở Đan viện Paray-le-Monial, miền trung nước Pháp, tiến hành từ ngày 27 tháng Mười Hai năm 2023 đến ngày 27 tháng Sáu năm 2025. Các lần hiện ra của Chúa Giêsu với thánh nữ còn tiếp tục trong 17 năm trời, với trái tim Chúa ở trên một ngai lửa, chung quanh có một vòng gai, biểu tượng những vết thương do tội lỗi loài người gây ra. Chúa Giêsu dạy thánh nữ, vào ngày thứ Sáu, sau lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, nghĩa là tám ngày sau, được dành để kính Thánh Tâm Chúa. Đó là một sứ mạng không dễ dàng, vì chị nữ tu gặp phải sự thiếu cảm thông, ngay nơi các chị em cùng dòng và các bề trên. Họ coi chị là một người hoang tưởng. Nhưng thánh nữ không nản lòng, trái lại, đã dành trọn cuộc sống để phổ biến tình thương của Chúa Kitô.

Thông điệp mới của Đức Thánh cha sẽ được công bố trong một cuộc họp báo, do Đức Tổng giám mục Bruno Forte, một nhà thần học, Tổng giám mục Giáo phận Chieti, và là thành viên Bộ Giáo lý đức tin, cùng với nữ tu Antonella Fraccaro, Bề trên Tổng quyền Dòng Các nữ môn đệ Tin mừng (Discepole del Vangelo) giới thiệu.

Thông điệp về Thánh Tâm Chúa Giêsu được ban hành trong bối cảnh các cử hành kỷ niệm 350 năm lần đầu tiên Thánh Tâm Chúa Giêsu hiện ra với Thánh nữ Magarita Maria Alacoque, vào năm 1673; các cử hành này sẽ kết thúc vào ngày 27/6/2025.

Thông điệp gồm 220 số, được chia thành 5 chương, bắt đầu với lời của Thánh Phaolô nói về Chúa Kitô: “Dilexit nos” (Người đã yêu thương chúng ta) (Rm 8,37) để giúp chúng ta khám phá rằng “không gì có thể tách rời chúng ta” khỏi tình yêu này (Rm 8,39).

Đức Thánh Cha cũng viết trong số đầu tiên của Thông điệp: “Trái tim rộng mở của Người đi trước chúng ta và chờ đợi chúng ta vô điều kiện, không đòi hỏi bất kỳ yêu cầu nào trước để có thể yêu thương chúng ta và cống hiến cho chúng ta tình bạn của Người: Người yêu thương chúng ta trước (x. 1 Ga 4,10). Nhờ Chúa Giêsu “chúng ta đã biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1 Ga 4,16)” .

Trong Trái Tim Chúa Giêsu chúng ta nhận ra chính mình và học cách yêu thương

Trong một xã hội với sự gia tăng của “nhiều hình thức tôn giáo khác nhau mà không đề cập đến mối quan hệ cá nhân với Thiên Chúa tình yêu” , trong khi Kitô giáo thường quên mất “sự dịu dàng của đức tin, niềm vui của việc cống hiến để phục vụ, lòng nhiệt thành truyền giáo từ người này sang người khác", Đức Thánh Cha đề xuất tái đào sâu về tình yêu của Chúa Kitô được thể hiện trong Thánh Tâm Người và mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính đích thực của mình bằng cách nhớ rằng trong Trái Tim Chúa Kitô “chúng ta có thể tìm thấy toàn bộ Tin Mừng” : chính trong Trái Tim Người mà “cuối cùng chúng ta nhận ra chính mình và học cách yêu thương” .

Đức Thánh Cha giải thích rằng bằng cách gặp gỡ tình yêu của Chúa Kitô, “chúng ta có khả năng dệt nên những mối dây huynh đệ, nhận ra phẩm giá của mỗi con người và cùng nhau chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta”. Và trước Trái Tim Chúa Kitô, ngài cầu xin Chúa “một lần nữa tỏ lòng thương xót đối với trái đất bị thương tích này” bằng cách tuôn đổ trên đó “những kho tàng ánh sáng và tình yêu của Người”, để thế giới “tồn tại giữa chiến tranh, những mất cân bằng kinh tế xã hội, chủ nghĩa tiêu thụ và việc sử dụng công nghệ chống con người, có thể phục hồi điều quan trọng và cần thiết nhất: trái tim”.

Chương 1: Tầm quan trọng của trái tim

Chương thứ nhất, “Tầm quan trọng của trái tim”, giải thích tại sao cần phải “trở về với trái tim” trong một thế giới mà chúng ta bị cám dỗ “trở thành những người tiêu dùng vô độ” . Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng hiện nay tầm quan trọng của trái tim bị đánh giá thấp lại do “chủ nghĩa duy lý Hy Lạp và tiền Kitô giáo, chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật hậu Kitô giáo”, vốn ưa thích các khái niệm như “lý trí, ý chí hay tự do”.

Chương 2: Những cử chỉ và lời nói yêu thương của Chúa Kitô

Chương thứ hai nói về những cử chỉ và lời nói yêu thương của Chúa Kitô, những cử chỉ qua đó Người cư xử với chúng ta như những người bạn và cho thấy rằng Thiên Chúa “là sự gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng”.

Chương 3: Đây là trái tim đã yêu thương rất nhiều

Trong chương thứ ba, “Đây là trái tim đã yêu thương rất nhiều”, Đức Thánh Cha cho thấy rõ rằng Trái Tim Chúa Kitô chứa đựng “ba mặt của tình yêu”: sự nhạy cảm của trái tim thể lý “và tình yêu thiêng liêng kép của Người, con người và Thiên Chúa”, trong đó chúng ta tìm thấy “cái vô hạn trong cái hữu hạn”. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta canh tân lòng sùng kính Trái Tim Chúa Kitô cũng để chống lại “những biểu hiện mới của một ‘linh đạo phi thân xác’” hiện diện trong xã hội”. Cần phải quay trở lại với “sự tổng hợp nhập thể của Tin Mừng” khi đứng trước “các cộng đồng và các mục tử chỉ tập trung vào các hoạt động bên ngoài, những cải cách cơ cấu không có Tin Mừng, các ám ảnh về tổ chức, các dự án trần thế, những suy tư thế tục hóa”, trước các đề xuất “mà đôi khi đòi áp đặt lên mọi người”.

Chương 4: Tình yêu ban nước Thánh Thần

Trong chương thứ tư, “Tình yêu ban nước uống”, Đức Thánh Cha trích dẫn một số Giáo phụ đã nói về “vết thương nơi cạnh sườn Chúa Giêsu là nguồn gốc của nước Thánh Thần” làm dịu đi cơn khát tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta. Thánh Augustinô “đã mở đường cho việc sùng kính Thánh Tâm như một nơi gặp gỡ cá nhân với Chúa”. Đức Thánh Cha nhắc lại, dần dần khía cạnh bị thương tích này “đã mang hình dáng của trái tim”, và liệt kê một số phụ nữ thánh thiện đã “kể lại những kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Kitô, được đặc trưng bởi sự an nghỉ trong Trái Tim Chúa”.

Đức Thánh Cha cũng nhắc lại kinh nghiệm kết nối mật thiết với Thánh Tâm Chúa Giêsu của một số vị thánh như Thánh Magarita Maria Alacoque, Thánh Têrêsa thành Lisieux, Thánh Faustina Kowalska, Thánh Gioan Phaolô II.

Chương 5: Tình yêu vì tình yêu

Trong chương thứ năm và cũng là chương cuối cùng “Tình yêu vì tình yêu”, Đức Thánh Cha đi sâu vào chiều kích cộng đồng, xã hội và truyền giáo của mọi lòng sùng kính đích thực đối với Trái Tim Chúa Kitô, Đấng mà khi “dẫn chúng ta đến với Chúa Cha, sai chúng ta đến với anh em của chúng ta”. Thực ra, “tình yêu dành cho anh em” là “cử chỉ lớn nhất mà chúng ta có thể cống hiến cho họ để đáp lại tình yêu bằng tình yêu”. Nhìn vào lịch sử linh đạo, Đức Thánh Cha nhắc lại rằng sự dấn thân truyền giáo của Thánh Charles de Foucauld đã biến ngài thành một “người anh em phổ quát”: “để cho mình được uốn nắn bởi Trái Tim Chúa Kitô, ngài muốn đón nhận toàn thể nhân loại đang đau khổ trong trái tim huynh đệ của mình”.

Đền tạ Thánh Tâm

Sau đó, Đức Thánh Cha nói về “sự đền tạ” Thánh Tâm, như Thánh Gioan Phaolô II giải thích: “bằng cách cùng nhau hiến thân cho Trái Tim Chúa Kitô, ‘trên những đống đổ nát do hận thù và bạo lực tích tụ, Người có thể xây dựng nền văn minh của tình yêu mà nhiều người mong ước, vương quốc của trái tim Chúa Kitô’”.

Thông điệp một lần nữa nhắc lại lời Thánh Gioan Phaolô II rằng việc thánh hiến cho Trái Tim Chúa Kitô “được so sánh với hoạt động truyền giáo của chính Giáo Hội”, và lời Thánh Phaolô VI nhấn mạnh, chúng ta cần “những nhà truyền giáo yêu thương, những người đã để Chúa Kitô chinh phục”.

Thông điệp kết thúc với lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha.


Tông huấn thứ tư của Đức Thánh Cha Phanxicô, được công bố vào thời điểm toàn cầu đang phải đối diện với những cuộc chiến tương tàn!

Thế giới ngày nay đang bị chiến tranh, mất cân bằng xã hội và kinh tế, chủ nghĩa tiêu dùng tràn lan và các công nghệ đe dọa làm suy yếu bản chất con người.

Với văn kiện này, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi thay đổi quan điểm, thúc giục nhân loại khám phá lại điều cốt yếu nhất: trái tim.

Tông huấn của Đức Thánh Cha

Tên đầy đủ của tông huấn "Dilexit Nos – “Ngài yêu thương chúng ta” là Tông huấn về tình yêu nhân bản và thiêng liêng của Trái tim Chúa Giêsu Kitô", được Văn phòng Báo chí Vatican xác nhận ngày hôm nay, và ngày phát hành dự kiến là ngày 24 tháng 10 tới đây.

Trước đó, Đức Thánh Cha đã chia sẻ ý định công bố tài liệu này tại buổi tiếp kiến chung ngày 5 tháng 6 tại Quảng trường Thánh Phêrô, trong tháng mà truyền thống dành kính Thánh Tâm.

Vào thời điểm đó, Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ hy vọng rằng văn bản này sẽ mời gọi sự suy ngẫm về các khía cạnh của tình yêu Chúa có thể soi sáng con đường đổi mới của Giáo hội và tạo nên tiếng vang có ý nghĩa với "một thế giới dường như đã đánh mất trái tim".

Ngài cũng lưu ý rằng Tông huấn này sẽ kết hợp những suy tư từ các giáo huấn trước đây của các vị Thánh Cha và truyền thống phong phú của Kinh thánh, giới thiệu lại Giáo hội với lòng sùng kính sâu sắc về mặt tâm linh này.

Những lần Thánh tâm Chúa hiện ra năm 1673

Tông huấn này được công bố trùng với các lễ kỷ niệm đang diễn ra để kỷ niệm 350 năm ngày Thánh Tâm Chúa Giêsu lần đầu tiên hiện ra với Thánh nữ Margaret Mary Alacoque vào năm 1673.

Vào ngày 27 tháng 12 năm đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với nữ tu trẻ 26 tuổi của Dòng Thăm Viếng người Pháp, giao phó cho sơ sứ mệnh quảng bá tình yêu của Người, đặc biệt là đối với những người tội lỗi. Những lần hiện ra này, diễn ra tại tu viện Paray-le-Monial ở Burgundy, kéo dài trong 17 năm.

Chúa Kitô đã cho thấy Trái tim của Người được bao quanh bởi ngọn lửa và được bao quanh bởi một vương miện gai - tượng trưng cho những vết thương do tội lỗi của con người gây ra. Người đã xin dành Thứ Sáu sau Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô để kính nhớ Thánh Tâm. Mặc dù ban đầu bị nhiều người hiểu lầm, bao gồm cả các nữ tu khác, Thánh Margaret Mary vẫn kiên định với sứ mệnh của mình là quảng bá tình yêu Chúa Kitô cho thế giới.

Tông huấn “Haurietis Aquas” của Đức Thánh Cha Piô XII

Năm 1956, Đức Thánh Cha Pius XII đã ban hành Tông huấn Haurietis Aquas, một tông huấn nhằm phục hồi lòng sùng kính Thánh Tâm trong một thời đại đang suy tàn. Đức Thánh Cha Piô nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng sùng kính này đối với nhu cầu của Giáo hội và tiềm năng của nó như một "ngọn cờ cứu rỗi" cho thế giới hiện đại.

Trong một lá thư kỷ niệm 50 năm ngày ban hành Haurietis Aquas, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã củng cố lòng sùng kính này khi nói "Mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta không chỉ là nội dung của lòng sùng kính đối với Trái tim Chúa Giêsu; mà còn là cốt lõi của mọi nền tảng linh đạo Kitô giáo đích thực".

Lòng sùng kính của Đức Thánh Cha Phanxicô

Đức Thánh Cha Phanxicô luôn thể hiện lòng sùng kính sâu sắc đối với Thánh Tâm, thường liên hệ lòng tôn kính này với sứ mệnh linh mục của ngài. Năm 2016, ĐTC đã bế mạc Năm Thánh Linh mục vào Lễ trọng kính Thánh Tâm, ĐTC thúc giục các linh mục hãy rập khuôn trái tim mình nên giống trái tim của Đấng Chăn Chiên Nhân Lành, luôn hướng về những người lầm lạc và ly cách.

Trong cùng Năm Thánh, trong Suy niệm đầu tiên về Lòng thương xót, Đức Phanxicô đã khuyến nghị các giám mục và linh mục gẫm suy lại Tông huấn Haurietis Aquas, rằng “trái tim của Chúa Kitô là trung tâm của lòng thương xót. Đây là bản chất của lòng thương xót: hãy giang tay, đụng chạm và tham gia các việc liên quan đến người khác”.

Tông huấn thứ tư của Đức Thánh Cha

Dilexit nos là Tông huấn thứ tư của Đức Thánh Cha Phanxicô, sau Lumen fidei (ngày 29 tháng 6 năm 2013), được đồng sáng tác với Đức Benedict XVI; Laudato si’ (ngày 24 tháng 5 năm 2015), về cuộc khủng hoảng môi trường và nhu cầu chăm sóc tạo vật; và Fratelli tutti (ngày 3 tháng 10 năm 2020), kêu gọi tình huynh đệ toàn cầu và tình bạn xã hội trong một thế giới bị chia rẽ bởi đại dịch và xung đột, bao gồm cả các cuộc chiến xảy ra.

Dilexit nos được công bố tại Văn phòng Báo chí Vatican vào ngày 24 tháng 10 bởi Đức ông Bruno Forte, nhà thần học và Tổng giám mục Chieti-Vasto, cùng với Sơ Antonella Fraccaro, Tổng quyền của Dòng Tôi tớ Phúc âm.




Đức Phanxicô: “Xã hội toàn cầu đang mất trái tim”


Trong thông điệp Người đã yêu thương chúng ta, Đức Phanxicô xin chúng ta mở lòng ra với việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Ngày thứ năm 24 tháng 10, ngài công bố thông điệp thứ tư trong 12 năm triều của ngài có tựa đề “Người đã yêu thương chúng ta”, về tình yêu nhân bản và thiêng liêng của Trái Tim Chúa Giêsu Kitô. Theo Vatican, văn bản cũng là một phần của “lễ kỷ niệm 350 năm ngày Thánh Tâm Chúa Giêsu tỏ hiện lần đầu với Thánh Marguerite-Marie Alacoque năm 1673” tại Paray-le-Monial, Paris.

Thông điệp thần bí này khác với hai thông điệp trước đây mang tính xã hội: Thông điệp Laudato si’ năm 2015 và Thông điệp Fratelli Tutti năm 2020. Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta dựa vào linh đạo “phục vụ” người khác. Ngài đặt câu hỏi: “Liệu chúng ta có thể làm hài lòng Trái tim đã yêu thương chúng ta vô bờ khi chúng ta duy trì một kinh nghiệm tôn giáo mật thiết, không tạo những hậu quả về tình huynh đệ và xã hội không?”

Trong phần kết luận ngài giải thích thông điệp Người đã yêu thương chúng ta liên quan với các Thông điệp Laudato si’ và Thông điệp Fratelli Tutti, nhấn mạnh đến cuộc gặp của chúng ta với tình yêu Chúa Giêsu Kitô: “Khi chúng ta ở trong tình yêu này, chúng ta có khả năng dệt tình huynh đệ, nhìn nhận phẩm giá của mỗi con người và cùng nhau chăm sóc ngôi nhà chung.” Không trích dẫn thông điệp đầu tiên Hiến chế Tín lý về Hội thánh Lumen Fidei được công bố tháng 7 năm 2013, ba tháng sau khi ngài được bầu chọn, thông điệp này được Đức Bênêđíctô XVI viết tập trung vào các nhân đức thần học về đức tin, đức cậy và đức ái.

Ủng hộ người nghèo, người di cư và hệ sinh thái

Các thông điệp là dấu ấn về căn tính của một triều giáo hoàng. Đức Phanxicô sẽ 88 tuổi vào tháng 12 sắp tới, ngài đi vào lịch sử với các định hướng xã hội mạnh mẽ, ủng hộ người nghèo, người di cư và hệ sinh thái, qua thông điệp mới này, phát sinh đức tin công giáo một cách tự nhiên, ngài giải thích: “Kitô giáo cuốn hút khi kitô giáo được sống và thể hiện một cách trọn vẹn, kitô giáo không phải là nơi ẩn náu đơn thuần của các cảm xúc tôn giáo hay với các nghi lễ xa hoa. Vì làm sao chúng ta có thể kính Chúa Kitô nếu chúng ta không giúp đỡ người khác, giúp họ bớt đau khổ và sống tốt hơn?”

Ngài nhấn mạnh: “Xin anh chị em chân thành đọc Lời Chúa vì Tin Mừng không chỉ để suy gẫm mà còn phải được sống trong tâm hồn và yêu thương tha nhân. Cũng vậy, vấn đề không phải là làm việc để thăng tiến xã hội mà không có ý nghĩa tôn giáo”.

Sứ mệnh của Giáo hội cần những người truyền giáo yêu thương, luôn được Chúa Kitô cuốn hút. Họ là những người không lãng phí thời gian để thảo luận những vấn đề thứ yếu hay áp đặt các sự thật và quy tắc, họ là những người không mệt mỏi chuyển tải tình yêu đã thay đổi cuộc đời họ. Tóm lại, “đó là vấn đề đào sâu chiều kích cộng đồng, xã hội và truyền giáo của lòng kính mến Trái Tim Chúa Kitô.

 “Phản ứng với chủ nghĩa Giăng-xen khắc khổ”

Thông điệp dài 140 trang là luận thuyết về linh đạo công giáo nhằm giải thích ý nghĩa của việc tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Một câu chuyện thần bí được Đức Phanxicô kể lại, hết chương này đến chương khác, một cách rất giáo dục, quen thuộc với chủ đề vì lòng kính mến đặc biệt này đã nuôi dưỡng linh đạo Dòng Tên. Ngài xin đừng ai chế nhạo lòng sốt sắng khi khi chạm đến Trái Tim Chúa Giêsu.

Vị trí hàng đầu được trao cho Thánh Marguerite-Marie Alacoque, ngài đã nhìn thấy Chúa Kitô ở Paray-le-Monial. Đó là để phản ứng lại với thuyết Giăng-xen khắc khổ, không quan tâm đến lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa như Đức Gioan Phaolô II đã nói và đã được Đức Phanxicô trích dẫn.

Thông điệp trích dẫn các bậc thầy và các Thánh: François de Sales, Claude La Colombière, Charles de Foucauld, Thérèse Hài Đồng Giêsu, Thánh John Henry Newman, Nữ tu Faustine Kowalska, Thánh I-Nhã.

Đức Phanxicô đặt trái tim vào trọng tâm mọi việc. Ngài viết: “Tôi đi theo trái tim của tôi, chính trái tim làm tôi khác biệt, định hình căn tính thiêng liêng của tôi, giúp tôi hiệp thông với người khác. Vì thế điều quan trọng là phải khám phá lại tầm quan trọng của trái tim vì xã hội chúng ta đã đánh mất trái tim của mình”. Theo ngài, chỉ có tình yêu của Chúa Kitô mới có thể tạo ra một nhân loại mới cho chúng ta: “Trái tim của chúng ta hiệp với trái tim của Chúa Kitô có khả năng thực hiện phép lạ xã hội này vì Thánh Tâm là nguyên lý hiệp nhất của thực tại.”

Dilexit nos: “Đức Phanxicô muốn tóm tắt tinh thần triều của ngài qua Thông điệp Thánh Tâm”



Ngày thứ năm 24 tháng 10, Vatican công bố Thông điệp Thánh Tâm, Linh mục Etienne Kern, giám đốc vương cung thánh đường Paray-le-Monial, thánh đường tôn kính Thánh Tâm trả lời phỏng vấn về lịch sử và tính hiện đại của thánh đường :

Đức Phanxicô sẽ công bố thông điệp về Thánh Tâm, việc tôn kính Thánh Tâm bao gồm những gì?

Cha Etienne Kern: Việc tôn kính Thánh Tâm là dâng hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu theo đúng nghĩa đen. Đó là việc suy gẫm trái tim bằng xương bằng thịt của Chúa, biểu tượng nhập thể nhưng cũng là biểu tượng của tình yêu cho nhân loại.

Lòng tôn kính này đến từ đâu?

Đầu tiên từ chính Kinh Thánh. Đoạn Phúc âm Thánh Gioan 19:34 – “Một người lính lấy lưỡi đòng đâm vào sườn Ngài, lập tức máu và nước chảy ra” – tiếp theo là đoạn: “Họ sẽ nhìn Đấng họ đã đâm thâu.” Theo nghĩa này, các Tổ phụ Sa mạc, thần học gia đầu tiên đã suy gẫm về mầu nhiệm này, xem Trái Tim Chúa Kitô là “nguồn nước hằng sống”.

Vào thời Trung cổ, nhiều nhà văn thần bí, đặc biệt là Thánh Bênađô Clairvaux phát triển lòng tôn kính này, vào thế kỷ 17 có Thánh Jean Eudes. Cho đến nay, công việc tôn kính này gần như chỉ dành riêng cho những người có đạo.

Vì sao và làm thế nào lòng sùng kính này lại trở nên phổ biến?

Việc tôn kính Thánh Tâm được phổ biến nhờ Thánh Marguerite-Marie Alacoque, nữ tu Dòng Thăm Viếng, ngài kể lại hai trải nghiệm thần bí năm 1673 và 1675 tại Paray-le-Monial, Chúa Kitô hiện ra để xin nữ tu phát huy lòng tôn kính Thánh Tâm Ngài. Và nữ tu đã để cả đời để làm công việc này với sự trợ giúp của cha Claude La Colombière, người hướng dẫn thiêng liêng của nữ tu.

Vào thế kỷ 18, các dòng tu tiếp tục lòng tôn kính, đặc biệt Dòng Tên và Dòng Đức Mẹ Đi Viếng. Năm 1720, thành phố Marseille là thành phố đầu tiên được dâng hiến cho Thánh Tâm để xin được cứu khỏi bệnh dịch hạch.

Năm 1856, Lễ Thánh Tâm được Đức Piô IX thiết lập cho toàn Giáo hội, các cuộc hành hương đến Paray-le-Monial ngày càng thường xuyên và quy mô.

Theo thời gian sự tôn kính này được phát triển như thế nào?

Vào đầu thế kỷ 20, trong một thông điệp năm 1956, Đức Piô XII đã nêu lên tình trạng đời sống thiêng liêng bị suy thoái. Trong những năm 1970, lòng kính mến Thánh Tâm đã trở lại, đặc biệt nhờ thánh đường Paray-le-Monial. Năm 1986, Thánh Gioan Phaolô II đã đến đây, đó là giai đoạn lịch sử quan trọng của thánh đường. Ngày nay, sự tôn kính dần dần quay trở lại, một nảy mầm chậm rãi mà theo tôi nhờ ba lý do: việc tái khám phá trái tim Chúa Giêsu, cảm nghiệm Paray-le-Monial và việc nhìn trái tim Chúa Giêsu nơi người khác.

Cha phản ứng thế nào trước việc công bố thông điệp mới này về Thánh Tâm?

Một niềm vui lớn lao. Chúng tôi chỉ mong đợi một tông huấn, nhưng dường như Đức Phanxicô muốn tóm tắt tinh thần triều của ngài với thông điệp tập trung vào Thánh Tâm. Chúng tôi dự kiến sẽ có nhiều người hành hương đến Paray-le-Monial hơn và chúng tôi chuẩn bị để chào đón họ.





Hồi ký tự truyện của ĐTC Phanxicô sẽ được xuất bản vào đầu năm 2025

Ngày 16/10/2024 nhà xuất bản Random House đã thông báo về việc sẽ phát hành cuốn hồi ký tự truyện của Đức Thánh Cha Phanxicô, có tựa đề "Hy vọng", vào tháng 1/2025. Đây sẽ là cuốn hồi ký đầu tiên của một Giáo hoàng còn đương nhiệm.
Nhà xuất bản cho biết, theo kế hoạch ban đầu thì cuốn hồi ký sẽ chỉ được phát hành sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô qua đời. Tuy nhiên ngài đã quyết định xuất bản nó trước thềm Năm Thánh Hy vọng 2025 sắp tới.

Cuốn hồi ký mà Đức Thánh Cha bắt đầu thực hiện vào tháng 3/2019 sẽ được phát hành tại hơn 80 quốc gia vào ngày 14/1/2025.

Thông cáo của nhà xuất bản Random House trích dẫn lời của Đức Thánh Cha: “Cuốn sách cuộc đời tôi là câu chuyện về một hành trình hy vọng, một hành trình mà tôi không thể tách rời khỏi hành trình của gia đình tôi, của dân tộc tôi, của tất cả dân của Chúa. Trong từng trang, từng đoạn, đó cũng là cuốn sách của những người đã đồng hành cùng tôi, của những người đi trước, của những người sẽ theo sau”.

Đức Thánh Cha viết tiếp: “Một cuốn tự truyện không phải là câu chuyện riêng tư của chúng ta mà đúng hơn là hành trang mà chúng ta mang theo bên mình. Và ký ức không chỉ là những gì chúng ta nhớ lại mà còn là những gì xung quanh chúng ta. Nó không chỉ nói về những gì đã qua mà còn về những gì sẽ đến. Nó có vẻ giống như ngày hôm qua, nhưng thực ra là ngày mai. Tất cả đều được sinh ra để nở rộ trong một mùa xuân vĩnh cửu. Cuối cùng, chúng ta sẽ chỉ nói rằng: ‘Con không nhớ lại bất cứ điều gì mà Ngài không ở đó’”.

Cuốn hồi ký “Hy vọng”, theo Random House, đưa ra một góc nhìn độc đáo từ Đức giáo hoàng và chứa đựng “một kho tàng những tiết lộ và những câu chuyện chưa được công bố” trong đó cuộc đời của chính ngài là trọng tâm chính.

Cùng viết với Carlo Musso, người sáng lập nhà xuất bản độc lập của Ý Libreria Pienogiorno, hồi ký bắt đầu bằng lịch sử gia đình của Đức Phanxicô và cuộc di cư của họ từ Ý đến Châu Mỹ Latinh. Sau đó, cuốn sách tiếp tục kể về thời thơ ấu, cuộc sống trưởng thành, câu chuyện ơn gọi và toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài cho đến ngày nay.

Hồi tháng 3 năm nay cuốn sách cuối cùng của Đức Thánh Cha - “Cuộc đời: Câu chuyện của tôi qua lịch sử” - được xuất bản. Trong cuốn sách đó, Đức Thánh Cha đã kể lại trải nghiệm của ngài về các sự kiện lịch sử lớn bao gồm cuộc đảo chính ở Argentina năm 1976, mật nghị bầu ngài làm Giáo hoàng và đại dịch COVID-19



Nhà vatican học Giovanni Maria Vian: “Quyền lực giáo hoàng sẽ không còn thực thi theo cách tương tự sau thời Đức Phanxicô”

Liệu Đức Phanxicô có phải là giáo hoàng cuối cùng không? Đây là điều của lời tiên tri bí ẩn thời Trung cổ gợi ý, và là chủ đề của quyển sách của nhà vatican học Giovanni Maria Vian: “Chúng ta đang ở một bước ngoặt của đời sống Giáo hội công giáo,” khi phiên họp lần thứ hai của Thượng Hội đồng về tương lai của Giáo hội đang họp ở Rôma.

Nhà sử học Giovanni Maria Vian khẳng định, đạo công giáo đang đi qua thời kỳ mang tính quyết định lịch sử với phiên họp Thượng Hội đồng từ ngày 2 đến ngày 27 tháng 10, là cựu giám đốc nhật báo L'Osservatore Romano từ năm 2007 đến năm 2018, là nhà báo độc lập, ông có cái nhìn uyên bác và phê phán về Tòa thánh và giáo hoàng, tác phẩm mới nhất của ông, Giáo hoàng Cuối cùng (Le Dernier Pape. Nxb. Cerf).

Liệu Đức Phanxicô có phải là “giáo hoàng cuối cùng” như tựa đề quyển sách của ông không?

Giovanni Maria Vian: Danh hiệu này đề cập đến lời tiên tri của tiên tri Malachi, được cho là tu sĩ người Ai-len thời Trung cổ. Danh sách liệt kê một trăm giáo hoàng từ thế kỷ 12 đến một giáo hoàng có biệt danh là “Vinh quang của Cây Ô liu”. Sau đó, danh sách này tiếp tục với phần mô tả về ngày tận thế: “Trong cuộc đàn áp cuối cùng của Giáo hội la-mã, sẽ có một ‘Phêrô La Mã’ chăn dắt đoàn chiên vượt qua nhiều hoạn nạn. Thành phố bảy ngọn đồi sau đó sẽ bị hủy hoại và quan tòa khủng khiếp sẽ phán xét người dân.” Nếu nghiên cứu danh sách theo thứ tự, Đức Bênêđíctô XVI (1927-2022) là Vinh quang của Cây Ôliu”, như thế Đức Phanxicô là “Phêrô La Mã” của ngày tận thế.

Tài liệu này được viết năm 1590 chắc chắn là sai – trước đây không thấy nhắc – với mục đích ủng hộ một hồng y trong mật nghị thời đó, và cũng để khẳng định với người Tin lành Cải cách, rằng danh sách các giáo hoàng vẫn còn dài.

Được một nhà báo người Đức hỏi về điều này năm 2016, ba năm sau khi ngài từ nhiệm, Đức Bênêđíctô XVI không tin lời tiên tri này, đã có một câu trả lời mà tôi thấy thú vị. Trước hết, ngài nhắc lại mức độ thế tục hóa ở Châu Âu và sự thay đổi sâu sắc trong đạo công giáo, sau đó ngài nói thêm: “Tôi không còn thuộc về thế giới cũ nữa, nhưng thực tế thế giới mới vẫn chưa thực sự bắt đầu.”

Do đó, Đức Bênêđíctô XVI khẳng định ngài và người kế nhiệm ngài thuộc một thế hệ được hình thành trong một thế giới công giáo “cũ”, một thế giới sẽ sớm không còn tồn tại. Ý tưởng chính, cũng là chìa khóa để đọc quyển sách của tôi: chúng ta đang ở một bước ngoặt trong đời sống của Giáo hội công giáo, và quyền lực của giáo hoàng không còn có thể được thực thi theo cách tương tự sau Đức Phanxicô.

Có nghĩa là? Những thay đổi nào sẽ được mong chờ?

Thế giới công giáo được cấu trúc xung quanh “quyền tối cao” của giáo hoàng: giáo hoàng được cho là “không thể sai lầm” và nắm giữ chính thức mọi quyền lực của Giáo hội. Ý tưởng này xuất hiện trong thế giới la-tinh từ những thế kỷ đầu tiên của kitô giáo, nhưng giáo điều về tính không thể sai lầm của giáo hoàng đã được Công đồng Vatican I công bố năm 1870. Một số người thấy đây là khả năng có ảnh hưởng phổ quát, đạo đức và tâm linh, gần như một hình thức tái cân bằng cho Tòa thánh sau khi Tòa Thánh mất các Quốc gia Giáo hoàng và quyền lực thế gian.

Cụ thể, tín điều về tính không thể sai lầm của giáo hoàng giả định giáo hoàng có thể có quyết định về các vấn đề đức tin và đạo đức. Đó là trường hợp năm 1950, khi Đức Piô XII (1876-1958) chính thức công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (Đức Maria “lên trời” cả hồn lẫn xác).

Nhưng đó chỉ là vấn đề thiết lập một ý tưởng đã có trong truyền thống công giáo từ lâu. Trên thực tế, chính với Đức Phanxicô mà nguyên tắc bất khả ngộ của giáo hoàng đã đạt đến đỉnh cao. Ngài không ngần ngại tuyên bố mình là người kế vị Thánh Phêrô tông đồ và thực thi quyền uy của ngài trong một số quyết định, như năm 2022 khi ngài cải cách Giáo triều dù bị phản đối, hoặc ngài can thiệp vào các cuộc tranh luận của Thượng Hội đồng gia đình năm 2014-2015 (hầu hết các đề xuất của các giám mục đều bị bác bỏ).

Trước đây chưa có giáo hoàng nào tuyên bố quyền lực đến mức này: đó là thuần túy chế độ thần quyền. Nghịch lý thay, chính Giáo hoàng đến từ Nam bán cầu – từ “tận cùng thế giới” như ngài hay nói – ngay từ đầu ngài đã kêu gọi phải giải tập trung nhiều hơn, bớt quyền của Rôma và cho “ngoại vi” nhiều quyền hơn. Nhưng ngài chưa đi đủ xa, và tôi nghĩ chúng ta đang phải đối diện với những bực tức, từ giáo dân đến giáo triều, đến hàng giám mục, và giáo hoàng tương lai sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải tìm ra một cách thức mới để thực thi quyền lực.

Có phải Đức Phanxicô đã không đi xa hơn các giáo hoàng tiền nhiệm của ngài không? Như cuộc cải cách giáo triều năm 2022 đã không mở cửa văn phòng các bộ ở Vatican cho giáo dân?

Đức Phanxicô có những ý định xuất sắc. Nhưng đây chỉ là khởi đầu của sự thay đổi, không phải là không có mâu thuẫn. Chắc chắn giáo dân có thể được bổ nhiệm làm bộ trưởng các bộ, nhưng thực tế chỉ có ông Paolo Ruffini (một trong khoảng ba mươi) là người đứng đầu Bộ Truyền thông. Và giáo hoàng có thể phản đối việc đề cử, cũng như ngài có thể đưa ra bất kỳ quyết định nào mà không cần tham khảo ý kiến của một bộ.

Chúng ta lấy ví dụ về hệ thống tư pháp của nước Vatican nhỏ bé. Theo Hiệp định Lateran (1929), ngày nay Vatican có thể đưa hoặc không đưa các vụ án hình sự ra trước công lý Ý. Vụ âm mưu ám sát Đức Gioan-Phaolô II (1920-2005) của ông Mehmet Ali Agça, nhà hoạt động cực hữu người Thổ Nhĩ Kỳ ngày 13 tháng 5 năm 1981 được giao cho công lý Ý. Nhưng năm 1998, vụ ám sát hai cận vệ Thụy Sĩ ở Vatican đã được giao cho tòa án Vatican. Tuy nhiên, công lý của Vatican chỉ là ảo tưởng. Không có sự phân chia quyền lực vì người đứng đầu mọi quyền lực là giáo hoàng.

Vatican vẫn hoạt động ngay cả trước thời Montesquieu (1689-1755). Và cả ngày nay, vì sao phiên tòa xét xử tòa nhà ở London (Hồng y người Ý Angelo Becciu bị tòa hình sự Vatican kết án năm năm rưỡi tù giam năm 2023 vì tham nhũng) lại không được giao cho công lý Ý hoặc Anh? Trên thực tế, những cải cách của Đức Phanxicô vẫn chưa xong.

Còn Thượng Hội đồng hiện nay thì sao? Từ bậc sống độc thân của linh mục đến các mục vụ truyền chức cho phụ nữ, những chủ đề nhạy cảm nhất đều đã bị gạt sang một bên. Chúng ta mong đợi gì?

Theo tôi, vấn đề chính của Thượng Hội đồng nằm ở phương pháp tham vấn. Mục tiêu là tạo ra sự năng động giữa giáo dân, khuyến khích họ có trách nhiệm với Giáo hội của họ, thoát ra khỏi vòng quyền lực thông thường bị giới hạn ở Rôma.

Tiến trình của Thượng Hội đồng này đôi khi được gọi là “thượng hội đồng về tính đồng nghị” (Vì một Giáo hội có tính đồng nghị: hiệp thông, tham gia và truyền giáo) bắt đầu bằng việc tham khảo ý kiến của giáo dân trên toàn thế giới. Các giám mục của mỗi quốc gia, sau đó là mỗi châu lục đã cùng nhau tổng hợp và bây giờ Thượng Hội đồng, lần đầu tiên quy tụ các tu sĩ, giáo dân – kể cả phụ nữ –, gặp nhau ở Rôma để thảo luận. Đây là điều chưa từng có.

Vẫn còn phải xem Đức Phanxicô sẽ giữ lại điều gì. Khi mở chức phó tế cho phụ nữ, ngài đã chỉ định một ủy ban lo việc này. Không có gì ngăn cản việc có các nữ phó tế vì đã có một số ở thời Cổ đại. Nhưng dù ý kiến của ủy ban đặc biệt này như thế nào thì có một rủi ro, đó là sẽ không có gì thay đổi. Vì mọi thứ đều nằm trong tay Giáo hoàng. Đức Phanxicô thường nhắc chúng ta phải thoát khỏi chủ nghĩa giáo sĩ trị, khỏi một Giáo hội được các giáo sĩ toàn năng lãnh đạo. Ngài hoàn toàn đúng. Nhưng ngài phải áp dụng yêu cầu này.

Triều Đức Phanxicô cũng là triều chứng kiến nhiều tiết lộ nhất về bạo lực tình dục của các giáo sĩ (thật sự là đã có từ đầu thế kỷ 20). Ông nghĩ câu trả lời của ngài mang lại là gì?

Trong các bài phát biểu của ngài, dường như ngài đã nắm được các vấn đề. Tuy nhiên, vẫn còn những vùng tối như vụ linh mục Dòng Tên Marko Rupnik người Slovenia bị buộc tội bạo lực tình dục. Tháng 5 năm 2020, linh mục bị dứt phép thông công và được dỡ bỏ một tháng sau đó. Trong một phỏng vấn tháng 1 năm 2023, Đức Phanxicô giải thích linh mục Rupnik đã thú nhận một phần cáo buộc và bồi thường cho nạn nhân. Bị loại khỏi Dòng Tên, cuối cùng linh mục được một giáo phận ở Slovenia nhận. Với sự hỗ trợ nào? Và hôm nay linh mục ở đâu? Bí ẩn, có người nói linh mục đang ở Rôma. Và các bức tranh khảm của linh mục vẫn tiếp tục trang hoàng cho các cơ sở của Giáo hội trên khắp thế giới, và các phương tiện truyền thông Vatican tiếp tục dùng để minh họa cho các bài báo hoặc thông điệp trên mạng xã hội, trước sự ngạc nhiên của các nạn nhân. Trường hợp này cũng như các trường hợp khác – Tổng giám mục Gustavo Zanchetta người Argentina thân cận với Đức Phanxicô, bị kết án tấn công tình dục năm 2022 và Giám mục Ấn Độ Franco Mulakkal (đã từ chức năm 2023, bị buộc tội cưỡng hiếp một nữ tu trong nhiều năm), vai trò của Đức Phanxicô cần được làm sáng tỏ.

Nói rộng hơn, chúng ta có thể lấy làm tiếc Giáo hội vẫn bị khóa chặt trong tầm nhìn xưa cổ về các chủ đề này. Trong giáo luật, bạo lực tình dục vẫn xếp vào loại vi phạm điều răn thứ sáu – “Chớ làm sự dâm dục” – như thế đây là tội ác và phải được xem là tội ác, như nhà thần học Lucetta Scaraffia  viết trong một cuốn sách gần đây Vượt ra ngoài điều răn thứ sáu (Au-delà du sixième commandement, mxb Salvator, 2024).

Nếu Đức Bênêđíctô XVI và Đức Phanxicô là các giáo hoàng của “thế giới cũ”, thì các giáo hoàng của “thế giới mới” sẽ như thế nào? Chân dung của họ sẽ ra sao?

Tôi sẽ không mạo hiểm dự đoán vị giáo hoàng tương lai, nhưng chúng ta có thể có những nhân cách đáng chú ý như Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa: Thượng phụ la-tinh của Giêrusalem, ngài là một trong những hồng y cuối cùng được Đức Phanxicô bổ nhiệm; ngài đại diện cho Giáo hội ở Thánh địa một cách cân bằng và can đảm trong thời điểm khó khăn này.

Hoặc Hồng y Anders Arborelius, Tổng giám mục Stockholm sinh ra ở Thụy Sĩ trong một gia đình theo giáo phái Luther, ngài trở lại đạo công giáo, biết nhiều ngoại ngữ, làm việc về các vấn đề tình dục, hướng tới chủ nghĩa đại kết: tác động của ngài vượt ra ngoài khuôn khổ Hội đồng Giám mục nhỏ bé của ngài.

Vì sao không phải là một giáo hoàng Châu Phi? Hồng y Fridolin Ambongo người Congo được nhiều người biết đến, ngài có chân trong “Hội đồng C9”, có trách nhiệm giúp Giáo hoàng quản trị Giáo hội. Hay một hồng y Châu Á, như hồng y Miến điện Charles Maung Bo? Một thách thức trong việc nối lại quan hệ với Trung Quốc trong những năm tới. Dù là ai, giáo hoàng tương lai phải nhạy cảm với thời của mình.

Tình trạng thế tục hóa đang gia tăng, đặc biệt ở phương Tây, chúng ta phải đối diện với những sa mạc tâm linh. Nhưng nhiều người vẫn tiếp tục khao khát sự siêu việt, đối đầu với những bí ẩn của sự sống và sự dữ, họ muốn được đón nhận, lắng nghe, trấn an và thách thức của một điều gì đó vượt quá họ. Tôi hy vọng người kế vị Thánh Phêrô tiếp theo sẽ có thể thỏa mãn được cơn khát này.



“Giáo hoàng cuối cùng” ( Le Dernier Pape, Giovanni Maria Vian. Nxb. Du Cerf).




⛪⛪⛪⛪⛪


Đức giám mục Indonesia xin miễn nhận tước vị Hồng y


Đức Thánh cha Phanxicô đã nhận lời thỉnh cầu của Đức cha Paskalis Bruno Syukur, bên Indonesia, xin miễn nhận tước vị Hồng y mà Đức Thánh cha tuyên bố sẽ tấn phong vào ngày 07 tháng Mười Hai tới đây. Như vậy, số tân Hồng y sắp tới sẽ là 20 thay vì 21 vị.

Đức cha Paskalis Bruno Syukur


Đức cha Bruno Syukur, năm nay 62 tuổi (1962), sinh quán tại Giáo phận Ruteng, trên đảo Flores, gia nhập Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục năm 1991. Cha du học Roma và đậu Cao học về Linh đạo tại Giáo hoàng Đại học Antonianum. Ngài từng làm Giám tỉnh của dòng tại Indonesia trong tám năm, từ 2001 đến 2009, sau đó làm Tổng cố vấn của dòng, đặc trách vùng Á châu Thái Bình Dương cho đến khi được Đức Thánh cha bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Bogor, trên đảo Java, Indonesia, từ ngày 21 tháng Mười Một năm 2013.

Dưới thời các vị Giáo hoàng tiền nhiệm, như Gioan Phaolô II và Biển Đức XVI, những người được chọn làm Hồng y thường được Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh báo trước 24 tiếng đồng hồ, trước khi Đức Thánh cha công bố. Nhưng Đức Thánh cha đương kim đã bỏ thói quen đó, và thường những vị được chọn lựa chỉ hay tin bổ nhiệm trong sự ngỡ ngàng, khi có những người thân quen, - sau khi nghe Đức Thánh cha thông báo, trong buổi đọc kinh Truyền tin hoặc một dịp lễ nào đó - gọi điện đến chúc mừng!

Hồi năm 2022, Đức cha Lucas Van Looy, nguyên Giám mục Giáo phận Gand, bên Bỉ, lẽ ra được phong Hồng y ngày 27 tháng Tám năm đó, nhưng đã xin Đức Thánh cha cho miễn nhận tước Hồng y, trước sức ép của dư luận ở Bỉ, trách cứ ngài đã không hành động đúng để xử lý hai tu sĩ bị tố cáo lạm dụng tính dục, khi còn làm thừa sai ở Phi châu và tại Gand sau đó.


Kinh tế Vatican suy giảm: Cắt giảm phụ cấp của các Hồng y


Theo tin của báo Il Messaggero, Người sứ giả, kinh tế của Vatican tiếp tục “lụn bại”, nên các Hồng y lại bị cắt giảm phụ cấp.
image.png

Nhật báo này, xuất bản ngày 23 tháng Mười vừa qua, trích thuật một văn thư nội bộ của Bộ trưởng Kinh tế Tòa Thánh, ông Maximo Caballero, người Tây Ban Nha, phụ cấp cho các Hồng y sẽ bị cắt giảm, từ ngày 01 tháng Mười Một này, khoảng vài trăm Euro và đây là dấu chỉ cụ thể cần thiết về “tinh thần phục vụ.”

Ngày 20 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh cha đã viết một lá thư rất tha thiết, gửi Hồng y đoàn, trong đó ngài khẳng định rằng: “Các nguồn kinh tế để chu toàn sứ mạng thật là giới hạn, và vì thế phải được quản lý đúng quy luật và nghiêm túc để cố gắng của những người đã đóng góp cho gia sản của Tòa Thánh không bị uổng phí... Do đó, cần có sự cố gắng hơn nữa của tất cả mọi người để mục tiêu “không bị thiếu hụt”, không phải chỉ là một điều trên lý thuyết, nhưng là một mục tiêu đích thực có thể đạt được”.

Đức Thánh cha kêu gọi các Hồng y nêu gương về vấn đề này, tự giới hạn vào những gì thiết yếu, tránh mọi dư thừa, và phải góp phần làm sao để quân bình sự thiếu hụt chung của Tòa Thánh.

Từ lâu, Đức Thánh cha Phanxicô đã tìm các chấn chỉnh lại, minh bạch và hiệu năng hóa kinh tế của Tòa Thánh, với những biện pháp tiết kiệm, bắt đầu từ các vị lãnh đạo cao nhất, là các Hồng y. Năm ngoái, Đức Thánh cha đã bãi bỏ đặc ân của các Hồng y về nhà ở: từ nay, khi ký hoặc gia hạn các hợp đồng mới, cần phải được tính theo giá trị trường.

Hồi năm 2021, Đức Thánh cha đã cắt giảm 8% lương các Hồng y và các vị lãnh đạo cấp cao, trong khi các nhân viên khác thì bị cắt 3%.


Trong thư tháng 9 năm 2024, Đức Phanxicô đặc biệt xin những người đứng đầu các Bộ phải tìm đến nguồn tài chính bên ngoài – thông qua các quỹ, như trường hợp của Bộ Truyền thông.

Hiện tại, tình trạng tài chính của Vatican chưa được rõ, vì kể từ năm 2022, Ban Thư ký Kinh tế (SpE) không công bố báo cáo tài chính.

Những năm trước đây có xu hướng cho thấy tính không bền vững về mặt cấu trúc của mô hình được áp dụng trong dài hạn – hàng năm Vatican buộc phải bán bớt tài sản. Trong một phỏng vấn với Vatican News năm 2020, linh mục Guerrero cho biết từ năm 2016 đến năm 2020, doanh thu trung bình là 270 triệu âu kim, so với 320 triệu âu kim chi phí – mức thâm hụt trung bình hàng năm là 50 triệu âu kim. Sự thâm hụt liên quan đến gánh nặng tiền lương của 5.000 nhân viên  nhưng cũng liên quan do việc quyên góp của giáo dân đã giảm nhiều trong những năm gần đây.


Tổng trưởng Bộ Giám Mục: Giám mục không phải là “nhà quản lý doanh nghiệp” nhưng là mục tử

Trưa ngày 23/10/2024, trong cuộc họp báo về công việc của Thượng Hội đồng, Đức Hồng y Francis Prevost, Tổng trưởng Bộ Giám Mục, đã nói đến một số phẩm chất mà các ứng viên Giám mục phải có. Ngài nói rằng quyết định bổ nhiệm là của Đức Thánh Cha nhưng quá trình lựa chọn Giám mục sẽ ngày càng có sự tham gia của Dân Chúa.

Quá trình lựa chọn các Giám mục trong mỗi Hội đồng Giám mục và cách thức thực hiện việc này là một trong những vấn đề được thảo luận trong Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành.

Đức Hồng y Prevost đặt câu hỏi: “Vấn đề là: làm thế nào để quá trình tìm kiếm ứng viên Giám mục có thể trở nên hiệp hành hơn và bao gồm sự tham gia nhiều hơn không chỉ của các Giám mục mà còn của các linh mục, tu sĩ và giáo dân?”.

Vai trò của Sứ thần

Ngài nói đến sự tham gia của các Sứ thần trong quá trình lựa chọn này, những người đóng vai trò quan trọng trong việc sàng lọc ứng viên. Do đó, các Sứ thần phải biết rõ người dân trong các chuyến viếng thăm mục vụ và họ không chỉ “được cha xứ tiếp đón” và tham gia vào các nghi lễ.

Đồng thời, Tòa Thánh cũng xem xét các giáo phận cụ thể và nhu cầu của họ. Đó là lý do tại sao Sứ thần Tòa Thánh có trách nhiệm báo cáo không chỉ về các giám mục mà còn về các linh mục, giáo dân và tu sĩ. Để biết giáo phận như thế nào, nhu cầu của giáo phận và vị giám mục họ cần.

Tổng trưởng Bộ Giám mục giải thích rằng trong báo cáo của Sứ thần, bên cạnh việc tìm hiểu xem liệu ứng viên có gặp phải những vấn đề nghiêm trọng mà không ai biết, một số vấn đề sức khỏe nhất định, hoặc liệu có những khía cạnh khác khiến vị này không phải là một ứng viên thích hợp, còn có những “giá trị” mà các ứng viên cần có.

Thẩm quyền duy nhất của Giám mục là phục vụ

Đức Hồng y Prevost nhấn mạnh rằng thẩm quyền duy nhất của các Giám mục “là phục vụ”, và nói rằng điều rất quan trọng là phải thay đổi động lực của các cấu trúc quyền lực trong Giáo hội bằng cách nhấn mạnh nhu cầu phục vụ tất cả các thành viên của một giáo phận. Trong bối cảnh này, ngài nhấn mạnh rằng các Giám mục cần phải tham khảo ý kiến và làm việc với các linh mục, tu sĩ và giáo dân, cũng như các cấu trúc hiệp hành khác đã được công nhận trong giáo luật.

Giám mục có "mùi chiên"

Ngài cũng nhắc lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô rằng các Giám mục phải có “mùi chiên”, như một hệ quả của việc bước đi bên cạnh Dân Chúa và thậm chí “đau khổ với họ”. Ngoài ra, các Giám mục cũng phải có ơn lãnh đạo, đôi khi ngay cả trong “những cộng đoàn có nhiều linh mục tốt”, nhưng không có một người lãnh đạo giỏi thì “họ sẽ chẳng đi đến đâu cả”. Theo nghĩa này, ngài đã đề cập đến sứ vụ mục vụ của các Giám mục, những người không phải là “những nhà quản lý doanh nghiệp chỉ chuyên tâm vào các tổ chức, các vấn đề cơ cấu và nghi lễ”. 




Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ sẽ nhóm khóa họp mùa thu, từ ngày 11 đến ngày 14 tháng Mười Một tới đây, tại thành phố Baltimore, gần thủ đô Washington, và bàn về Thượng Hội đồng Giám mục, chương trình phục hồi Thánh Thể và các án phong thánh, cùng với nhiều vấn đề khác.


image.png

Tham dự khóa họp, có các giám mục đến từ 196 giáo phận toàn quốc, trong số này cũng có 16 giáo phận thuộc Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương. Mỗi năm, Hội đồng Giám mục Mỹ có hai khóa họp: khóa mùa thu vào tháng Mười Một, là khóa họp chính và diễn ra tại Baltimore, còn khóa họp tháng Sáu, diễn ra tại các địa điểm thay đổi mỗi lần.

Trong khóa họp lần này, có phúc trình về Chương trình Phục hồi Thánh Thể toàn quốc, với Đại hội Thánh Thể toàn quốc Mỹ đã tiến hành hồi mùa hè năm nay, tại thành phố Indianapolis. Các giám mục cũng như tường trình về khóa II của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới đang tiến hành trong tháng Mười này tại Roma, cũng như tiến trình Thượng Hội đồng này bắt đầu từ năm 2021, do Đức Thánh cha Phanxicô khởi xướng.

Đức Hồng y Christophe Pierre, người Pháp, Sứ thần Tòa Thánh tại Washington, và Đức Hồng y Timothy Broglio, Tổng giám mục Giáo phận quân đội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Mỹ sẽ lên tiếng trong buổi khai mạc khóa họp.

Chi tiết toàn bộ chương trình nghị sự của khóa họp sắp tới chưa được công bố, nhưng người ta được biết trong đó có nhiều tường trình của các Ủy ban Giám mục về việc đẩy mạnh những sáng kiến do Đức Thánh cha đề ra, về phẩm giá con người và thừa tác vụ giáo lý. Các vị cũng thảo luận về những kế hoạch mục vụ áp dụng sinh thái toàn diện (integral ecology), như Đức Thánh cha Phanxicô đã đề cập đến trong Thông điệp Laudato sì, ban hành năm 2015.

Các giám mục sẽ bầu lại Chủ tịch cho 5 ủy ban và vị thủ quỹ mới của Hội đồng Giám mục Mỹ. Các vị cũng được tham khảo ý kiến về việc xin mở án phong chân phước cho hai phụ nữ, thuộc thế kỷ XX: đó là nữ tu Annella Zervas, Dòng Biển Đức, thuộc bang Minnesota, và giáo viên Gertrude Agnes Barber, thuộc bang Pennsylvania.

Hồi tháng Mười năm nay, Đức cha Andrew Cozzens, Giám mục Giáo phận Crookston, bang Minnesota, thông báo rằng những bước sơ khởi đã được thực hiện để khởi xướng án phong chân phước cho nữ tu Annella; tiến trình tương tự đã được khởi sự hồi tháng Mười Hai năm 2019 cho giáo viên Barber.




Thượng HĐGM: Hướng tới một Giáo hội "phân quyền" hơn
Trong buổi họp báo trưa ngày 18/10/2024, Ủy ban Thông tin của Thượng Hội đồng đã báo cáo về nội dung chính của các cuộc họp của Đại hội Thượng Hội đồng vào chiều ngày 17/10 và sáng ngày 18/10. Các cuộc thảo luận về tương quan giữa địa phương và toàn cầu tập trung vào ý tưởng một Giáo hội "phân quyền" hơn.

Các cuộc thảo luận tập trung vào Phần III của Tài liệu Làm việc, nói về "Các Nơi chốn".

Tiến sĩ Ruffini, Chủ tịch Ủy ban Thông tin của Thượng Hội đồng, nhấn mạnh rằng nhiều phát biểu nhấn mạnh tầm quan trọng của các Giáo hội địa phương, lưu ý rằng các Giáo hội này "không gây hại mà phục vụ cho sự hiệp nhất" vì "tính độc đáo của mỗi Giáo hội" không phải là mối đe dọa mà là "một món quà đặc biệt".

Một ví dụ về điều này là các Giáo hội Công giáo Đông phương, những truyền thống của họ phải được bảo vệ như một "kho báu cho toàn thể Giáo hội Công giáo hoàn vũ" và do đó "là một phần tích hợp và không thể thiếu" của Giáo hội. Do đó, nhiều người chỉ ra điều cần thiết là không chỉ đảm bảo "sự tồn tại" mà còn "sự hồi sinh của các Giáo hội Công giáo Đông phương, cả ở các khu vực xuất xứ và ở hải ngoại".

Một số người lập luận rằng "đã có một sự hiểu biết không hoàn toàn đúng về sự hiệp nhất trong lịch sử" và đôi khi Giáo hội Công giáo Latinh đã hành xử "bất công đối với các Giáo hội Đông phương tự quản, coi thần học của họ là thứ yếu". Tuy nhiên, ngày nay, một trong những thách đố là "xác định lại khái niệm lãnh thổ", "không chỉ là không gian vật lý". Do tình trạng di cư, "có những tín hữu Công giáo Đông phương sinh sống tại những vùng lãnh thổ mà số đông theo Nghi lễ Latinh".

Việc phân quyền từ Roma đến các vùng ngoại vi là chủ đề của nhiều suy tư trong các phiên họp của Thượng Hội đồng này, thu hút sự tò mò của các nhà báo trong nhiều cuộc họp báo. Cô Pires, Thư ký Ủy ban Thông tin của Thượng Hội đồng Giám mục, giải thích rằng các tiêu chí để xác định "phân cấp lành mạnh" đã được phân tích, bao gồm "tính gần gũi và tính bí tích", nghĩa là các bí tích.

Các cộng đồng cơ sở nhỏ cũng được nhấn mạnh là "không gian đặc quyền cho một Giáo hội hiệp hành". Đối với những cộng đồng này, các nghị phụ lưu ý rằng môi trường kỹ thuật số có tầm quan trọng lớn, vì nó có thể giúp họ kết nối, "không chỉ trên mạng mà còn trên lãnh thổ".




Ban lãnh đạo Thượng HĐGM trả lời những câu hỏi đầy thách đố của sinh viên đại học

Chiều ngày 18/10/2024, khoảng 140 sinh viên đại học, chủ yếu đến từ Bắc Mỹ, đã tập trung tại Hội trường Phaolô VI để trực tiếp trao đổi với các nhà lãnh đạo của Ủy ban thư ký Thượng hội đồng trong sự kiện có tên “Sinh viên đại học đối thoại với các nhà lãnh đạo Thượng Hội đồng”.

Các câu hỏi của các sinh viên đã được Đức Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng hội đồng, Đức Hồng y Jean-Claude Hollerich, Tổng tường trình viên của Thượng hội đồng, Sơ Leticia Salazar, Chưởng ấn của Giáo phận San Bernardino và Đức Cha Daniel Flores của Giáo phận Brownsville ở miền nam Texas trả lời.

Trả lời thách đố của việc lắng nghe

Câu hỏi đầu tiên đến từ Asia Chan, một sinh viên đến từ Trinidad và Tobago, đã diễn tả sự đấu tranh của mình khi bày tỏ đức tin trong một nền văn hóa khác và hỏi Giáo hội có thể cải thiện các cuộc tham vấn trong tương lai như thế nào để đảm bảo nhiều tiếng nói hơn được lắng nghe.

Đức Hồng y Grech trả lời, nhìn nhận thách thức và chia sẻ rằng tiến trình hiệp hành hiện tại của Giáo hội là điều chưa từng có xét về phạm vi lắng nghe. Ngài lưu ý rằng mặc dù vẫn còn những điều cần cải thiện, nhưng Thượng Hội đồng này đã thu hút nhiều người tham gia hơn so với các Thượng Hội đồng trước.

Đức Hồng y cho biết, “Trong Thượng hội đồng về Gia đình, chỉ có 80 trong số 114 Hội đồng Giám mục tham gia. Lần này, 112 trong số 114 Hội đồng đã nộp báo cáo của họ: điều đó có nghĩa là một bộ phận lớn người dân đã được lắng nghe”. Ngài cũng lưu ý rằng lần này, hơn 20.000 người đã tham gia trên nền tảng kỹ thuật số, vì vậy “Sự tham gia rất tốt và hứa hẹn sẽ tốt hơn trong tương lai”.

“Lắng nghe là điều cơ bản”, ngài nói tiếp, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe không chỉ ý kiến mà còn cả sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong một tiến trình “sẽ giúp Giáo hội trở nên hiệp hành hơn, tạo ra một nền văn hóa gặp gỡ bắt nguồn từ việc lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe nhau”.

Thu hút những người trẻ ở bên lề

Alexandra, một sinh viên người Venezuela lớn lên ở Trung Đông, đã hỏi tại sao những người trẻ không tham gia vào Giáo hội lại quan tâm đến tính hiệp hành và Giáo hội có thể tạo ra nơi chốn cho những người cảm thấy bị tổn thương bởi điều đó như thế nào.

 Đức Hồng y Hollerich nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lắng nghe mọi người, không chỉ lắng nghe ý kiến của họ, trong thế giới phân cực ngày nay.

Ngài chỉ ra sự xung đột ý kiến hiện đang đặc trưng cho Hoa Kỳ và nói rằng "phân cực là một cách suy nghĩ rất xa với tính hiệp hành, giống như thế giới kỹ thuật số, nơi bạn chỉ theo dõi những người có cùng quan điểm với bạn - và nếu bạn không đồng ý, nó sẽ trở nên rất đối lập".

Đức Hồng y nói thêm, "Một người có quan điểm khác không phải là kẻ thù; chúng ta là một phần của cùng một nhân loại. Chúng ta phải tìm ra giải pháp chung". Trong Giáo hội, ngài nói, điều đó dễ dàng hơn vì chúng ta là anh chị em; chúng ta cùng chia sẻ một Bí tích Rửa tội.

Ngài nói: “Tôi nghĩ thế giới có thể học hỏi từ điều đó, và thật tuyệt nếu chúng ta có thể mở lòng với các tín ngưỡng và tôn giáo khác để thảo luận trong tình huynh đệ toàn cầu về các vấn đề quan trọng của thế giới chúng ta” bởi vì tính hiệp hành cung cấp cách thế đưa mọi người lại với nhau, và công nhận tính nhân văn chung của họ.

Đức Hồng y Hollerich cho biết thế giới có thể học hỏi từ phương thức hiệp hành của Giáo hội, đặc biệt là trong việc tạo ra không gian cho cuộc đối thoại tôn trọng giải quyết các vấn đề toàn cầu như hòa bình, công lý và sinh thái.

Sự trung thành với truyền thống trong bối cảnh thay đổi của Thượng Hội đồng

Sondra, một sinh viên đến từ San Francisco, đã nêu lên lo ngại về việc nhấn mạnh vào kinh nghiệm trong tiến trình hiệp hành có thể ảnh hưởng đến lòng trung thành với truyền thống và chân lý.

Đức Cha Flores đã trả lời bằng cách trấn an cô rằng tính hiệp hành không làm tổn hại đến sứ mạng công bố Phúc âm của Giáo hội. Ngài thừa nhận thách thức khi lắng nghe những người có quan điểm khác nhưng khẳng định rằng điều đó rất cần thiết để hiểu được thực tế mà mọi người phải đối mặt.

Ngài nói: "Làm thế nào bạn vẫn trung thành với Giáo hội? Giáo hội đã hỗn loạn trong 2000 năm, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn giữ cho Giáo hội được đoàn kết. Tôi mang gì đến Roma từ Nam Texas? Tôi không lo rằng đức tin của Giáo hội sẽ bị tổn hại nếu chúng ta lắng nghe nhau". Ngài giải thích rằng tiến trình hiệp hành giúp đào sâu sự hiểu biết mà không làm suy yếu các giáo lý cốt lõi của Giáo hội.

Chuyển từ thảo luận sang hành động

Joseph, một sinh viên đến từ New Orleans tham gia vào mục vụ giới trẻ, đã hỏi làm thế nào để Thượng Hội đồng có thể biến các cuộc thảo luận thành hành động cụ thể.

Sơ Leticia Salazar nhấn mạnh bản chất biến đổi của tiến trình hiệp hành. Sơ ví nó như lời mời của Thánh Inhaxiô thành Loyola để cảm nghiệm Kinh Thánh như thể một người đang hiện diện trong bối cảnh đó. Sơ cho biết, việc ngồi cùng bàn với các tham dự viên Thượng Hội đồng là một trải nghiệm mạnh mẽ thúc đẩy sự hiệp thông và biến đổi.

Sơ Leticia bày tỏ hy vọng rằng các sinh viên sẽ mang trải nghiệm này trở về cộng đồng của họ, biến tính hiệp hành thành hiện thực sống động. Sơ nói thêm rằng tiến trình này không chỉ mang tính lý thuyết mà là một cách để phân định và xây dựng cùng nhau như một Giáo hội.

Sơ nói: “Điều gì sẽ xảy ra sau thời gian này ở đây? Nó sẽ tiếp tục ở San Bernardino và hy vọng là trong toàn thể Giáo hội. Đó là một cách để tìm thấy Chúa Giêsu ở nơi nhau, đó không phải là một ý tưởng, mà là cùng nhau xây dựng và cùng nhau phân định ý muốn của Chúa”.

Trong thời điểm phân cực này, Sơ Leticia tiếp tục, “Tính hiệp hành có một cách nhẹ nhàng để công bố Tin Mừng theo cách rất tôn trọng”.

Sơ kết luận: “Tôi rất hy vọng Hoa Kỳ sẽ thấy các bạn ở đây.  Điều tuyệt vời là chúng ta không đơn độc. Đức Giáo hoàng Phanxicô không muốn thực hiện sứ mạng của ngài một mình; ngài kêu gọi toàn thể Giáo hội cùng thực hiện với ngài. Hãy biến nó thành hiện thực!”.

Tính hiệp hành trong đào tạo thần học và mục vụ

Fabio đến từ El Salvador, một học giả thần học, đã hỏi làm thế nào các chủng viện và trường thần học có thể thúc đẩy tính hiệp hành.

Đức Cha Flores trả lời bằng cách khuyến khích các nhà thần học và chủng sinh tham gia vào thực tế của những người mà họ phục vụ. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bước ra khỏi môi trường học thuật để trải nghiệm cuộc sống của những người ở bên lề.

Đức Hồng y Grech nói thêm rằng các chủng viện và chương trình thần học phải được đánh giá lại thông qua lăng kính hiệp hành. Ngài mời các sinh viên và nhà thần học đóng góp vào cuộc trò chuyện đang diễn ra này, nhấn mạnh rằng tính hiệp hành phải thấm nhuần vào mọi cấp độ đào tạo của Giáo hội.

Đối thoại liên tôn và tính hiệp hành toàn cầu

Mika đến từ Cincinnati đã đặt câu hỏi thứ 6 và cũng là câu hỏi cuối cùng về cách Giáo hội có thể hỗ trợ giáo dân trong việc thúc đẩy đối thoại liên tôn và những bài học mà tính hiệp hành có thể học được từ các truyền thống đức tin khác.

Đức Hồng y Hollerich đã suy tư về kinh nghiệm của ngài tại Nhật Bản, nơi ngài dạy cho các sinh viên của nhiều tôn giáo khác nhau. Ngài chia sẻ rằng cuộc gặp gỡ này đã giúp ngài nhận ra rằng Chúa đã hiện diện trong mọi nền văn hóa và tôn giáo.

Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng tính hiệp hành có thể dạy thế giới rằng tôn giáo không nên là nguồn gốc của xung đột mà là con đường dẫn đến tình huynh đệ lớn hơn và kêu gọi Giáo hội hành động cùng với các truyền thống đức tin khác để giải quyết các thách đố toàn cầu, ví dụ như công bằng xã hội và sinh thái, như những người anh chị em được hiệp nhất bởi một sứ mạng chung.

Ngài nói: “Chúng ta phải cho thấy chúng ta không chỉ nói, chúng ta phải hành động cùng nhau, cùng nhau gặp gỡ và phát triển lòng tôn trọng, tình yêu và tình bạn và hành động vì lợi ích của nhân loại. Đó là một phần trong sứ mạng của chúng ta, và một phần của sứ mạng đó cũng là loan báo về Chúa”.

Một bức tranh ghép về những lời cầu nguyện và câu hỏi

Vào cuối cuộc gặp gỡ, các sinh viên đã trình bày một tác phẩm nghệ thuật theo phong cách mosaic, diễn tả những lời cầu nguyện và câu hỏi nảy sinh trong thời gian ở Roma. Mỗi thành viên trong nhóm thảo luận được mời đóng góp một lời cầu nguyện, tượng trưng cho hy vọng chung về một Giáo hội hiệp hành, bao gồm và lắng nghe hơn.

Theo thần học gia Birgit Weilwe, “mọi thứ đang chuyển động” với phụ nữ ở Thượng Hội đồng


image.png

Nữ tu Birgit Weiler, giáo sư thần học ở Đại học Lima, chuyên gia tại Thượng Hội đồng về tính đồng nghị | © Annegret Langenhorst

cath.ch, Lucienne Bittar, 2024-10-20

Theo nữ tu thần học gia Birgit Weiler: “Nguồn gốc của của chủ nghĩa giáo quyền và chủ nghĩa trọng nam là sự phạm pháp hiển nhiên với tính đồng nghị, phạm pháp này cần được khắc phục.” Là chuyên gia tại Thượng Hội đồng 2024, có một đức tin vững mạnh, Sơ có bài phát biểu rõ ràng và thực tế về vấn đề phụ nữ trong Giáo hội và việc phân cấp quyền lực.

Tháng 2 năm 2024, Đức Phanxicô mở rộng nhóm cố vấn cho Thượng Hội đồng. Trong số sáu thành viên mới của Hội đồng Tổng Thư ký có ba phụ nữ, trong đó có nữ tu người Đức Birgit Weiler, thuộc Tu hội Nữ tu Truyền giáo Y tế (MMS). Giáo sư thần học tại Đại học Công giáo Giáo hoàng Lima, Pêru là chuyên gia về con đường đồng nghị, sơ đã tham dự ở mọi cấp độ, quốc gia, lục địa và bây giờ là toàn cầu.

Sơ tích cực tham gia Thượng Hội đồng với tư cách là chuyên gia. vì sao sơ không có mặt ở Rôma?

Sơ Birgit Weiler: Tôi chỉ mới bắt đầu từ tháng 2 vừa qua, chỉ có thành viên của Thượng hội đồng lần thứ nhất (2023) mới có thể tham dự kỳ họp thứ hai. Công việc của tôi là viết bài theo chuyên môn của tôi cho Tài liệu Làm việc (Instrumentum labis, IL). Tài liệu này được ban thư ký Thượng Hội đồng chuẩn bị dựa trên sự tham vấn trên khắp thế giới, là cơ sở để các thành viên suy ngẫm và đưa ra đề nghị. Chúng tôi cũng chuẩn bị tài liệu cho các thư ký đặc biệt, họ sẽ dần dần viết tài liệu cuối cùng. Tôi đặc biệt làm việc về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội.

Sơ là giáo sư thần học, cố vấn thần học của Trung tâm Chương trình và Mạng lưới Mục vụ của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê (CELAM), thành viên của nhóm các thần học gia CELAM… Sơ đã cho thấy phụ nữ có thể tìm vị trí cho chính họ. Sơ cảm nghiệm thế nào về sự chia rẽ hiện nay trong Giáo hội về vị trí “được giao” cho phụ nữ?

Khoảng cách này rất đau đớn và phải được khắc phục. Đây là vấn đề quan trọng của Giáo hội như toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng đã cho thấy.

Nhờ sự đóng góp của một số thành viên trong phiên họp toàn thể tháng 10 năm 2023, báo cáo tóm tắt của kỳ họp đầu tiên này nêu rõ: “Khi trong Giáo hội, phẩm giá và công lý trong các mối quan hệ giữa nam và nữ được tôn trọng, thì độ tin cậy của lời tuyên bố chúng ta đưa ra với thế giới lại bị suy yếu. Tiến trình đồng nghị cho thấy chúng ta cần phải điều chỉnh các mối quan hệ và thực hiện các thay đổi về cơ cấu.”

“Việc biến đổi các cơ cấu và thủ tục không làm thuận lợi cho tính đồng nghị” là cần thiết.

Từ góc độ đức tin, tôi vẫn nghĩ Thần Khí đã và vẫn đang hoạt động trên con đường đồng nghị, trong tất cả các giai đoạn của Thượng Hội đồng. Chúng ta có nhiều nơi chốn để lắng nghe nhau, và với Chúa Thánh Thần, chúng tôi đã được tự do ngôn luận (parrhesia) và nhận định về các ơn gọi khác nhau.

Sơ nói về các ơn gọi khác nhau. Nhiều người trong Giáo hội thích nói đến “đặc sủng” đặc biệt của phụ nữ. Sơ nghĩ gì về chuyện này?

Điều quan trọng là phải tránh ‘chủ nghĩa bản chất’ như thể phụ nữ chỉ có một bản chất thu hút nào đó. Nhưng chúng ta phải nghĩ đến sự đa dạng của phụ nữ. Phụ nữ có nhiều ơn đặc biệt như khả năng chăm sóc, gặp gỡ người khác, xây cầu, đánh giá cao sự đa dạng, vì thế họ có khả năng thống nhất trong đa dạng… Nhưng đây là những năng khiếu đàn ông cũng có và họ có khả năng phát triển.

Cách suy nghĩ này vẫn còn thấy rõ trong Giáo hội… Chúng ta có thể nghĩ đã có một thay đổi thực sự đang hình thành không?

Trong hành trình Thượng Hội đồng, có nhiều đóng góp của phụ nữ từ khắp nơi trên thế giới – cũng như của cả nam giới – nhắc chúng ta nam nữ đều được ban cho phẩm giá rửa tội như nhau và nhận các ơn đa dạng của Chúa Thánh Thần cũng như nhau. Thánh Phaolô đã viết: “… Không còn nam hay nữ vì tất cả anh em là một trong Chúa Giêsu Kitô” (Gl 3,28) – báo cáo tóm tắt năm 2023 viết: “Người nam người nữ đều được kêu gọi hướng tới một hiệp thông đặc trưng bởi tinh thần đồng trách nhiệm, không có sự cạnh tranh, điều này phải được thể hiện ở mọi cấp độ của đời sống Giáo hội.”

Nhưng những đóng góp này cũng đã xác định căn tính và chủ nghĩa trọng nam, ít nhất là ở Châu Mỹ La-tinh, đó là não trạng và thái độ cản trở để có một Giáo hội đồng nghị thực sự. Căn nguyên của hai hiện tượng này là lạm dụng quyền lực, mâu thuẫn hiển nhiên với tính đồng nghị. Điều này phải được khắc phục.

“Phụ nữ phải được tham gia vào các không gian phân định, ra quyết định và đào tạo, kể cả trong các cuộc hội thảo”.

Đây là lý do vì sao cần phải có hoán cải sâu sắc và liên tục trong trái tim và trong tâm trí. Điều này đi đôi với việc biến đổi các cơ cấu và thủ tục không ủng hộ tính đồng nghị, đòi hỏi sự đa dạng của các đoàn sủng – nam giới cũng như nữ giới – phải được đánh giá cao và họ phải có không gian cần thiết để phát triển, đóng góp cho lợi ích Giáo hội, đồng thời thúc đẩy sứ mệnh của Giáo hội trong thế giới ngày nay.

Làm thế nào để đấu tranh hiệu quả chống lại chủ nghĩa giáo quyền và chủ nghĩa trọng nam?

Trong suốt tiến trình đồng nghị, chúng tôi đã thừa nhận chính phụ nữ là người thúc đẩy tính đồng nghị trong Giáo hội. Họ góp phần rất lớn vào việc xây dựng cộng đồng và củng cố đời sống đức tin trong các giáo xứ, trong nhiều lãnh vực khác nhau của Giáo hội. Vì thế điều cần thiết là họ phải được tham gia nhiều hơn vào các không gian phân định và đưa ra quyết định, cũng như trong các không gian đào tạo, kể cả trong các cuộc hội thảo. Nơi chúng tôi làm công việc thần học và nơi chúng tôi giảng dạy.

Một số lớn phụ nữ và cả các ông cũng yêu cầu phụ nữ được làm phó tế vĩnh viễn như một thừa tác vụ được phong chức. Nhưng chức phó tế nữ đã bị loại khỏi các chủ đề thảo luận của Thượng Hội đồng lần thứ hai. Làm thế nào để giữ lạc quan trong bối cảnh này?

Mọi thứ đang chuyển động. Chủ đề này được nhắc đến trong các phiên họp hiện tại của Thượng Hội đồng. Một số thành viên mong muốn có một tiến trình đối thoại hơn trong việc giải quyết vấn đề này, để vấn đề không chỉ được các Ủy ban quy định giải quyết. Chúng ta sẽ xem những người có trách nhiệm về tiến trình đồng nghị sẽ xem xét vấn đề này như thế nào.

Có một điều chắc chắn là sự minh bạch trong cách chúng ta tiến hành vấn đề là rất quan trọng, có nghĩa tất cả các lập luận phải được đưa ra bàn thảo, được những người có quan điểm khác nhau cân nhắc một cách tự do và phân định cẩn thận.

Sơ cũng đã theo dõi kỹ Thượng hội đồng về Amazon năm 2019, “nơi thử nghiệm tốt đẹp” tiến trình Thượng Hội đồng, đã tạo nhiều kỳ vọng… và cả thất vọng. Tại Querida Amazonia, Đức Phanxicô đã không theo mong muốn của các Nghị phụ, không thiết lập viri probati. Có phải chúng ta cũng đang đi đến thất vọng tương tự với Thượng Hội đồng này không?

Trước hết phải làm rõ, Thượng Hội đồng không có quyền đưa ra quyết định mà chỉ đưa ra đề nghị cho giáo hoàng. Tại Querida Amazonia, ngài không đóng cánh cửa viri probati cũng như việc phụ nữ tiếp cận chức phó tế được phong chức.                                                      

Tôi đã tham dự vào Giáo hội Amazonia, và với chúng tôi, Thượng Hội đồng Amazonia mang lại nhiều hoa trái và vẫn tiếp tục phát triển, đã khơi dậy sự tham gia mạnh mẽ của phụ nữ và giáo dân vào các lãnh vực phân định và ra quyết định cho Amazon.

Một ví dụ cụ thể là việc thành lập Hội đồng Giáo hội Amazon (CEAMA) và thành phần ban chủ tịch, trong đó có ông Mauricio López, đại diện cho giáo dân, và hai phụ nữ, một lãnh đạo bản địa đại diện cho các dân tộc bản địa và một nữ tu đại diện cho các tu sĩ nam nữ vùng Amazon. CEAMA là nơi để tìm hiểu về sự phát triển của tính đồng nghị ở Amazon, cả ở cấp độ tinh thần lẫn cơ cấu, thủ tục và thực hành cụ thể.

Thượng Hội đồng có các đại diện từ khắp nơi trên thế giới, với những tầm nhìn văn hóa và Giáo hội rất khác nhau. Liệu những căng thẳng giữa Giáo hội hoàn vũ và các nét đặc thù địa phương có cơ hội khắc phục mà không cần xem xét lại các phương thức quản trị không?

Tôi nghĩ chúng ta cần một “phân cấp lành mạnh”, như Đức Phanxicô đã viết trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) năm 2013. Điều này ngụ ý quy một số quyền hạn nào đó, chẳng hạn quyền ra quyết định trực tiếp cho các Giáo hội địa phương.

Đức Phanxicô cũng đã nhiều lần nhấn mạnh các Giáo hội địa phương có kiến thức cụ thể hơn về bối cảnh và thực tế tại địa phương. Kiến thức này cần thiết cho việc phân định và đưa ra quyết định ở địa phương về nhiều vấn đề.

Tiến trình đồng nghị đã kêu gọi Giáo hội sống sâu sắc ý nghĩa thế nào là một tín hữu công giáo, cố gắng sống và thực hành sự hiệp nhất trong đa dạng. Đây là một thách thức liên tục để phát triển, đòi hỏi chúng ta đánh giá cao các khác biệt, tin tưởng nhau và công nhận không chỉ có một cách duy nhất để trải nghiệm tính đồng nghị, cũng như phát triển các cơ cấu, phương tiện và thủ tục quản trị trong Giáo hội. Những điều này phải đáp ứng sự đa dạng của các bối cảnh, các nơi thực hiện, cách để là một Giáo hội, cách sống và cử hành đức tin của chúng ta.

Tài liệu làm việc của phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng đưa ra những quan điểm thần học và mục vụ quan trọng về vấn đề này. Và ở cấp độ toàn thể Giáo hội, Đức Phanxicô đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Giáo hội sống nhất quán trong sự hiệp nhất trong đa dạng.

Phụ nữ ngày càng mất kiên nhẫn tại Thượng hội đồng… và ở bên ngoài

                                                                                                                                                       Thượng Hội đồng phiên họp ngày 15 tháng 10-2024       

Cách thức giải quyết vấn đề phụ nữ trong Giáo hội tại Thượng Hội đồng tạo nhiều bất bình. Ngày 18 tháng 10 đánh dấu cao điểm của vấn đề này với một cuộc họp bị cho là rất thất vọng vì không có khả năng tranh luận. Cùng ngày hôm đó, tại Rôma đã có một sự kiện đáng ngạc nhiên đã xảy ra: phong chức trái phép cho phụ nữ.

Vai trò của phụ nữ trong Giáo hội công giáo không phải là chủ đề chính thức của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị nhưng vấn đề này đã được đưa trở lại bàn thảo luận sau những câu hỏi của các thành viên trong hội đồng. Các cuộc gặp với các chuyên gia của mười nhóm nghiên cứu do Đức Phanxicô thành lập để giải quyết các vấn đề ‘tế nhị’ cuối cùng đã được ban lãnh đạo Thượng Hội đồng cho phép hai tuần trước, sau khi có nhiều thành viên xin có cơ hội thảo luận về những vấn đề gây tranh cãi này.

Hồng y Víctor Manuel Fernández làm các nghị mẫu Thượng Hội đồng thất vọng

Ngày 2 tháng 10 năm 2024, Bộ Giáo lý Đức tin ra thông báo cho biết một tài liệu huấn quyền về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đang được chuẩn bị. Sau đó, một cuộc họp đã được tổ chức vào ngày 18 tháng 10, giữa khoảng một trăm người tham gia Thượng Hội đồng và hai chuyên gia từ nhóm nghiên cứu về phụ nữ. Nhưng theo những người có mặt, cuộc họp đã diễn ra không tốt đẹp, họ phẫn nộ vì bất kỳ cuộc thảo luận nào cũng đều không thể thực hiện được. Họ chỉ được mời can thiệp bằng lời nói hoặc bằng văn bản.

Sự vắng mặt của hồng y Bộ trưởng Victor Fernandez, tổng trưởng không được chấp nhận, các thành viên cho rằng đây là “một chuyện không tốt, một thất vọng nặng nề”. Nhưng ngày 9 tháng 10, Hồng y Fernandez đã cho biết ngài không dự cuộc họp được. Sau khi bị chỉ trích, ngài lấy làm tiếc vì có “hiểu lầm”, ngài không thể dự kịp thời được. Ngài cho biết ngài sẽ dự cuộc họ dự kiến ngày 24 tháng 10 giữa nhóm nghiên cứu về vấn đề phụ nữ và các thành viên Hội đồng.

Bị tổn thương vì Hồng y không dự cuộc họp, các nghị mẫu đã trực tiếp nói chuyện với Đức Phanxicô. Họ được ngài tiếp ngày hôm sau trong một buổi tiếp kiến đặc biệt, họ bày tỏ mối quan tâm của họ với Ngài.

Sáu phụ nữ chịu chức ở Rôma

Bên lề các phiên họp chính thức của Thượng Hội đồng, một cuộc biểu tình đã được ‘Hiệp hội nữ linh mục công giáo la-mã quốc tế’ tổ chức trên một chiếc sà lan trên sông Tiber, gồm sáu phụ nữ đến từ Pháp, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ đã được ba nữ giám mục bị vạ tuyệt thông truyền chức phó tế và linh mục một cách bất hợp pháp. Trong số này có nữ Giám mục Bridget Mary Meehan, đến từ Hoa Kỳ, thụ phong linh mục tại Pittsburgh năm 2006 và trở thành giám mục năm 2009, và nữ Giám mục Gisela Forster, 78 tuổi, được các giám mục Đức truyền chức linh mục, sau đó bị vạ tuyệt thông, cùng với sáu phụ nữ khác chịu chức năm 2002 trong một buổi lễ được tổ chức trên sông Danube.

Theo báo Nederlands Dagblad, hiện nay có 19 Giám mục công giáo bất hợp pháp và khoảng 300 linh mục trên 14 quốc gia. Họ thuộc hai tổ chức “nữ linh mục công giáo la-mã”. Giáo luật không quy định việc truyền chức cho phụ nữ và tự động dứt phép thông công bất cứ ai tham dự vào một hành động mang tính biểu tượng như vậy.


                                                                                                                                                         Truyền chức linh mục nữ năm 2006, Pittsburgh, Hoa Kỳ 

Bà Bridget Mary Meehan nói: “Đúng, Giáo hội đã rút phép thông công chúng tôi nhưng không có nghĩa chúng tôi không còn là người công giáo la-mã nữa. Vì phép rửa tội không thể bị hủy bỏ. Đơn giản là bạn không còn được nhận Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác. Nhưng tôi làm theo lương tâm của tôi, và nếu tôi đi lễ ở một giáo xứ, tôi sẽ được rước lễ.” Báo Nederlands Dagblad cho biết nghi thức phụng vụ áp dụng cho lễ phong chức cho phụ nữ ngày 18 tháng 10 “giống như phụng vụ chính thức của công giáo”. Bà Bridget Mary Meehan giải thích: “Sự khác biệt duy nhất là chúng tôi không tuyên thệ vâng phục giám mục.”

image.png




Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức dấn thân mạnh mẽ cổ võ phó tế phụ nữ


Trong số những thành viên Thượng Hội đồng Giám mục thế giới hiện nay, người dấn thân cổ võ mạnh nhất việc truyền chức phó tế cho phụ nữ, đó là Đức cha Georg Bätzing, Giám mục Giáo phận Limburg.



Trang mạng “Công giáo Đức” của Hội đồng Giám mục Đức, truyền đi ngày 18 tháng Mười vừa qua, cho biết một phần bài tham luận hôm 17 tháng Mười trước đó của Đức cha Bätzing, không được công bố, nhưng được chuyển cho hãng tin EPD của Đức, nói rằng: “Trong những ngày qua, chúng ta đã nói nhiều về sự cần thiết phải đối xử với phụ nữ một cách tốt đẹp hơn so với hiện nay, đưa phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo ở mọi cấp độ trong cộng đoàn Giáo hội và vào tiến trình thảo luận và quyết định. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Các cuộc trao đổi trong Thượng Hội đồng này cho thấy vấn đề cho phụ nữ lãnh nhận thánh chức phó tế, không phải chỉ được đề ra trong một phần nhỏ của Giáo hội hoàn vũ. Đối với vùng văn hóa xuất xứ của tôi, đã có một câu trả lời được quyết định cho câu hỏi này là: các phụ nữ có tiếp tục tìm kiếm và có thể tìm thấy quê hương của mình trong Giáo hội hay không?”


Trong cuộc gặp gỡ vào chiều ngày 24/10/2024 với các thành viên của nhóm làm việc số 5, Đức Hồng y Victor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, giải thích tại sao ngài đã không xem vấn đề quyết định về chức nữ phó tế đã "chín muồi" và nói rằng điều này không có nghĩa là không còn khả năng có chức nữ phó tế.


Các thần học gia làm việc như thế nào để khai triển tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng


79 thần học gia tham dự các cuộc tranh luận trong phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị sẽ kết thúc ngày 27 tháng 10 tại Rôma. Các chuyên gia có trách nhiệm đặc biệt: viết tóm tắt các cuộc thảo luận cho đến tài liệu cuối cùng.


Ở Rôma, ngoài công việc chính thức tại Hội trường Phaolô VI rộng lớn gần Đền thờ Thánh Phêrô, còn có bốn diễn đàn thần học-mục vụ được tổ chức tại Viện Augustinianum và Trụ sở Dòng Tên tại Rôma ngày 9 và 16 tháng 10.

Rất được theo dõi, các hội nghị này tập trung vào việc chia sẻ trách nhiệm trong Giáo hội, thẩm quyền của giám mục, mối liên kết giữa các Giáo hội địa phương và Vatican… Một thành viên tham dự cho biết: “Đây là thời điểm cần làm sáng tỏ, tôi vui mừng vì cuối cùng thần học có chỗ đứng trong Thượng Hội đồng.”

Trong Công đồng Vatican II, các giám mục đã được các các Hồng y Henri de Lubac và Joseph Ratzinger làm cố vấn thần học. Còn với Thượng Hội đồng này thì sao?

Rõ ràng là quy mô khác nhau – Công đồng quy tụ hơn 2.000 giám mục trong khi Thượng Hội đồng chỉ có khoảng 340 giám mục trong đó có 79 chuyên gia thần học từ khắp nơi trên thế giới về họp. Để tránh làm gián đoạn công việc đang diễn ra, năm thần học gia đồng ý nói chuyện với báo La Croix, họ xin được giấu tên.

Thu thập, phân loại, biên soạn, công bố

Các chuyên gia đã viết “tài liệu làm việc” dài 60 trang, làm cơ sở cho các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng. Kể từ đầu tháng 10, họ có mặt hàng ngày để làm sáng rõ công việc của 36 nhóm làm việc.

Chẳng hạn, ngày 15 tháng 10, bàn nói tiếng Anh đã xin chuyên gia người Úc Ormond Rush giải thích rõ hơn về Sensus fidei (cảm thức đức tin). Một nguồn tin nội bộ cho biết: “Trên thực tế, các chuyên gia hiếm khi được mời đến bàn thảo luận.” Các thành viên có thời gian rất hạn chế, họ chỉ có 3 phút để nói.

Cũng vậy với Phiên họp toàn thể. Trong một bài phát biểu rất đáng chú ý ngày 17 tháng 10, chuyên gia người Canada Gilles Routhier đã bảo vệ quyền tự lập lớn hơn cho các hội đồng giám mục, phải phù hợp với bộ giáo luật hiện hành. Nhưng sau mười lăm ngày tranh luận, đó là một trong những bài phát biểu đầu tiên của một thần học gia tại Thượng Hội đồng.

Giống như năm ngoái, một số chuyên gia, giáo sư từ các trường đại học danh tiếng cho biết họ “thất vọng” và cảm thấy bị bó buộc trong “công việc rất lệ thuộc”: thu thập, phân loại, sắp xếp, tải các báo cáo trao đổi lên đám mây (“máy chủ từ xa”). Theo phương pháp luận của Thượng Hội đồng, vai trò của thần học gia là “sắp xếp, phân tích và tổng hợp tất cả các tài liệu (gồm cả những bài can thiệp tự do), trên cơ sở Kinh thánh và Truyền thống tích cực của Giáo hội”.

Tóm lại, các thành viên Thượng Hội đồng nói, các thần học gia viết. Nhưng các thần học gia có vai trò gì trong công việc này?

Vẫn còn hơi mờ. Ngày 9 tháng 10, một ủy ban giám sát đã được bầu, ngày 18 tháng 10, Hồng y Jean-Marc Aveline giáo phận Marseille và thành viên của ủy ban giải thích: “Mục đích là đảm bảo có ít khoảng cách nhất có thể, dù luôn có khoảng cách giữa văn bản được đề xuất và các cuộc thảo luận.” Phiên bản đầu tiên của tài liệu cuối cùng sẽ được gởi đến Thượng Hội đồng ngày thứ hai 21 tháng 10 và sẽ được sửa đổi cho đến cuối tuần. Một chuyên gia quen thuộc với các Thượng Hội đồng nhận xét: “Nhưng nếu toàn bộ văn bản không tương ứng với bầu khí chung của các cuộc tranh luận, thì sẽ rất căng thẳng.”

Các thần học gia thấy mình ở đầu ngọn sóng. Một mặt, họ được yêu cầu phải báo cáo trung thực các cuộc tranh luận. Ngày 16 tháng 10, linh mục thần học gia Dario Vitali, điều phối viên các chuyên gia giải thích: “Họ phải công nhận sự đồng thuận đang trưởng thành trong Thượng Hội đồng để văn bản có thể phát triển một cách mạch lạc”. Nhưng mặt khác, công việc của họ cũng là làm sáng tỏ và phát triển các trực giác được thể hiện, bằng cách tái cấu trúc chúng, để thực hiện mong muốn lớn lao nhưng vẫn còn hơi mơ hồ về tính đồng nghị này.

Các thách thức rất quan trọng. Một chuyên gia cho rằng Thượng Hội đồng này được xem là một cố gắng thành công nhất cho đến nay nhằm chống lại nạn lạm dụng trong Giáo hội, cả về tình dục lẫn quyền hành. Trong các diễn đàn thần học ngày 9 và 16 tháng 10, các giám mục có mặt được khuyến khích thay đổi thái độ, “trở thành anh em”, chia sẻ trách nhiệm, không giấu giếm bất cứ điều gì.

Thần học mới được trình bày ở đây nhằm mục đích chú ý hơn đến bối cảnh, đến sự cân bằng quyền lực… Với thần học mới này, Giáo hội không còn tưởng tượng ra những nguyên nhân ngoại sinh dẫn đến cuộc khủng hoảng nghiêm trọng đã trải qua, phổ biến các ý tưởng của Tháng Năm 68  (cấm không được cấm), các lệch lạc cá nhân. Nhưng ngược lại, bây giờ Thượng Hội đồng đặt câu hỏi sâu sắc về chính tổ chức của chính mình. Để phân cấp? Thượng Hội đồng có thời hạn đến ngày 27 tháng 10 để cho biết họ muốn đi bao xa.

ĐTC Phanxicô tiếp các cha giải tội tại Đền thờ Thánh Phêrô

Sáng thứ Năm ngày 24/10/2024, gặp gỡ các cha giải tội tại Đền thờ Thánh Phêrô nhân kỷ niệm 250 năm các tu sĩ Dòng Phanxicô Viện tu được ủy thác thừa tác vụ giải tội tại Đền thờ, Đức Thánh Cha nhắn nhủ họ hãy thi hành sứ vụ với sự khiêm nhường, trong sự lắng nghe và với lòng thương xót. Ngài nói rằng các cha giải tội không phải là những nhà tâm lý; hãy luôn tha thứ mà không cần tra hỏi.

image.png

Mở đầu bài nói chuyện, Đức Thánh Cha nhắc các cha giải tội tại Đền thờ Thánh Phêrô rằng sự hiện diện của họ rất quan trọng, bởi vì họ giúp các tín hữu hành hương gặp gỡ Chúa của lòng thương xót qua bí tích Hòa giải và làm chứng cho các du khách rằng Giáo hội là cộng đoàn của những người được cứu độ, những người được tha thứ, những người tin yêu và hy vọng vào sự từ ái của Thiên Chúa.

Dựa trên chứng tá của Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha chia sẻ với các linh mục ba chiều kích đặc biệt trong sứ vụ của họ.

Khiêm nhường

Trước hết là khiêm nhường. Nhắc lại rằng Thánh Tông đồ Phêrô đổ máu tử đạo chỉ sau khi đã khiêm nhường khóc lóc vì tội lỗi của mình (Lc 22,56-62), Đức Thánh Cha nói rằng thánh nhân nhắc nhở rằng mỗi Tông Đồ - và mỗi vị Giải tội - đều mang kho tàng ân sủng mà mình phân phát trong một bình đất, ‘để có vẻ như quyền năng phi thường này thuộc về Thiên Chúa, chứ không đến từ chúng ta’ (2 Cr 4,7)”. Vì vậy, ngài nhắn nhủ họ rằng “để trở thành những cha giải tội tốt lành, chúng ta hãy trở thành những hối nhân đầu tiên tìm kiếm sự tha thứ” (Bolla Misericordiae Vultus, 17).

Lắng nghe

Điểm thứ hai là lắng nghe mọi người, đặc biệt là giới trẻ và trẻ em. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “lắng nghe không chỉ là lắng nghe những gì người ta nói, nhưng trước hết là đón nhận lời nói của họ như một món quà Thiên Chúa ban cho sự hoán cải của mình, một cách ngoan ngoãn, như đất sét trong tay người thợ gốm (xem Is 64.7)”. Ngài nhắn nhủ các vị giải tội đừng bao giờ quên rằng “bằng cách thực sự lắng nghe người anh em của chúng ta trong cuộc đối thoại bí tích, chúng ta lắng nghe chính Chúa Giêsu, người nghèo khổ và khiêm nhường […] và chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể hy vọng đưa hối nhân tiếp xúc với Chúa Giêsu” (ibid.).

Lòng thương xót

Và điều cuối cùng là lòng thương xót. Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Là những người ban phát sự tha thứ của Thiên Chúa, điều quan trọng là phải trở thành ‘những người có lòng thương xót’, vui vẻ, quảng đại, sẵn sàng hiểu và an ủi, bằng lời nói và thái độ”. Ngài nói rằng cha giải tội chỉ có một loại thuốc để đổ lên vết thương của anh em mình: đó là lòng thương xót của Thiên Chúa.


Sáu giám mục Thụy Sĩ bị Bộ Giám mục khiển trách



Sáu giám mục Thụy sĩ bị Bộ Giám mục khiển trách, vì đã không xử lý đúng đắn các vụ lạm dụng tính dục, và các vị giám mục rất lấy làm tiếc vì sự thiếu sót của mình.




Thư của Bộ Giám mục, với chữ ký của Đức Hồng y Tổng trưởng Robert Francis Prevost, được đăng trên trang mạng của Hội đồng Giám mục Thụy sĩ, hôm thứ Sáu, ngày 18 tháng Mười vừa qua. Thư nhận xét rằng các thủ tục được quy định trong giáo luật đã không được các giám mục tuân hành đúng, đồng thời kêu gọi các giám mục cảnh giác hơn trong tương lai, khi xử lý các vụ lạm dụng tính dục được trình báo: cần phải hết sức cẩn thận và với sự chuyên môn, nghiêm túc tuân theo tất cả các quy luật có thể áp dụng được trong các thủ tục điều tra”.

Tuy nhiên, theo các thông tin mà Bộ Giám mục nhận được, không có bằng chứng nào về những tội phạm, che đậy, thờ ơ hoặc sai lỗi đòi phải khởi sự các biện pháp hình sự.

Theo thông tin chi tiết hơn của giáo xứ Công giáo ở thủ đô Bern, có sự chậm trễ trong việc trình báo về Tòa Thánh, và sự cố tình không kiểm soát khi chọn các ứng sinh linh mục.

Trong thông cáo, các giám mục Thụy Sĩ rất tiếc vì những sai lầm, thiếu sót và lơ là trong việc áp dụng giáo luật và các vị bày tỏ quyết tâm hơn trong việc chống lại những vụ lạm dụng trong Giáo hội.


Tòa Tổng giám mục Paris từ chối đề nghị thu vé vào nhà thờ chính tòa


Tòa Tổng giám mục Giáo phận Paris đã từ chối đề nghị của bà Bộ trưởng Văn hóa, thu vé những người vào thăm nhà thờ chính tòa Đức Bà Paris. Thánh đường sẽ được mở cửa lại vào ngày 08 tháng Mười Hai tới đây, sau 5 năm tu sửa vì hỏa hoạn, ngày 15 Chín năm 2019.

Việc tu sửa nhà thờ Đức Bà, sau hỏa hoạn có chi phí là 150 triệu Euro, hầu hết do các ân nhân đóng góp và tài trợ của chính phủ.

Bà Bộ trưởng Rachida Dati đã đưa đề nghị thu tiền vé 5 Euro mỗi du khách vào thăm, để lấy tiền trang trải chi phí bảo trì thánh đường. Bà dự kiến rằng với tiền 75 triệu Euro mỗi năm, việc bảo trì được bảo đảm. Bà đưa đề nghị đó với Đức Tổng giám mục Laurent Ulrich của giáo phận sở tại. Bà nói rằng: “Các nơi ở Âu châu, vào các nhà thờ nổi tiếng nhất đều phải trả tiền”.

Trước năm 2019, mỗi năm có từ mười hai đến mười bốn triệu người viếng thăm nhà thờ chính tòa Đức Bà. Trong khi đó, tháp Eiffel, hồi năm ngoái, chỉ có 6 triệu 300.000 người viếng thăm.

Nhà thờ chính tòa Paris cũng như hơn 30.000 thánh đường khác trên toàn quốc thuộc quyền sở hữu của chính phủ. Nhà nước chịu trách nhiệm bảo tồn, nhưng để cho Giáo hội sử dụng để làm việc phụng tự. Chỉ có những thánh đường xây cất sau năm 1905, là năm có luật tách biệt Giáo hội và nhà nước, thì thuộc quyền sở hữu của Giáo hội. Tại Ý, hầu hết các thánh đường cũng có quy chế tương tự.

Phản ứng về đề nghị của bà Bộ trưởng văn hóa, hôm thứ Năm, ngày 24 tháng Mười vừa qua, Tòa Tổng giám mục Paris ra thông cáo nhắc nhở nguyên tắc miễn phí vào các nhà thờ. Sở dĩ có sự miễn phí này là vì sứ mạng của Giáo hội là đón tiếp vô điều kiện, và vì thế là miễn phí, tất cả mọi người nam nữ. “Tại nhà thờ Đức Bà, các tín hữu và du khách không bao giờ bị phân biệt: các buổi lễ được cử hành trong các cuộc viếng thăm và các cuộc viếng thăm này tiếp tục trong các buổi lễ. Vì thế, mọi sự phân cách thể lý làm cho khách hành hương và người viếng thăm không được hiệp thông giữa tất cả những gì là thiết yếu tại nơi ấy”.

Khoản số 17 của luật năm 1905 quy định những điều vừa nói.



Trong năm qua, 2023, số người Công giáo tại Vương quốc Bỉ “quay lưng” lại với Giáo hội Công giáo lên tới mức kỷ lục, là hơn 14.000 người.

Giáo Hội cho biết như trên trong phúc trình thường niên mới công bố.   Lý do nhiều người nêu lên là vì   “kinh tởm trước những vụ lạm dụng tính dục trong Giáo hội cũng như thứ văn hóa im lặng, che đậy.!”

Tại Đức hoặc Thụy Sĩ: người muốn ra khỏi Giáo Hội của mình để khỏi phải đóng thuế cho Giáo hội, thì phải nộp đơn tại Văn phòng tòa án liên hệ. Nếu được nhận, thì họ sẽ không phải trả thuế cho Giáo hội cũ của họ, tương đương với 8 hoặc 9% thuế lợi tức họ đóng cho nhà nước.

Nhưng tại Bỉ, việc chính thức ra khỏi Giáo hội là điều không có thể. Thay vào đó, họ gửi đơn đến giáo xứ liên hệ để yêu cầu xóa tên họ trong sổ rửa tội. Nhưng bí tích rửa tội, theo Giáo lý Công giáo là điều không thể xóa bỏ, nên người trách nhiệm chỉ ghi chú cạnh tên của họ ở trong sổ rằng “đã làm đơn xin xóa bỏ”.

Cho đến nay, mỗi năm có khoảng 1.200 người Công giáo Bỉ xin xóa tên như vậy và chỉ có năm 2021, con số này mới tăng lên hơn 5.000 người.

Riêng trong năm ngoái, như vừa nói, con số đơn xin tăng vọt lên trên 14.000 người, trong đó 98% thuộc vùng nói tiếng Flamand hay tiếng Hòa Lan.

Theo nhận định của Giáo hội, trong năm ngoái, việc trình chiếu cuốn phim thời sự với tựa đề   “Bị Thiên Chúa quên lãng”  đã đưa tới sự gia tăng như thế. Phim được chiếu tại vùng nói tiếng Flamand, do đài VRT truyền hình thực hiện này phổ biến. Phim đã ảnh hưởng mạnh đến các khán thính giả. Phim trình bày cuộc phỏng vấn khoảng 20 nạn nhân đã bị lạm dụng trong các cơ sở của Giáo hội Công giáo. Phần lớn đó là những người già, nhiều hơn những người trẻ, là những nạn nhân được phỏng vấn trong phim.

Vấn đề lạm dụng tính dục là một trong những đề tài chính được báo chí nói đến, trong cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Bỉ, hồi tháng Chín vừa qua. Tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh, Đức Thánh cha đã gặp gỡ 17 người đã bị giáo sĩ Công giáo ở Bỉ lạm dụng tính dục trong quá khứ. Cuộc gặp gỡ dài hơn hai tiếng đồng hồ và tiếp theo đó, Đức Thánh cha đã gọi sự lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên là một ô nhục. Ngài nói: “Phải nhìn nhận sự ô nhục này, xin lỗi và giải quyết vấn đề”.

Trước đó, quốc hội Bỉ đã quyết định lập một ủy ban để điều tra về lạm dụng trong Giáo hội.

Cả trong năm 2024 này, số người Công giáo tại Bỉ rời bỏ Giáo hội cũng gia tăng. Sau cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Bì, có 524 người tuyên bố trong một thư ngỏ là đã yêu cầu xóa bỏ tên của họ trong sổ rửa tội. Họ nêu lý do là để phản đối lời Đức Giáo hoàng nói “phá thai là giết người, và bác sĩ phá thai là kẻ giết mướn."

Ở Bỉ, một làn sóng giáo dân xin ra khỏi đạo khi Đức Phanxicô cho rằng các bác sĩ phá thai là những người giết mướn


Ngày 29 tháng 9, trong chuyến đi Bỉ, Đức Phanxicô nói với các nhà báo về “luật hình sự” cho phép “thuê những kẻ giết người” – cụ thể là các bác sĩ – để các phụ nữ có thể tự nguyện chấm dứt thai kỳ. Một tuyên bố thực sự không mới mẻ nhưng được ngài lặp lại ở một quốc gia đã tranh luận trong nhiều năm về khả năng gia hạn thời hạn hợp pháp của việc phá thai, và thậm chí là phi hình sự hóa, đã tạo tiếng vang mạnh.

Đặc biệt khi ngài công bố ý định tiến hành thủ tục phong chân phước cho Vua Baudouin, qua đời năm 1993. Ba năm trước khi qua đời, Nhà Vua công giáo đã từ chối ký một đạo luật phi hình sự hóa việc phá thai được Quốc hội phê duyệt. Một bàn tay khéo léo của một luật sư đã tránh được cuộc khủng hoảng thể chế lớn: đề nghị viện đến “sự bất lực trong việc cai trị” cho phép chính phủ phê chuẩn văn bản thay cho nhà vua, ngài sẽ tiếp tục làm vua sau ba mươi sáu giờ gián đoạn.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi lời tuyên bố của Đức Phanxicô đã làm cho Ủy ban Hành động Thế tục và năm thành viên Tam điểm phản ứng mạnh khi họ nói, đây là “sự can thiệp tàn bạo của một thể chế tôn giáo vào công việc của Nhà nước”. Ông Jan Danckaert, viện trưởng trường Đại học Flemish ở Brussels tố cáo “những nhận xét trái với luật dân chủ” có thể dẫn đến một sự cố ngoại giao. Cảm nhận được cơn bão đang ập đến, Thủ tướng từ nhiệm Alexander De Croo đã tuyên bố trước Quốc hội ngày 3 tháng 10: “May mắn thay, thời điểm Giáo hội ban hành luật pháp ở đất nước chúng ta đã ở sau lưng.” Ông đã “mời” sứ thần tòa thánh đến gặp và nội dung cuộc gặp không được tiết lộ.

“’Giáo hội của tôi’ không ở đó”

Người công giáo cũng phản ứng, họ cho biết họ rất buồn và mất tinh thần. Bà Céline Fremault, 50 tuổi, cựu bộ trưởng và nghị sĩ, thành viên đảng Dân chủ Thiên chúa giáo, ngày 1 tháng 10, trong một bức thư ngỏ gởi Giáo hoàng, bà cho biết: “Bà đã được rửa tội, là tín hữu được giáo dục với các giá trị của Tin Mừng, là thành viên của Giáo hội kể từ khi sinh ra và trung thành với dân Chúa. Năm 2000, tôi đã dùng thuốc phá thai. Tôi xin ‘Giáo hội của tôi’ ở bên cạnh tôi trong những giây phút đau đớn này của một phụ nữ 26 tuổi, nhưng Giáo hội đã không ở đó. Tôi đã cầu nguyện để tôi không phạm điều không thể sửa chữa được, đó là ‘lấy đi một mạng sống’”.

Kể từ đó, bà đã dành một phần hoạt động của bà để tạo điều kiện giúp các cha mẹ phải trải qua sự mất mát đứa con trong bụng. Bị sốc trước lời nói của Đức Phanxicô, bà viết cho ngài: “Những kẻ giết thuê có khả năng y tế và nhân bản rất cao, qua công việc của họ, họ có thể bảo toàn cơ thể và tôi đã có thể sinh thêm bốn đứa con khác.”

Bà Fremault ngày nay là mẹ của ba cô con gái và một con trai. Bà xin ngài: “Xin ngài đến gặp chúng tôi, tôi xin bảo đảm các phụ nữ đã phá thai không phải là những người bị bán cho các luật giết người.”

Ra khỏi Giáo hội và tài trợ đang được tranh luận

Các nhân vật gắn bó trực tiếp hoặc gián tiếp với Giáo hội công giáo còn muốn đi xa hơn. Theo sáng kiến của ông Bernard De Vos, cựu tổng đại biểu về quyền trẻ em của Liên đoàn Wallonia-Brussels, hai trăm thành viên của Liên đoàn muốn xóa tên họ ra khỏi sổ đăng ký của giáo xứ, ông nói với báo Le Soir ngày 5 tháng 10: “Có thể sẽ chẳng có lợi ích gì, nhưng đó là tín hiệu để Giáo hội Bỉ tự vấn.” Chúng ta sẽ phải đợi đến năm 2025 và báo cáo thường niên của Giáo hội công giáo Bỉ để biết liệu lời kêu gọi này có được đông đảo người theo hay không.

Những tiết lộ khủng khiếp về loạt phim truyền hình, Bị Chúa lãng quên, nói về các vụ lạm dụng tình dục trong Giáo hội, phát sóng tháng 9 năm 2023 đã làm cho nhiều người công giáo muốn xóa tên ra khỏi sổ rửa tội. Cũng như một vụ tai tiếng khác vài tháng sau đó: ít nhất 30.000 trẻ sơ sinh của các phụ nữ trẻ độc thân sinh ra trong các cơ sở tôn giáo đã bị cưỡng bức lấy đi và bán cho cha mẹ nuôi.

Cần thời gian để đo lường tác động chính xác của việc xóa tên khỏi sổ rửa tội. Về cơ bản, hệ quả của việc này sẽ mang tính cá nhân và mang tính biểu tượng vì phép rửa tội là không thể thay đổi được. Trên thực tế, hy vọng của ông Demotte và của những người khác về các vụ này là để tạo một cuộc tranh luận về tính hợp pháp của việc chính quyền tài trợ cho các tôn giáo. Ở đây có một dè dặt: nó không liên quan đến số lượng tín hữu mà liên quan đến số lượng linh mục và các tòa nhà dành riêng cho việc thờ phụng được công nhận.

Việc vua Baudouin phản đối phá thai, có phải là một biện minh cho việc phong chân phước không?





Bằng cách tỏ lòng kính trọng Vua Baudouin (1930-1993), người đã từ chối ký luật hợp pháp hóa việc phá thai ở Bỉ, bằng cách công khai mong muốn phong chân phước cho Đức Vua, Đức Phanxicô đã đưa ra một số chỉ trích, nhưng đây không phải là quan điểm mới của ngài.

Chuyến thăm mộ của Hoàng gia Bỉ ở Đền thờ Đức Bà Laeken đã không được công bố. Nhưng một tuyên bố chính thức của Vatican cho biết tin này và đã có những phản ứng mạnh trong nước.


Sáng thứ bảy 28 tháng 9, Đức Phanxicô đến Nhà thờ tân Gothic nằm cách vương cung thánh đường Koekelberg năm cây số, ở đó ngài vừa có bài phát biểu với các nhà lãnh đạo Giáo hội công giáo Bỉ. Được xây dựng theo sáng kiến của vua Leopold I để chôn hài cốt của vợ, nơi này đã là nơi chôn cất các nhân vật trong hoàng gia Bỉ. Ngài đã gặp Vua Philippe và Hoàng hậu Mathilde ở đó, họ đã đón ngài ở phi trường trong cơn mưa khi ngài đến Bỉ tối thứ năm 26 tháng 9. Ngày hôm sau, Đức Vua và Hoàng hậu chào đón chính thức ngài ở Lâu đài Laeken, tại đây ngài đã nói về sự xấu hổ của Giáo hội vì hành vi lạm dụng tình dục của các giáo sĩ, một tình trạng chính Nhà Vua cũng đề cập trong bài phát biểu của ngài.

Nhưng sáng thứ bảy 28 tháng 9, trong bầu khí thân mật và gia đình, Đức Phanxicô đã gặp một phần hoàng gia. Hầm mộ của hoàng gia có lối đi lên đi xuống song song, Đức Phanxicô, Đức Vua và Hoàng hậu nghiêng mình trước mộ.

image.png

Beaudoin trị vì nước Bỉ trong 42 năm, từ năm 1951 đến khi ông đột ngột qua đời vì đau tim năm 1993, khi mới 63 tuổi. Bên cạnh Đức Phanxicô, Vua Philippe và Hoàng hậu Mathilde còn có cựu Vua Albert II, kế vị người anh Baudouin vì ông không có con cháu, và vợ là Hoàng hậu Paola. Tổng giám mục trẻ Luc Terlinden của giáo phận Mechelen-Brussels cũng có mặt.

“Lòng can đảm” của Vua Baudouin

Câu chuyện có thể đã kết thúc ở đó. Nhưng một lời giải thích từ Vatican gởi cho các nhà báo đã rung chuyển: Đức Phanxicô ca ngợi “lòng can đảm” của Vua Baudouin, ngài đã  rời chức vụ “để không ký vào một đạo luật giết người”. Ám chỉ đến một tình tiết đáng kinh ngạc trong lịch sử của chế độ quân chủ Bỉ. Năm 1990, trong 36 giờ, Đức Vua đã dùng một công thức pháp lý tạo ra để không gắn chữ ký của ngài với luật mà ngài không thể chấp thuận hay bác bỏ. Cách làm này đã chia rẽ các chuyên gia luật hiến pháp và các nhà lãnh đạo chính trị, nhưng không làm giảm đi tình cảm gắn bó của người dân Bỉ với nhà vua.

Một thẳng thắn rất bất thường, Tòa Thánh cho biết Giáo hoàng muốn phong chân phước cho Nhà Vua và xin “người Bỉ hãy quay về với Đức Vua khi luật hình sự đang được soạn thảo”. Một ám chỉ có thể xảy ra với việc mở rộng dần dần các khả năng dùng biện pháp an tử. Ngay khi tin tức lan truyền, một thông cáo báo chí mạnh mẽ từ Trung tâm Hành động Thế tục đã tố cáo “những bình luận đáng kinh ngạc” xem đây là một “khiêu khích” trong ngày quốc tế về quyền phá thai. Xấu hổ trước việc lan truyền tin tức có nguy cơ làm suy yếu vị thế trọng tài hiến pháp của Quốc vương Bỉ, Hoàng gia đã liên tục gởi thông cáo nhắc lại tính chất “nghiêm ngặt riêng tư” của chuyến đi này.


Số người lớn tại Pháp xin rửa tội gia tăng

Sau khi đạt con số kỷ lục 12.000 người lớn và thiếu niên được rửa tội hồi mùa xuân năm nay, khuynh hướng này dường như được củng cố và có phần gia tăng.


Theo trang mạng France-Catholic.fr, truyền đi ngày 16 tháng Mười vừa qua, một cha sở vùng thủ đô Paris cho biết từ tháng Chín năm nay, trong 20 năm lịch sử giáo xứ của cha, chưa bao giờ cha thấy có nhiều đơn xin rửa tội như năm nay và nhu cầu cần huấn luyện những người trẻ ấy đẩy mạnh. Các “người làm vườn” giờ chót này đến từ đâu? Đâu là sự khao khát thúc đẩy các linh hồn này dám vượt qua bước này, trong khi các dấu chỉ, các cơ quan truyền thông và đôi khi chính các giáo sĩ tỏ ra cam chịu khi thấy Giáo hội Công giáo đang biến mất khỏi khung cảnh nước Pháp?

Dĩ nhiên là phải giữ ý nghĩa của tỷ lệ. Một số nhà thông thái cho rằng trong sự gia tăng này, có sự phục hồi lại những năm đại dịch Covid-19. Hồi đó không có các lễ rửa tội, cũng như các buổi phụng tự... Sự phục hồi này không thể bù đắp cho sự giảm sút đáng kể về số trẻ em được rửa tội: từ 200.000, con số này giảm mất một nửa trong vòng 20 năm!

Có những người khác, tân tiến hơn, thì cho rằng sự gia tăng số người lớn và thiếu niên xin rửa tội là do sự hiện diện của các linh mục trên các mạng xã hội, nhờ đó họ đi tới các độc giả, khán thính giả xa xăm hơn...

Những nhận định trên đây không đủ để giải thích sự đột nhiên phục hồi đức tin. Phải chăng trong sự khao khát này, có một dấu chỉ cho thấy Chúa Thánh Linh tiếp tục thổi, trong khi những cố gắng phàm nhân của chúng ta dường như vô ích?


Gia tăng số các thánh đường bị đốt tại Pháp

Ngày càng có các thánh đường Công giáo bị đốt phá tại Pháp. Nguyên trong năm nay, có 14 vụ cố ý đốt phá như vậy và theo “Viện quan sát gia sản tôn giáo” tại Pháp, xu hướng ngày liên tục gia tăng.

Tuần báo “Gia đình Kitô” (Famille Chrétienne), số mới xuất bản, cho biết những vụ đốt phá nhà thờ như thế gây sốc trong dư luận ở Pháp, và vụ mới nhất là nhà thờ thánh Hilario thành Poitiers, xây trên mộ thánh nhân hồi thế kỷ thứ IV. May mắn, nhờ phản ứng mau lẹ của các phụ huynh học sinh trường học gần đó, lính cứu hỏa đã dập tắt được ngọn lửa trong vòng một tiếng đồng hồ.

Một tháng trước đó, báo chí cũng đăng tải những hình ảnh đốt nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm ở Saint-Omère, gần thành phố Calais, mạn tây bắc nước Pháp. Mái và đỉnh tháp của nhà thờ mới được tu bổ gần đây, đã bị phá hủy.

Viện quan sát gia sản tôn giáo ở Pháp nhấn mạnh rằng đó không phải là những vụ riêng rẽ. Năm ngoái, tại nước này trong số 27 vụ hỏa hoạn các nhà thờ Công giáo, có 8 vụ do những kẻ gian ác gây ra. Nhưng năm nay, chưa đầy 10 tháng qua, đã có 26 vụ hỏa hoạn nhà thờ, trong đó 14 vụ là do thủ phạm cố tình đốt phá.

Thêm vào đó, có những vụ phá hoại, theo đài quan sát, con số này thường bị coi nhẹ, vì các cha sở không luôn trình báo với cảnh sát. Các vị nói rằng nếu làm lớn vấn đề này thì chỉ khuyến khích những kẻ gian ác tiếp tục thực hiện những tội ác tương tự.

Thỏa thuận Tạm thời giữa Tòa Thánh-Trung Quốc về bổ nhiệm Giám mục được gia hạn thêm 4 năm

Ngày 22/10/2024, Tòa Thánh đã thông báo về việc gia hạn thêm bốn năm Thỏa thuận Tạm thời giữa Tòa Thánh-Trung Quốc về bổ nhiệm Giám mục. Đây là lần thứ ba thỏa thuận ký ngày 22/9/2018 được gia hạn. Thông cáo nhấn mạnh “sự đồng thuận đã đạt được để có một áp dụng hiệu quả”. Vatican nhắc lại ý định duy trì “cuộc đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng với phía Trung Quốc”.


ĐTC Phanxicô và các Giám mục Trung Quốc tham dự Thượng Hội đồng

Đây là lần thứ ba thỏa thuận ký ngày 22/9/2018 được gia hạn. Hai lần trước đây, vào năm 2020 và vào ngày 22/10/2022, thỏa thuận được gia hạn với thời hạn hai năm.

Thỏa thuận về bổ nhiệm Giám mục này đã mở ra một trang lịch sử trong các mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, và trong chính Giáo hội của nước này, giúp cho tất cả các Giám mục Trung Quốc được hiệp thông đầy đủ về phẩm trật với Đức Thánh Cha.

Thông cáo báo chí chính thức của Vatican giải thích rằng quyết định này, được đưa ra “sau khi tham khảo ý kiến và đánh giá thích hợp”, nhờ “sự đồng thuận đã đạt được để áp dụng hiệu quả” Thỏa thuận về việc bổ nhiệm các Giám mục và nêu rõ rằng “Phía Vatican vẫn có ý định tiếp tục đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng với phía Trung Quốc, nhằm phát triển quan hệ song phương hướng tới lợi ích của Giáo hội Công giáo trong nước và của toàn thể người dân Trung Quốc”.

Thỏa thuận tạm thời đã chấm dứt các lần tấn phong Giám mục không có sự đồng ý của Đức Giáo hoàng trong nhiều thập kỷ. Một kịch bản đã thay đổi hoàn toàn trong 6 năm qua, với khoảng 10 lần bổ nhiệm và tấn phong các Giám mục, đồng thời chính thức hóa chức vụ công khai của một số giám chức trước đây chưa được Bắc Kinh công nhận.

Dấu hiệu của sự hợp tác mới cũng được thể hiện qua sự hiện diện của các Giám mục từ Trung Quốc đại lục tại Thượng Hội đồng Giám mục ở Vatican và trong các sự kiện khác ở Châu Âu và Châu Mỹ, cũng như sự hiện diện của giới trẻ tại Đại hội Giới trẻ Thế giới ở Lisbon vào năm 2023, và một sự tham gia chung của các tín hữu Trung Quốc vào các chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô đến phương Đông trong vài năm qua.





Các tín hữu Công giáo Palestine kêu cứu


Các tín hữu Công giáo tại Palestine kêu cứu với các tín hữu Công giáo ở Mỹ, rằng: “Xin giúp chúng tôi ở lại Thánh địa!”

Chúa nhật, ngày 13 tháng Mười vừa qua, có ba tín hữu Công giáo người Palestine, tên là David David, Jack Odeh và Sami Mubarak, từ thị trấn Beit Sahour, thuộc miền Cisjordani, nay cũng gọi là Tây Ngạn, một vùng của người Palestine bị Israel chiếm đóng, đến giáo xứ Thánh Thể ở thành phố San Antonio, bang Texas. Họ mang theo một số đồ đạo làm bằng gỗ ôliu, gồm thánh giá, tượng, hang đá máng cỏ. Các đồ thủ công này do các tín hữu Công giáo Palestine, gồm 500 gia đình sản xuất với hy vọng là có thể ở lại quê hương nhờ bán các sản phẩm này, và đồng thời có thể giúp những người mua có thể tăng trưởng trong đức tin.

Ông Jack Odeh nói: “Chúng tôi đến đây để thi hành một sứ vụ và hỗ trợ các gia đình Kitô Palestine. Tại đó, chúng tôi có rất nhiều vấn đề: trước tiên là làm sao để các tín hữu Kitô ở lại Thánh địa và đừng tìm cách di cư đi nơi khác”.

Cuộc xung đột bùng nổ sau biến cố khủng bố ngày 07 tháng Mười năm ngoái, đã ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của những người sống trên lãnh thổ của người Palestine. Các du khách, tín hữu hành hương vốn mua các đồ kỷ niệm trong các tiệm ở Bethlehem, nay họ lo sợ không dám tới đó nữa.

Ông Odeh đang du hành các nơi ở Mỹ để phổ biến, và bán các đồ thủ công của các gia đình Kitô trong các giáo xứ ở Mỹ. “Tất cả số tiền thu được đều dành cho các gia đình Công giáo, để giúp họ có thể ở lại quê hương. Họ không muốn ai phải rời bỏ Thánh địa, vì đó là nơi Thánh, nơi Chúa Giêsu sinh ra và chịu chết. Chúng tôi không thể rời bỏ phần đất này”.

Trong khi du hành tại Mỹ, họ luôn giữ liên lạc với những người thân yêu ở quê hương. Ông Odeh giải thích rằng: “Có những cuộc xung đột giữa người Do thái và Hồi giáo và các tín hữu Kitô bị kẹt ở giữa. Chúng tôi muốn hòa bình, chúng tôi không thích cuộc sống này, nhưng chúng tôi không thể ra đi, vì các gia đình chúng tôi ở đó. Tôi liên lạc mười lần mỗi ngày với gia đình, vì có thể họ bị trúng bom đạn bất cứ lúc nào. Ai không sống tại những nơi đó thì không thể đích thân hiểu được. Các tin tức rất xấu, các tín hữu Kitô tại Thánh địa biết những gì xảy ra, nhưng những tin tức không được truyền đi và dân chúng cần được giúp đỡ. Không thể ở lại lâu khi có chiến tranh, tất cả đều muốn ra đi, nhưng Chúa Giêsu đã chịu chết tại đó, chúng tôi không thể rời bỏ, và chúng tôi sẽ chết vì Chúa Giêsu”.

Một Linh mục Mexico bị sát hại sau khi cử hành Thánh lễ

Cha Marcelo Pérez, thuộc giáo phận San Cristóbal de las Casas, Mexico, đã bị sát hại hôm Chúa Nhật ngày 20/10. Những kẻ tấn công đã bắn cha vào cuối Thánh lễ, khi cha chuẩn bị rời đi để tiếp tục công việc mục vụ.

image.png

Người dân khiêng thi hài Cha Marcelo Pérez 

Theo báo địa phương El Heraldo de Chiapas, sau khi cha Pérez dâng lễ tại nhà thờ ở khu Cuxtitali và đang đi đến nhà thờ Guadalupe thì bị một số kẻ đi xe máy bắn chết.

Trong một tuyên bố, Hội đồng Giám mục Mexico lên án sự việc này, nói rằng thực tế này “không chỉ tước mất đi một mục tử tận tụy của cộng đoàn, mà còn làm im lặng tiếng nói ngôn sứ vốn đấu tranh không mệt mỏi cho hòa bình bằng sự thật và công lý ở vùng Chiapas”.

Các Giám mục Mexico nhận định rằng Cha Marcelo Pérez là một mẫu gương sống động về sự dấn thân của linh mục đối với những người túng thiếu và dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Công việc mục vụ của cha, được đặc trưng bởi sự gần gũi với mọi người và sự hỗ trợ liên tục đối với những người cần nhất, đã để lại một di sản về tình yêu và sự phục vụ sẽ tồn tại trong trái tim của tất cả những người mà cha đã chạm đến qua sứ vụ của cha”.

Trong tuyên bố, các Giám mục Mexico cũng bày tỏ “sự liên đới và gần gũi về tinh thần” với Giám mục của San Cristóbal de las Casas, Đức Cha Rodrigo Aguilar Martínez, và với cộng đoàn Công giáo địa phương. Đồng thời, các ngài yêu cầu chính quyền thực hiện “một cuộc điều tra toàn diện và minh bạch nhằm làm sáng tỏ tội ác này và tìm công lý cho Cha Marcelo Pérez”, thực hiện “các biện pháp hiệu quả để đảm bảo an toàn cho các linh mục và các nhân viên mục vụ” và gia tăng gấp đôi “các nỗ lực chống lại bạo lực và việc không trừng phạt các tội ác, những điều đang gây đau khổ cho khu vực Chiapas” và cho toàn đất nước nói chung.




Làm thế nào để giúp trẻ em hướng nội?

Từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 10, 4.500 bạn trẻ, gia đình và nhân viên của tổ chức Những người Học việc ở Auteuil (Apprentis d’Auteuil) sẽ đi hành hương Lộ Đức. Bà Marie-Dominique Germette, điều phối viên mục vụ của trường nói lên chứng từ: “Bằng cách giữ thinh lặng, các bạn trẻ đi vào nội tâm của họ.”

Xin bà cho biết bà giới thiệu với các bạn trẻ như thế nào về hướng nội? 

Bà Marie-Dominique Germette: Hàng tuần tại trường Học việc Auteuil của chúng tôi, chúng tôi có một giờ bắt buộc có chủ đề “phát triển con người và tinh thần” nhằm mục đích giúp các em thấy mối quan hệ của các em với người khác, với thế giới bên ngoài để khám phá sự khác biệt. Trong chương trình này, trước mỗi cuộc họp, chúng tôi bắt đầu bằng phút thinh lặng, ba, bốn phút. Lần đầu tiên, các em ngạc nhiên, đôi khi chúng tôi phải lặp lại bài tập để các em im lặng hoàn toàn, nhưng ở các buổi tiếp theo, ngay từ đầu, các em đã im lặng!

Bằng cách giữ im lặng, các em đi vào được nội tâm sâu thẳm của mình, nơi các em có những ham muốn, nơi các em thực sự tự do. Độ sâu lắng này là cột sống cho cuộc đời các em. Daniel Brottier, nhà sáng lập Hội của chúng tôi đã nói với các bạn trẻ: “Các con hãy sẵn sàng phát triển nhân cách Chúa đã ban cho các con qua giá trị tinh thần của con người.” Trên bảng, tôi vẽ một số vòng tròn và từ đó vẽ sơ đồ các chiều kích khác nhau của con người: thể xác, cảm xúc, trí tuệ và cuối cùng là tinh thần.

Tôi giải thích vòng tròn nhỏ ở giữa là nội tâm “ngôi vườn bí mật” của các con, để vào ngôi vườn này, các con phải tìm chìa khóa. Đôi khi cánh cổng bị hoen gỉ và ngôi vườn đầy cỏ dại. Thinh lặng là con đường đi về nguồn, đi vào ngôi vườn và vun trồng nó. Thánh Catarina Siêna nói về “tế bào của sự hiểu biết về chính mình”.

Triết gia Pascal đã nói: “Mọi bất hạnh của con người đều xuất phát từ một điều, đó là chúng ta không làm sao ngồi yên một chỗ trong phòng.” Vì chính nơi rất mật thiết này chúng ta gặp Thiên Chúa, Đấng, theo Thánh Augustinô “mật thiết với chúng ta hơn chính chúng ta”. Tôi nói với các em, giữ thinh lặng sẽ có ích cho các em khi các em trưởng thành: các em có thể rút lui khỏi cuộc sống đầy sóng gió, đi sâu vào tâm hồn mình để có những lựa chọn quyết định.

Có khó khăn với các em không?

Có, ở buổi học đầu tiên, một số các em không quen, các em cảm thấy ngượng ngùng. Giữ im lặng không phải là điều dễ dàng, các em lo lắng, các em phải gom lại những vấn đề các em gặp phải. Các em không quen và thường nói chuyện với nhau. Đó là thế hệ sinh ra đã có “ống nghe ở tai”. Im lặng là quá trình học hỏi, để không còn nghe tiếng ồn bên ngoài, để đối thoại với chính mình và để gặp Chúa. “Ngay cả trước khi tạo nên con trong bụng mẹ, Ta đã biết con” (Gr, 1). Sau đó là giờ thảo luận về mối quan hệ của các em với thinh lặng, đó là cả một phong phú khi làm nổi bật các nét đẹp chưa bao giờ được các em nói ra.

Bà nhận được phản ứng nào?

Lúc đầu các em cười, nhưng sau khi thực tập, các em rất thích, tôi nhớ các em đã vỗ tay: “Thưa cô, cô là người duy nhất làm chúng con chịu im lặng!” Các em tự hào về mình: “Thinh lặng giúp chúng con yên nghỉ, cho chúng con bình an, bắt chúng con phải suy nghĩ.” Trong một chuyến đi trên thuyền, một trong các em thường có hành vi hung bạo đã quay qua người bên cạnh nói: “Téma, nhìn kìa, im lặng… thật đẹp.”

Im lặng giúp các em nói về những chủ đề cá nhân hơn. Cũng  đáng lo và cũng thật đẹp khi các em lên tiếng chia sẻ các kinh nghiệm sống mạnh như quấy rối, sức khỏe, bị ngược đãi. Thinh lặng tạo tin tưởng, tạo lắng nghe chăm chú. Trải nghiệm im lặng là cảm thấy mình được sinh ra trong chính mình. Tôi xúc động nhớ lại Christopher, một thanh niên sống thu mình, cuối cùng đã viết và đọc lời cầu nguyện trên một tấm vải: “Hãy tồn tại”.

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 1, 2024, 8:01:52 PM11/1/24
to alphonsefamily














Tất cả mọi điều xấu ác cũng không thể ngăn cản được ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. 
Bạn có mở đôi mắt để nhận ra điều đó không? 

Ngày Lễ Các Thánh: Lời nhắc về niềm hy vọng


Tổng Giám mục Jose Gomez của Los Angeles đã viết: “Có một sự thức tỉnh thiêng liêng đang diễn ra ở Mỹ, ẩn dưới tất cả các tranh cãi về chính trị, những đám mây của đại dịch vẫn đang ám ảnh và tất cả sự bất định về hướng đi của đất nước chúng ta.” Những lời của Tổng Giám mục đã gây ấn tượng với tôi. Tôi phải thú thật rằng tôi đồng ý với ông.

 

Những lời trong sách Khôn Ngoan hiện lên trong tâm trí của tôi:

 

“Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được ân huệ lớn lao. Quá thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu.” (Kn 3, 5-6).

 

Điều đó không phải là lạc quan vô lý nhưng đã được chứng minh hết lần này đến lần khác: thử thách và khổ đau dẫn đến sự đổi mới, cũng giống như vàng trong lửa vậy.

 

Sau khi phản tỉnh, tôi muốn mở rộng một chút tư tưởng đó của Đức tổng giám mục cùng cung cấp một số bằng chứng mà tôi đã thấy. Vừa qua, Giáo hội đã chứng kiến những cuộc trở lại đạo kỳ diệu. Những việc trở lại này thường diễn ra lặng lẽ, không được tổ chức rộng rãi hoặc bàn luận. Chẳng hạn, tại nhà nguyện của cộng đồng tôn giáo của tôi ở Washington, D.C., một phụ nữ đã được đón nhận vào Giáo hội. Những cuộc trở lại đạo khác thì được thảo luận rộng rãi hơn, mang đến cho chúng ta hy vọng! Ở Anh, Giáo hội đã chứng kiến lễ truyền chức của linh mục Michael Nazir-Ali, một cựu Giám mục Anh giáo từng được xem xét là ứng cử viên cho vị trí Tổng Giám mục Canterbury! Nazir-Ali đã chính thức hiệp thông với Giáo hội Công giáo vào ngày 29 tháng 9.

 

Tôi cũng thấy một làn sóng ngầm ủng hộ phong trào bảo vệ sự sống. Với những cuộc chiến pháp lý quan trọng chuẩn bị diễn ra, việc phong trào bảo vệ sự sống không ngừng được lan rộng và lớn mạnh đang thu hút sự quan tâm của người dân về quyền căn bản của mỗi con người: quyền được sống.

 

Twitter, Facebook và Instagram đã tràn ngập hình ảnh của những đứa trẻ hóa trang thành các thánh! Thật tuyệt vời khi thấy rất nhiều gia đình học hỏi, miêu tả và chia sẻ câu chuyện về sự thánh thiện và lòng dũng cảm của các thánh. Tôi ước mạng xã hội sẽ luôn tràn ngập hình ảnh của các thánh!

 

Nói về các thánh, chúng ta có những gương mặt tuyệt vời hoàn toàn mới đang thu hút sự chú ý của công chúng. Nếu bạn bỏ lỡ lễ phong chân phước của Chân phước Sandra Sabbatini, bạn nên tìm hiểu về câu chuyện của cô. Cuộc đời cô (cô đã qua đời vào năm 1984 trong một vụ tai nạn xe hơi) là một câu chuyện đáng kinh ngạc về một Kitô hữu sống Tin Mừng trong thế giới hiện đại. Một vị thánh tuyệt vời khác, linh mục người Mỹ, cha Michael McGivney, đã được phong chân phước cách đây đúng một năm! Và gần đây, chúng ta vừa kỷ niệm ngày lễ của Chân phước Carlo Acutis, vị thánh tuyệt vời đầu tiên của thiên niên kỷ! Hãy xem cuộc phỏng vấn với mẹ của cậu bởi Aleteia diễn ra gần đây.


Khi ngày lễ Giáng Sinh  đang đến gần, một thời gian được biết đến với lòng bác ái và việc quyên góp từ thiện, chúng ta có lý do để tin rằng chúng ta sẽ tiếp tục thấy những hành động tử tế và sự hỗ trợ dành cho những người dễ bị tổn thương nhất. Năm ngoái, quyên góp từ thiện tại Mỹ tăng 3,8% (sau khi điều chỉnh lạm phát), đạt mức kỷ lục 471,44 tỷ USD.

 

Bất ổn chính trị và kinh tế, thậm chí những thử thách mà Giáo hội phải chịu đựng cũng không thể cản trở ân sủng và lòng thương xót của Chúa Giêsu Kitô. Tổng Giám mục Gomez nói rằng: Những lợi lộc của xã hội thế tục và nền kinh tế tiêu thụ của chúng ta luôn trống rỗng và giả dối. Nó không bao giờ có thể thỏa mãn những khao khát sâu xa nhất của chúng ta hoặc trả lời cho những câu hỏi mà tất cả chúng ta đều giữ trong lòng: Tôi là ai? Tôi nên là người như thế nào? Tôi nên sống vì điều gì và tại sao? Điều gì sẽ xảy ra khi tôi chết?” Khi những câu hỏi này được đặt ra, chúng ta hãy sẵn sàng với những câu chuyện về những điều tốt đẹp mà chúng ta đã thấy. Chúng ta có, và sẽ luôn có, bằng chứng về công việc của Chúa quanh ta. Trong ngày Lễ Các Thánh này, chúng ta hãy cầu nguyện với toàn thể thiên quốc, để đôi mắt chúng ta có thể mở ra và thấy rõ hơn.”


Fr. Patrick Briscoe, OP 


“Dilexit nos”

Vì sao có quá ít tiếng vang với Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta của Đức Phanxicô?



Linh mục Laurent Stalla-Bourdillon, Thần học gia, Giám đốc Cơ quan thông tin của các chuyên gia giáo phận Paris

Jean-Louis de La Vaissière, cựu nhà báo AFP, được Vatican công nhận từ năm 2011 đến năm 2016, tác giả của một số tác phẩm về giáo hoàng.

Ngày 24 tháng 10, Đức Phanxicô công bố Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta, Dilexit nos dành riêng cho Thánh Tâm. Một thông điệp ít được ngoài phạm vi công giáo chú ý, ngược với sự quan tâm chính trị-truyền thông của Thông điệp   Laudato si’ năm 2015   Thông điệp  Fratelli Tutti năm 2020.


“Tuy Thông điệp này ít được chú ý nhưng vẫn có một tương lai” – Linh mục Laurent Stalla-Bourdillon, Thần học gia, Giám đốc Cơ quan thông tin của các chuyên gia của giáo phận Paris

Việc tiếp nhận một thông điệp cần có thời gian. Năm 2015, Thông điệp Laudato si’ ở trong khuôn khổ của Hội nghị COP21 Paris nên đã được đón nhận mạnh mẽ. Nhưng với Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta thì không có một hy vọng nào. Cũng không giống Thông điệp Fratelli Tutti là thông điệp nói đến vấn đề di cư và sự hiệp nhất của gia đình nhân loại, nhưng Thông điệp về Thánh Tâm không có một đối tượng xác định và gần như giới truyền thông không nắm được nội dung. Thông điệp không được chú ý, cho thấy giới truyền thông không quan tâm đến đời sống Giáo hội. Giáo hội cần xem lại vấn đề này. Thêm nữa, Thông điệp công bố khi Thượng Hội đồng kết thúc làm mờ đi sự chú ý.

Ngoài ra, Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta có thể làm chúng ta bối rối. Hai thông điệp cuối cùng của Đức Phanxicô mang tính xã hội, ngài gần như được cho là nhà lãnh đạo chính trị hơn là nhà lãnh đạo tôn giáo. Dư luận quần chúng quan tâm nhiều đến quan điểm chính trị và xã hội của ngài nhiều hơn là quan điểm thiêng liêng để họ có thể dựa vào. Với Dilexit nos, một số người ngạc nhiên, thậm chí thất vọng. Nhưng khi suy gẫm về tình yêu con người, ngài đã nối kết được các liên kết xã hội quan trọng nhất, kết thúc bằng trái tim của trái tim: nơi của tình yêu. Thông điệp rất sâu sắc, phù hợp với logic của những gì ngài đã nói từ đầu triều.

Tôi không nghĩ chúng ta có thể nói Thông điệp này chỉ dành cho người công giáo. Nếu chúng ta đọc kỹ, chúng ta sẽ thấy ngài đưa ra các giải pháp để đương đầu với các cuộc khủng hoảng của thời đại này. Theo tôi, Thông điệp này đi sau Thông điệp Laudato si’ và Thông điệp Fratelli tutti là một bộ ba hoàn hảo các Thông điệp của ngài. Trước hết ngài nói về môi trường sống của nhân loại, bị suy thoái về sinh thái; sau đó là nói về cơ thể bị chiến tranh và chia rẽ tàn phá và bây giờ là quả tim con người. Nếu con người không giữ lại được tình yêu là sức mạnh của trái tim, họ sẽ không tìm ra giải pháp cho nỗi đau khổ của họ trong hai thông điệp đầu tiên.

Nếu thông điệp chưa đánh thức được tâm hồn con người thì tôi tin chắc, thông điệp này có tương lai. Đức Phanxicô nhấn mạnh thế giới chỉ có thể thay đổi từ trái tim. Tình yêu là liều thuốc giải độc cho một thế giới đang ngày càng lạnh lẽo và tê liệt. Vì thế tùy thuộc ở chúng ta để hiểu và giải thích ý của ngài.

Không có gì ngạc nhiên khi Thông điệp này ít được giới truyền thông chú ý, họ còn bận chú ý đến các vấn đề gây tranh cãi như vụ Abbé Pierre, chúc phúc cho các cặp đồng tính, chức phó tế nữ, các vấn đề liên quan đến sức khỏe của ngài, ngài sắp từ nhiệm hay chưa, ngoài ra họ chẳng quan tâm gì khác.

Sau 11 năm làm giáo hoàng, sự chú ý dành cho ngài đã giảm sút, chúng ta đã thấy qua thời điểm quan trọng ở Marseille tháng 9 năm 2023, khi ngài nói về vấn đề nhập cư, xã hội đã không đón nhận. Cũng vậy với chuyến đi Châu Á của ngài tháng 9, chuyến đi cảm động này cũng bị giới truyền thông không để ý đến nhiều, chuyến đi Bỉ cũng vậy, giới truyền thông chỉ nói về việc phá thai.

Các phương tiện truyền thông và xã hội Pháp phần lớn thờ ơ với các chủ đề mang tính tôn giáo như Thánh Tâm. Thông điệp Laudato si’ về môi trường, Thông điệp Fratelli Tutti về tình liên đới được quan tâm nhiều vì chạm đến các chủ đề nhạy cảm của xã hội. Trước đây các thông điệp của Đức Gioan-Phaolô II được đón nhận nhờ sức thu hút và nhờ các lời nói mạnh mẽ của ngài. Cũng vậy với Đức Bênêđíctô XVI, dù chiều cao thần học của ngài vượt quá sự hiểu biết với quần chúng.

Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta có nội dung của một lòng đạo đức cổ kính, bình dân nên giới truyền thông có phần xem thường. Đây cũng là một trong những nghịch lý của ngài, ngài yêu thế giới ngày nay nhưng ngài cũng dựa vào truyền thống. Người ngày nay không đi tìm chiều sâu của mầu nhiệm ở đây, thế giới đương đại đã mất trọng tâm của mình. Nói về trái tim, Đức Phanxicô kêu gọi quay về với điều thiết yếu, với tình cảm, với kết nối… Đây là thông điệp đi ngược với các giá trị giả của ngày nay – tốc độ, hiệu quả, lợi nhuận.

Đức Phanxicô là giáo hoàng có văn hóa, quan tâm đến các thần học gia Pháp, được văn hóa thần bí phong phú Châu Âu nuôi dưỡng. Nhưng những tài liệu tham khảo này không còn được chia sẻ. Tôi cũng thấy có một điều gì đó sâu xa hơn trong sự thờ ơ này: ngài đã làm thất vọng vì ngài không đi theo các tiêu chuẩn của chủ nghĩa tiến bộ mà người dân có về ngài. Đúng là thông điệp của ngài mang tính nghịch lý, đôi khi rất táo bạo, nhưng đôi khi lại bảo thủ. Những tuyên bố rất mạnh của ngài chống việc phá thai ở Bỉ và trên chuyến bay từ Bỉ về Rôma đã làm người Pháp bị sốc vì họ muốn đưa việc phá thai vào Hiến pháp, vì thế có thể đã góp phần tạo phản ứng của giới truyền thông: ngài như ở một hành tinh khác, như các giáo hoàng tiền nhiệm của ngài, chúng ta đặt nhiều hy vọng ở ngài, nhưng ngài chỉ là người của quá khứ.



Đức Hồng y Müller nhắc nhở việc tuân giữ đức tin chân chính


image.png

Liên quan đến thẩm quyền và thánh chức trong Giáo hội, trong bài thuyết trình, nhân cuộc hành hương Roma, từ ngày 25 đến ngày 27 tháng Mười này của các giám mục, linh mục và giáo dân theo tinh thần tự sắc “Summorum Pontificum”, Các Giáo hoàng Roma, do Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI ban hành, ngày 07 tháng Bảy năm 2007, nới rộng việc cho phép cử hành thánh lễ theo sách lễ tiền Công đồng chung Vatican II, Đức Hồng y Gerhard Müller, người Đức, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, nhắc nhở rằng: Các giám mục sẽ phản bội sứ mạng Chúa trao nếu không rao giảng đức tin Công giáo, phản bội bằng cách tương đối hóa đạo lý và không giữ vững đức tin chân chính.

Đức Hồng y nói: “Chúng ta không được chiều theo cám dỗ này là: nếu bạn muốn đi đến với con người ngày nay và được mọi người yêu mến, thì hãy làm như Philatô, gạt chân lý sang một bên, và như vậy, bạn sẽ tránh bị bách hại, bị đau khổ, thánh giá và cái chết! Nói theo kiểu thế gian, quyền bính chính trị, các cơ quan truyền thông và tài chánh là những điều chắc chắn, trong khi sự thật thì kéo theo chống đối, và những lời hứa đau khổ với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh!”

Trong chiều hướng này, Đức Hồng y Müller nhấn mạnh hai sai lầm trầm trọng:

1. Thứ nhất khi một vị Giáo hoàng, với quyền tông đồ tối cao (plenitudo apostolica) dám thay đổi cơ cấu phẩm trật của Giáo hội và quyền Chúa ban (ius divinum) cho Giáo hội, ví dụ ủy quyền tài phán của mình cho các giáo dân.

2. Sai lầm thứ hai là dạy rằng Chúa Thánh Thần có thể linh hứng cho Đức Giáo hoàng một đạo lý hoàn toàn mới mẻ mà các tín hữu phải chấp nhận một cách mù quáng, dù rằng đạo lý mới ấy trái ngược rõ ràng với giáo huấn của Kinh thánh, với Tông truyền và với các tuyên định tín lý trước đó của các vị Giáo hoàng và các Công đồng chung.

Hội đồng Giám mục Đức có thể mở ra cho giáo dân

image.png

Giám mục Georg Bätzing, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức trong thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô


Sau gần ba năm thảo luận cách tiếp cận mới trong Giáo hội công giáo, vào cuối Thượng Hội đồng về tính đồng nghị kết thúc tại Rôma tối thứ bảy 26 tháng 10 năm 2024, Giám mục Georg Bätzing, giáo phận Limburg, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức (DBK) tuyên bố có “một thuận lợi” cho con đường đồng nghị của Giáo hội Đức”, nhưng ngài không hoàn toàn hài lòng với Tài liệu cuối cùng về chức phó tế nữ.

Ngài nghĩ quan điểm của Thượng Hội đồng về chức phó tế nữ là quan trọng nhưng chưa đủ. Trong cuộc họp báo ngày chúa nhật 27 tháng 10 tại Rôma, ngài cho biết quyết định bỏ ngỏ việc phong phó tế nữ có vẻ rụt rè. Nhưng ít nhất quyết định đã được lặp lại: “Đó là những gì chúng tôi yêu cầu.”

Giữ vấn đề chức phó tế nữ luôn mở

Quyết định tiếp tục để vấn đề chức phó tế nữ mở được ghi ở mục 60 của Tài liệu cuối cùng đã có số phiếu phản đối lớn nhất (97), nhưng lại có được đa số 2/3 cần thiết. Vì thế chúng ta có thể hiểu vấn đề phụ nữ được cho là vấn đề lớn nhất của Giáo hội công giáo và đã làm Giám mục Georg Bätzing “buồn lòng”.

Theo ngài, điều này làm suy yếu nhu cầu cấp thiết phải giải quyết vai trò của phụ nữ trong Giáo hội để họ được “tham gia vào mọi cấp độ”, tuy có hơn 72% phiếu ủng hộ, nhưng ngài cho rằng Giáo hội công giáo Đức có thể đóng góp trong việc suy tư về chủ đề này, về mặt thần học cũng như về kinh nghiệm riêng trong đời sống Giáo hội Đức.

Để mở rộng sự tham gia của người công giáo không được phong chức thánh

Trong Tài liệu cuối cùng, các đại diện đã bỏ phiếu ủng hộ việc mở rộng sự tham gia của người công giáo không được thụ phong (giáo dân) vào quá trình ra quyết định của Giáo hội. Chẳng hạn, các hội đồng cố vấn phải được thành lập trên toàn thế giới. Cho đến nay, chỉ những người được phong chức mới có quyền quyết định trong Giáo hội công giáo, vì thế không có tham khảo ràng buộc về mặt pháp lý của giáo dân với các giáo sĩ.

Ngài cho biết ngài sẽ xem xét khả năng giáo dân có thể là thành viên của Hội đồng Giám mục: “Là Hội đồng Giám mục, chúng ta sẽ giải quyết vấn đề này như thế nào trong tương lai? Chúng ta sẽ khép kín giữa chúng ta hay Hội đồng Giám mục chúng ta sẽ mở ra với giáo dân trong tư cách họ là khách có quyền phát biểu?” Theo ngài, Tài liệu cuối cùng về Thượng Hội đồng về tính đồng nghị giúp cho đường hướng suy nghĩ này. Cho đến nay, không có ràng buộc nào về mặt pháp lý của giáo dân với các giáo sĩ.

 Các linh mục và giám mục giữ quyền quyết định trong Giáo hội

Theo Giám mục Stefan Oster, giáo phận Passau, Đức, Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng cho thấy các linh mục và giám mục vẫn giữ quyền ra quyết định trong Giáo hội công giáo. Trong tuyên bố sáng chúa nhật 27 tháng 10, ngài nhấn mạnh đây là những điểm quan trọng của Tài liệu cuối cùng: “Tiến trình ‘quyết định’ sẽ có sự tham gia của càng nhiều người càng tốt, nhưng tiến trình ‘ra quyết định’ vẫn dành cho hàng giáo phẩm.” Trong Giáo hội công giáo, chỉ nam giới mới có thể làm linh mục, vì vậy phụ nữ không có quyền đưa ra quyết định cuối cùng trong Giáo hội. Ngài cho biết, Tài liệu cuối cùng được để mở. Việc Đức Phanxicô công bố ngay tài liệu này làm cho việc sử dụng sau này “thành khó khăn”. Ngay từ đầu, Thượng Hội đồng được soạn thảo trong ý tưởng sẽ trình lên Giáo hoàng những đề xuất trong Tài liệu, từ đó ngài sẽ đưa ra một văn bản chính thức.

Quy chế giáo luật của Tài liệu cuối cùng không được chính xác

Trong phiên họp bế mạc tối thứ bảy 26 tháng 10, Đức Phanxicô đã bất ngờ tuyên bố ngài sẽ trực tiếp công bố Tài liệu cuối cùng của các thành viên tham dự Thượng Hội đồng soạn thảo và ngài sẽ không công bố Tông huấn tóm tắt và có tính ràng buộc về mặt pháp lý. Ngài nói: “Những gì chúng ta áp dụng là đủ. Tài liệu này đã có những chỉ dẫn rất cụ thể có thể làm kim chỉ nam cho sứ mệnh của các Giáo hội trên các lục địa khác nhau và trong các bối cảnh khác nhau.” Ngài không nêu rõ tình trạng kinh điển của Tài liệu này.

Đức Thánh cha chủ sự thánh lễ Bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI


Sáng Chúa nhật, ngày 27 tháng Mười năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã cử hành thánh lễ tạ ơn, tại Đền thờ thánh Phêrô cùng với gần 260 Hồng y và giám mục, cùng với hàng trăm linh mục, trước sự tham dự của hàng ngàn tín hữu, để tạ ơn Chúa vì Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI đã kết thúc, sau gần bốn tuần lễ tiến hành, từ ngày 02 tháng Mười, với chủ đề: “Tiến tới một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng”. Công nghị này kết thúc một tiến trình dài ba năm, với sự cộng tác của các thành phần trong Giáo hội.

image.png

Bài giảng của Đức Thánh cha

Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha quảng diễn ý nghĩa trình thuật Tin mừng về việc Chúa Giêsu chữa lành anh Ba-ti-mê, người mù bẩm sinh, ngồi bên vệ đường hành khất. Khi nghe Chúa Giêsu đi qua, anh đã kêu to lên, xin Chúa cứu chữa. Và trong khi tất cả những người khác trách cứ anh, vì đã làm phiền họ do tiếng kêu của anh. Chúa Giêsu dừng lại, vì Thiên Chúa luôn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo khổ và không có tiếng kêu đau khổ nào không được Ngài lắng nghe”.

Áp dụng vào Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Thánh cha nói:

“Kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục này, mang trong tâm hồn lòng biết ơn bao la vì những gì chúng ta đã có thể chia sẻ với nhau, chúng ta dừng lại những gì xảy ra cho người mù trong Tin mừng hôm nay. Đầu tình thuật, “ông ngồi bên vệ đường ăn xin” (Mt 10.46), và cuối trình thuật, sau khi được Chúa Giêsu kêu gọi và được phục hồi thị giác, ‘anh theo Chúa trên đường Người đi” (v.52).

Điều đầu tiên Tin mừng nói với chúng ta về anh Ba-ti-mê là: anh ngồi ăn xin. Vị trí của anh là tiêu biểu của một người từ nay đang khép kín trong đau khổ của mình, ngồi cạnh vệ đường như thể chẳng còn gì khác để làm ngoài việc nhận cái gì đó từ bao nhiêu lữ khách ở thành Giê-ri-khô, nhân lễ Vượt Qua. Nhưng như chúng ta biết, để sống thực sự nhận lãnh, ta không thể ngồi mãi: sống luôn luôn là chuyển động, bước đi, mơ ước, đề ra dự phóng, cởi mở đối với tương lai. Vì vậy, người mù Ba-ti-mê cũng tượng trưng cho sự mù nội tâm làm cho chúng ta, bất động ở bên lề cuộc sống, không còn hy vọng nữa.

Và điều này có thể làm cho chúng ta suy nghĩ sâu hơn về đời sống bản thân của chúng ta, nhưng cả về cách thức chúng ta là Giáo hội của Chúa. Bao nhiêu điều, dọc đường, có thể làm cho chúng ta mù quáng, không có khả năng nhận ra sự hiện diện của Chúa, không sẵn sàng đương đầu với những thách đố của thực tại, nhiều khi không thích hợp trong việc trả lời cho bao nhiêu vấn đề đang kêu tới chúng ta, như anh mù Ba-ti-mê với Chúa Giêsu. Nhưng đứng trước những yêu cầu của bao nhiêu người nam nữ ngày nay, trước những thách đố của thời đại chúng ta, những điều cấp thiết trong việc loan báo Tin mừng, chúng ta không thể ngồi yên. Một Giáo hội ngồi yên, hầu như không nhận thấy mình đang rút lui khỏi cuộc sống và khép mình ở ngoài lề thực tại, thì đó là một Giáo hội có nguy cơ tiếp tục mù quáng và rơi vào tình trạng bất ổn của mình và tiếp tục ngồi trong sự mù quáng của mình, chúng ta sẽ tiếp tục không thấy những nhu cầu mục vụ cấp thiết của chúng ta và bao nhiêu vấn đề của thế giới chúng ta đang sống”.

Trái lại, chúng ta hãy nhớ điều này: Chúa đi qua, luôn đi qua và dừng lại để chữa lành sự mù quáng của chúng ta. Và thật là đẹp nếu Thượng Hội đồng thúc đẩy chúng ta trở thành Giáo hội như anh Ba-ti-mê: là cộng đồng các môn đệ, khi nghe Chúa đi qua, thì cảm thấy hân hoan vì ơn cứu độ, để cho mình được sức mạnh của Tin mừng đánh thức và bắt đầu kêu lên cùng Chúa. Giáo hội làm như vậy, khi đón nhận tiếng kêu của những người muốn khám phá niềm vui Tin mừng và của những người, thay vì đã quay lưng lại, tiếng kêu âm thầm của người dửng dưng, tiếng kêu đau khổ của những người nghèo và ở ngoài lề; tiếng kêu nghẹn ngào của người không còn sức lực để kêu lên Thiên Chúa, vì họ không có tiếng nói hay vì cam chịu. Chúng ta không cần một Giáo hội ngồi lỳ và từ khước, nhưng một Giáo hội đón nhận tiếng kêu của thế giới và dấn thân để phục vụ.

Sang đến khía cạnh thứ hai: ban đầu anh Ba-ti-mê ngồi, nhưng sau cùng chúng ta thấy anh đứng phắt dậy và theo Chúa trên đường Người đi. Đó là một kiểu nói tiêu biểu của Tin mừng và có nghĩa là ông trở nên môn đệ của Chúa, và bước theo Ngài.

Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta ngồi thoải mái, cả khi Giáo hội không tìm được sức mạnh, cần có can đảm và sự táo bạo để trỗi dậy và tiếp tục hành trình. Chúng ta luôn nhớ trở về với Chúa và Tin mừng của Ngài.

Tôi muốn lặp lại rằng Tin mừng nói về anh Ba-ti-mê theo Chúa trên đường. Đó là một hình ảnh của Giáo hội tiến bước: Chúa kêu gọi chúng ta, nâng chúng ta dậy khi chúng ta ngồi hoặc sa ngã, làm cho chúng ta tái phục hồi thị giác, để, dưới ánh sáng của Tin mừng, chúng ta có thể thấy những lo âu và đau khổ của thế giới, và như thế chúng ta được Chúa giúp đứng lên, chúng ta cảm nghiệm niềm vui đi theo Chúa. Chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta không tiến bước cho mình hoặc theo các tiêu chuẩn của thế gian, nhưng cùng nhau đi theo Chúa và với Chúa.

Cuối bài giảng, Đức Thánh cha cũng nhắc đến thánh tích ngai tòa của thánh Phêrô được trùng tu kỹ lưỡng. Đức Thánh cha nói: “Chúng ta hãy chiêm ngắm, với sự kinh ngạc của đức tin, và nhớ đó là ngai tòa của tình thương, hiệp nhất và thương xót, theo mệnh lệnh Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô tông đồ, đừng thống trị những người khác nhưng phục vụ họ trong tình bác ái”.

Đức Thánh cha cũng nói đến mái che hùng vĩ trên bàn thờ thánh Phêrô, sáng ngời hơn bao giờ hết, để mọi người khám phá nơi đó là điểm hội tụ đích thực của toàn thể Vương cung thánh đường, nghĩa là vinh quang của Chúa Thánh Linh. Đó là Giáo hội hiệp hành: một cộng đoàn với quyền tối thượng là ở nơi hồng ân của Chúa Thánh Linh, làm cho tất cả chúng ta trở thành anh chị em trong Chúa Kitô nâng chúng ta lên Ngài”.

Phần lời nguyện chung được những người đại diện từ một số quốc gia, dâng lên Chúa những ước nguyện: cho Giáo hội, cho Đức Thánh cha, cho Thượng Hội đồng Giám mục và cho mọi thành phần dân Chúa.

Thánh lễ tạ ơn bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI đã kết thúc với phép lành của Đức Thánh cha.


Thánh tích Ngai tòa thánh Phêrô, tượng trưng cho quyền tối thượng của thánh Phêrô, được trưng bày cho các tín hữu chiêm ngắm từ ngày 27/10 đến ngày 08/12/2024, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Ngai tòa Thánh Phêrô là một ngai cổ xưa bằng gỗ, được đưa đến Roma vào thế kỷ thứ 9, như một món quà của vua Pháp Carlo II il Calvo tặng Đức Giáo Hoàng Gioan VIII. Vào thế kỷ 13, Ngai toà được bọc thêm một khung kim loại bên ngoài để có thể vận chuyển trong các cuộc rước long trọng ở Đền thờ Thánh Phêrô.

Trong quá trình trùng tu tán che trên bàn thờ Tuyên xưng Đức tin, để chuẩn bị cho Năm Thánh 2025, thánh tích Ngai tòa thánh Phêrô được chuyển đến phòng thánh Ottoboni và được lưu giữ tạm thời ở đó. Và chính Đức Thánh Cha trước khi cử hành Thánh lễ khai mạc phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về Hiệp hành, sáng ngày 2/10/2024, đã đến phòng thánh Ottoboni của Đền thờ Thánh Phêrô để chiêm ngắm thánh tích Ngai tòa. Sau đó ngài đã cho phép trưng bày Ngai toà để các tín hữu chiêm ngắm trong thời gian từ Chúa nhật 27/10 đến 08/12/2024, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Đức Hồng Y Mauro Gambetti, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô giải thích, Đền thờ thánh Phêrô muốn trưng bày thánh tích cổ - Ngai toà Tình yêu, bởi vì Ngai toà chỉ cho chúng ta thấy chỉ có tình thương mới có thể sinh ra cộng đoàn Kitô. Thực vậy,  Ngai toà kể cho chúng ta về một cuộc gặp gỡ, quy tụ trong một cộng đoàn, của một Giáo hội quy tụ quanh vị mục tử, nơi mỗi người được mời gọi đích thân đi theo Chúa Giêsu, nhưng trên một con đường không bao giờ mang tính cá nhân, nhưng luôn được chia sẻ và soi sáng bởi anh chị em.

Giáo hội cử hành lễ kính nhớ Ngai tòa Thánh Phêrô vào ngày 22/2 hàng năm nhằm tôn vinh quyền tối thượng của Thánh Phêrô và những người kế vị ngài. Việc cử hành này tưởng nhớ quyền năng được Chúa Kitô trao ban cho người đại diện cho Người trên trái đất, là người đứng đầu Giáo hội và là Đức Giáo Hoàng, như được viết trong các Tin Mừng đã chỉ ra: “Con là Đá và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy. Và cửa hỏa ngục sẽ không thắng được”



Tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng gồm 155 đoạn: Các đề xuất và chủ đề chính

Tạp chí ALETEIA, ngày 28 tháng 10, 2024, đăng tải các điểm chính của Tài liệu Sau cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị, một tài liệu, lần đầu tiên trong lịch sử, được Đức Phanxicô chính thức chấp nhận đưa vào huấn quyền thông thường của ngài.

Phụ nữ và giáo dân, phân quyền, minh bạch: Đây là những chủ đề chính của tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị được công bố vào ngày 26 tháng 10 năm 2024.

Sau ba năm suy gẫm, Thượng hội đồng về tính đồng nghị đã kết thúc vào tối ngày 26 tháng 10 năm 2024, khi 356 thành viên của nó tập trung để bỏ phiếu cho một tài liệu sau cùng.

Trong một hành động bất ngờ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ngay lập tức chấp thuận tài liệu này, nói rằng ngài sẽ không công bố tông huấn hậu thượng hội đồng, đây là loại tài liệu giáo hoàng thường được công bố sau một thượng hội đồng. Do đó, văn bản này ngay lập tức nằm trong huấn quyền của Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên, ngài đã nêu rõ rằng nó không phải là chuẩn mực.

Văn kiện gồm 155 đoạn văn, chứa đựng nhiều gợi ý và đề xuất. Vấn đề về vị trí và vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, được tranh luận nhiều trong những năm làm việc vừa qua, hiện đang rất cấp thiết.

Vấn đề cụ thể liên quan đến các nữ phó tế, mà Đức Giáo Hoàng đã bỏ qua trong phiên họp cuối cùng này, lại xuất hiện trong một đoạn văn, cho thấy quyết tâm của một số thành viên nhằm bảo đảm việc suy nghĩ này không bị mất đi.

Ngoài các đề xuất riêng lẻ - chẳng hạn như tổ chức một Thượng hội đồng cho Trung Đông, xem xét liệu giáo dân có thể là nhân chứng cho hôn nhân hay không, hoặc suy tư về thừa tác vụ lắng nghe - Thượng hội đồng này đặt nền tảng cho việc nhấn mạnh hơn nữa vào vai trò của giáo dân.

Văn kiện khẳng định mong muốn thấy giáo dân đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn trong việc quản lý các giáo xứ và giáo phận. Văn kiện cũng đưa ra nhiều lời kêu gọi thiết lập một nền văn hóa minh bạch trong Giáo hội, nhằm chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị và mọi loại lạm dụng.

Aleteia xem xét kỹ hơn các xu hướng và hướng đi chính mà tài liệu đề xuất.


1. Những người nam và nữ giáo dân nên tham gia nhiều hơn vào đời sống của Giáo hội

Suy tư về các phó tế nữ đã trở lại

Một chủ đề cực kỳ nhạy cảm kể từ khi bắt đầu Thượng hội đồng về tính đồng nghị, vấn đề cho phép phụ nữ được thụ phong phó tế đã không nhận được sự chấp thuận nhất trí tại hội nghị. Đoạn 60 của tài liệu cuối cùng đã gây ra nhiều sự phản đối nhất: 97 người đã bày tỏ sự phản đối của họ trong cuộc bỏ phiếu.

Đoạn văn quả quyết rằng "vấn đề về quyền tiếp cận chức phó tế của phụ nữ vẫn còn bỏ ngỏ". Theo các nguồn tin của Aleteia, tài liệu tham khảo này không có trong bản dự thảo tài liệu và do đó đã được thêm vào các sửa đổi được các thành viên Thượng hội đồng đệ trình trong tuần này. Tài liệu nêu rõ "cần phải tiếp tục phân định" về vấn đề này.

Câu hỏi này đã bị loại khỏi các cuộc tranh luận của Phiên Họp; Đức Giáo Hoàng đã giao phó các chủ đề nhạy cảm nhất của Thượng hội đồng cho 10 nhóm làm việc, những nhóm này sẽ đưa ra kết luận vào tháng 6 năm 2025, và chức phó tế nữ nằm trong số đó.

"Không có lý do hay trở ngại nào có thể ngăn cản phụ nữ đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo trong Giáo hội", văn bản nêu rõ. "Phụ nữ tiếp tục gặp phải những trở ngại trong việc đạt được sự công nhận đầy đủ hơn về các đặc sủng, ơn gọi và vai trò của họ trong mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống Giáo hội".

Liên quan đến các phó tế vĩnh viễn, một chức vụ dành riêng cho nam giới, văn bản kêu gọi vai trò này được đào sâu và thúc đẩy ở những khu vực mà nó vẫn chưa được biết đến nhiều.

Các hội đồng giáo xứ bắt buộc có thành viên là giáo dân

Để khuyến khích "tăng cường sự tham gia của giáo dân nam và nữ vào các quá trình phân định của Giáo hội và tất cả các giai đoạn của quá trình ra quyết định (soạn thảo, đưa ra và xác nhận quyết định)", Thượng hội đồng kêu gọi "các cơ quan tham gia" trong Giáo hội phải có tính "bắt buộc" (điểm 104).

Những điều này được quy định trong Giáo luật và bao gồm các cơ quan như Hội đồng Mục vụ Giáo phận, Hội đồng Mục vụ Giáo xứ hoặc Hội đồng Kinh tế. Bản chất bắt buộc của biện pháp này có thể thay đổi cách quản lý của nhiều Giáo hội địa phương, mặc dù nhiều giáo hội, đặc biệt là ở phương Tây, đã có những cấu trúc như vậy.

Nhiều thừa tác vụ giáo dân hơn?

"Một Giáo hội truyền giáo theo tinh thần đồng nghị sẽ khuyến khích nhiều hình thức thừa tác vụ giáo dân hơn, tức là các thừa tác vụ không đòi hỏi bí tích Truyền chức thánh", tài liệu thúc giục trong đoạn 66.

Các thừa tác vụ này có thể bao gồm thừa tác vụ đọc sách và thừa tác vụ giúp lễ (lần lượt là người đọc sách và người giúp linh mục trong thánh lễ), gần đây cũng mở cho phụ nữ, và thừa tác vụ giáo lý viên, được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chính thức thành lập vào năm 2021.

Các mục tử được thúc giục "đáp ứng bằng sự sáng tạo và lòng dũng cảm đối với các nhu cầu của sứ mệnh" và "không chỉ trong phạm vi phụng vụ".

Một thừa tác vụ lắng nghe?

Trong số các thừa tác vụ mới mà thượng hội đồng nghiên cứu trong tháng thảo luận này có thừa tác vụ "lắng nghe và đồng hành". Trong văn kiện cuối cùng, đề xuất này không được nhất trí thông qua. Một số người phản đối, ví dụ, nói rằng đây là “nhiệm vụ của tất cả những người đã chịu phép rửa tội”. Những người khác đề xuất rằng thừa tác vụ này “nên được đặc biệt nhằm chào đón những người ở bên lề cộng đồng Giáo hội, những người trở về sau khi đã trôi dạt và những người đang tìm kiếm sự thật và mong muốn được giúp đỡ để gặp Chúa.” Các thành viên giải thích rằng cần phải có sự phân định rõ ràng hơn về vấn đề này (đoạn 78).

Giáo dân cử hành hôn nhân?

Vẫn phù hợp với cuộc thảo luận này liên quan đến các thừa tác vụ khác nhau, hội đồng đã viết rằng “cần cân nhắc việc mở rộng và ổn định” khả năng cho phép giáo dân cử hành lễ rửa tội và hôn nhân (đoạn 76). Hiện tại, điều này được phép như một ngoại lệ trong một số điều kiện chuyên biệt. (Ở phương Tây, bí tích hôn nhân được hiểu là do chính cặp đôi trao ban, với sự chứng kiến của linh mục.)

Nhiều giáo dân tham gia hơn trong phụng vụ

Các thành viên Thượng hội đồng kêu gọi thành lập một nhóm nghiên cứu mới để đánh giá mối liên hệ giữa “phụng vụ và tính đồng nghị” nhằm “áp dụng các phong cách cử hành làm nổi bật khuôn mặt của một Giáo hội đồng nghị.” Nhóm này “cũng có thể xem xét chủ đề thuyết giảng trong các nghi lễ phụng vụ”, văn bản nêu trong đoạn 27. Đoạn văn này là một trong những đoạn ít nhất trí nhất trong cuộc bỏ phiếu.

Vấn đề cho phép giáo dân thuyết giảng trong Thánh lễ nằm trong chương trình nghị sự cho các cuộc thảo luận trong tháng này tại Rome. Mặc dù không có sự đồng thuận, nhưng khi đưa ra yêu cầu này, các thành viên của Thượng hội đồng dường như muốn theo đuổi sự suy nghĩ của họ. Hiện nay, giáo luật dành quyền thuyết giảng cho các thành viên hàng giáo sĩ (giám mục, linh mục hoặc phó tế).

Phụ nữ trong các chủng viện

Văn bản kêu gọi xem xét kỹ lưỡng việc đào tạo tại chủng viện, để chuẩn bị cho các ứng viên chức linh mục theo “cách thức đồng nghị” (đoạn 148). “Cần phải có sự hiện diện đáng kể của phụ nữ”, đoạn văn nêu rõ, thu hút 40 phiếu chống.

Tài liệu đề cập đến tầm quan trọng của “việc đào tạo để có thể cộng tác với mọi người trong Giáo hội”, và cũng mời gọi thực hiện một hình thức giáo dục chung và trách nhiệm (giữa nam và nữ, và giữa các trạng thái sống khác nhau) trong các nghiên cứu thần học, bao gồm cả những người đang học để trở thành linh mục. “Do đó, việc đào tạo phải bao gồm tất cả các chiều kích của con người (trí tuệ, tình cảm, quan hệ và tâm linh)”, tài liệu nhấn mạnh.


2. Tản quyền Giáo hội

Hiểu rõ hơn về phạm vi của Giám mục Rôma

Văn bản nhấn mạnh vào vị trí đặc biệt của Giáo hoàng, nhắc lại rằng trong các sách Tin Mừng, Phêrô đã đóng “một vai trò đặc biệt” với Chúa Giêsu, đáng chú ý là trong câu chuyện về mẻ cá kỳ diệu (đoạn 109).

“Quá trình đồng nghị cũng đã xem xét lại câu hỏi về cách thức mà Giám mục Rôma thực hiện thừa tác vụ của mình”, tài liệu viết. “Là Người kế vị Thánh Phêrô, ngài có vai trò độc nhất trong việc bảo vệ kho tàng đức tin và luân lý, đảm bảo rằng các tiến trình đồng nghị hướng đến sự hiệp nhất và chứng tá (đoạn 131).”

Vấn đề bổ trợ cũng được giải quyết: “người ta có thể khởi xướng một nghiên cứu thần học và giáo luật có nhiệm vụ xác định những vấn đề cần trình lên Đức Giáo Hoàng (reservatio papalis) và những vấn đề có thể trình lên các giám mục trong Giáo hội hoặc nhóm Giáo hội của họ.”

Hiểu rõ hơn về thẩm quyền của các hội đồng giám mục

Những người tham gia thượng hội đồng cũng kêu gọi suy gẫm thêm về “quy chế thần học và pháp lý”, và làm rõ về “thẩm quyền về tín lý và kỷ luật” của các hội đồng giám mục (đoạn 125).

Tài liệu này cũng khuyến khích “một quá trình đánh giá” mối quan hệ “cụ thể” giữa Giáo triều Rôma và các giám mục địa phương để đánh giá xem có cần thực hiện cải cách hay không. Các thành viên của Thượng hội đồng đề xuất đưa những chủ đề này vào chương trình nghị sự của các chuyến viếng thăm ad limina sắp tới, tức là các chuyến viếng thăm mà tất cả các giám mục trên thế giới được cho là sẽ thực hiện tại Rome năm năm một lần.

Văn kiện này cũng kêu gọi làm rõ hơn về "tình trạng thần học và giáo luật" của các hội đồng lục địa và các hội đồng giáo hội lục địa, bao gồm cả giáo dân. Những người tham gia yêu cầu các cơ quan này được tăng cường theo "di sản" mà họ để lại với những trải nghiệm tích cực của tiến trình đồng nghị.

Những người tham gia cũng kêu gọi khôi phục lại "các hội đồng đặc thù" mà họ coi là một công cụ để "phân quyền lành mạnh" (đoạn 129). Giáo Hội Công Giáo tại Úc đã tiến hành một thử nghiệm như vậy từ năm 2018 đến năm 2022, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng lạm dụng.

Các cơ quan "nghị bàn" cùng với các giám mục?

Các thành viên của Thượng hội đồng rất muốn nhấn mạnh giá trị của các hội đồng tham vấn. Trong đoạn 92, một trong những đoạn gây tranh cãi nhất trong quá trình bỏ phiếu cho văn kiện sau cùng, có nêu rằng khi các hội đồng như vậy đưa ra sự phân định đúng đắn, thì chúng không nên bị thẩm quyền giám mục bỏ qua.

Trong khi thừa nhận rằng giám mục vẫn giữ quyền ra quyết định, họ kêu gọi sửa đổi giáo luật để đề cao hơn khía cạnh "nghị bàn" [deliberative] chứ không chỉ là khía cạnh tham vấn của các cơ quan như vậy.

Các giám mục nên ủy quyền nhiều hơn

“Điều quan trọng là giúp các tín hữu tránh những kỳ vọng quá mức và không thực tế vào giám mục, hãy nhớ rằng ngài cũng là một người anh em yếu đuối, dễ bị cám dỗ, cần được giúp đỡ như mọi người khác”, tài liệu của Thượng hội đồng nhấn mạnh trong đoạn 71. “Một hình ảnh lý tưởng về thừa tác vụ của giám mục có thể cản trở bản chất đôi khi yếu đuối của thừa tác vụ của ngài. Mặt khác, thừa tác vụ của ngài được nâng cao rất nhiều khi, trong một Giáo hội thực sự theo tinh thần đồng nghị, thừa tác vụ được hỗ trợ bởi sự tham gia tích cực của toàn thể dân Chúa”.

Rộng hơn, Thượng hội đồng kêu gọi “một sự phân định can đảm hơn về những gì thực sự thuộc về thừa tác vụ và những gì có thể và phải được ủy quyền cho người khác” (đoạn 74). Sự phân chia nhiệm vụ và trách nhiệm này sẽ giúp chống lại tình trạng lạm dụng dưới mọi hình thức như “tình dục hoặc kinh tế” hoặc “lương tâm và quyền lực, bởi các mục tử của Giáo hội”.

Sự liên đới có cấu trúc tốt hơn giữa các giáo hội

Tài liệu này liên tục sử dụng cụm từ “trao đổi hồng ân” để khuyến khích các giáo hội địa phương hỗ trợ lẫn nhau theo điểm mạnh và điểm yếu của họ. Đặc biệt, văn bản hoan nghênh các hình thức hợp tác mới của giáo hội đang nổi lên “trong các khu vực địa lý xuyên quốc gia và liên văn hóa rộng lớn như Amazon, lưu vực sông Congo và Biển Địa Trung Hải”.

Tuy nhiên, các hình thức hỗ trợ khác nhau cần được định hình tốt hơn, đặc biệt là liên quan đến phong trào linh mục. “Các linh mục giúp đỡ các Giáo hội đang thiếu hụt giáo sĩ không chỉ là biện pháp khắc phục chức năng mà còn là nguồn lực cho sự phát triển của Giáo hội gửi họ và nơi tiếp nhận họ”, văn bản nhấn mạnh. “Tương tự như vậy, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng viện trợ kinh tế không thoái hóa thành chủ nghĩa phúc lợi, mà thúc đẩy tình liên đới truyền giáo và được quản lý theo cách minh bạch và đáng tin cậy” (đoạn 121).

3. Một nền văn hóa minh bạch và đánh giá để chống lạm dụng

Tiếp tục cuộc chiến chống lạm dụng trong Giáo hội

Trong một số trường hợp, văn bản cuối cùng đề cập đến “vụ tai tiếng” về các vụ lạm dụng xảy ra trong Giáo Hội Công Giáo. Để đáp lại, các thành viên của Thượng hội đồng nhấn mạnh vào nền văn hóa bảo vệ, để Giáo hội luôn là nơi an toàn cho trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương (đoạn 150).

Ghi nhận những nỗ lực đã thực hiện trong cuộc chiến chống lạm dụng, những người tham gia Thượng hội đồng kêu gọi Giáo hội tiếp tục con đường này, và đặc biệt là đào tạo bắt buộc cho tất cả những người làm việc với trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương trong Giáo hội. Ở cấp địa phương, tài liệu cũng kêu gọi lập báo cáo thường niên về các sáng kiến bảo vệ.

Minh bạch chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị

Quản trị minh bạch sẽ giúp chống lại nền văn hóa giáo sĩ trị, các thành viên Thượng hội đồng giải thích trong văn bản. “Minh bạch và trách nhiệm giải trình không chỉ nên được áp dụng khi nói đến lạm dụng tình dục, tài chính và các hình thức lạm dụng khác. Những thực hành này cũng liên quan đến lối sống của các mục tử, kế hoạch mục vụ, phương pháp truyền giáo và cách Giáo hội tôn trọng phẩm giá con người, ví dụ, liên quan đến điều kiện làm việc trong các tổ chức của mình”, đoạn 98 của tài liệu sau cùng nêu rõ.

Tiếp theo, văn bản nhấn mạnh đến sự tham gia của “các thành viên có năng lực” vào việc lập kế hoạch mục vụ và kinh tế của các Giáo hội địa phương. Về việc tạo ra một nền văn hóa có trách nhiệm, Phiên họp Thượng hội đồng nhấn mạnh đến việc lập các báo cáo thường niên, đặc biệt là về các vấn đề tài chính.

Đánh giá các nỗ lực theo hướng đồng nghị

Các thành viên Thượng hội đồng có kế hoạch đánh giá “tiến trình đạt được theo hướng đồng nghị và sự tham gia của tất cả những người đã chịu phép rửa tội vào đời sống của Giáo hội”. Tài liệu sau cùng khuyên các Hội đồng Giám mục xác định những người có khả năng đồng hành với phong trào này, liên lạc với Văn phòng Tổnt thư ký Thượng hội đồng tại Rome. Nói rộng hơn, họ khuyến nghị rằng các thủ tục được đưa ra để “đánh giá định kỳ tất cả các thừa tác vụ và vai trò trong Giáo hội”.


4. Tập chú vào người khuyết tật và các Giáo hội Đông phương

Một Thượng hội đồng về các Giáo hội Đông phương?

“Phiên họp [Thượng hội đồng] đề xuất Đức Thánh Cha triệu tập một Thượng hội đồng đặc biệt để thúc đẩy việc củng cố và tái phát triển các Giáo Hội Công Giáo Đông phương”, tài liệu nêu trong đoạn 133. Năm 2010, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã triệu tập một Thượng hội đồng cho Trung Đông, nhưng tình hình của các Giáo hội này đã thay đổi đáng kể sau hơn một thập niên khủng hoảng lớn trong khu vực.

Tài liệu sau cùng cũng đề xuất thành lập một “Hội đồng các Thượng phụ, Tổng giám mục và Giám mục Đô thị của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương do Đức Giáo Hoàng chủ trì”.

Cuối cùng, tài liệu kêu gọi tạo ra các công cụ để hỗ trợ sự hợp tác giữa các Giáo Hội Công Giáo Latinh và Đông phương, đặc biệt liên quan đến những người Công Giáo Đông phương lưu vong ở các quốc gia có truyền thống Latinh. Điều này sẽ giúp bảo vệ truyền thống của họ và thúc đẩy “trao đổi hồng ân”.

Một trung tâm nghiên cứu về khuyết tật

Văn bản cũng kêu gọi thành lập một “trung tâm nghiên cứu về khuyết tật dựa trên Giáo hội” trong đoạn 63. Các thành viên của Thượng hội đồng mạnh mẽy lên án mọi sự phân biệt đối xử với người khuyết tật và kêu gọi coi trọng họ như “những tác nhân tích cực của công cuộc truyền giáo”.

“Chúng tôi thừa nhận những trải nghiệm đau khổ, bị gạt ra ngoài lề và bị phân biệt đối xử của [những người khuyết tật], đôi khi ngay cả trong cộng đồng Kitô giáo cũng phải chịu đựng do những nỗ lực thể hiện lòng trắc ẩn có thể mang tính cha chú”, văn bản giải thích.

Quyết định của Đức Thánh cha về văn kiện chung kết Thượng Hội đồng Giám mục

Đức Thánh cha Phanxicô quyết định cho áp dụng ngay Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI và không dùng nó để soạn Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Giám mục, như các vị tiền nhiệm, hoặc như chính ngài đã làm những lần trước đây, sau các Thượng Hội đồng Giám mục.

image.png

Đức Thánh cha thông báo quyết định trên đây, vào chiều thứ Bảy, ngày 26 tháng Mười vừa qua, trong lời chào kết thúc khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục, về chủ đề: “Tiến tới một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ mạng”, sau tiến trình dài bốn năm.

Sau khi nêu một số lý do, trong đó có tình trạng “Trong thời kỳ các cuộc chiến tranh này, chúng ta phải là những chứng nhân về hòa bình, kể cả bằng cách học mang lại một hình thức cụ thể cho sự sống chung giữa những khác biệt.”

Đức Thánh cha nói: “Vì lý do đó, tôi không có ý công bố “một tông huấn”, những gì chúng ta đã thông qua là đủ rồi. Trong Văn kiện (chung kết) đã có những chỉ dẫn rất cụ thể có thể là hướng đạo cho sứ mạng của các giáo phận, tại các đại lục khác nhau, trong bối cảnh khác nhau. Vì thế, tôi đặt ngay văn kiện này do mọi người sử dụng, nên tôi nói hãy công bố. Qua đó, tôi muốn nhìn nhận giá trị của hành trình công nghị đã thực hiện, mà qua văn kiện này, tôi trao gửi cho dân trung thành của Thiên Chúa”.

Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Về một số khía cạnh của Giáo hội được nêu lên trong Văn kiện chung kết, cũng như về những đề tài được ủy thác cho 10 “nhóm nghiên cứu”, mà họ phải làm việc trong tự do để trình cho tôi những đề nghị, thì cần thời gian, để đạt tới những chọn lựa có sự can dự của toàn thể Giáo hội. Do đó, tôi sẽ tiếp tục lắng nghe các giám mục và các giáo phận đã được ủy thác cho các vị”.

“Điều này không phải là cách thức cổ điển để hoãn lại các quyết định đến vô tận. Đó là điều tương ứng với kiểu đồng nghị mà sứ vụ Phêrô cũng phải thực thi qua thể thức: lắng nghe, triệu tập, phân định, quyết định và đánh giá. Trong các giai đoạn đó, cần có sự tạm ngưng, thinh lặng, cầu nguyện. Đó là đường lối chúng ta đang cùng nhau học hỏi, mỗi lần một ít. Chúa Thánh Linh kêu gọi và nâng đỡ chúng ta trong cuộc học hỏi này, và chúng ta phải hiểu như tiến trình hoán cải”.

“Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục và tất cả các Bộ của Giáo triều sẽ giúp tôi trong công tác này”.

Quyết định trên đây của Đức Thánh cha được coi là điều gây ngạc nhiên nhất về Thượng Hội đồng Giám mục này. Như vậy, tất cả những gì được ghi trong Văn kiện chung kết này đều hội đủ hai phần ba số phiếu.


Vài nét về Văn kiện chung kết Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI


Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục thứ XVI dài khoảng 52 trang, với 28.000 từ, gồm 155 đoạn, có kèm theo kết quả cuộc bỏ phiếu, với số phiếu thuận và phiếu chống, cho thấy rõ đề nghị ấy được thông qua với số phiếu thế nào.

Đoạn số 60, về vai trò của các phụ nữ trong Giáo hội, bị phiếu đen nhiều nhất, 97 phiếu, so với 258 phiếu thuận. Đoạn 60 này khẳng định rằng:

“Do bí tích Rửa tội, người nam và người nữ được bình quyền về phẩm giá trong dân Chúa. Tuy nhiên, phụ nữ tiếp tục gặp những chướng ngại trong việc đạt được một sự nhìn nhận trọn vẹn hơn về các đoàn sủng của họ, ơn gọi và chỗ đứng của họ trong các lãnh vực khác nhau của đời sống Giáo hội, gây thiệt hại cho việc phục vụ sứ mạng chung. Kinh thánh làm chứng về vai trò hàng đầu của nhiều phụ nữ trong lịch sử cứu độ. Một phụ nữ là Maria Madalena được ủy thác việc loan báo đầu tiên về sự sống lại; trong ngày lễ Ngũ Tuần, tại nhà Tiệc Ly có sự hiện diện của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa cùng với nhiều phụ nữ khác, những người đã theo Chúa. Điều quan trọng là những đoạn liên quan của Kinh thánh tìm được chỗ đứng thích hợp trong các sách phụng vụ. Một số mấu chốt của lịch sử Giáo hội khẳng định sự đóng góp thiết yếu của phụ nữ do Chúa Thánh Linh thúc đẩy. Các phụ nữ chiếm đa số những người đi nhà thờ, và thường là những chứng nhân đức tin đầu tiên trong các gia đình. Họ tích cực hoạt động trong đời sống của các cộng đoàn Kitô nhỏ và trong các giáo xứ; họ quản trị các học đường, nhà thương và các trung tâm tiếp đón; họ dẫn đầu các sáng kiến hòa giải và thăng tiến phẩm giá con người và công bằng xã hội. Phụ nữ góp phần vào việc nghiên cứu thần học và hiện diện trong các vị trí trách nhiệm trong các tổ chức liên hệ với Giáo hội, trong các Tòa giám mục giáo phận và trong Giáo triều Roma. Có những phụ nữ giữ vai trò cai quản hoặc đứng đầu cộng đoàn. Đại hội này mời gọi hãy hoàn toàn thực hiện tất cả những cơ hội được luật pháp hiện hành trù định liên quan đến vai trò của phụ nữ, đặc biệt tại những nơi chưa được thực hiện. Không có lý do ngăn cản phụ nữ đảm nhận vai trò lãnh đạo trong Giáo hội: không thể ngăn chặn điều đến từ Chúa Thánh Linh. Cả vấn đề phụ nữ đảm nhận thừa tác vụ phó tế cũng mở ngỏ. Cần tiếp tục thực hiện sự phân định về vấn đề này. Ngoài ra, Đại hội này mời gọi hay chú ý hơn đến ngôn ngữ và những hình ảnh dùng trong việc giảng thuyết, giáo dục, dạy giáo lý và trong việc soạn thảo các văn kiện chính thức của Giáo hội, dành chỗ nhiều hơn cho sự đóng góp của các thánh nữ, các nữ thần học gia và các nữ thần bí gia”.





Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng không giải quyết được mọi vấn đề, và tôi rất biết ơn điều này

Có một chuyện cười ngày xưa: lạc đà là con vật bạn có trong tay khi bạn nhờ một họa sĩ vẽ con ngựa!

Tôi đến Rôma khuya thứ tư tuần trước, đúng khi Thượng Hội đồng nghỉ họp ngày thứ năm, một Ủy ban đang chuẩn bị Tài liệu cuối cùng, nhưng đây không phải là ngày nghỉ hoàn toàn, vì chiều thứ năm, Hồng y Víctor Manuel Fernández, bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin gặp các đại diện và trả lời các câu hỏi của Nhóm 5 của Hồng y được giao nghiên cứu chủ đề phó tế nữ.

Tôi không hình dung làm sao việc viết Tài liệu cho các cuộc thảo luận trong một tháng giữa gần 400 người từ khắp mọi nơi trên thế giới, bằng nhiều ngôn ngữ, lại diễn ra suôn sẻ như vậy. Viết một bài xã luận trên trang America với sự cộng tác của toàn ban biên tập cũng đã căng thẳng, mà ban biên tập chỉ có một ít người và tất cả chúng tôi đều làm việc bằng tiếng Anh.

Với tất cả dè dặt, tôi vẫn bị cuốn hút và đầy hy vọng khi thấy cách Thượng Hội đồng làm việc để công bố Tài liệu cuối cùng, được Đức Phanxicô thông qua, được đưa vào giáo huấn bình thường của ngài thay vì phải viết một Tông huấn để tổng hợp.

Một đoạn có thể dùng như một hình ảnh nhỏ về lý do vì sao Tài liệu này làm tôi hy vọng dù bề ngoài giống như con lạc đà đang được Ủy ban soạn thảo.

Đoạn 60, về vai trò của phụ nữ trong lãnh đạo, hơi dài và khó hiểu. Đoạn này bắt đầu bằng việc công nhận “phụ nữ vẫn tiếp tục gặp trở ngại” khi thực hiện vai trò lãnh đạo và mục vụ trong Giáo hội, đoạn giới thiệu chủ đề có nguồn gốc từ Kinh Thánh cho đến kinh nghiệm đương đại. Nhưng trong suốt thời gian họp, các vai trò này được đưa ra như một cách để nói “không” với chức phó tế nữ, như thể nói, “phụ nữ đã làm rất nhiều rồi!” để giải quyết câu hỏi liệu Chúa có kêu gọi một số phụ nữ phục vụ với tư cách là phó tế hay không.

Nhưng đoạn này tiếp tục đi ra ngoài danh mục. Đoạn kêu gọi “thực hiện đầy đủ” tất cả các khả năng lãnh đạo của phụ nữ đã có trong luật giáo luật, rằng “không có lý do hay trở ngại nào ngăn cản phụ nữ thực hiện vai trò lãnh đạo như vậy, vì sự gì đến từ Chúa Thánh Thần thì không ngăn cản được. Vấn đề chức phó tế nữ vẫn còn mở và chúng ta cần tiếp tục phân định.”

Tôi không thể không tự hỏi đây có phải là những gì bản thảo ban đầu đề cập đến không. Gần như chắc chắn là không – dù bên ngoài hội trường, chúng tôi không biết gì về các chi tiết của bản thảo và bản sửa đổi. Nhưng chúng tôi biết ba phần tư đại biểu bỏ phiếu thuận và đoạn này có nhiều phiếu ”phủ nhận” hơn bất kỳ đoạn nào trong Tài liệu (258 phiếu thuận, 97 phiếu chống ).

Đoạn này cũng không làm tất cả mọi người hài lòng (cho bất cứ ai). Những người cho rằng bất kỳ việc phong chức nào cho phụ nữ, kể cả chức phó tế là điều không thể về mặt thần học đều thất vọng, vì vấn đề vẫn chưa giải quyết dứt điểm, còn những người ủng hộ, những quan sát viên bên ngoài thì cho đây chỉ là “cú đánh cược” của vấn đề, theo ngôn ngữ của báo New York Times.

Nhưng khi nghe các đại biểu phát biểu, tôi thấy có một cái gì đó hoàn toàn khác. Không đủ thống nhất chung quanh vấn đề chức phó tế nữ để giải quyết vấn đề. Ngay cả nếu có, Giáo hoàng vẫn nói “không” với chức phó tế nữ, và Hồng y Fernández đã nhiều lần nói, về mặt thần học, vấn đề này chưa “chín muồi”.

Vì Thượng Hội đồng không phải là nghị viện nên không thể giải quyết bằng bỏ phiếu, dù đa số tuyệt đối đã bỏ phiếu thuận. Tuy nhiên, vì tính đồng nghị là “chiều kích cấu thành” của Giáo hội, nên việc Thượng Hội đồng tiếp tục đặt vấn đề cũng không thể bị các thần học gia hoặc chính Giáo hoàng bác bỏ hoàn toàn. Hồng y Jean-Claude Hollerich đã trình bày trong cuộc họp báo, Tài liệu cuối cùng được thông qua như một giáo huấn thông thường và Giáo hoàng vẫn còn để mở vấn đề này.

Ngoài ra, chủ đề được Thượng Hội đồng tham khảo nhiều lần là sự khác biệt giữa hiệp nhất và đồng nhất, nhắc chúng ta Giáo hội được mời gọi để hướng đến hiệp nhất chứ không đồng nhất. Hiệp nhất là mục tiêu cao cả, đòi hỏi phải được duy trì ở những nơi đã đạt được, kiên trì làm việc ở những nơi chưa rõ ràng. Nhưng đồng nhất không phải là con đường tắt đưa đến hiệp nhất, vì không đơn thuần áp đặt hiệp nhất khi hiệp nhất chưa được nuôi dưỡng và trải nghiệm.

Về chủ đề phó tế nữ và các chủ đề phức tạp khác như thẩm quyền giảng dạy của các Hội đồng Giám mục, chức thánh cho những người bị loại trừ vì “tình trạng hôn nhân, qua hình thức hoặc qua khuynh hướng tình dục” của họ, Thượng Hội đồng đang đi tìm hiệp nhất, thừa nhận kinh nghiệm và phán đoán về những vấn đề này chưa được thống nhất trên toàn Giáo hội. Tài liệu cuối cùng đã lên danh sách các thực tế này, không cho rằng có thể giải quyết các vấn đề này bằng sắc lệnh thần học, giáo hội hoặc thượng hội đồng.

Một số người sẽ bực mình hoặc cho rằng đây là kết quả quá nhỏ sau nhiều năm cố gắng làm việc và tham vấn. Nhưng khi ngồi trong Đền thờ Thánh Phêrô để dự lễ bế mạc Thượng Hội đồng, tôi thấy đó là nguồn hy vọng và lý do để biết ơn. Thực tế phức tạp này chính là nơi Giáo hội và Chúa Thánh Thần đang làm việc.

Điều này giống như khi chúng ta nghĩ đến con ngựa mà thấy con lạc đà, Lạy Chúa may quá, con ngựa đi qua sa mạc sẽ chết khát.


ĐHY O'Malley: Giáo hội nhìn nhận thiệt hại do lạm dụng nhưng “độc thân linh mục không phải là nguyên nhân”

Đức Hồng y Sean O'Malley, Tổng giám mục Boston và là Chủ tịch Ủy ban Tòa Thánh về Bảo vệ Trẻ vị thành niên, nhấn mạnh rằng “độc thân linh mục không phải là nguyên nhân gây ra nạn ấu dâm” nhưng nhấn mạnh nhu cầu cần có nhiều cải cách hơn trong Giáo hội nhằm bảo vệ trẻ em tốt hơn.


Đức Hồng y Sean O'Malley 

Tại cuộc họp báo ngày 29/10/2024, trả lời câu hỏi của một nhà báo về “mối liên hệ tiềm ẩn giữa độc thân linh mục và lạm dụng tình dục”, Đức Hồng y O'Malley tuyên bố rằng ngài “chưa bao giờ thấy bất kỳ nghiên cứu nghiêm túc nào chỉ ra rằng độc thân linh mục và lạm dụng tính dục có liên quan”. Ngài nói: “Chúng tôi nhận thức được thiệt hại to lớn mà [ấu dâm] đã gây ra cho uy tín của Giáo hội và khả năng ngôn sứ của chúng ta trong xã hội. Và điều đó chỉ nhấn mạnh thêm tính cấp thiết của Giáo hội trong việc cải cách chính mình để chúng ta có thể tiếp tục sứ mạng của Chúa Kitô và trở thành dấu chỉ tình yêu của Người. Và vương quốc của Chúa là về công lý và sự thật, và đây là những giá trị cốt lõi mà chúng ta đang nói đến ở đây”.

Bà Maud de Boer-Buquicchio, một luật gia và người bảo vệ quyền trẻ em đã được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm thành viên của Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên vào năm 2022, cũng tuyên bố rằng bà không thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa việc độc thân linh mục và tội lạm dụng tính dục trẻ em.

Bà nói: “Tôi không thấy bất kỳ mối liên hệ nào. Lạm dụng tình dục trẻ em là một tội ác và những người phạm tội này có vấn đề, liên quan đến trạng thái tâm lý của họ”. “Không có ngoại lệ nào cho điều này, không có lý do gì để bào chữa cho tội ác này. Trẻ em phải được tôn trọng về sự toàn vẹn của chúng - cả về thể chất và đạo đức. Vì vậy, dù có độc thân hay không, điều đó không quan trọng. Trẻ em phải được bảo vệ”.

Đức Hồng y O’Malley tuyên bố rằng mục tiêu của ủy ban Tòa Thánh mà ngài đã đứng đầu kể từ khi thành lập vào năm 2014 là “làm mọi việc có thể” để giải quyết tình trạng thiếu công lý và sự công nhận từ những người trong Giáo hội.

Ngài nói trong cuộc họp báo: “Nỗi đau khổ và vết thương của các bạn đã mở mắt chúng tôi ra trước thực tế rằng — với tư cách là một Giáo hội — chúng tôi đã không chăm sóc các nạn nhân, và chúng tôi đã không bảo vệ các bạn, và chúng tôi đã không hiểu các bạn khi các bạn cần chúng tôi nhất”.

“Chúng tôi hy vọng rằng báo cáo này — và những báo cáo sắp tới — được biên soạn với sự giúp đỡ của các nạn nhân, sẽ giúp đảm bảo cam kết chắc chắn rằng những sự việc này sẽ không bao giờ xảy ra nữa trong Giáo hội”. 


ĐHY Fernández: Chúng ta hãy hành động để trao cho phụ nữ nhiều không gian và quyền hơn

Trong cuộc gặp gỡ vào chiều ngày 24/10/2024 với các thành viên của nhóm làm việc số 5, Đức Hồng y Victor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, giải thích tại sao ngài đã không xem vấn đề quyết định về chức nữ phó tế đã "chín muồi" và nói rằng điều này không có nghĩa là không còn khả năng có chức nữ phó tế.


Đức Hồng y Victor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin 

Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã gặp gỡ với khoảng 100 người, bao gồm các thành viên, khách mời và chuyên viên tại Hội trường Phaolô VI. Trong cuộc gặp gỡ kéo dài khoảng 90 phút, ngài đã lắng nghe các câu hỏi của họ, tiếp nhận các đề xuất và đánh giá công việc của 'Nhóm 5', nhóm đang làm việc tại Bộ Giáo lý Đức tin về vấn đề các thừa tác vụ mà phụ nữ có thể lãnh nhận.

Với sự đồng ý của Ủy ban Thư ký Thượng Hội đồng và các tham dự viên cuộc họp, Đức Hồng y Fernández đã quyết định công bố bản ghi âm đầy đủ cuộc gặp gỡ, theo quy tắc của Thượng Hội đồng. Bản ghi âm được đăng trên Vatican News.

Công việc của Bộ Giáo lý Đức tin

Trong phần đầu của cuộc gặp gỡ, Đức Hồng y Fernández đã giải thích cách thức toàn Bộ của ngài, đơn vị đã được giao phó đặc biệt nhiệm vụ này ngay cả trước Thượng Hội đồng, cam kết đào sâu chủ đề về vai trò của phụ nữ và khám phá những khả năng mới về các thừa tác vụ dành cho họ.

Sau đó, ngài kể lại cách họ làm việc, bắt đầu với Consulta, tức là lắng nghe các đề xuất của nhóm đông các nữ cố vấn, một nhóm mà trong trường hợp này đã được mở rộng bằng cách xin ý kiến và lắng nghe những kinh nghiệm của cả những người không phải là các cố vấn chính thức của Bộ.

Hai Đại hội thường kỳ của các Hồng y và Giám mục của Bộ đã diễn ra (Feria quarta, vì theo truyền thống, nó được tổ chức vào thứ Tư) và công việc được điều phối bởi Cha Armando Matteo, Thư ký Ủy ban Giáo lý của Bộ.

Những trải nghiệm đang được thực hiện

Đức Hồng y Fernández nhấn mạnh rằng cách làm việc là theo tinh thần hiệp hành, và sự hiện diện của các Giám mục và Hồng y từ khắp nơi trên thế giới có nghĩa là công việc của Feria quarta có xét đến các nền văn hóa và sự nhạy cảm khác nhau.

Ngài cũng nhấn mạnh rằng các thành viên Thượng Hội đồng đã được yêu cầu gửi các đóng góp và đề xuất, cũng như xem xét đến các kinh nghiệm đã có khi thấy phụ nữ lãnh đạo các cộng đồng, ví dụ như ở Amazon, nhưng cũng ở Châu Phi và Châu Á.

Chính xác là để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bắt đầu từ thực tế, nghĩa là để tìm hiểu và đánh giá cao các kinh nghiệm đã có, những điều mà có lẽ thần học Châu Âu chưa biết đến hoặc ít biết đến.

Do đó, các thư tham vấn vẫn sẽ được gửi đến những người và tổ chức khác.

Nhìn nhận vai trò

Đức Hồng y giải thích, mục tiêu cơ bản của nhóm là vai trò của phụ nữ trong Giáo hội, chứ không phải cụ thể về khả năng có chức nữ phó tế, vấn đề mà ủy ban do Đức Hồng y Giuseppe Petrocchi làm chủ tịch vẫn đang làm việc.

Đức Hồng y Fernández cho biết phụ nữ muốn được lắng nghe và coi trọng: họ yêu cầu có thẩm quyền và phát triển các đặc sủng và khả năng của họ, nhưng hầu hết họ không yêu cầu chức phó tế, nghĩa là họ không yêu cầu được "giáo sĩ hóa".

Đây là lý do tại sao công việc của Bộ tiếp tục trong thời gian này với các bước "rất cụ thể" trên con đường này.

Ngài cho biết điều cơ bản là phải khám phá sự khác biệt giữa các Chức thánh và quyền lực, để có thể ủy thác cho giáo dân và do đó cho cả phụ nữ các vai trò lãnh đạo trong Giáo hội - một con đường có thể đạt được sự đồng thuận đáng kể.

Sau đó, Đức Hồng y đặt câu hỏi: Nếu trong quá khứ, phụ nữ đã giảng dạy trong khi cử hành Thánh Thể hoặc thực hiện thẩm quyền mà không cần được phong chức phó tế, thì điều này có phải là không quan trọng không?

Việc nghiên cứu về chức phó tế vẫn được tiếp tục

Đức Hồng y Fernández nói tiếp rằng về chủ đề cụ thể của chức phó tế, ủy ban do Đức Hồng y Petrocchi đứng đầu sẽ tiếp tục công việc cách nỗ lực hơn, lắng nghe các đề xuất của Đại hội Thượng Hội đồng và những người khác từ khắp nơi trên thế giới: các đề xuất và hỗ trợ có thể được gửi qua Ban thư ký Thượng Hội đồng.

Đức Hồng y nhắc lại bài phát biểu của ngài tại hội trường Thượng Hội đồng, trong đó ngài tóm tắt lập trường của Đức Thánh Cha về vấn đề này. Ngài nhấn mạnh rằng nói rằng "quyết định về chức phó tế chưa chín muồi" không có nghĩa là Đức Thánh Cha Phanxicô muốn khép lại vấn đề, mà là tiếp tục nghiên cứu, bởi vì công việc của ủy ban đã không có kết luận nhất quán.

Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin cũng nhận thấy có những nhà sử học mà theo họ trong quá khứ đã có những trường hợp phụ nữ được phong chức phó tế, trong khi theo những nhà sử học khác thì đó là một chúc lành chứ không phải là một lễ phong chức thực sự.

Các bước cụ thể

Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin kết luận bằng cách nói rằng ngài tin rằng chúng ta có thể tiến bước với các bước rõ ràng và cụ thể trao quyền cho phụ nữ trong Giáo hội, bắt đầu bằng việc phân biệt điều gì không thể tách rời khỏi Thánh chức với điều gì có thể.

Cuối cùng, ngài kêu gọi những người có mặt hãy có một trái tim rộng mở "để xem Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta đến đâu".


Thượng Hội đồng: Đức Phanxicô định hình Giáo hội ngày mai  

Thượng Hội đồng vừa kết thúc ngày thứ bảy 26 tháng 10 năm 2024 tại Rôma đề xuất một cách điều hành mới trong Giáo hội, ít cứng nhắc hơn và phi tập trung hơn. Không mang tính cách mạng, cuộc cải cách này có điểm chính: chú ý đến các bối cảnh, kể cả về mặt thần học.

Đức Phanxicô sốt ruột. Một nhân viên đẩy chiếc xe lăn của ngài băng qua Hội trường Phaolô VI nơi Thượng hội đồng họp. Ngài nói chuyện với Linh mục Đa Minh Timothy Radcliffe, có suy tư và hài hước của người Anh đã tham dự các cuộc thảo luận của Thượng Hội đồng trong tháng 10. Ngày 6 tháng 10, Đức Phanxicô tuyên bố sẽ phong Linh mục làm Hồng y và nói Linh mục vẫn có thể giữ áo trắng của Dòng, ngài được miễn mặc áo hồng y… chỉ cần mua một chiếc mũ đỏ là đủ!

Điều này tóm tắt điều Đức Phanxicô muốn thực hiện khi triệu tập Thượng Hội đồng kéo dài ba năm: một Giáo hội bớt cứng nhắc hơn, đa dạng hơn và thoải mái hơn. Chủ đề được chọn, “tính đồng nghị” có thể có vẻ mơ hồ, nhưng đọc 51 trang của Tài liệu cuối cùng, chúng tôi hiểu trước hết, đây là phương thức quản trị. Xin lưu ý, đây không phải là một cuộc cách mạng trong Giáo hội, và càng không phải là sự rạn nứt: quyền tối thượng của người kế vị Thánh Phêrô, quyền tối thượng của Giáo hoàng đối với các giám mục khác, vẫn còn. Nhưng bây giờ phải được thể hiện theo cách khác: bớt quân chủ hơn, bớt kim tự tháp hơn và bớt độc tài hơn.

Ngày thứ bảy 26 tháng 10, khi kết thúc Thượng Hội đồng, Đức Phanxicô đọc câu thơ của bà Madeleine Delbrêl, nhà thần bí người Pháp của những vùng ngoại vi đã khuyên chúng ta đừng cứng nhắc: “Tôi nghĩ có lẽ các bạn đã có đủ rồi, những người nói về bạn với phong thái của các thuyền trưởng…”

Có vẻ như Đức Phanxicô tự phê khi ngài điều hành theo chiều dọc, ngài sẽ không có Tông huấn hậu Thượng Hội đồng: “Tài liệu chúng ta phê duyệt đã có đủ chỉ dẫn có thể đóng vai trò hướng dẫn.” Nếu được Đức Phanxicô chấp nhận, Tài liệu cuối cùng sẽ là Huấn quyền thông thường của Người Kế vị Thánh Phêrô. Tóm lại: 155 điều khoản được 356 thành viên Thượng Hội đồng thông qua ngày thứ bảy 26 tháng 10 có cùng giá trị như một Tài liệu của chính Giáo hoàng.

Điều này rất quan trọng. Ngày 20 tháng 5 năm 2024, Đức Phanxicô đã trả lời “không” với nhà báo CBS Mỹ khi nhà báo hỏi ngài phụ nữ có thể trở thành phó tế hay không. Trong cuộc họp báo ngày 26 tháng 10 về khả năng mâu thuẫn với Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng – chức phó tế vẫn để “mở” – Hồng y Jean-Claude Hollerich giáo phận Luxembourg mỉm cười trả lời: “Giáo hoàng đã phê chuẩn. Đoạn ở phần mở đầu là của ngài. Tôi là ai mà có thể mâu thuẫn với ngài?”

Trong tháng vừa qua, vấn đề về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội tượng trưng cho sự gia tăng quyền lực của Thượng hội đồng với Giáo triều Rôma. Nhưng cũng có sự khác biệt dai dẳng bên trong, một giám mục trong Thượng Hội đồng phân tích: “Vì người Đức có tiếng là tiến bộ đã không thành công trong việc lãnh đạo Giáo hội theo quan điểm của họ, nên năm nay họ đã tìm ra cách để chiến đấu: quyền tự trị của các Hội đồng Giám mục.”

Khả năng các Hội đồng Giám mục đưa ra quyết định cho giáo phận của mình là một trong những điểm được tranh luận nhiều nhất trong Thượng Hội đồng tháng 10 này.

Bản thảo của Tài liệu cuối cùng được đưa ra ngày 21 tháng 10 dự kiến “tất cả các quyết định đưa ra trong các cuộc họp đều áp dụng cho các giám mục trong các giáo phận của họ”. Nhiều sửa đổi (tài liệu nhận được tổng cộng 1.135) đã buộc bốn thần học gia viết Tài liệu – hai người Ý và hai người nói tiếng Anh – phải sửa lại bản thảo của họ. Trong số những đoạn khác, đoạn này đã bị xóa và vấn đề sẽ được nghiên cứu sâu hơn.

Sự phản đối của những người bảo thủ cũng cũng được đề nghị trong việc thích nghi phụng vụ. Cử hành phụng vụ là biểu hiện của tính đồng nghị, đây không phải là thay thế linh mục bằng giáo dân, Hồng y Jean-Claude Hollerich làm rõ vấn đề này: “Làm thế nào chúng ta có thể làm cho công việc này mang tính tham gia nhiều hơn?”

Sự phản đối còn lại

Việc có nhiều ý kiến khác nhau về những vấn đề này không có gì đáng ngạc nhiên. Tuy nhiên, không phải là không có định hướng, Tài liệu ngày 26 tháng 10 tương đối nhất trí. Tài liệu cho biết các cuộc họp sẽ được tổ chức thường xuyên, không như dự thảo ban đầu ngày 21 tháng 10 dự trù các giáo phận sẽ tổ chức từ ba đến năm năm một lần. Các hội đồng kể cả hội đồng kinh tế – đã thành bắt buộc trong các giáo xứ và giáo phận – gồm các thành viên giáo dân không được giám mục hoặc linh mục “bổ nhiệm”. Với những thành viên tham dự Thượng Hội đồng, điều chủ yếu đã có trong Tài liệu.

Trong số những người bảo thủ được phỏng vấn, họ đón nhận một văn bản “chú ý đến bối cảnh, không làm hại đến sự hiệp nhất của Giáo hội”. Còn với những người cấp tiến, họ nhấn mạnh đến tinh thần “cởi mở”, nhưng những người LGBTQI+ không được nhắc đến. Một giáo dân tham dự Thượng Hội đồng cho biết: “Dấu hiệu cho thấy tiếng nói của các nạn nhân và những người sống sót sau bạo lực tình dục phải được lắng nghe không phải là không quan trọng.”

Trên hết, một số điểm dường như đã liên kết với nhau. Chẳng hạn khái niệm Anglo-Saxon về trách nhiệm giải trình đã được trích dẫn 19 lần. Và những đoạn xin các nhà chức trách Giáo hội – linh mục, giám mục, sứ thần, người đứng đầu thánh bộ tại Vatican – tham khảo ý kiến nhiều hơn, báo cáo thường xuyên về các vấn đề tài chính. Bảo vệ trẻ vị thành niên đã khơi dậy sự phản đối duy nhất còn sót lại trong cuộc bỏ phiếu ngày 26 tháng 10.

Nói rộng hơn, nhiều người tham dự đã nói về một thay đổi văn hóa. Thần học gia Bỉ Alphonse Borras nhiệt tình: “Theo tôi, chúng ta đang ở một bước ngoặt, trên thực tế bước ngoặt này như bước ngoặt được khởi xướng vào thời Cải cách Gregorian kéo dài gần hai thế kỷ, đã mang lại thành quả cho đời sống Giáo hội. Giáo hội có khuynh hướng nhấn mạnh vào sự thống nhất, vào tính phổ quát, lần này Giáo hội mở ra với những khác biệt về bối cảnh. Với niềm xác tín này: việc phân cấp và dân chủ hóa chính quyền sẽ không đạt được nếu không có đoàn kết, nếu không có đổi mới sâu sắc trong các mối quan hệ”.

Khi đọc tài liệu cuối cùng, chúng tôi cảm nhận vấn đề này, giống như sợi chỉ chung, chủ yếu nhắm đến các cộng đồng địa phương đang gặp khó khăn, họ bị chiến tranh, nghèo đói tác động: làm thế nào các cơ quan khác của Giáo hội, bắt đầu từ Rôma, có thể giúp họ tốt hơn?





10 câu hỏi về văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị

image.png
Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban phép lành cho những người tham dự khi bế mạc Thượng hội đồng về tính đồng nghị tại Vatican, ngày 26 tháng 10 năm 2024.

Jonathan Liedl của tạp chí mạng National Catholic Register, ngày 27 tháng 10 năm 2024, tường trình rằng hôm thứ Bảy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa ra quyết định chưa từng có là chấp nhận văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị như là giáo huấn có thẩm quyền của Giáo hội.

Văn bản dài 52 trang này bao gồm một bài suy tư thần học về bản chất của tính đồng nghị, được cho là sự hoàn thành các cải cách của Công đồng Vatican II, cũng như các đề xuất về cách áp dụng tính đồng nghị vào các mối quan hệ, cấu trúc và quy trình trong Giáo Hội Công Giáo.

Mục tiêu cuối cùng là làm cho Giáo hội hiệu quả hơn trong việc truyền giáo bằng cách làm cho nó có tính tham gia và bao trùm hơn.

Sau đây là câu trả lời cho những câu hỏi lớn về văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị:

1. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã biến văn kiện này thành văn kiện mang tính giáo huấn như thế nào?


Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ngay lập tức phê chuẩn văn kiện cuối cùng sau khi các thành viên của Thượng hội đồng bỏ phiếu thông qua. Theo những cải cách mà ngài đã thực hiện vào năm 2018, văn bản cuối cùng của Thượng hội đồng về tính đồng nghị do đó là một phần trong giáo huấn thông thường của ngài.

Quyết định này là một sự thay đổi so với thông lệ trước đây, theo đó Đức Giáo Hoàng thường sử dụng văn kiện cuối cùng của Thượng hội đồng làm cơ sở để soạn thảo tông huấn của riêng mình về chủ đề này (hãy nghĩ đến Amoris Laetitia sau Thượng hội đồng về Gia đình năm 2015). Thực tế là một cơ quan Thượng hội đồng có 27% thành viên là những người không phải giám mục vừa mới đưa ra một văn bản mang tính giáo huấn chắc chắn sẽ khiến các nhà thần học và chuyên gia giáo luật có nhiều điều để nói.

2. Văn kiện này liên quan đến Công đồng Vatican II như thế nào?

Văn kiện nói rằng Thượng hội đồng về tính đồng nghị là sản phẩm của việc “thực hành những gì công đồng đã dạy về Giáo hội như một mầu nhiệm và Giáo hội như dân Thiên Chúa”.

Do đó, tài liệu cho biết, tiến trình đồng nghị “cấu thành một hành động tiếp nhận đích thực” Công đồng Vatican II, “do đó làm hồi sinh sức mạnh tiên tri của nó đối với thế giới ngày nay”.

3. Báo cáo cuối cùng nói gì về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội (bao gồm cả điều gọi là “nữ phó tế”)?

Văn bản cuối cùng nói rằng phụ nữ “tiếp tục gặp phải những trở ngại” trong việc sống “các đặc sủng, ơn gọi và vai trò” của họ trong Giáo hội.

Thượng hội đồng kêu gọi phụ nữ được chấp nhận vào bất cứ vai trò nào hiện được giáo luật cho phép, bao gồm cả các vai trò lãnh đạo trong Giáo hội.

Liên quan đến câu hỏi về “quyền tiếp cận của phụ nữ với chức phó tế”, văn bản cho biết câu hỏi “vẫn còn bỏ ngỏ” và “cần phải tiếp tục phân định”. Một nhóm nghiên cứu riêng của Vatican hiện đang xem xét chủ đề đó, với báo cáo cuối cùng dự kiến vào tháng 6 năm 2025.

4. Văn bản nói gì về “sự phân quyền?”

Tài liệu kêu gọi các hội đồng giám mục đóng vai trò lớn hơn trong việc đưa đức tin vào bối cảnh địa phương và yêu cầu làm rõ về mức độ thẩm quyền tín lý hiện tại của họ. Tuy nhiên, tài liệu nhấn mạnh rằng các hội đồng giám mục không thể phủ nhận thẩm quyền của giám mục địa phương cũng như không "gây nguy cơ cho sự hiệp nhất hoặc tính Công Giáo của Giáo hội".

Tài liệu cũng kêu gọi nhiều công đồng toàn thể và công đồng tỉnh hơn, và Vatican chấp nhận kết luận của các cơ quan này nhanh hơn.

5. Văn bản có đề cập đến việc bao gồm LGBTQ không?

Mặc dù lên án việc loại trừ những người khác vì "tình trạng hôn nhân, bản dạng hoặc khuynh hướng tình dục của họ", nhưng văn bản không sử dụng thuật ngữ "LGBTQ".

6. Tài liệu cuối cùng nói gì về những thay đổi trong quá trình ra quyết định của Giáo hội?


Tài liệu cuối cùng kêu gọi cải cách một cách "đồng nghị" giáo luật, bao gồm cả việc xóa bỏ công thức cho rằng các cơ quan tham vấn "chỉ có quyền bỏ phiếu tham vấn". Tài liệu kêu gọi sự tham gia nhiều hơn của giáo dân vào "quy trình ra quyết định" và thực hiện thông qua các cơ cấu và thể chế đồng nghị mới.

Theo tài liệu, các nhà chức trách của Giáo hội không được bỏ qua các kết luận đạt được bởi các cơ quan tham vấn, có tính tham gia.

7. Tài liệu nói gì về “sensus fidei” [cảm thức đức tin]?

Tài liệu mô tả “sensus fidei” là “bản năng tìm kiếm chân lý Tin Mừng” nhận được qua phép rửa tội. Tài liệu cũng lưu ý rằng dân Chúa không thể sai lầm “khi họ thể hiện sự đồng thuận chung trong các vấn đề về đức tin và đạo đức”.

Điều đáng lưu ý là tài liệu cuối cùng không bao gồm ngôn ngữ bổ sung về nhu cầu “môn đệ đích thực” để thực hiện trưởng thành sensus fidei, đã được đưa vào tài liệu tổng hợp năm ngoái và được tìm thấy trong một tài liệu quan trọng của Vatican về chủ đề này.

8. Giáo hội có thể thay đổi theo những cách cụ thể nào sau Thượng hội đồng về tính đồng nghị?

Tùy thuộc vào cách thực hiện, tài liệu cuối cùng của Thượng hội đồng có thể tác động cụ thể đến mọi điều, từ cách các giám mục được lựa chọn đến cách các quyết định quản trị được đưa ra ở các giáo xứ, giáo phận và Vatican, với sự nhấn mạnh lớn hơn vào việc tham vấn rộng rãi. Nó cũng có thể tạo ra các cơ quan đồng nghị mới, như các hội đồng lục địa và một hội đồng các nhà lãnh đạo Công Giáo Đông phương để cố vấn cho Đức Giáo Hoàng.

9. Những đoạn nào nhận được nhiều sự phản đối nhất?

Hơn 27% đại biểu đã bỏ phiếu chống lại việc tiếp tục khám phá khả năng phụ nữ được phong phó tế.

Mười ba phần trăm bỏ phiếu chống lại đoạn văn nhấn mạnh tầm quan trọng của các hội đồng giám mục, điều này dường như cũng ràng buộc một giám mục vào các quyết định do hội đồng của mình đưa ra.

Mười hai phần trăm bỏ phiếu chống lại việc thành lập một nhóm nghiên cứu để xem xét việc biến các nghi lễ phụng vụ thành "biểu hiện của tính đồng nghị nhiều hơn", bao gồm cả những gì có thể là nhắc đến việc giảng thuyết của giáo dân trong phụng vụ.

Và 11% đại biểu phản đối đề xuất sửa đổi luật giáo luật "theo quan điểm đồng nghị".

10. Một lần nữa: Đồng nghị có nghĩa là gì?

Tài liệu cuối cùng mô tả tính đồng nghị là "con đường đổi mới tinh thần và cải cách cơ cấu cho phép Giáo hội tham gia và truyền giáo nhiều hơn, để có thể đồng hành với mọi người nam và nữ, tỏa ánh sáng của Chúa Kitô".

Tài liệu nêu rõ, mô hình đồng nghị là Đức Maria vì bà "lắng nghe, cầu nguyện, suy gẫm, đối thoại, đồng hành, phân định, quyết định và hành động".


⛪⛪⛪⛪⛪


Hồng y Fernandez khẳng định Đức Phanxicô phản đối chức phó tế nữ, 

nghiên cứu sẽ tập trung vào vai trò của phụ nữ trong Giáo hội


image.png

Hồng y Víctor Manuel Fernández, bộ trưởng bộ Giáo lý Đức tin và Sơ Nathalie Becquart, phó thư ký Thượng hội đồng Giám mục trước phiên họp Thượng Hội đồng sáng 21 tháng 10 tại Hội trường Phaolô VI.

Đức Phanxicô quyết định việc phong chức phó tế nữ sẽ không được thảo luận tại Thượng Hội đồng năm 2024. Ngài đã chỉ đạo

Ngày thứ hai 21 tháng 10, Hồng y Víctor Manuel Fernández tuyên bố: “Đức Phanxicô cho biết tại thời điểm này, vấn đề về chức phó tế nữ chưa chín muồi và đã xin chúng tôi không xem xét khả năng này vào lúc này.” Hồng y cho biết Ủy ban thứ hai Đức Phanxicô thành lập năm 2020 để nghiên cứu về chức phó tế nữ sẽ tiếp tục hoạt động và các kết luận từng phần sẽ được công bố khi đến thời điểm thích hợp.

Hồng y cho biết, Đức Phanxicô rất quan tâm đến vai trò của phụ nữ trong Giáo hội và ngay cả trước khi Thượng Hội đồng nghiên cứu vấn đề này, ngài đã xin Bộ Giáo lý Đức tin khám phá các khả năng phát triển nhưng không tập trung vào chức thánh hoặc phong chức phó tế. Như thế Bộ không thể hoạt động theo hướng khác và Hồng y đồng ý với Đức Phanxicô, vì chức phó tế cho một số phụ nữ không giải quyết được vấn đề của hàng triệu phụ nữ trong Giáo hội, họ phục vụ theo hàng trăm cách trong Giáo hội.

Hầu hết những gì được nói trong Thượng hội đồng được xem là bí mật, nhưng bài phát biểu của Hồng y tại Thượng hội đồng đã được Vatican công bố chỉ vài ngày sau khi Hồng y Fernández xin lỗi các thành viên vì đã không tham dự cuộc họp Nhóm của ngài để thảo luận về chức thánh của phụ nữ.

Hồng y sẽ tham dự cuộc họp ngày 18 tháng 10 để nói về công việc của nhóm nghiên cứu, khoảng 100 người tham dự Thượng hội đồng – các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân – nghĩ rằng ông, hoặc ít nhất là các thành viên của nhóm sẽ có mặt.

Trong một thông điệp gửi đến các thành viên Thượng hội đồng sau cuộc họp, ngài viết ngài đã được thông báo về “sự không hài lòng mà một số thành viên” khi ngài không có mặt.

“Bản thân tôi lấy làm tiếc vì sự hiểu lầm này”, ngài cho biết ngài đã thông báo với Thượng Hội đồng ngày 9 tháng 10, ngài sẽ cử hai nhân viên của các Bộ đến dự. Ngài cho biết ngài sẽ đến gặp các thành viên Thượng Hội đồng ngày 24 tháng 10 “để lắng nghe những suy tư và nhận các tài liệu của họ”.

Theo những người có mặt tại cuộc họp ngày 18 tháng 10, các thành viên Thượng Hội đồng không bằng lòng, họ cho biết hai người Hồng y cử đến không phải là thành viên của nhóm nghiên cứu và họ không có kế hoạch đối thoại với những người tham gia.

Cuộc họp cũng như các thảo luận là bí mật nên những người phát biểu đã xin không nêu tên họ.

Một người tham dự cho biết thất vọng chủ yếu tập trung vào phương pháp luận của nhóm làm việc và sự thiếu minh bạch, đặc biệt là việc Hồng y không xác định bất kỳ thành viên nào của nhóm.

Tiếp theo phiên họp đầu tiên của Thượng Hội đồng năm 2023, Đức Phanxicô đã thành lập 10 nhóm nghiên cứu để suy nghĩ sâu hơn về một số câu hỏi gây tranh cãi hoặc phức tạp nhất được nêu ra trong quá trình Thượng Hội đồng, trong đó có vấn đề chức thánh của phụ nữ và vai trò ra quyết định trong Giáo hội.

Trong một thư gởi cho Hồng y Mario Grech, tổng thư ký của Thượng hội đồng vào tháng 2, Đức Phanxicô cho biết “điều quan trọng là các nhóm nghiên cứu phải làm việc theo phương pháp đồng nghị đích thực, với đối thoại và tham gia rộng rãi. Ngài xin các nhóm lập báo cáo sơ bộ cho Thượng Hội đồng vào năm 2024 và nộp báo cáo cuối cùng cho ngài tháng 6 năm 2025.

Sau khi các người đứng đầu của mười nhóm đưa ra báo cáo ngắn gọn cho Thượng Hội đồng ngày 2 tháng 10, các thành viên cho biết họ sẵn sàng đối thoại với các người đứng đầu nhóm, cuộc họp được lên lịch ngày 18 tháng 10. Các cuộc họp đã được sắp xếp và nhóm của Hồng y Fernández thu hút nhiều người ghi tên nhất.

Phát biểu tại phiên họp ngày 21 tháng 10, Hồng y Fernández cho biết phụ nữ được bổ nhiệm làm giáo lý viên đã có thể lãnh đạo các cộng đồng công giáo khi không có linh mục, nhưng rất ít giáo phận tận dụng khả năng này, và chỉ có một tỷ lệ nhỏ các giáo phận trên thế giới bổ nhiệm phụ nữ làm thừa tác viên đọc sách và giúp lễ, đó là chưa kể có nhiều giáo phận chưa có phó tế vĩnh viễn và khi có cũng chỉ được giúp lễ. Một vài ví dụ giúp chúng ta hiểu, việc vội vàng xin phong phó tế nữ không phải là cách quan trọng nhất để thăng tiến phụ nữ trong Giáo hội.

Hồng y nói: “Tôi tin chúng ta có thể tiến lên từng bước và đạt được những điều rất cụ thể để mọi người hiểu rằng không có gì trong bản chất của phụ nữ ngăn cản họ có những vai trò rất quan trọng trong việc lãnh đạo các giáo xứ. Những gì thực sự đến từ Chúa Thánh Thần không thể bị ngăn cản.”

Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin: sẽ công bố kết quả nhóm nghiên cứu về nữ phó tế


Đức Hồng y Manuel Fernández, người Argentina, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, cho biết những kết quả hoạt động của hai nhóm nghiên cứu về chức phó tế phụ nữ sẽ được công bố. Nhưng ngài không nói khi nào sẽ công bố.

Lập trường này được Đức Hồng y bày tỏ trong buổi gặp gỡ, hôm thứ Sáu, ngày 25 tháng Mười vừa qua, với 100 tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục thế giới thứ XVI, kết thúc Chúa nhật, ngày 27 tháng Mười này.

Đức Hồng y Tổng trưởng cho biết các phụ nữ cũng tham dự vào các cuộc tham vấn của Tòa Thánh về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội Công giáo. Ngài nhắc đến tên của 5 phụ nữ tư vấn của Bộ Giáo lý đức tin, là Claudia Leal Luna, Nuria Calduch-Benages, Michelina Tenaca, Benedetta Rossi và Sandra Mazzolini. Họ tham dự vào các nghiên cứu về vấn đề của Bộ. Cùng tham dự các cuộc họp nghiên cứu này, cũng có các thành viên của Bộ, gồm các hồng y và giám mục.

Đức Hồng y Fernández cũng cho biết: về vấn đề vai trò của phụ nữ trong Giáo hội Công giáo, Đức Hồng y Gianfranco Ghirlanda, 82 tuổi, vốn là một nhà giáo luật, từng là Khoa trưởng giáo luật và Viện trưởng Đại học Giáo hoàng Gregoriana ở Roma, cũng góp phần vào việc nghiên cứu. Đức Hồng y nhấn mạnh sự phân biệt giữa thánh chức và quyền điều hành. Điều này rất quan trọng khi nói đến thẩm quyền mà các giáo dân nam nữ có thể có.







Giáo dân sẽ có thể sớm được làm phép rửa tội và cử hành hôn nhân không?


Tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng nêu lên khả năng mở rộng: giáo dân có thể rửa tội và cử hành hôn nhân trong khuôn khổ “mục vụ giáo dân”, điều khoản đã được quy định trong Bộ Giáo luật trên cơ sở ngoại lệ.

Sau một tháng thảo luận, phiên họp thứ hai của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị kết thúc ngày 26 tháng 10 năm 2024, 356 thành viên đã bỏ phiếu Tài liệu cuối cùng. Sẽ không có Tông huấn hậu Thượng Hội đồng vì thế Tài liệu cuối cùng được trực tiếp đưa vào huấn quyền. Tài liệu này bao gồm 155 điều, phác thảo những đường nét của Giáo hội ngày mai. Có ba mong muốn chính trong Tài liệu cuối cùng: phân quyền lớn hơn trong các quyết định của Giáo hội, tiếp tục cuộc chiến chống lạm dụng và nâng cao trách nhiệm của giáo dân trong việc quản lý giáo xứ và giáo phận.

Một số đề xuất được nghiên cứu để thu hút giáo dân nam nữ tham gia nhiều hơn vào việc điều hành Giáo hội, bắt đầu bằng suy tư về chức phó tế nữ, đã có hiệu lực trong đại hội lần thứ hai này. Đây là vấn đề có nhiều phản đối nhất với 97 phiếu phản đối. Tài liệu khẳng định: “Không có lý do hay trở ngại nào có thể ngăn cản phụ nữ thực hiện vai trò hướng dẫn trong Giáo hội: không thể ngăn cản những gì đến từ Chúa Thánh Thần và chúng ta cần tiếp tục phân định vấn đề này.” Ngoài ra, Thượng Hội đồng quy định “bắt buộc” tổ chức các hội đồng giáo xứ với sự tham gia của giáo dân, thúc đẩy “mục vụ giáo dân” nhiều hơn như mục vụ đọc sách, giáo lý và giáo lý viên. Trong chiều hướng này, Thượng Hội đồng đề xuất “khả năng mở rộng và ổn định” việc cử hành bí tích rửa tội và hôn nhân của giáo dân: “Giáo luật của các Giáo hội theo nghi lễ la-tinh và đông phương đã quy định, trong một số trường hợp, nam nữ giáo dân có thể là thừa tác viên ngoại thường để làm mục vụ giáo dân.” Một ngoại lệ hiện được cho phép trong một số điều kiện nhất định. 

Hướng tới khái quát hóa một ngoại lệ?

Bộ Giáo luật quy định: “Chỉ những hôn nhân thành sự được ký trước Bản quyền địa phương, trước linh mục, hoặc phó tế được ủy quyền với hai nhân chứng” (Điều 1108). Nhưng Giáo lý cũng đề cập đến những trường hợp ngoại lệ, đặc biệt là việc giáo dân tham dự đám cưới. Chúng ta nói “tham dự” vì bí tích hôn nhân là giữa hai vợ chồng hiện diện trước thừa tác viên và nhận được sự đồng ý của họ nhân danh Giáo hội. Tuy nhiên, một khả năng có thể có với một số điều kiện: thiếu linh mục và phó tế, giáo dân sẽ được Giám mục giáo phận và Tòa thánh ủy quyền. Giáo luật quy định: “Nơi nào không có linh mục hay phó tế, Giám mục giáo phận dựa trên ý kiến thuận lợi của Hội đồng Giám mục và với sự cho phép của Tòa thánh, có thể ủy quyền cho giáo dân đã được chọn lựa phù hợp, có khả năng đào tạo cho những người phối ngẫu tương lai và có khả năng cử hành phụng vụ hôn nhân một cách đúng đắn” (Điều 1112).

Cũng vậy với phép rửa tội, “thừa tác viên bình thường của phép rửa tội là giám mục, linh mục và phó tế (Điều 861), trong trường hợp cần thiết, bất kỳ giáo dân nào hành động với ý hướng này đều có thể rửa tội”.

Thêm một giám mục Trung Quốc được truyền chức theo hiệp định giữa Tòa Thánh và Trung Quốc



Thêm một giám mục Trung Quốc được thụ phong theo hiệp định ký kết giữa Tòa Thánh và Trung Quốc. Đó là Đức cha Matthêu Chân Tuyết Bân (Zhen Xuebin), Giám mục Phó của Giáo phận Bắc Kinh.


Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh, công bố ngày 25 tháng Mười cho biết lễ truyền chức đã diễn ra lúc 9 giờ ban sáng cùng ngày, tại nhà thờ chính tòa Chúa Cứu Độ và Đức tân Giám mục đã được Đức Thánh cha bổ nhiệm ngày 28 tháng Tám trước đó, nhưng nay Phòng Báo chí Tòa Thánh mới thông báo, một ngày sau khi có tin hiệp định tạm thời giữa hai bên về việc bổ nhiệm giám mục được gia hạn thêm bốn năm nữa.

Đức tân giám mục Chân Tuyết Bân năm nay 54 tuổi, sinh quán tại Trường Trị (Changzhi) tỉnh Thiểm Tây, theo học triết và thần học tại Đại chủng viện Bắc Kinh và sau đó học bổ túc cho đến năm 1997, tại Đại học thánh Gioan, ở Mỹ và đậu Cao học thần học về Thần học phụng vụ, trước khi về nước để thụ phong linh mục. Rồi sau đó làm Phó giám đốc Đại chủng viện Bắc Kinh cho đến năm 2007. Cha cũng làm mục vụ tại một số giáo xứ, và cũng từ năm 2007, làm Chưởng ấn Tòa giám mục Bắc Kinh.

Với nhiệm vụ mới, Đức cha Matthêu Bân phụ giúp và sẽ kế nhiệm Đức cha Giuse Lý Sơn, 59 tuổi, Giám mục chính tòa tại thủ đô Bắc Kinh từ 14 năm nay (2007).

Theo hãng tin Asia News, việc chọn một giám mục Phó cho Giáo phận Bắc kinh là một sự kiện đáng kể, nếu ta để ý rằng Đức cha Lý Sơn được bổ nhiệm trước khi có hiệp định năm 2018 giữa Tòa Thánh và Trung Quốc, những hồi đó ngài được Tòa Thánh phê chuẩn. Đức Cha Lý Sơn tuy mới 59 tuổi, nhưng có vấn đề về sức khỏe và vì nhiều trách nhiệm khác trong tư cách là Chủ tịch Hội Công giáo yêu nước Trung Quốc.

Tình hình Giáo hội tại Trung Quốc

Tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ XVI sắp kết thúc, có hai giám mục Trung Quốc được Đức Thánh cha bổ nhiệm tham dự. Đức cha Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), Giám mục Giáo phận Hàng Châu, trong bài tham luận, đã mô tả Giáo hội tại Trung Quốc: “Chúng tôi theo đuổi tinh thần Tin mừng “Trở nên mọi sự cho mọi người”; chúng tôi thích ứng với thực tại xã hội, phục vụ và gắn bó với sự Hoa hóa (sicicizzazione) Giáo hội Công giáo và rao giảng Tin mừng. Chúng tôi cố gắng là “ánh sáng và muối” cho hòa bình thế giới và thăng tiến một cộng đoàn, trong đó con người có thể được hưởng vận mệnh chung; sau cùng là thăng tiến sự phát triển qua những loại dự án khác nhau”.

Đức cha Giuse Cường cũng tuyên bố “chào đón các cộng đoàn và các nhóm tôn giáo từ mọi nước muốn viếng thăm Giáo hội tại Trung Quốc”.

Thánh Địa không có người hành hương và rất nghèo
Hani al-Hayek, Bộ trưởng Bộ Du lịch và Di sản Văn hóa của Nhà nước Palestine, cho biết tình hình kinh tế của người dân, đặc biệt là ở Bêlem và Giêrusalem, rất bi đát do chiến tranh đang ngăn cản các cuộc hành hương. Đồng thời, các gia đình ra đi để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn, điều này sẽ đồng nghĩa với việc dân số Kitô giáo trong khu vực sẽ giảm thêm.



Người dân Bêlem gặp khó khăn về kinh tế vì không có khách hành hương 

Bên cạnh cuộc chiến bom đạn còn có cuộc chiến khác mà thường dân phải trả giá đắt. Đó là cuộc chiến gây ra những ảnh hưởng kinh tế đối với người dân Palestine do không có nguồn thu nhập. Phần lớn người dân Palestine ở Bêlem và Giêrusalem làm việc trong lĩnh vực du lịch khách sạn. Do đó, việc đình chỉ các chuyến hành hương và đình chỉ giấy phép xuất cảnh đối với người đi làm ở Israel đã khiến phần lớn người dân rơi vào tình trạng nghèo đói.

Ngành du lịch tại Thánh Địa gặp khó khăn

Chia sẻ với báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh, Bộ trưởng Bộ Du lịch và Di sản Văn hóa của Nhà nước Palestine cho biết: “Du lịch là nguồn thu nhập chính của người Palestine, nhưng cuộc tấn công của Israel vào Gaza, Bờ Tây và Libăng từ ngày 7/10/2023 đang tác động khủng khiếp đến nền kinh tế ngành du lịch và người lao động. Cả lượng khách đến từ nước ngoài và du lịch trong nước đều ghi nhận sự sụt giảm hoàn toàn. Các ước tính của chúng tôi cho biết rằng chúng tôi đang mất hơn 2,5 triệu đô la doanh thu mỗi ngày; riêng Bêlem mất 1,4 triệu. Ít nhất 12.000 nhân viên hoạt động du lịch đã bị sa thải, tại Bêlem ít nhất 6.000 nhân viên du lịch khách sạn mất việc. Nhưng cần phải bổ sung thêm hàng ngàn công nhân vào số này, những người mà chúng ta có thể định nghĩa là các ngành công nghiệp liên quan, thương nhân, tài xế taxi và nghệ nhân chế tạo các đồ vật tôn giáo bằng gỗ ô liu”.

Số Kitô hữu trong vùng suy giảm

Hậu quả, theo ông Hani al-Hayek, là nhiều gia đình rời bỏ Palestine để tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và con cái họ. Vì phần lớn người lao động tham gia vào lĩnh vực du lịch và hành hương là Kitô hữu, cuộc di cư này sẽ bao hàm sự giảm bớt hơn nữa số Kitô hữu trong khu vực.

Bộ trưởng Bộ Du lịch và Di sản Văn hóa của Nhà nước Palestine cho biết thêm rằng Bộ của ông đang hợp tác với các cộng đồng Kitô giáo nghiên cứu các dự án sẽ hỗ trợ người dân khởi động lại hoạt động sau khi chiến tranh kết thúc. Những người hành hương Kitô giáo chiếm 70% tổng số người hành hương đến thăm Palestine, do đó họ là nhân tố quan trọng trong sự phát triển của ngành du lịch trong khu vực.



Tổng Giáo phận thủ đô Mêhicô kêu gọi bảo vệ các linh mục


Tổng Giáo phận thủ đô Mêhicô kêu gọi chính phủ bảo vệ an ninh cho những linh mục bị nguy hiểm.

image.png
Los residentes participan en una procesión fúnebre por el sacerdote católico y activista asesinado Marcelo Pérez, en San Andrés Larráinzar, estado de Chiapas, México, el martes 22 de octubre de 2024.


Dư luận tại Mêhicô vẫn còn xúc động về vụ cha Marcelo Pérez, 51 tuổi, bị sát hại trong tuần qua tại bang Chiapas, miền nam Mêhicô, vì tranh đấu bênh vực các quyền con người.

Báo chí địa phương cho biết, vụ sát hại xảy ra sau một thánh lễ tại Cuxtitali, Chiapas. Vị linh mục cùng với người bênh vực nhân quyền bị những kẻ giết mướn sát hại trong lúc đang đi trên xe. Hình của báo chí cho thấy có những lỗ đạn trên mặt kiếng của xe hơi.

Bài xã luận đăng trên báo Desde la Fe, (Từ đức tin), tiếng nói chính thức của Tổng Giáo phận Mêhicô, viết rằng: “Có nhiều câu hỏi: Bao nhiêu những linh mục khác thì sao? Nếu mỗi lần một linh mục tranh đấu cho sự thật thì bị nguy hiểm đến tính mạng, thì linh mục ấy càng bị đe dọa trong một cộng đoàn khác, bị các tổ chức bất lương đe dọa, bao nhiêu linh mục và các công dân khác sẽ bị giết trước khi tiếng kêu của họ đòi công lý và hòa bình được lắng nghe? Cách đây hơn hai năm, cha Joaquín Mora và cha Javier Campos, hai linh mục Dòng Tên, đã bị giết và điều này vẫn còn làm cho chúng ta đau lòng. Giờ đây, trong tuần lễ này, đến lượt cha Marcelo Pérez. Trong một môi trường sự sống và phẩm giá con người liên tục bị đe dọa, bao nhiều người khác sẽ phải ngã gục, trước khi các chính phủ và xã hội phản ứng lại?

Trưa Chúa nhật vừa qua, ngày 27 tháng Mười, trong buổi đọc kinh Truyền tin, Đức Thánh cha cũng nhắc đến vụ sát hại cha Pérez và nói rằng:

“Tôi hiệp với Giáo hội yêu quý tại San Cristobal de las Casas, thuộc bang Chiapas, đang khóc thương linh mục Marcello Pérez Pérez, bị ám sát hôm Chúa nhật, ngày 20 tháng Mười vừa qua. Cha là người nhiệt thành phục vụ Tin mừng và dân trung thành của Thiên Chúa. Ước gì sự hy sinh của cha cũng như của các linh mục khác bị giết vì trung thành với sứ vụ, là hạt giống hòa bình và cho đời sống Kitô”.





Cha Giám đốc Tiểu chủng viện ở Nigeria bị bắt cóc


Giám đốc Tiểu chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm, thuộc Giáo phận Auchi, bang Edo, Nigeria, Phi châu, đã bị bắt cóc chiều Chúa nhật, ngày 27 tháng Mười vừa qua, trong buổi đọc Kinh Chiều.



Father Thomas Oyode, the rector of the Immaculate Conception Minor Seminary of Nigeria’s Diocese of Auchi 

Cha Peter Egielewa, Giám đốc truyền thông của Giáo phận Auchi, cho biết cha Thomas Oyode bị bắt cóc khoảng 7 giờ tối, trong lúc nguyện Kinh Chiều và chầu Thánh Thể ở nhà nguyện. Một số người võ trang đã tấn công và bắt cha, rồi dẫn vào rừng. Cha phó giám đốc cùng với các chủng sinh và nhân viên Tiểu chủng viện bình an và tạm thời được di chuyển đến nơi an toàn, vì tình hình địa phương vẫn còn bị coi là bất an. Tuy nhiên, cha Egielewa lấy làm tiếc vì Tòa giám mục vẫn chưa nhận được thông tin nào về nơi vị linh mục bị bắt cóc hiện đang ở đâu. Trong khi đó, vụ này đã được trình báo cho nhà chức trách an ninh của Nigeria. Cha nói: “Chúng tôi chờ đợi sự giúp đỡ của chính quyền để linh mục của chúng tôi được trả tự do. Ngoài ra, Tòa giám mục Auchi cũng kêu gọi mọi người thiện chí hiệp với các tín hữu của Giáo phận Auchi trong kinh nguyện để những kẻ bắt cóc cha Oyode trả lại tự do và bình an vô sự cho cha Oyode”.

Tiểu chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm được Đức cha Gabriel Ghiakhomo Dunia, Giám mục Giáo phận Auchi, thành lập năm 2006 và cho đến nay hơn 500 tiểu chủng sinh đã tốt nghiệp. Tiểu chủng viện hiện đang ở tại một trong những vùng ở Nigeria, ngày càng chứng kiến những vụ bắt cóc người để đòi tiền chuộc mạng.



⛪⛪⛪⛪⛪


Trong một ngày, hai thánh đường bị xúc phạm tại Pháp



Chúa nhật, ngày 27 tháng Mười vừa qua, Nhà Tạm giữ Mình Thánh Chúa, tại nhà thờ Notre-Dame à Vire ở miền Normandie, tây bắc Pháp, đã bị xúc phạm. Nhiều đồ phụng tự, trong đó có các chén thánh và Mình Thánh Chúa đã được thánh hiến, bị lấy trộm.

Đức cha Jacques Harbert, Giám mục Giáo phận Bayeux và Lisieux, tuyên bố trong một thông cáo rằng: “Bầu không khí xã hội chúng ta hiện đang sống khiến chúng ta chứng kiến sự gia tăng bạo lực chống lại con người và tài sản”.

Cũng ngày Chúa nhật, 27 tháng Mười trước đó, khoảng 3 giờ 30 chiều, những người qua đường đã vào nhà thờ Saint-Gilles ở Chamalières-sur-Loire, thuộc địa phận Le Puy-en-Velay, đã thấy những khói đen dầy đặc. Hơn 10 cuốn sách hát và nến đã bị thiêu hủy một phần. Một hộp đựng diêm đã được tìm thấy gần lửa.

Trong vòng hai tháng tới đây, những máy thu hình video canh chừng sẽ được gắn tại nhà thờ. Cảnh sát đã mở cuộc điều tra.

Tuần báo “Gia đình Kitô” (Famille Chrétienne), xuất bản hồi trung tuần tháng Mười này cho biết ngày càng có các thánh đường Công giáo bị đốt và phá hoại: nguyên trong năm nay, có 14 vụ cố ý đốt phá như vậy và theo “Viện quan sát gia sản tôn giáo” tại Pháp, xu hướng ngày liên tục gia tăng.

Năm ngoái, tại nước Pháp, trong số 27 vụ hỏa hoạn các nhà thờ Công giáo, có 8 vụ do những kẻ gian ác gây ra. Nhưng năm nay, chưa đầy mười tháng qua, đã có 26 vụ hỏa hoạn nhà thờ, trong đó 14 vụ là do thủ phạm cố tình đốt.




⛪⛪⛪⛪⛪





Di chúc đức tin của Sammy Basso, thanh niên bị bệnh lão hoá sớm


Ngày 11/10/2024, tại nhà thờ thánh Rocco, ở Tezze sul Brenta, thuộc tỉnh Vicenza của Ý, hàng ngàn người đã tiễn biệt Sammy Basso, thanh niên 28 tuổi bị bệnh lão hoá sớm, qua đời trong khi tham dự một tiệc cưới. Trong di chúc được đọc tại Thánh lễ, người trẻ khẳng định “Tôi nợ Chúa cả cuộc đời, mọi điều tốt đẹp”.


image.png
Sammy Basso

Mặc dù phải mang căn bệnh lão hoá sớm trong 28 năm, Sammy vẫn luôn sống tích cực, đối diện với mọi khó khăn, luôn mỉm cười. Bí quyết của Sammy là đức tin, chính đức tin Công giáo đã giúp anh vượt qua tất cả để sống và làm chứng cho niềm xác tín của mình.

Cha mẹ, người thân và bạn bè đã làm chứng về Sammy Basso, về cuộc sống đức tin giữa nhiều khó khăn do căn bệnh gây ra. Không ngại ngùng với khuôn mặt bị lão hoá sớm, anh sẵn sàng tham gia các cuộc phỏng vấn, các buổi gặp gỡ nhằm đem lại niềm vui cho mọi người về đức tin của người Công giáo.


Lễ tang của Sammy
Lễ tang của Sammy



Trong Thánh lễ an táng, Đức cha Giuliano Brugnotto, Giám mục Vicenza đã đọc di chúc của Sammy Basso, được viết vào ngày 22/9/2017. Dưới đây là một số đoạn của di chúc đức tin này:

Tôi viết thư này bởi vì có hai điều tôi không thể làm được trong tang lễ của tôi: không thể nói những lời sau cùng, và không thể an ủi những người thân. Vì vậy, tôi quyết định viết những lời cuối cùng. Tôi không muốn để lại cho mọi người điều gì ngoài những gì tôi đã trải qua, và vì đây là lần cuối cùng tôi có cơ hội nói, tôi sẽ chỉ nói những điều cần thiết.

Trước hết, tôi muốn mọi người biết rằng tôi đã có một cuộc đời hạnh phúc, và tôi sống đời mình như một người bình thường, có những lúc vui vẻ và những lúc khó khăn, với mong muốn làm điều tốt, đôi khi thành công và đôi khi thất bại thảm hại.

Tôi không thể phủ nhận rằng căn bệnh đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống hàng ngày và những chọn lựa của tôi. Tôi đã cố gắng sống tràn đầy nhất có thể, tuy nhiên tôi đã phạm sai lầm như mọi người. Tôi mơ ước trở thành một nhân vật được nói đến nhiều trong sách ở trường học, một người xứng đáng được mọi người nhớ đến sau này. Tôi đã làm điều tốt với ý định trở thành một người vĩ đại của lịch sử, một phần cũng vì ích kỷ. Ích kỷ của một người đơn giản muốn hơn người khác. Tôi đã chiến đấu rất nhiều với ước muốn không lành mạnh này, biết rõ rằng Chúa không yêu thương người  làm việc chỉ vì chính mình, mặc dù vậy không phải lúc nào tôi cũng thành công với cuộc chiến này.


Giờ đây, trong lúc viết thư, hình dung giây phút sau cùng trên mặt đất, tôi thấy thật là dại dột khi có những mong muốn đó. Vinh quan cá nhân, vĩ đại, nổi tiếng, tất cả chỉ thoáng qua. Trái lại, tình yêu được tạo dựng trong cuộc sống là vĩnh cửu, vì chỉ có Thiên Chúa là vĩnh cửu, và tình yêu đến với chúng ta từ Thiên Chúa. Có một điều tôi không hối tiếc là đã yêu thương nhiều người trong cuộc sống của tôi. Nhưng tôi vẫn thấy còn quá ít. Những ai biết tôi hiểu rằng tôi không phải là người thích đưa ra lời khuyên, nhưng đây là cơ hội sau cùng của tôi. Vì thế tôi xin các bạn, hãy yêu thương những ai đang ở gần mình, chúng ta đừng bao giờ quên rằng những người đồng hành với chúng ta trong hành trình dương thế này không bao giờ là một phương tiện nhưng là mục đích. Thế giới này tốt đẹp nếu chúng ta biết chọn điểm bắt đầu nhìn.


Như tôi đã nói với các bạn, tôi đã sai lỗi trong nhiều chuyện. Trong phần lớn cuộc đời tôi từng nghĩ rằng không có những sự kiện hoàn toàn tích cực hoặc tiêu cực hoàn toàn, tuỳ thuộc nơi cái nhìn của chúng ta. Đây là một triết lý đúng. Nhưng thực tế, một sự việc có thể tích cực hoàn toàn và cũng tiêu cực hoàn toàn. Điều cần nơi chúng ta là không tìm cách để thấy được điều tích cực nhưng tốt hơn là hành động đúng đắn, chịu đựng, và vì tình thương người khác, chuyển một điều tiêu cực thành tích cực. Ở đây không có nghĩa là tìm ra điểm tích cực nhưng là tạo ra chúng, và theo tôi, đây là khả năng quan trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, khả năng chỉ con người mới có.

Tôi muốn nói thẳng thắn với mọi người về bước mà tôi đã thực hiện và tất cả sớm hay muộn cũng phải cũng phải đối diện: cái chết

Chỉ nhắc đến tên, đôi khi khiến tôi rùng mình. Tuy nhiên, đó là một điều tự nhiên, điều tự nhiên nhất trên thế giới. Nếu chúng ta muốn sử dụng một nghịch lý, cái chết là điều tự nhiên nhất trong cuộc sống. Vậy mà lại làm chúng ta sợ hãi. Điều này là bình thường, chính Chúa Giêsu cũng đã sợ hãi.

Đó là nỗi sợ của điều chưa biết, bởi vì chúng ta không thể nói rằng mình đã trải nghiệm nó. Tuy nhiên, chúng ta có thể nghĩ đến cái chết theo cách tích cực: nếu không có cái chết có lẽ chúng ta sẽ không kết luận bất cứ điều gì trong cuộc sống chúng ta, bởi vì dù sao luôn có một ngày mai. Trái lại, cái chết cho chúng ta biết không phải lúc nào cũng có ngày mai. Nếu chúng ta muốn làm điều gì đó, thời điểm thích hợp là “bây giờ”.


Lễ tang của Sammy
Lễ tang của Sammy


Tuy nhiên đối với một Kitô hữu cái chết còn là một điều khác. Từ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, như một của lễ hy sinh cho tất cả tội chúng ta, cái chết là cách duy nhất để sống thực sự, là cách duy nhất để cuối cùng trở về nhà Cha, là cách duy nhất để nhìn thánh nhan Người

Là Kitô hữu tôi đã đối diện với cái chết. Tôi không muốn chết, chưa sẵn sàng chết, nhưng tôi đã chuẩn bị.

Điều duy nhất làm cho tôi u sầu là không có thể thấy thế giới thay đổi và phát triển. Tuy nhiên với phần còn lại tôi hy vọng có thể thấy được cái chết như thánh Phanxicô, những lời của thánh nhân đã đồng hành với tôi trong suốt cuộc đời. Tôi hy vọng cũng có thể đón nhận cái chết như “người chị”, không ai có thể thoát khỏi người chị này.


Sammy được tạng tượng
Sammy được tạt tượng


Nếu trong cuộc sống tôi đã vác thập giá như được yêu cầu, giờ đây tôi thuộc về Đấng Tạo Hoá. Giờ đây tôi ở với Chúa của tôi, Thiên Chúa của các tổ phụ, trong Nhà không thể bị phá huỷ

Ngài, Thiên Chúa chân thật duy nhất, là nguyên nhân đầu tiên và kết thúc mọi sự. Khi đối diện với các chết tất cả sẽ vô nghĩa nều không có Người. Vì vậy, mặc dù không cần phải nói điều này, bởi vì Người biết tất cả, như tôi đã cám ơn mọi người, tôi cũng muốn tạ ơn Người. Tôi nợ Chúa cả cuộc đời, tất cả đều tốt đẹp. Đức tin đã đồng hành với tôi và tôi sẽ không phải là tôi nếu không có đức tin. Đức tin đã thay đổi đời tôi, đã làm một điều phi thường, và làm điều này một cách đơn giản trong đời sống hàng ngày của tôi.

Đừng bao giờ mệt mỏi trong việc phục vụ Thiên Chúa và cư xử theo giới răn Người, bởi vì không có Chúa thì không có ý nghĩa gì và vì mọi hành động của chúng ta sẽ bị phán xét và sẽ quyết định ai sẽ tiếp tục sống đời đời và ai sẽ phải chết. Tôi không phải là Kitô hữu tốt nhất, tôi là một tội nhân, nhưng điều đó không còn quan trọng nữa: điều quan trọng là tôi đã cố gắng hết sức và tôi sẽ làm lại.


Đừng bao giờ mệt mỏi khi vác thập giá mà Thiên Chúa đã giao phó cho mỗi người, và đừng ngại được giúp vác thập giá đó, như Chúa Giêsu đã được giúp đỡ. Và đừng bao giờ từ bỏ mối quan hệ trọn vẹn và thân mật với Chúa, hãy sẵn lòng đón nhận ý muốn của Người, vì đó là nghĩa vụ của chúng ta, nhưng cũng đừng thụ động, và hãy lên tiếng, hãy để ý muốn của bạn được Chúa biết đến, giống như Giacóp, người đã chứng tỏ mình mạnh mẽ được gọi là Israel: Người chiến đấu với Chúa.

Chắc chắn Thiên Chúa, là cha, là mẹ, là Đấng nơi con người Chúa Giêsu đã trải qua mọi yếu đuối của con người, và là Đấng luôn sống trong chúng ta trong Chúa Thánh Thần, là Đền Thờ của Người, sẽ đánh giá cao những nỗ lực của các bạn và sẽ giữ chúng trong trái tim Người.

Giờ đây tôi xa mọi người. Tôi không bao giờ có thể hình dung cuộc sống tôi nếu thiếu mọi người. Và nếu được chọn, một lần nữa tôi sẽ chọn ở bên mọi người. Tôi vui vì ngày mai mặt trời sẽ tiếp tục chiếu sáng.





⛪⛪⛪⛪⛪






Các giám mục Na-Uy chống dự luật nới rộng phá thai



Các giám mục Na Uy lên tiếng chống lại dự luật nới rộng phá thai, sắp được quốc hội nước này bàn thảo và bỏ phiếu: từ 12 lên 18 tuần và có thể tới tuần lễ thứ 22, tức là gần 6 tháng.

image.png

Chính phủ nước này ý thức về việc phá thai trễ có thể là một gánh nặng và khó khăn lớn đối với người mẹ, vì thế đã cấp cho họ quyền được hai lần tham khảo miễn phí các bác sĩ tâm lý.

Hồi tháng Ba năm nay, Hội đồng Giám mục Na Uy đã lên tiếng chống phá thai và nay lại lên tiếng, nhân dịp cuộc tham khảo ý kiến mới của chính quyền với dân chúng. Các giám mục nhắc lại rằng các tín hữu Công giáo là cộng đồng tôn giáo lớn thứ hai tại Na Uy và vì thế, khi bày tỏ lập trường các vị không nói nhân danh bản thân, nhưng là nhân danh cộng đồng Công giáo tại Na Uy: “Chúng tôi nói để bênh vực những người yếu thế nhất, trong trường hợp này là các thai nhi, với một lịch sử riêng 4, 5 tháng. Chúng tôi bênh vực các em trước những người mạnh nhất, trong trường hợp này là các nhà chính trị tại quốc hội, những người được ủy thác quyết định sinh tử về các thai nhi ấy”.

Các giám mục Na Uy cũng nhắc nhở rằng có những thời kỳ, trong đó cả các triết gia và thần học gia Công giáo, dựa trên triết học Hy Lạp để đặt nhân tính của một bào thai tùy thuộc mức độ tiến triển của thai. Nhưng Giáo hội không chấp nhận tiêu chuẩn đó, vì nó hoàn toàn là tưởng tượng và không có căn bản khoa học. Vậy mà dự luật được quốc hội bàn thảo hoàn toàn dựa trên tưởng tượng. Nhà lập pháp không để ý đến những căn bản khoa học, theo đó sự sống con người bắt đầu ngay từ lúc thụ thai. Vì thế, Hội đồng Giám mục Na Uy thỉnh cầu Quốc hội bác bỏ dự luật mới, vì “phá thai là điều không xứng đáng với một xã hội con người đích thực, trong đó mỗi người đáng được tôn trọng”.

Các giám mục Na Uy cũng nhận định rằng dự luật mới tránh nói về trẻ em, nhưng chỉ “bảo đảm cho phụ nữ quyền được phá thai an toàn và chữa trị, qua đó họ có thể đưa ra những quyết định độc lập về thân thể của họ”. Thế là, thay vì nói về trách nhiệm của xã hội giúp phụ nữ sinh con, như trong luật cũ, dự luật mới có những lời lẽ duy tiêu thụ như một yêu cầu và là những bảo đảm bình quyền. Quyết định của phụ nữ là điều hoàn toàn riêng tư và họ được yêu cầu thực hiện phá thai trên một trang mạng, điền một mẫu đơn trên đó.

Sau cùng, các giám mục cũng nhắc lại rằng Hiến pháp Na Uy bảo vệ các trẻ em chưa sinh ra và cả thai nhi cũng được kể vào số những người có quyền hưởng gia tài.



⛪⛪⛪⛪⛪


Chính phủ Uzbekistan coi râu là dấu hiệu của chủ nghĩa khủng bố

Từ tháng 3 vừa qua trở đi, những người đàn ông Hồi giáo trên khắp Uzbekistan để râu dài đã bị bắt giữ, bị cạo râu cưỡng bức và bị phạt tiền. Những người Hồi giáo muốn giấu tên vì sợ bị nhà nước trả thù đã nói với Diễn đàn 18 rằng họ bị cảnh sát bắt giữ trong và xung quanh các nhà thờ Hồi giáo và chợ đường phố.

Trên toàn quốc, những người đàn ông Hồi giáo có râu dài đã bị bắt trong các cuộc đột kích do cảnh sát mật của Cơ quan Mật vụ Nhà nước, gọi tắt là SSS và các sĩ quan cảnh sát bình thường “Sở Đấu tranh với Chủ nghĩa Cực đoan và Khủng bố” chỉ huy. Những người đàn ông này sau đó đã bị đưa đến đồn cảnh sát, bị cạo râu cưỡng bức và sau đó bị cảnh báo rằng họ sẽ bị phạt tiền hoặc nhận án tù ngắn hạn nếu họ để râu dài trở lại. Mức phạt áp dụng dao động từ khoảng một tháng đến hơn một tuần lương trung bình của những người đi làm.

Một số người đàn ông Hồi giáo đã chia sẻ với Diễn đàn 18 rằng kể từ tháng 3, họ đã “cắt tỉa và để râu thật mỏng” để tránh những hình phạt như vậy.

Các viên chức chế độ đã đưa ra nhiều lý do bào chữa cho hành động của họ. Trong một cuộc đột kích vào một nhà thờ Hồi giáo ở Tashkent vào tháng 3 trong buổi cầu nguyện thứ Sáu, các viên chức đã buộc 15 người đàn ông tham dự nhà thờ Hồi giáo có râu vào một căn phòng tại nhà thờ Hồi giáo. Sau đó, cảnh sát tuyên bố với những người đàn ông này rằng những người trẻ tuổi đang trở nên cực đoan và bị ảnh hưởng bởi những gì được mô tả là “mọi loại phong trào tôn giáo”. Sau đó, cảnh sát tuyên bố rằng, do đó, tất cả râu phải được cạo sạch.

Một viên chức cảnh sát “Sở Đấu tranh với Chủ nghĩa cực đoan và Khủng bố” tuyên bố với Diễn đàn 18 rằng “đôi khi chúng tôi tìm kiếm những người đàn ông có râu khi chúng tôi đang truy tìm những kẻ khủng bố. Lúc đầu rất khó để xác định họ là ai, và đôi khi họ trông giống nhau. Nhưng”, ông nói tiếp, “khi không có râu hoặc râu rất ngắn, chúng tôi có thể xác định được người đó”

Nhiều cảnh sát, Bộ Nội vụ, cảnh sát mật SSS và quan chức tòa án đã từ chối giải thích với Diễn đàn 18 lý do tại sao những người đàn ông Hồi giáo để râu dài trên toàn quốc đã bị bắt giữ, bị cạo râu cưỡng bức và bị phạt tiền từ tháng 3.

Người Hồi giáo và những người bảo vệ nhân quyền, những người muốn giấu tên vì sợ bị nhà nước trả thù, đã nói với Diễn đàn 18 rằng họ nghĩ chế độ này có thể đang lên kế hoạch tấn công những phụ nữ đội khăn trùm đầu theo cách tương tự như tấn công những người đàn ông để râu dài.

Một nhóm các nữ đan sĩ Cát Minh ở Texas bị trục xuất khỏi đời tu trì


Một nhóm nữ đan sĩ Dòng kín Cát Minh ở Giáo phận Fort Worth, bang Texas, bên Mỹ, đã bị trục xuất khỏi đời tu vì bất tuân phục Đức Thánh cha, Bộ Tu sĩ, Giám mục giáo phận và các bề trên của dòng, nhất là đã đi theo Huynh đoàn thánh Piô X, ly khai với Giáo hội Công giáo.

Carmelite Monastery of the Most Holy Trinity, Arlington, Texas

Quyết định trên đây kết thúc cuộc tranh chấp lâu dài giữa các đan sĩ này với Đức giám mục giáo phận và với Tòa Thánh.

Hôm 28 tháng Mười vừa qua, trang mang của Giáo phận Fort Worth đã đăng thông cáo của Mẹ Marie Nhập thể, Chủ tịch Hiệp hội Chúa Kitô Vua, gửi toàn thể giáo phận địa phương để thông báo quyết định rằng các nữ đan sĩ Đan viện Cát Minh nhặt phép, quen gọi là dòng kín Cát Minh, ở Arlington, Texas, bị trục xuất khỏi dòng và hồi tục, sau hơn một năm bất chấp các mệnh lệnh của cấp trên. Sự trục xuất này kết thúc một cuộc tranh chấp đau thương và phân rẽ giữa các nữ đan sĩ này với giáo quyền, từ Đức cha Michael Olson, giám mục sở tại cho tới Tòa Thánh.

Cuộc tranh chấp bắt đầu năm ngoái khi Đức cha Olson mở cuộc điều tra về Đan viện ở Arlington, sau những vụ tố cáo Mẹ Bề trên Teresa Agnes Gerlach của Đan viện Chúa Ba Ngôi gian díu với một linh mục.

Các nữ tu thuộc Đan viện đã đệ đơn kiện hồi tháng Năm năm ngoái để chống lại cuộc điều tra của Đức cha Olson, với lời cáo buộc Đức cha đã vi phạm cuộc sống riêng tư và gây hại cho an sinh thể lý, tâm lý của các nữ tu. Đức cha Olson đã trục xuất nữ tu Gerlach khỏi đời tu.

Tháng Tư năm nay, Bộ các Dòng tu tuyên bố rằng Hiệp hội Chúa Kitô Vua ở Mỹ có thẩm quyền giám sát việc “cai quản, kỷ luật, học vấn, tài sản, các quyền và đặc ân” của Đan viện Chúa Ba Ngôi. Nhưng các nữ tu bất chấp lệnh của Tòa Thánh và tuyên bố đi theo Huynh đoàn thánh Piô X, một nhóm thủ cựu không hiệp thông với Giáo hội Công giáo.

Trong thông cáo ngày 28 tháng Mười nói trên, Mẹ Marie Nhập Thể khẳng định rằng các nữ đan sĩ Cát Minh ở Arlington liên tục bất chấp thẩm quyền của Bộ các Dòng tu, phủ nhận thẩm quyền của Đức giám mục bản quyền và của chính Mẹ Marie Nhập Thể, trong tư cách là Bề trên hợp pháp, đồng thời theo Huynh đoàn thánh Piô X bất hợp pháp. Ngoài ra, các nữ tu đã tự ý giao nữ Đan viện và tài sản của Đan viện này, vốn là tài sản của Giáo hội Công giáo theo giáo luật, cho một tổ chức đời. Vì thế, chính những hành động đã biến các nữ tu này không còn là tu sĩ Công giáo nữa.

image.png

“Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,

phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8,5).

 

Tôi cứ suy nghĩ hoài lời Thánh Vịnh trên đây khi thời gian điểm vào tháng 11. Có lẽ nhiều người cho rằng tháng 11 rất u ám khi ra nghĩa trang. Không ít người cho rằng đây là nét đẹp của đức tin Công giáo, khi hướng về những linh hồn đã khuất. Giữa hai cảm xúc này, tôi tự hỏi: “Con người là gì?” Bạn cũng có thể trả lời rằng con người được tạo thành từ linh hồn và thân xác. Khi chết, thân xác sẽ trở về cát bụi, còn linh hồn bất tử. Đây không chỉ là quan niệm triết học mà còn là một điểm then chốt trong niềm tin Kitô giáo, được củng cố qua mặc khải của Thiên Chúa và giáo huấn của Hội Thánh Công giáo.

 

Từ xa xưa, các triết gia như Socrates và Plato đã đề cập đến vấn đề linh hồn. Socrates luôn kêu gọi con người “chăm sóc linh hồn” và xem nó là phần quan trọng hơn thân xác. Plato, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thầy mình là Socrates, cũng luôn hối thúc con người cần chăm sóc linh hồn hơn là thân xác. Trong triết học của họ, linh hồn được xem là yếu tố cao quý, trường tồn và đáng để chúng ta dành trọn sự quan tâm, ngay cả khi phải hy sinh thân xác.

 

Trong giáo lý Công giáo, ngay trong trình thuật Sáng Thế, Thiên Chúa tạo dựng con người từ bụi đất và thổi hơi thở (linh hồn) vào thân xác để làm cho con người sống động, theo hình ảnh của Ngài (Imago Dei). Theo đó, Giáo hội đặc biệt nói với người trẻ rằng:

 

“Linh hồn là cái làm cho ta thành một con người. Nó là nguyên lý linh thiêng của sự sống, và là cái sâu thẳm nhất trong con người.” (Sách Youcat số 62). 

 

Khi thân xác phải đối diện với sự chết, linh hồn cũng đối diện với những thực tại thiêng liêng mà giáo lý Công giáo phân biệt thành ba trạng thái: Thiên đàng, Luyện ngục và Hỏa ngục. Hỏa Ngục là nơi dành cho những linh hồn đã chết trong tình trạng tội lỗi chết người, không ăn năn hối cải. Những linh hồn này sẽ phải chịu hình phạt vĩnh viễn, tách biệt hoàn toàn khỏi Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc và sự sống [1]. Trái lại, những linh hồn trung thành và yêu mến Chúa, chết trong ân sủng, sẽ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trong Nước Trời. Thiên Đàng hay Nước Trời là nơi cư ngụ của những người được chúc phúc, nơi họ được nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt và sống trong sự hiệp thông với Ngài, Đức Maria, các thiên thần và các thánh [2]. Trong khi đó, Luyện Ngục là trạng thái trung gian dành cho những người chết trong tình bạn với Thiên Chúa nhưng vẫn cần thanh tẩy để có thể vào Thiên Đàng. Những người này được đảm bảo về sự cứu rỗi vĩnh cửu nhưng cần trải qua một quá trình thanh tẩy để đạt được sự thánh thiện cần thiết [3]. Nơi đó, các linh hồn đang chờ đợi sự thanh luyện cuối cùng nhờ lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta. 

 

Hẳn nhiên chúng ta không biết các linh hồn đã khuất đang ở trong tình trạng nào. Do đó, nhất là trong suốt tháng 11, Hội Thánh Công giáo đặc biệt mời gọi các tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn trong Luyện ngục. Giáo hội khẳng định rằng:

 

Bởi vì khi chết rồi con người không thể làm gì cho chính mình nữa, thời gian thử luyện đã qua rồi. Nhưng khi ta còn sống, ta có thể làm được việc gì đó giúp họ, vì tình yêu của ta vẫn hoạt động vươn tới cả đời sau, chẳng hạn ăn chay, cầu nguyện, làm các việc lành, nhất là dâng thánh lễ để xin ơn cho họ.” [4]

 

Việc viếng nghĩa trang, tham dự Thánh Lễ, và dâng những lời cầu nguyện cho các linh hồn đã khuất không chỉ là nghĩa cử yêu thương đối với người đã ra đi, mà còn mang lại nhiều phúc lành cho chính chúng ta. Thánh Gioan Kim Khẩu khuyến khích rằng:

 

“Bạn đừng ngại ngùng cứu giúp những người đã ra đi và dâng lời cầu nguyện cho họ.”

 

Nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, khi các linh hồn được cứu rỗi, họ cũng cầu bầu với Chúa cho chúng ta, để Thiên Chúa ban nhiều ơn lành xuống cho những người còn sống.

 

Tháng 11 còn là dịp để chúng ta suy nghĩ về thân phận con người. Thế giới thiêng liêng không phải là điều xa lạ, nhưng là một thực tại mà mỗi chúng ta đều sẽ đối diện. Ai cũng tin rằng con người phải chết, nhưng không ai tin rằng chính mình phải chết! Chúng ta không nên bám víu vào vật chất, nhưng biết chuẩn bị cho cuộc sống đời sau. Cầu nguyện cho các linh hồn trong tháng này là một cách để chúng ta thể hiện tình yêu, lòng trắc ẩn, và niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu.

 

Hội Thánh mời gọi các tín hữu thực hành việc viếng nhà thờ và nghĩa trang trong những ngày đầu tháng 11 để nhận được Ơn Đại Xá [5] cho các linh hồn. Điều kiện bao gồm xưng tội, rước lễ, và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng [6]. Mỗi lần tham dự Thánh Lễ, người tín hữu cùng hiệp thông với linh mục dâng lời cầu nguyện: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa.”  (Kinh Nguyện Thánh Thể II). Lời nguyện này không chỉ làm nhẹ đi những đau khổ của các linh hồn, mà còn là cách chúng ta tham gia vào mầu nhiệm tình thương và sự sống lại của Thiên Chúa. Như lời Thánh Phaolô chia sẻ: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1Cr 12,26).

 

Với vài ý nghĩa trên đây, hy vọng chúng ta không còn nhìn Tháng 11 với gam màu buồn bã, u uẩn hay chết chóc. Thay vào đó, đây là tháng của niềm hy vọng, của lòng trắc ẩn và tình yêu thương Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người. Khi cầu nguyện cho các linh hồn, chúng ta cũng đang củng cố niềm tin của mình vào sự sống đời sau, vào mầu nhiệm các thánh thông công, và vào lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. 

 

Tạm kết

Cầu mong rằng, qua những lời cầu nguyện và hy sinh của chúng ta trong tháng 11 này, các linh hồn nơi Luyện ngục sớm được thanh tẩy và được đón nhận vào Nước Thiên Đàng. Nơi đó, họ sẽ sống đời đời trong hạnh phúc và vinh quang Thiên Chúa.

 

Xin Thiên Chúa ban cho chúng ta cũng biết sống hy vọng vào sự sống đời sau, không chỉ cho những linh hồn đã khuất, mà còn cho chính chúng ta, những người đang hành trình về nhà Thiên Chúa. Dù sống hay chết, chúng ta vẫn luôn được Thiên Chúa quan tâm. Ngài bận tâm đến từng người, vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa. 

 

Xin chúc mỗi người, đặc biệt khi đứng trước mộ phần, luôn vững tin và tràn đầy hy vọng vào cuộc sống vĩnh hằng mà Thiên Chúa đang mở rộng đón chờ linh hồn chúng ta! 

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.



[1] GLHTCG số 1035

[2] Compendium of the Catechism of the Catholic Church, số 209.

[3] Compendium of the Catechism of the Catholic Church, số 210

[4] X. Youcat số 160

[5] Ơn Đại Xá, hay còn gọi là indulgence, là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù những tội đó đã được tha thứ. Để hưởng nhờ ân xá, Kitô hữu phải hội đủ những điều kiện được thẩm quyền của Hội Thánh quy định, vì với tư cách là thừa tác viên của Ơn cứu chuộc, Hội Thánh có thẩm quyền phân phát và chia sẻ kho tàng công phúc của Đức Kitô và các Thánh …Tín hữu nào cũng có thể hưởng các ân xá cho chính mình, hay cho những người đã qua đời. (X. GLHTCG số 1471).

[6] Xem thêm: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cac-dieu-kien-de-lanh-nhan-an-xa-46688

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 8, 2024, 6:46:56 PM11/8/24
to alphonsefamily
11/9/2024

Vatican: Tại Hoa Kỳ, các ngày lễ buộc không được miễn nếu chuyển sang thứ Hai
Trong thư gửi đến Đức Cha Thomas Paprocki, Giám mục Springfield, Illinois, Bộ các Văn bản luật của Vatican đã tuyên bố rằng tất cả các ngày lễ buộc được dời sang thứ Bảy hay thứ Hai vẫn “luôn là những lễ buộc". Thư điều chỉnh một thông lệ lâu đời tại Giáo hội Hoa Kỳ và xác định rõ rằng người Công giáo tại Hoa Kỳ vẫn phải tham dự Thánh lễ vào các ngày lễ buộc ngay cả khi được chuyển sang Thứ Hai hoặc Thứ Bảy.
Trong các quy tắc hướng dẫn, Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ quy định rằng khi một số ngày lễ rơi vào Thứ Bảy hoặc Thứ Hai, thì nghĩa vụ tham dự Thánh lễ vào ngày đó sẽ được "miễn".

Ngày 8/12, lễ trọng Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội, thường là ngày lễ buộc. Năm nay lễ này rơi vào Chúa Nhật trong Mùa Vọng, do đó lịch phụng vụ năm 2024 của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đã dời lễ này sang Thứ Hai, ngày 9/12, và nói rằng việc buộc tham dự lễ không chuyển sang thứ Hai, nghĩa là không buộc tham dự Thánh lễ vào thứ Hai ngày 9/12..

Đức Cha Paprocki, Chủ tịch Ủy ban về các vấn đề Giáo luật và Quản trị Giáo hội của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đã viết thư cho Tòa Thánh để xin chỉ dẫn rõ liệu luật giữ lễ buộc có dời khi chính ngày lễ buộc được dời hay không.

Đức Tổng Giám mục Filippo Iannone, Tổng trưởng Bộ các Văn bản luật, đã trả lời rằng việc giữ ngày lễ buộc phải được tuân theo vào ngày lễ đó được dời”. Ngài lưu ý trong thư rằng một số ngày lễ nhất định được giáo luật thiết lập là những ngày buộc. Những ngày này “phải được tuân giữ” và “giáo luật không đưa ra ngoại lệ”, trừ vì "lý do nghiêm trọng".

Sau thông báo này, một số giáo phận Hoa Kỳ đã quy định rằng việc tham dự Thánh lễ lễ Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội là luật buộc vào ngày 9/12 năm nay. Riêng Đức Hồng y Daniel DiNardo của Tổng giáo phận Galveston-Houston đã miễn trừ luật buộc cho ngày lễ vì thời gian thông báo về sự thay đổi trước ngày lễ quá ngắn trong khi nhiều giáo xứ và gia đình đã có lịch trình cho Mùa Vọng và Giáng sinh. Tuy nhiên, ngài kêu gọi các tín hữu cố gắng tham dự Thánh lễ vào ngày 9/12 mặc dù năm nay không buộc. Giáo phận Tulsa cũng ban luật "miễn trừ" tham dự Thánh lễ vào ngày 9/12. 


Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ kêu gọi tôn trọng và lịch sự sau khi cuộc bầu cử Hoa Kỳ năm 2024 kết thúc với việc Donald Trump giành chiến thắng nhiệm kỳ thứ hai với tư cách là tổng thống.

Trump đã giành chiến thắng trong cuộc đua với Phó Tổng thống Kamala Harris với chiến thắng đáng kể của Đại cử tri đoàn là 295-226 vào chiều thứ Tư. Tổng thống đắc cử của Đảng Cộng hòa cũng dẫn trước khoảng 5 triệu phiếu bầu trong cuộc bỏ phiếu phổ thông.
Trong một tuyên bố được đăng trên trang web của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, chủ tịch hội đồng, Tổng giám mục Timothy Broglio, đã chúc mừng Trump về chiến thắng của ông và ca ngợi "khả năng chuyển đổi hòa bình từ chính phủ này sang chính phủ khác" của Hoa Kỳ.

Tổng giám mục lưu ý rằng Giáo Hội Công Giáo "không liên kết với bất cứ đảng phái chính trị nào, và hội đồng giám mục cũng vậy".

"Bất kể ai chiếm giữ Nhà Trắng hay nắm giữ đa số tại Đồi Capitol, thì giáo lý của Giáo hội vẫn không thay đổi, và chúng tôi, các giám mục, mong muốn được làm việc với các đại diện được bầu của người dân để thúc đẩy lợi ích chung của tất cả mọi người", vị giám mục viết.
"Là những Kitô hữu và là người Mỹ, chúng ta có nghĩa vụ đối xử với nhau bằng lòng bác ái, sự tôn trọng và lịch sự, ngay cả khi chúng ta có thể không đồng ý về cách thực hiện các vấn đề chính sách công", ngài nói. "Là một quốc gia được ban tặng nhiều hồng phúc, chúng ta cũng phải quan tâm đến những người bên ngoài biên giới của mình và mong muốn hỗ trợ tất cả mọi người".

Tổng giám mục kêu gọi người dân Mỹ cầu nguyện cho Tổng thống đắc cử Trump và tất cả các quan chức được bầu để họ có thể "vươn lên để hoàn thành trách nhiệm được giao phó khi họ phục vụ đất nước và những người mà họ đại diện".

“Chúng ta hãy cầu xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ, đấng bảo trợ của quốc gia chúng ta, để Mẹ hướng dẫn chúng ta bảo vệ lợi ích chung của tất cả mọi người và thúc đẩy phẩm giá của con người, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta, bao gồm cả trẻ chưa chào đời, người nghèo, người lạ, người già và người ốm yếu, và người di cư,” ngài nói.

Kết quả bầu cử năm 2024 đã khép lại nỗ lực kéo dài bốn năm của Trump nhằm giành lại Nhà Trắng sau khi ông để thua trong lần tái tranh cử đầu tiên trước Tổng thống Joe Biden vào năm 2020. Trump đã trở thành tổng thống đầu tiên trong gần 130 năm giành được nhiệm kỳ tổng thống thứ hai không liên tiếp.



Theo cuộc thăm dò sau cuộc bỏ phiếu, hôm mùng 05 tháng Mười Một vừa qua, 54% các cử tri Công giáo đã bỏ phiếu cho cựu Tổng thống Donald Trump, và nơi các tín hữu Tin lành và các tín hữu Kitô khác, ông Trump đạt tới 61%.

Phá thai đã là một vấn đề quan trọng đối với các cử tri tôn giáo trong cuộc bầu cử vừa qua. Trong khi bà Harris cổ võ tự do hoàn toàn về phá thai, thì ông Trump để vấn đề này cho mỗi tiểu bang quyết định, như phán quyết hồi năm 2022 của Tối cao pháp viện và không thể rút từ Hiến pháp liên bang quyền phá thai áp dụng cho toàn quốc.  Nơi những người chống phá thai, ứng cử viên Donald Trump nhận được 90% phiếu ủng hộ.

Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh chúc mừng Tổng thống đắc cử Donald Trump

Phát biểu với các phóng viên bên lề một sự kiện tại Đại học Gregoriana, Đức Hồng y Pietro Parolin chúc [ông Trump] mọi điều tốt đẹp và có nhiều sự khôn ngoan khi điều hành đất nước, "bởi vì theo Kinh Thánh, đây là đức tính chính của các nhà lãnh đạo".

Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh nói tiếp rằng tổng thống đắc cử sẽ phải nỗ lực "trên hết là trở thành tổng thống của toàn bộ đất nước" để vượt qua sự phân cực ngày càng gia tăng trong thời đại của chúng ta. Đồng thời, ngài bày tỏ hy vọng rằng ông Trump sẽ là "một yếu tố xoa dịu căng thẳng và hòa giải trong các cuộc xung đột hiện tại đang làm đẫm máu thế giới".

Kết thúc chiến tranh

Được hỏi về lời hứa của ông Trump về việc kết thúc một số cuộc chiến đang diễn ra, Đức Hồng y Parolin trả lời, "Chúng ta hãy hy vọng", đồng thời thừa nhận, "Tôi không nghĩ ông ấy có cây đũa thần". Ngài nhấn mạnh rằng việc kết thúc chiến tranh đòi hỏi sự khiêm nhường, sẵn sàng và mong muốn theo đuổi lợi ích của toàn thể nhân loại, thay vì tập trung vào các lợi ích cụ thể.

Liên quan đến các cuộc xung đột ở Ucraina và Thánh Địa, Quốc vụ khanh Tòa Thánh lưu ý rằng ông Trump chưa giải thích cụ thể cách ông sẽ hành động để chấm dứt chiến tranh. Ngài nói: "Chúng ta hãy xem ông ấy sẽ đề xuất gì sau khi nhậm chức".

Quan điểm của Tòa Thánh về di dân

Trả lời các câu hỏi về việc ông Trump hứa trục xuất khỏi Hoa Kỳ "hàng triệu" người nhập cư, Đức Hồng y Parolin cho biết, "Với tôi, có vẻ như quan điểm của Đức Thánh Cha và Tòa Thánh rất rõ ràng về vấn đề này. Chúng tôi ủng hộ một chính sách khôn ngoan đối với người nhập cư và do đó không đi đến những thái cực này". Ngài nói thêm rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra những chỉ dẫn "rất chính xác, rất rõ ràng" liên quan đến vấn đề di cư, đồng thời nói thêm "Tôi tin rằng đây là cách duy nhất để giải quyết các vấn đề và giải quyết chúng theo cách nhân đạo".

Bảo vệ sự sống

Đức Hồng y Parolin đồng ý rằng có một số vấn đề mà chính sách của ông Trump phù hợp hơn với lập trường của Tòa Thánh, ví dụ như vấn đề "bảo vệ sự sống". Tuy nhiên, Đức Hồng y nhận định: "Tôi tin rằng đây phải là chính sách chung; nó phải cố gắng thu thập sự đồng thuận xung quanh vấn đề này và không trở thành chính sách phân cực và chia rẽ một lần nữa". Ngài nhấn mạnh về nhu cầu lắng nghe lẫn nhau và cho biết ngài hy vọng những lời hứa bảo vệ sự sống của Trump "cũng sẽ mở rộng sự đồng thuận theo nghĩa này".

Đối thoại về công ích

Quốc vụ khanh Tòa Thánh cho biết ngài không nghĩ rằng mối quan hệ giữa Tòa Thánh và Hoa Kỳ sẽ thay đổi với chính quyền mới; ngài lưu ý: "Chúng tôi vẫn duy trì quan hệ với Tổng thống Trump ngay cả trong nhiệm kỳ trước của ông, vì vậy ít nhiều chúng tôi sẽ tiếp tục". Thừa nhận sự gần gũi về một số vấn đề và sự khác biệt về các vấn đề khác, ngài cho biết đây sẽ là dịp để thực hiện đối thoại và cố gắng tìm ra nhiều điểm đồng thuận hơn với nhau, luôn vì lợi ích chung và hòa bình trên thế giới.

Vấn đề Trung Quốc

Cuối cùng, trả lời câu hỏi về mối quan hệ của Tòa Thánh với Trung Quốc, Đức Hồng y Parolin cho biết, “Chúng tôi đã tiến triển với Trung Quốc… cuộc đối thoại đang diễn ra, từng bước nhỏ nhưng liên tục, vì vậy chúng tôi xác nhận đường lối này”.

Trong khi thừa nhận phản ứng của Hoa Kỳ đối với chính sách này, Đức Hồng y nhấn mạnh rằng lợi ích của Tòa Thánh đối với Trung Quốc “về cơ bản là lợi ích của Giáo hội”, và việc công nhận nhiều hơn về định hướng này có thể thay đổi “đánh giá” của các quốc gia khác về mối quan hệ.


Đức Phanxicô vẫn chưa bày tỏ phản ứng của ngài trước chiến thắng của Đảng Cộng hòa.

Nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump có những căng thẳng nhưng cũng có khả năng hợp tác với Đức Phanxicô
Hai nhà lãnh đạo thế giới có quan điểm đối lập về vấn đề di cư nhưng có thể tìm được tiếng nói chung trong cố gắng thúc đẩy hòa bình qua con đường thương thuyết ở Ukraine.

image.png

Đức Phanxicô tiếp Tổng thống Donald Trump tại Vatican ngày 24 tháng 5 năm 2017. (ảnh: Vatican Media/L'Osservatore Romano)

Việc cựu Tổng thống Donald Trump đắc cử nhiệm kỳ thứ hai có khả năng nối lại mối quan hệ thường căng thẳng giữa Đức Phanxicô và ông.

Các tương quan giữa Vatican và nước Mỹ là mối quan tâm đặc biệt của người công giáo, nhưng vì Đức Phanxicô là người ủng hộ hòa bình và công lý xã hội được thế giới công nhận nên quan hệ giữa Washington và Rôma cũng là quan tâm của cộng đồng quốc tế.

Phần lớn căng thẳng giữa hai bên có khả năng tập trung vào vấn đề di cư, một vấn đề cả hai đã có những xung đột công khai trong quá khứ. Trong chiến dịch tranh cử vừa qua, Tổng thống Trump hứa sẽ trục xuất hàng triệu người nhập cư không có giấy tờ, một chính sách gần đây Đức Phanxicô cho là tội nghiêm trọng “chống lại sự sống”.

Nhưng Vatican và Nhà Trắng có thể có được tiếng nói chung trong nhiệm kỳ thứ hai này của Tổng thống Trump trong cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine. Đức Phanxicô và Tổng thống Trump đã bất đồng quan điểm về vấn đề di cư ngay cả trước khi ông Trump nhậm chức. Tháng 2 năm 2016, trong một phỏng vấn, Đức Phanxicô nói với các phóng viên lời hứa trục xuất hàng triệu người nhập cư và xây tường dọc theo biên giới phía nam là kẽ hở của một người không có “tinh thần kitô giáo”. Ông Trump trả lời, thật xấu hổ khi Giáo hoàng đặt câu hỏi về đức tin của ông.

Nhưng hai người đã gần gũi hơn về vấn đề phá thai, trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông Trump cương quyết phản đối việc phá thai, ông nêu tên ba thẩm phán Tòa án Tối cao đã tiếp tục bãi bỏ phán quyết năm 1973 Roe kiện Wade, thiết lập quyền phá thai theo hiến pháp. Đức Phanxicô thường lên án phá thai với những lời lẽ mạnh mẽ, ngài xem việc này như việc thuê người sát thủ.

Kể từ khi rời nhiệm sở, Tổng thống Trump có lập trường tự do hơn về phá thai, trong chiến dịch tranh cử, ông tuyên bố sẽ phủ quyết lệnh cấm phá thai của liên bang nếu ông đắc cử. Ông ủng hộ việc thụ tinh trong ống nghiệm, một thủ tục thường liên quan đến việc phá hủy phôi thai của con người và bị cấm trong giáo lý đạo đức công giáo.

Một lãnh vực có khả năng đưa hai bên gần nhau: đó là “ý thức hệ giới tính”, theo Đức Phanxicô, đây là ý thức hệ đáng lo ngại của thời đại chúng ta khi xóa bỏ sự khác biệt giữa nam và nữ. Đầu năm nay, Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố: “Bất kỳ sự can thiệp nào vào việc chuyển đổi giới tính đều có nguy cơ đe dọa đến phẩm giá duy nhất mà con người nhận được ngay khi thụ thai.” Các vấn đề chuyển giới, bao gồm vấn đề chuyển giới của các vận động viên nữ, đó là vấn đề nổi bật trong chiến dịch của Tổng thống Trump. Tuy nhiên, đây là vấn đề tế nhị, vì Đức Phanxicô có cách tiếp cận mục vụ với người chuyển giới, ngài đã nhiều lần gặp họ ở Vatican.

Chính sách môi trường là lãnh vực Đức Phanxicô và Tổng thống Trump bất đồng quan điểm. Trong thông điệp Chăm sóc ngôi nhà chung Laudato Si năm 2015, ngài kêu gọi giảm dùng nhiên liệu hóa thạch để chống lại tình trạng nhiệt độ toàn cầu nóng lên, mối đe dọa lớn cho sự sống trên trái đất, nhưng Tổng thống Trump lại hứa sẽ thúc đẩy sản xuất nhiên liệu hóa thạch.

Tuy nhiên lãnh vực bất đồng rõ ràng nhất vẫn là vấn đề di cư. Tháng 9 vừa qua, khi trả lời các nhà báo, Đức Phanxicô cho rằng “đuổi người di cư đi, từ chối khả năng làm việc của họ, từ chối lòng hiếu khách là một tội nghiêm trọng”. So sánh quan điểm này với việc Phó Tổng thống Kamala Harris hợp pháp hóa phá thai, Đức Phanxicô cho biết, cuộc bầu cử đặt ra cho người công giáo Mỹ phải lựa chọn “cái ác ít hơn”, ngài để cho lương tâm của mỗi cử tri quyết định đó là gì.

Lãnh vực đối ngoại cũng tạo căng thẳng giữa ngài và tân  tổng thống. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Trump, Vatican đã phản đối khi Hoa Kỳ công nhận Giêrusalem là thủ đô của Israel, sau đó Ngoại trưởng Mike Pompeo đã cáo buộc Vatican không quan tâm đến việc Trung Quốc vi phạm nhân quyền khi theo đuổi mục tiêu xích lại gần Bắc Kinh. Các vấn đề này có khả năng là những điểm đau đầu trong quan hệ Hoa Kỳ-Tòa thánh trong bốn năm tới.

Nhưng vấn đề địa chính trị Ukraine là vấn đề mà cả Đức Phanxicô và Tổng thống Trump thường có lập trường gây tranh cãi, có thể là một lãnh vực hợp tác và thậm chí là hòa hợp giữa họ.

Kể từ đầu năm 2022 khi Nga tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, Đức Phanxicô không ngừng kêu gọi chấm dứt xung đột, ngài luôn đau buồn cho số phận của người dân Ukraine. Nhưng ngài tránh đổ lỗi trực tiếp cho Nga hoặc cho Tổng thống Vladimir Putin về cuộc chiến, ngài cho rằng lý do có thể là do sự mở rộng về phía đông của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương NATO. Ngài cũng lên án việc chi tiêu vũ khí để đáp trả hành động xâm lược của Nga và việc áp dụng các lệnh trừng phạt Matxcơva. Lập trường trung lập này đã làm cho người công giáo và các cấp cao của Ukraine và Đông Âu thất vọng. Ngài nói, sự trung lập của Vatican về các vấn đề chính trị, thương mại và quân sự là cần thiết để có được uy tín của một trung gian tiềm năng.

Tổng thống Trump công khai ngưỡng mộ Putin, ông nói ông có khả năng chấm dứt chiến tranh chỉ trong một ngày, một chiến công sẽ phải đòi hỏi Ukraine nhượng bộ. Phó Tổng thống đắc cử James David Vance đưa ra một kế hoạch hòa bình cho phép Nga giữ lại lãnh thổ mà họ đã chinh phục và đảm bảo sự trung lập của Ukraine, loại trừ tư cách thành viên NATO mà quốc gia này mong muốn.

Nếu Hoa Kỳ, nước ủng hộ Ukraine lớn nhất áp dụng chính sách như vậy dưới thời chính quyền tiếp theo, liệu họ có thể nhờ đến Vatican để được hỗ trợ về mặt đạo đức cho lập trường của mình không? Liệu Đức Phanxicô hay các nhà ngoại giao của ngài có tán thành một kế hoạch như vậy, một cách rõ ràng hay không?

Một liên minh như vậy có vẻ không có khả năng xảy ra, nhưng chính trị quốc tế đã biết đến những người bạn đồng hành xa lạ hơn.


Các giám mục kêu gọi "bác ái, tôn trọng và lịch sự" sau cuộc bầu cử lịch sử năm 2024

Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ kêu gọi các chính trị gia và tất cả mọi người tôn trọng và cư xử văn minh, sau cuộc bầu cử lịch sử kết thúc với việc ông Donald Trump chiến thắng lần thứ hai làm tổng thống.
Trong một tuyên bố, Đức Tổng Giám Mục Timothy Broglio, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ chúc mừng ông Trump về chiến thắng của ông và ca ngợi "khả năng chuyển giao quyền lực hòa bình" của Hoa Kỳ.

Đức Tổng Giám Mục lưu ý rằng Giáo hội Công giáo không liên kết với bất cứ đảng phái chính trị nào, và các mục tử của Giáo hội mong muốn làm việc với các đại diện được bầu để thúc đẩy công ích. Ngài nói: “Là Kitô hữu và là người Mỹ, chúng ta có nghĩa vụ đối xử với nhau bằng lòng bác ái, sự tôn trọng và văn minh, ngay cả khi chúng ta có thể không đồng tình về cách thực hiện các vấn đề chính sách công. Quốc gia được ban tặng nhiều ân huệ, vì thế chúng ta phải quan tâm đến nhiều người ở ngoài biên giới chúng ta và mong muốn hỗ trợ tất cả mọi người”.

Chủ tịch Hội đồng Giám mục kêu gọi người dân Hoa Kỳ cầu nguyện cho tổng thống đắc cử Trump và tất cả những người được bầu, để họ có thể hoàn thành trách nhiệm được trao phó. Ngài viết: "Chúng ta cùng cầu xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ, Đấng Bảo Trợ quốc gia, để Người hướng dẫn chúng ta bảo vệ công ích của tất cả mọi người và thúc đẩy nhân phẩm, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất, gồm cả trẻ em chưa chào đời, người nghèo, người nước ngoài, người già và người ốm yếu, và người di cư”.

Về phần Tổng Giám Mục Washington, trong một tuyên bố được đưa ra sau cuộc bầu cử tống thống, ngày 06/11/2024, Đức Hồng Y Wilton Gregory viết: “Hôm nay, khi đất nước chúng ta đang chuẩn bị thực hiện một hướng đi mới trong việc điều hành, điều rất quan trọng cho mỗi người trong chúng ta là phải nhớ rằng, với tư cách là những người có đức tin và thiện chí, chúng ta được kêu gọi cùng nhau làm việc tìm kiếm sự thật, công bằng và bình an trong gia đình, cộng đoàn và quốc gia của chúng ta”.

Tổng Giám Mục Washington nhận xét, với kết quả bầu cử ở các cấp, một số người thở phào nhẹ nhõm, nhưng cũng có một số lo lắng về tương lai phía trước. Theo ngài, “con đường phía trước của chúng ta nằm ở sự tôn trọng lẫn nhau và phẩm giá do Chúa ban tặng mà chúng ta chia sẻ, được trao tặng một cách tự do với lời cầu nguyện, sự kiên nhẫn, lòng tốt và hy vọng”.


Các giám mục Hoa Kỳ sẽ nói gì vào Ngày nhậm chức này?

Ed. Condon của The Pillar, ngày 7 tháng 11 năm 2024, cho rằng với việc Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào tháng 1, các giám mục Hoa Kỳ sẽ một lần nữa hiệu chỉnh lại kỳ vọng và cách tiếp cận của họ đối với một chính quyền mới.
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, Tổng giám mục Timothy Broglio, đã đưa ra tuyên bố ban đầu về kết quả, nói rằng "các giám mục mong muốn được làm việc với các đại diện được bầu của người dân để thúc đẩy lợi ích chung của tất cả mọi người", và sau đó là một tuyên bố ngắn gọn với Vatican News đưa ra một số suy nghĩ ngắn gọn về chuyện công việc của các giám mục thực sự sẽ hệ ở chỗ nào.

Phản ứng ngoại giao của Broglio đối với kết quả này có phần trái ngược với hơn bốn năm trước, khi chủ tịch hội đồng khi đó là Tổng giám mục Jose Gomez của Los Angeles, đã đưa ra tuyên bố vào sáng ngày nhậm chức của Tổng thống Joe Biden, cảnh cáo rằng chương trình nghị sự của chính quyền mới sẽ thúc đẩy "tệ nạn đạo đức" trên nhiều mặt trận.

Việc đánh giá với những lời thẳng thắn đó đã gây ra sự phản kháng đáng kể trong Giáo hội — Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa thánh đã cố gắng kìm nén nó trước khi nó có thể được công bố, và Hồng Y Blase Cupich của Chicago đã dẫn đầu một nhóm giám mục phản đối "tuyên bố thiếu cân nhắc" và cho biết ngài có cảm thức "những thất bại định chế nội bộ" đã khiến có tuyên bố này.

Nhưng với một số khía cạnh trong cương lĩnh của Trump được thiết lập khiến chính quyền bất đồng với các giám mục, liệu tuyên bố của Broglio vào thứ Tư có báo trước một giọng điệu mới, ôn hòa hơn từ các giám mục không?

Hay những cuộc trao đổi gay gắt trong tương lai từ và giữa các giám mục là điều không thể tránh khỏi khi chính phủ mới bắt đầu hoạt động?

Rất nhiều thứ đã thay đổi trong bốn năm và có một số điểm khác biệt chính giữa tháng 1 năm 2021 và năm 2025 khiến ít nhất một số thay đổi về giọng điệu từ các giám mục có khả năng xảy ra.

Điều đầu tiên và rõ ràng nhất là, không giống như Joe Biden, Donald Trump không phải là người Công Giáo, vì vậy các giám mục Hoa Kỳ không phải đối mặt với chính tình huống "độc đáo" mà Đức Tổng Giám Mục Gomez xác định là phải đối phó với một tổng thống đã vận động cho các chính sách rõ ràng trái ngược với các giáo lý đạo đức cơ bản của Giáo hội và cả đức tin Công Giáo bản thân của ông.

Mặc dù vậy, có rất nhiều điều trong cương lĩnh mà với nó, Donald Trump đã tranh cử để thu hút sự phản đối có nguyên tắc và mối quan tâm mục vụ của các giám mục — nếu họ có xu hướng chia sẻ chúng.

Các giám mục, với tư cách là một nhóm, đã kiên trì với việc coi phá thai là mối quan tâm xã hội hàng đầu đối với người Công Giáo Hoa Kỳ.

Và trong khi có những lập luận được đưa ra, như ngay cả Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gợi ý, rằng về vấn đề này, Donald Trump đại diện cho sự lựa chọn của một "cái ác ít hơn" giữa hai ứng cử viên trong cuộc bầu cử, thì thực tế vẫn là chính quyền mới đã cam kết bảo vệ quyền tiếp cận phá thai hợp pháp ở cấp tiểu bang.

Việc so sánh lập trường của Trump với một chính quyền Harris giả định là một hành động hợp lý trước cuộc bầu cử, nhưng giờ đây khi ông đã sẵn sàng cho nhiệm kỳ thứ hai, nhiều người Công Giáo sẽ theo dõi để xem các giám mục lên tiếng mạnh mẽ như thế nào — theo cá nhân và theo một hội đồng — về cam kết của tổng thống tái đắc cử trong việc cho phép "phá thai ở nơi mà mọi người đều mong muốn theo quan điểm pháp lý".

Và mặc dù Trump không phải là người Công Giáo, nhưng phó tổng thống mới của ông, JD Vance, là người Công Giáo — công khai là người Công Giáo. Và cựu thượng nghị sĩ đến từ Ohio đã lên tiếng ủng hộ các biện pháp bảo vệ pháp lý để tiếp cận thuốc phá thai mifepristone, theo Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, là nguyên nhân thực sự gây ra "hơn một nửa số ca phá thai ở Hoa Kỳ".

Vance đã nói vào tháng 8 rằng "Chỉ vì Giáo Hội Công Giáo dạy điều gì đó, không có nghĩa là bạn với tư cách là một nhà lập pháp nhất thiết phải tác động [sic] điều đó đến chính sách công".

Đó là một lập trường mà nhiều giám mục Hoa Kỳ đã phản đối gay gắt trong các chu kỳ bầu cử gần đây. Thật vậy, trong thông điệp Ngày nhậm chức của mình cách đây bốn năm, khi đó là chủ tịch hội đồng, Tổng giám mục Gomez đã lưu ý một cách rõ ràng rằng "trước hết chúng ta là người Công Giáo, chỉ tìm cách trung thành noi theo Chúa Giêsu Kitô và thúc đẩy tầm nhìn của Người về tình huynh đệ và cộng đồng nhân loại".

Và, trong khi các vấn đề phá thai và sự sống có thể "nổi bật" trong phép tính chính trị tập thể của các giám mục, điều đó không có nghĩa là không có vấn đề nào khác đáp ứng hoặc đáng để họ chú ý.

Trong chính quyền Trump trước đây, các giám mục, cá nhân và với tư cách là một nhóm, thường phản đối chính quyền về các vấn đề như áp dụng án tử hình và nhập cư.

Nền tảng mà Trump và Vance được bầu lên đã tuyên bố rằng "chúng ta phải trục xuất hàng triệu người di cư bất hợp pháp [sic]" hiện đang ở trong nước — và viễn cảnh trục xuất hàng loạt, chưa kể đến các vụ bắt giữ và giam giữ cần phải xảy ra trước đó, chắc chắn sẽ khiến các giám mục lo ngại nghiêm trọng.

Hiện tại, hội đồng giám mục đã áp dụng một giọng điệu được nghiên cứu và rõ ràng là phi chính trị.

Trong tuyên bố được Broglio đưa ra vào thứ Tư, tổng giám mục đã chúc mừng Trump về cuộc bầu cử của ông trong khi lưu ý rằng "Giáo Hội Công Giáo không liên kết với bất cứ đảng phái chính trị nào, và hội đồng giám mục cũng vậy.”

“Bất kể ai chiếm giữ Nhà Trắng hay nắm giữ đa số tại Đồi Capitol, thì giáo lý của Giáo hội vẫn không thay đổi, và chúng tôi, những giám mục, mong muốn được làm việc với các đại diện được bầu của nhân dân để thúc đẩy lợi ích chung của tất cả mọi người,” Broglio nói.

Tổng giám mục kết thúc thông điệp của mình bằng một lời cầu nguyện và một lời thỉnh cầu cho “phẩm giá của con người, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta, bao gồm cả trẻ chưa sinh, người nghèo, người lạ, người già và người ốm yếu, và người di cư.”

Trong khi Broglio nhắc nhở những người Công Giáo rằng “là những Kitô hữu và là người Mỹ, chúng ta có nghĩa vụ đối xử với nhau bằng lòng bác ái, sự tôn trọng và lịch sự, ngay cả khi chúng ta có thể không đồng ý về cách thực hiện các vấn đề chính sách công,” thì không có cuộc thảo luận nào về “tệ nạn đạo đức” trong chương trình nghị sự của chính quyền — ngay cả khi nhiều vấn đề tương tự mà Gomez nêu bật vào năm 2021 cũng hiện diện trong cương lĩnh Trump 2024, mặc dù không phải tất cả đều ở cùng một mức độ.

Một số nhà bình luận có thể sẽ coi giọng điệu hòa giải của Broglio là bằng chứng cho thấy sự đồng cảm ngầm đối với đảng Cộng hòa của ban lãnh đạo hội đồng, trái ngược với đánh giá sắc sảo hơn của Gomez về Biden bốn năm trước.

Nhưng Broglio cũng là một kiểu chủ tịch hội nghị khác với Gomez, với một xuất thân khác — đã dành nhiều năm làm việc trong ngành ngoại giao của Vatican, bộ phận bị kích động nhất bởi thông điệp Ngày nhậm chức của Gomez bốn năm trước.

Và Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, ở một mức độ lớn, là một cơ quan đã thay đổi kể từ năm 2020 — sau những cuộc trao đổi gây tranh cãi và đôi khi gay gắt về các vấn đề chính trị vào năm 2021, hội đồng đã chuyển nhiều phiên họp của hội đồng sang họp kín, nhằm thúc đẩy tình anh em nhiều hơn và ít bất đồng công khai hơn.

Nhưng, khi chính quyền mới bắt đầu đưa chương trình nghị sự của mình ra khỏi trang giấy và đi vào hành động, nhiều người sẽ theo dõi để xem các giám mục chuẩn bị trực tiếp như thế nào trong việc lên án những hành động xúc phạm đến sự sống hoặc phẩm giá con người.

Câu trả lời cho câu hỏi đó có thể quyết định mức độ đồng thuận mà hội đồng có thể duy trì giữa các thành viên, hoặc liệu nó có chịu đựng một vòng chia rẽ tôn giáo mới hay không.

Chiến thắng của Trump có thể tác động ra sao đến chương trình nghị sự của các giám mục Hoa Kỳ
Những thách thức liên quan đến vấn đề nhập cư và các cơ hội bảo vệ sự sống có thể sẽ được nêu bật tại cuộc họp mùa thu sắp tới của các giám mục.

Jonathan Liedl của tạp chí National Catholic Register ngày 7 tháng 11 năm 2024, nhận định rằng khi các giám mục Hoa Kỳ họp tại Baltimore từ ngày 11 đến ngày 14 tháng 11, sẽ có một điều gì đó giống như một con voi trong phòng.

Đó là vì hội nghị mùa thu thường niên của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ sẽ diễn ra một tuần sau khi ứng cử viên đảng Cộng hòa Donald Trump giành được quyền trở lại Nhà Trắng bằng cách đánh bại Phó Tổng thống đảng Dân chủ Kamala Harris.

Và do đó, một số cuộc thảo luận và bầu cử ủy ban có liên quan chặt chẽ hơn về mặt chính trị của các giám mục, bao gồm cả những cuộc thảo luận liên quan đến vấn đề nhập cư và phá thai, có khả năng sẽ diễn ra với những thách thức và cơ hội độc đáo trong nhiệm kỳ tổng thống của Trump.

Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ đã đề cập tới chiến thắng của Trump, với chủ tịch hội đồng, Tổng giám mục Timothy Broglio, chúc mừng đảng Cộng hòa trong một tuyên bố ngày 6 tháng 11, trong đó cũng nhấn mạnh cam kết phi đảng phái của Giáo hội trong việc thúc đẩy lợi ích chung và nhu cầu đoàn kết và cầu nguyện.

Nhưng nếu quá khứ là lời mở đầu, thì kết quả bầu cử gần như chắc chắn sẽ được giải quyết thêm tại hội nghị mùa thu, đặc biệt là khi xét đến khả năng một tổng thống Hoa Kỳ mới sẽ được khuyến khích bởi ủy nhiệm của lá phiếu phổ thông và một Quốc hội ít nhất do những người Cộng hòa đồng cấp kiểm soát một phần.

Ví dụ, Tổng giám mục Broglio hoặc một nhân vật lãnh đạo khác có thể đưa ra thêm bình luận về những thách thức đối với các cam kết của Công Giáo do Trump đưa ra, người đã vận động tranh cử bằng lời hứa gây tranh cãi về việc trục xuất hàng loạt những người nhập cư bất hợp pháp vào nước này.

Khi đó, chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ là Tổng giám mục José Gomez đã làm điều gì đó theo hướng này trong hội nghị trực tuyến vào tháng 11 năm 2020, khi ngài nêu lên mối lo ngại về việc có một tổng thống Công Giáo là Joe Biden, người vẫn đi chệch khỏi giáo lý cơ bản của Giáo hội về phá thai, hôn nhân và giới tính.

Và vào năm 2016, Giám mục Eusebio Elizondo, khi đó là người đứng đầu ủy ban di trú của các giám mục, đã nhấn mạnh cam kết của hội nghị đối với người di cư và người tị nạn sau khi Trump đắc cử nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của mình.

Trong cả hai năm, Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ cũng đã thành lập các "nhóm làm việc" liên quan đến mối quan tâm của họ đối với những người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, điều này có thể được lặp lại một lần nữa trong năm nay.

Thảo luận về 'Nhân phẩm'

Ngoài ra, một số mục trong chương trình nghị sự dự kiến cho hội nghị năm 2024 có thể sẽ có hình thức khác với Trump theo chủ nghĩa dân túy bảo thủ, chứ không phải Harris theo chủ nghĩa hoàn cầu tiến bộ, tại Phòng Bầu dục.

Kenneth Craycraft, một nhà thần học đạo đức tại Chủng viện và Trường Thần học Mount St. Mary ở Cincinnati, lưu ý rằng việc các giám mục đã lên kế hoạch thực hiện Dignitas Infinita, tuyên bố gần đây của Bộ Giáo lý Đức tin về phẩm giá con người, có thể được áp dụng theo những cách phù hợp với thời điểm chính trị hiện tại.

“Không có gì quan trọng hơn, đặc biệt là sau cuộc bầu cử, là việc khẳng định lại phẩm giá hữu thể học của mỗi con người, được tạo ra theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa”, Craycraft nói với Register.

Đặc biệt, với việc JD Vance, một người theo chủ nghĩa dân túy Công Giáo, sắp trở thành phó tổng thống của Trump, Craycraft cho biết “đã đến lúc” các giám mục Hoa Kỳ kêu gọi “chính sách ủng hộ sinh đẻ, ủng hộ trẻ em mạnh mẽ hơn”, chẳng hạn như sinh nở miễn phí, trong việc áp dụng Dignitas Infinita của họ. Nhà thần học đạo đức này coi cách tiếp cận này phù hợp với tầm nhìn ủng hộ sự sống tích cực hơn là chỉ hạn chế phá thai.

Đồng thời, với việc Trump (và Vance) nhậm chức, Craycraft thấy các giám mục cần tái khẳng định cam kết của mình đối với việc cải cách nhập cư thận trọng và từ thiện.

“Đây là cơ hội để các giám mục cân bằng lòng trắc ẩn đối với người nhập cư với việc chăm sóc lợi ích chung của Hoa Kỳ với tư cách là quốc gia tiếp nhận”, ông nói.

Ông cũng nói thêm rằng mặc dù lời lẽ của Vance về vấn đề nhập cư, bao gồm cả việc lặp lại những tuyên bố chưa được chứng minh rằng những người nhập cư Haiti ở Springfield, Ohio, đã ăn thịt thú cưng, "là kém", nhưng sự hiện diện của người trở lại Công Giáo này trong chính quyền của Trump có thể mang đến cho Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ cơ hội "trở thành tiếng nói hàng đầu" về vấn đề này.

Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ cũng sẽ phải đối diện với sự mới lạ của một chính quyền Cộng hòa thực sự ủng hộ quyền phá thai. Trước thềm cuộc bầu cử năm nay, Trump đã chỉ ra rằng ông sẽ không ủng hộ bất cứ nỗ lực nào nhằm hạn chế phá thai ở cấp liên bang, trong khi vẫn ủng hộ hoàn toàn phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.

Vance cũng đã chùn bước trong lĩnh vực này, khi nói rằng ông ủng hộ việc tiếp cận hợp pháp với thuốc phá thai, điều này khiến một số người đặt câu hỏi liệu các giám mục có đưa "sự nhất quán Thánh Thể" trở thành trọng tâm một lần nữa hay không, như họ đã làm khi Biden ủng hộ phá thai lên nắm quyền.

Về vấn đề “lý thuyết giới tính”, Charles Camosy, một nhà đạo đức sinh học tại trường y khoa của Đại học Creighton, dự đoán rằng các giám mục lo ngại về việc áp dụng lý thuyết này tại các bệnh viện Công Giáo và các tổ chức khác “có thể còn tự tin khi nêu vấn đề này ra,” vì sự phản đối tập trung của Trump đối với cái gọi là “phẫu thuật khẳng định giới tính” dường như đã hỗ trợ cho chiến thắng trong cuộc bầu cử của ông.

Tác động lên cuộc bầu cử ủy ban?

Một lĩnh vực khác mà chiến thắng của Trump có thể tác động là cuộc bầu cử chủ tịch ủy ban Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, đặc biệt là các ủy ban giải quyết các vấn đề chính trị và xã hội.

Ví dụ, những phẩm chất mà các giám mục có thể tìm kiếm khi họ bầu một người đứng đầu mới của ủy ban di trú có thể trông sẽ khác khi Trump sắp nhậm chức.

Cuộc bầu cử đó có sự tham gia của Giám mục Brendan Cahill của Victoria, Texas và Giám mục Joseph Tyson của Yakima, Washington. Giám mục Tyson hiện là thành viên của ủy ban di trú và đã thúc đẩy mục vụ cho những người nông dân di cư trong giáo phận của mình, trong khi Giám mục Cahill đã đến thăm biên giới Hoa Kỳ-Mexico và là thành viên của hội đồng giám mục tiểu bang đã phản đối chính quyền Texas đàn áp viện trợ cho người di cư.

Các lựa chọn chủ tịch ủy ban khác có thể bị ảnh hưởng tương tự bởi nhiệm kỳ tổng thống sắp tới của Trump bao gồm cuộc bầu cử người đứng đầu Ủy ban Công lý trong nước và Phát triển con người, có sự tham gia của Tổng giám mục Shelton Fabre của Louisville, Kentucky và Giám mục Kevin Sweeney của Paterson, New Jersey, cũng như cuộc bầu cử chủ tịch tiếp theo của Ủy ban Giáo dân, Hôn nhân, Đời sống gia đình và Thanh niên, một sự lựa chọn giữa Giám mục Edward Burns của Dallas và Giám mục James Conley của Lincoln, Nebraska.

Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ cũng xác minh rằng, theo điều lệ của mình, các ứng cử viên thay thế cho chức chủ tịch cũng có thể được đề cử trước hoặc trong cuộc họp, nếu họ nhận được đề cử và được năm giám mục tham gia khác ủng hộ.

Thay đổi ưu tiên
Michael Heinlein, người viết tiểu sử của cố Hồng Y Francis George của Chicago, lưu ý rằng trong khi cuộc bầu cử của Trump có thể "thay đổi trọng tâm hoặc ưu tiên" đối với Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, thì phản ứng như vậy đối với một tổng thống mới không phải là điều bất thường.
“Các giám mục sẽ tìm thấy những điểm hội tụ và bất đồng với chính phủ Trump thứ hai, giống như họ đã làm với Biden hoặc bất cứ chính phủ nào khác — vì đức tin không được định nghĩa bởi bất cứ bên nào của sự chia rẽ chính trị, mà bởi điều gì là sự thật”, ông nói.

Các vấn đề chính trị sẽ không phải là thứ tự công việc duy nhất ở Baltimore vào tuần tới. Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ cũng sẽ bầu một thủ quỹ mới và phê duyệt ngân sách năm 2025 của họ; thảo luận về việc thực hiện thông điệp của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về việc chăm sóc tạo vật và một chức vụ mới được thành lập cho các giáo lý viên; và xem xét việc phong thánh cho hai phụ nữ Mỹ.
Stephen White, giám đốc điều hành của The Catholic Project, một sáng kiến tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ thúc đẩy sự hợp tác giữa giáo sĩ và giáo dân, đã mô tả chương trình nghị sự chung của hội đồng mùa thu là ít “hào nhoáng” hơn theo quan điểm tạo tin tức và tập trung hơn vào công việc thông thường của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ.

Nhưng ông cũng sẽ chú ý đến bất cứ dấu hiệu nào về hướng đi mà sự tham gia chính trị của các giám mục sẽ diễn ra sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của Hoa Kỳ kể từ sau vụ Roe kiện Wade năm 2022.

White cho biết, "Sẽ rất đáng lưu ý khi xem họ quyết định sẽ nói gì, nếu có, về tình hình chính trị của chúng ta, trên phương diện cá nhân hoặc tập thể."

“Donald Trump và James David Vance trở thành các nhà lãnh đạo của kỷ nguyên công giáo mới ở Mỹ”

Một ngày sau chiến thắng của Donald Trump trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, giáo sư Massimo Faggioli giải thích sự đột phá phiếu bầu của cử tri công giáo trong kết quả các cuộc thăm dò, cho thấy đạo công giáo ở Mỹ đã chuyển sang chủ nghĩa truyền thống dân tộc đầy đe dọa như thế nào.

Khẩu hiệu “Làm cho nước Mỹ cầu nguyện lại” được trưng bày ở Hội nghị truyền thông Kitô giáo của Hiệp hội Truyền thông Tôn giáo Quốc gia năm 2024 tại Nashville, Tennessee, nơi chờ đón cựu Tổng thống, ứng cử viên Đảng Cộng hòa Donald Trump ngày 22 tháng 2 năm 2024. Seth Herald / REUTERS

Chiến thắng của Tổng thống Donald Trump năm 2024 đã chôn vùi di sản của Tổng thống Joe Biden, sự rút lui của người công giáo cấp tiến về khuôn viên trường đại học của họ, về các tạp chí trí tuệ và bong bóng truyền thông xã hội. Chiến thắng của Trump đã đưa Phó Tổng thống trẻ tuổi J. D. Vance lên sân khấu thế giới, một triệu phú 40 tuổi trở lại đạo công giáo năm 2019, theo chủ nghĩa truyền thống được các nhân vật khổng lồ của chủ nghĩa tự do công nghệ ở Thung lũng Silicon ủng hộ: một kết hợp giữa Charles Maurras và Elon Musk.

Cuộc bầu cử này kết thúc theo phong cách của văn hào Anh Shakespeare, sử thi về hai người công giáo đứng đầu Đảng Dân chủ: Tổng thống Joe Biden và cựu Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi, người đã thuyết phục ông rời khỏi cuộc tranh cử mùa hè năm 2024. Việc Tổng thống Trump trở lại chính trường cho thấy sự phục tùng của nhiều giám mục Mỹ trước các chuyện chính trị mang tính đảng phái về “các cuộc chiến tranh văn hóa”, khuyến khích các nhà tài chính lớn đánh đồng đạo công giáo thể chế với hệ thống guồng máy cai trị Hoa Kỳ.

Sự thay đổi trong cuộc bỏ phiếu của người công giáo

Nhưng việc Tổng thống Trump tái đắc cử không chỉ là câu chuyện của giới tinh hoa. Đó cũng là lịch sử của người công giáo. Một thăm dò gần đây cho thấy phần lớn 56% người công giáo đã bỏ phiếu cho Donald Trump, so với 41% cho Kamala Harris. Năm 2020, Joe Biden suýt giành được phiếu của người công giáo (52% so với 47%). Trump và Vance đã đầu tư vào cuộc bỏ phiếu tôn giáo và công giáo, và đã làm được điều này mà không có quan điểm trực tiếp về vấn đề phá thai. Cả hai đảng chính trị hiện nay đều có quan điểm ủng hộ quyền lựa chọn, nhưng theo những cách khác nhau. Tính phi đạo đức đáng tự hào của Trump đã giúp các cử tri tôn giáo vượt qua điểm này: trong nhiều trường hợp, họ bỏ phiếu cho ông trong khi vẫn duy trì sự ủng hộ quyền phá thai.

Bà Harris và ông Walz đã thất bại trong việc thu hút cơ sở bầu cử, họ có những nỗ lực dàn dựng một cách bề ngoài. Do quyết định năm 2022 của Tòa án Tối cao cho phép hạn chế phá thai, Đảng Dân chủ ủng hộ các vấn đề phá thai và giới tính. Một sự cực đoan hóa, nếu nói đến giới tinh hoa trí thức và học thuật, họ sẽ bị các cử tri không ủng hộ. Như nhà văn kitô giáo người Anh G. K. Chesterton đã nói, nước Mỹ vẫn là “một quốc gia có linh hồn của một Giáo hội”.

Tái định nghĩa đạo công giáo Hoa Kỳ

Không rõ sẽ như thế nào và bằng cách nào Trump và Vance sẽ thực hiện lời đe dọa của họ với nhiều người công giáo (trục xuất 12 triệu người). Các khu vực được Giáo hội công giáo tài trợ sẽ tiếp tục có được ảnh hưởng sau nhiệm kỳ đầu tiên của Trump: sau khi giành được đa số tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, mục tiêu là khôi phục các thông tin xác thực của cánh hữu công giáo ở Mỹ – trong đó tính từ “người Mỹ” đóng góp phần lớn để xác định lại khái niệm “công giáo”.

Chỉ trong tám năm, người công giáo cấp cao nhất đã đi từ đạo công giáo Mỹ tự do theo Vatican II của Joe Biden sang chủ nghĩa truyền thống dân tộc của Phó Tổng thống Vance, loa phóng thanh của Tổng thống Trump trong việc truyền bá những lời dối trá tuyên truyền theo chủ nghĩa bản địa (từ ngữ căm thù người Haiti, người nhập cư, nhưng đó chỉ là một ví dụ). Chúng ta sẽ xem các giám mục công giáo sẽ phản ứng thế nào sau khi cố gắng tước quyền rước lễ của Joe Biden năm 2020-2021 vì lập trường ủng hộ sự lựa chọn của ông – trước khi bị Vatican can thiệp.

Đạo công giáo ở Hoa Kỳ tiêu biểu cho văn hóa Mỹ hiện tại. Câu hỏi quan trọng đối với tất cả người công giáo, không chỉ ở Hoa Kỳ, là đạo công giáo Mỹ có điểm gì chung với đạo công giáo được tin và được giữ ở các nơi khác. Hay chỉ là một hiện tượng được hướng dẫn bởi một chủ nghĩa bảo thủ của miền đất bị cháy không. Đây không chỉ là vấn đề của công giáo. Liên minh của Trump có nghĩa là rất ít cộng đồng tôn giáo và nhóm nhân khẩu học không bị ảnh hưởng theo một cách nào đó. Nhưng Trump và Vance đã thành công trong việc khai thác cuộc bỏ phiếu tôn giáo và công giáo theo cách buộc cộng đồng kitô giáo phải đáp trả tương ứng.

Theo bước chân đạo tin lành của những năm 1970

Một số người nói rằng một quốc gia có xu hướng phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính và bài ngoại đã rơi vào ách thống trị của chính sách mị dân. Đây là một phần sự thật, nhưng còn nhiều điều hơn thế nữa, đặc biệt với đạo công giáo. Những gì chúng ta đã chứng kiến trong những thập kỷ gần đây là sự suy sụp về mặt trí tuệ diễn ra theo dấu chân của đạo tin lành trong những năm 1970 và 1980. Đây là một phần của quá trình hậu Âu hóa tôn giáo ở Mỹ, làm cho tôn giáo ở Mỹ ngày càng ít có khả năng đương đầu với các giá trị Khai sáng, thế tục hóa và chủ nghĩa đa văn hóa. Đây là một trong những tác động của “sự giải mã văn hóa”, như tác giả Olivier Roy đã trình bày trong tác phẩm gần đây của ông.

Đạo công giáo Mỹ gần gũi với đạo tin lành, không chỉ đạo tin lành của người da trắng. Điều này thể hiện rõ trong hành vi chính trị của các cử tri gốc Latinh, cả công giáo và tin lành, những người đang rời bỏ Đảng Dân chủ bất chấp mọi tấn công dữ dội của Tổng thống Trump nhằm vào người nhập cư. “Đó là kinh tế, đồ ngu,” nhưng đó cũng là một quan điểm khác về chính trị và lãnh đạo chính trị. Nhiều đảng viên Đảng Dân chủ cho rằng, dựa trên chủng tộc, “một nước Mỹ ít da trắng hơn và đa dạng hơn” có nghĩa là một nước Mỹ tiến bộ hơn: giả định này đã bị bác bỏ dứt khoát trong các cuộc bầu cử này. Sự đa dạng về văn hóa và sắc tộc của đạo công giáo Hoa Kỳ không có nghĩa là họ tự nhiên bỏ phiếu cho đảng “công bằng, đa dạng và hòa nhập”.

Cuộc bầu cử năm 2024 đánh dấu một bước ngoặt đã được nhìn thấy từ lâu trong đạo công giáo ở Mỹ: ngày càng có ít người công giáo ở Hoa Kỳ giống Kennedy, Biden và Pelosi. Đó là sự rạn nứt thế hệ báo hiệu một sự rạn nứt sâu sắc hơn trong truyền thống của người công giáo trong nền chính trị Hoa Kỳ. Nhưng đó cũng là một sự phá vỡ văn hóa. Biden trở thành nhà lãnh đạo công giáo cuối cùng trong một Giáo hội Hoa Kỳ được hình thành từ Thế chiến II và công đồng Vatican II. Trump và Vance là những người đầu tiên của một kỷ nguyên mới, cũng trong đạo công giáo Hoa Kỳ.


Đến thăm nghĩa trang vào tháng các linh hồn? Sau đây là một số khuyến nghị

Như một phần của việc tưởng nhớ những người đã khuất vào ngày 2 tháng 11 — theo truyền thống được gọi là Ngày của người chết ở các quốc gia như Mexico và trong tháng 11 mọi người thường đến nghĩa trang để dành thời gian bên mộ người thân yêu của mình.

Ở Mexico, các gia đình thường đến thăm mộ người thân để lau dọn, thắp nến và mang theo đồ ăn, đồ uống và các vật dụng mà người đã khuất đã từng thưởng thức khi còn sống. Nhiều người cũng mang theo hoa và trong một số trường hợp, thậm chí thuê cả nhạc công để tưởng nhớ người đã khuất.

Cha Vicente Eliamar Vega Carrales, nhà lãnh đạo mục vụ sự sống của Giáo phận Saltillo thuộc tiểu bang Coahuila của Mexico, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với ACI Prensa, đối tác tin tức tiếng Tây Ban Nha của CNA, rằng những ngày này “cầu nguyện cho những người trung thành đã khuất” là điều quan trọng nhất.

Cha Vega nhấn mạnh giá trị của việc viếng thăm nơi an nghỉ cuối cùng của những người thân yêu, vì “nó giúp chúng ta suy ngẫm về cái chết của chính mình” và vì “nó có thể giúp chúng ta cầu nguyện tha thiết hơn cho những tín hữu đã khuất”.

Vào Ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn, vị linh mục đặc biệt khuyến khích việc dâng Thánh lễ, cầu nguyện, lần hạt Mân Côi, hy sinh, bố thí và làm việc thiện để cầu cho “các linh hồn người thân yêu của chúng ta và tất cả các linh hồn nơi luyện ngục”.

Ngài chỉ ra rằng, “đây chính là điều đích thực của Kitô giáo và mang lại lợi ích thực sự cho những người đã khuất”.

Vị linh mục cũng lưu ý rằng ơn toàn xá có thể được ban cho linh hồn người thân, thành viên gia đình hoặc bạn bè.

Laura Vanessa Villafán Velázquez, một nhà tâm lý học tư vấn tại Trung tâm Lắng nghe tọa lạc tại Quảng trường Mariana của Vương cung thánh đường Guadalupe ở Thành phố Mexico, đã chia sẻ trên cơ quan truyền thông hàng tuần Desde la Fe (Theo quan điểm đức tin) của Tổng giáo phận Mexico rằng truyền thống viếng mộ người đã khuất “cho phép chúng ta chịu đựng nỗi đau mất mát dễ dàng hơn, thậm chí có thể thích nghi với nó”.

Bà lưu ý rằng truyền thống này mang đến “thời gian để kết nối với đời sống tâm linh và cầu nguyện”.

Chuyên gia khẳng định rằng “việc tiếp tục đến thăm người đã khuất tại phần mộ của họ là điều lành mạnh”, vì hoạt động này “cho phép chúng ta hiểu về cái chết, những mất mát của mình và mang lại một ý nghĩa khác cho cuộc sống của chúng ta”.

Cuối cùng, Villafán chỉ ra rằng tang lễ là một quá trình thay đổi tùy theo từng mất mát và việc dựa vào các lễ tưởng niệm như Ngày của người chết “là những hành động mà với tư cách là người để tang, sẽ giúp chúng ta lưu giữ ký ức về người đã khuất mãi mãi và theo một cách khác, mà không đau đớn”.



Bế mạc năm kỷ niệm 1.700 năm Đền thờ thánh Gioan Laterano


Lúc 5 giờ 30 chiều thứ Bảy, ngày 09 tháng Mười Một tới đây, lễ cung hiến Đền thờ thánh Gioan Laterano, Đức Hồng y tân cử Baldo Reina, Giám quản Giáo phận Roma, sẽ chủ sự thánh lễ trọng thể để bế mạc năm kỷ niệm 1.700 năm cung hiến Đền thờ này.

Đền thờ thánh Gioan Laterano


Đức ông Marco Frisina, Ca trưởng của Ca đoàn giáo phận, sẽ linh hoạt buổi lễ với những thánh ca do Đức ông sáng tác cho dịp kỷ niệm này.

Hôm trước đó, thứ Sáu, ngày 08 tháng Mười Một này, sẽ có cuộc gặp gỡ đầu tiên trong một loạt “các cuộc lắng nghe nhà giáo”. Ban tổ chức muốn gợi lại những biến cố quan trọng nhất và những nhân vật trong 1.700 năm lịch sử của Đền thờ này.

Đền thờ thánh Gioan tại khu Laterano là thánh đường đầu tiên của Giám mục Roma, và cũng là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Roma. Thánh đường này được gọi là “Mater et Caput”, là Mẹ và là Đầu của tất cả các nhà thờ trên thế giới.

Đền thờ thánh Gioan ở Laterano cũng tượng trưng sự chiến thắng của Kitô giáo trên ngoại giáo: thực vậy, tại đây, lần đầu tiên, sau chiếu chỉ tha đạo của Hoàng đế Costantino ở Milano, một cộng đoàn Kitô được xuất đầu lộ diện, công khai cử hành đức tin. Đền thờ này tượng trưng cho chính Giáo hội, Giáo hội không loan truyền những lời riêng của mình, nhưng tiếp tục rao giảng Lời Chúa, trong lịch sử, qua tiếng nói và chứng tá của các thừa tác viên và các tín hữu.

Cũng vì tầm quan trọng này, nên lễ Cung hiến Đền thờ thánh Gioan ở Laterano này, vào ngày 09 tháng Mười Một, hằng năm được cử hành với bậc lễ kính (bậc hai), quan trọng hơn lễ Cung hiến Đền thờ thánh Phêrô và Phaolô, cử hành với bậc lễ nhớ (bậc ba), vào ngày 18 tháng Mười Một. Đền thờ thánh Phêrô được xây 13 năm sau Đền thờ thánh Gioan ở Laterano.

Trong mười thế kỷ, từ thứ tư tới thứ mười bốn, Đền thờ thánh Gioan ở Laterano, cũng như tòa nhà cạnh đấy là trung tâm của Giáo hội Roma, là trụ sở và là biểu tượng của Đức Giáo hoàng. Các nhà nguyện, đan viện, nhà trọ và khách sạn được thiết lập chung quanh trung tâm này, như là con tim của đời sống Giáo hội thời đó, giống như Vatican hiện nay.

Đền thờ thánh Gioan ở Laterano hiện nay dài 130 mét, ở mặt tiền có ghi dòng chữ: “Sacrosancta Lateranensis ecclesia omnium urbis et orbis ecclesiarum mater et caput”, có nghĩa là “Mẹ và Đầu của tất cả các nhà thờ ở Roma và trên thế giới.”

Ở giữa mặt tiền đền thờ, có ban công chính, các vị Giáo hoàng thường ban phép lành cho dân chúng trong dịp Năm Thánh. Cũng tại đây, Đức Hồng y Gasparri, nhân danh Đức Piô XI, ký hiệp định Laterano với Italia, thành lập nước Vatican vào năm 1929, tái lập sự độc lập pháp lý và lãnh thổ của Tòa Thánh. Từ lúc đó, vị Giáo hoàng mới long trọng nhận Đền thờ, Nhà thờ chính tòa của mình, trong tư cách là Giám mục Roma.


 Tóm lược: Văn kiện Chung kết của Đại Hội XVI Thượng Hội Đồng Giám Mục về Hiệp Hành

🌍 Từ phiên họp thứ hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra vào tháng 10 năm 2024, chúng ta đã lắng nghe những tiếng vọng của niềm vui và nỗi đau của thế giới: những khuôn mặt trẻ thơ sợ hãi, những bà mẹ rơi nước mắt, những giấc mơ tan vỡ… Hành trình hiệp hành không chỉ là lý thuyết mà là những bước chân lên đường, cùng nhau tiến về phía trước, xây dựng một Giáo hội sống động và gần gũi hơn với mọi người.

✝️ Giữa những đụng chạm của cuộc sống, Đức Kitô mời gọi chúng ta cùng nhau bước tới, lắng nghe và thực hiện sứ vụ của mình trong tình hiệp nhất. Những người tham dự Thượng Hội Đồng đã cam kết trở thành sứ giả của tính hiệp hành trong chính cộng đoàn mà họ phục vụ. Họ đã đối diện với thách thức từ việc thay đổi tâm thức đến các công việc cụ thể như đào tạo, truyền thông và đổi mới cơ cấu, nhưng vẫn không ngừng vun trồng lòng thương xót và sự cảm thông.

🤲 Hãy cùng chúng tôi lắng nghe tiếng gọi của niềm vui và hy vọng trong cuộc gặp gỡ giữa các môn đệ với Chúa Kitô Phục Sinh, để mỗi chúng ta đều góp phần vào một Giáo hội hiệp hành truyền giáo.

🌾 Truyền giáo không chỉ là giảng đạo, lại càng không phải dụ ai vào đạo! Văn kiện Chung kết của Thượng Hội Đồng là nhịp cầu kết nối trái tim chúng ta với thế giới – một thế giới đang chờ đợi những dấu chân hiệp hành, nơi Giáo hội không chỉ là lý tưởng mà còn là người bạn đồng hành giữa đời sống, cùng chia sẻ niềm vui và khổ đau của con người.


Đức Hồng Y OMalley: Giáo Hội thừa nhận thiệt hại do lạm dụng nhưng độc thân không phải là nguyên nhân

Đức Hồng Y Seán O'Malley, Tổng giám mục Boston và là chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên, nhấn mạnh rằng “độc thân không phải là nguyên nhân gây ra nạn ấu dâm” nhưng nhấn mạnh nhu cầu cần có nhiều cải cách hơn nữa trong Giáo hội để áp dụng đường lối lấy nạn nhân làm trung tâm nhằm bảo vệ trẻ em tốt hơn.

Sau khi Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên công bố báo cáo thường niên đầu tiên về bảo vệ trẻ vị thành niên vào thứ Ba, Đức Hồng Y O'Malley tuyên bố rằng ngài “chưa bao giờ thấy bất kỳ nghiên cứu nghiêm chỉnh nào chỉ ra rằng độc thân và lạm dụng tình dục có liên quan”.

“Đúng vậy, chúng tôi nhận thức được thiệt hại to lớn mà tội lỗi lạm dụng tính dục đã gây ra cho uy tín của Giáo hội và khả năng của chúng ta trong việc lên tiếng nói tiên tri trong xã hội,” Đức Hồng Y cho biết như trên khi trả lời câu hỏi của một nhà báo về “mối liên hệ tiềm ẩn giữa việc độc thân và lạm dụng tình dục” tại cuộc họp báo ngày 29 tháng 10.

“Và điều đó chỉ nhấn mạnh thêm tính cấp thiết của Giáo hội trong việc cải cách chính mình để chúng ta có thể tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô và trở thành dấu chỉ tình yêu của Người. Và vương quốc của Thiên Chúa là về công lý và sự thật, và đây là những giá trị cốt lõi mà chúng ta đang nói đến ở đây,” ngài nói thêm.

Các thống kê đều cho thấy tình trạng lạm dụng tính dục phổ biến nhất là trong bối cảnh gia đình, nơi rõ ràng các thủ phạm không phải là những người độc thân. Khó khăn của Giáo Hội là có nhiều Giám Mục cấp tiến muốn đảo chính luật độc thân linh mục. Để đạt được chương trình nghị sự của mình, họ đã gán ghép một liên hệ nhân quả giữa luật độc thân linh mục và tội lỗi lạm dụng tính dục. Tiến Trình Công Nghị Đức là một ví dụ. Hậu quả là trong xã hội tồn tại một nhận thức cho rằng tội lỗi lạm dụng tính dục là một vấn đề đặc thù của hàng giáo sĩ Công Giáo, vì chỉ có chúng ta mới đề cao luật độc thân linh mục. Uy tín và thẩm quyền luân lý của Giáo Hội bị chà đạp nghiêm trọng bởi các nghị trình cấp tiến.

Maud de Boer-Buquicchio, một luật gia và luật sư quốc tế về quyền trẻ em được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm thành viên Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ trẻ vị thành niên vào năm 2022, cũng tuyên bố rằng bà không thấy bất kỳ mối liên hệ nào giữa việc độc thân và hành vi lạm dụng tình dục trẻ em.

“Tôi không thấy có mối liên hệ nào cả”, bà nói. “Quan hệ tình dục với trẻ em là một tội ác và những người thực hiện hành vi này có vấn đề, liên quan đến trạng thái tâm lý của họ”.

“Không có ngoại lệ nào cho điều này, không có lý do gì để bào chữa cho tội ác này. Trẻ em phải được tôn trọng về sự toàn vẹn của chúng — về thể chất và tinh thần. Vì vậy, dù có độc thân hay không, điều đó không quan trọng. Trẻ em phải được bảo vệ”, bà nói.

Đức Hồng Y O'Malley tuyên bố rằng mục tiêu của ủy ban giáo hoàng mà ngài đứng đầu kể từ khi thành lập vào năm 2014, là “làm mọi thứ có thể” để giải quyết tình trạng thiếu công lý và thiếu sự công nhận từ những cấp thẩm quyền trong Giáo hội.

“Nỗi đau khổ và vết thương của các bạn đã mở mắt chúng tôi ra trước sự thật rằng — với tư cách là một Giáo hội — chúng tôi đã không chăm sóc các nạn nhân, rằng chúng tôi đã không bảo vệ các bạn, và rằng chúng tôi đã không chịu hiểu các bạn khi các bạn cần chúng tôi nhất,” ngài phát biểu tại cuộc họp báo hôm thứ Ba.

“Chúng tôi hy vọng rằng báo cáo này — và những báo cáo sắp tới — được biên soạn với sự giúp đỡ của các nạn nhân và người sống sót tại trung tâm, sẽ giúp bảo đảm cam kết chắc chắn rằng những sự kiện này sẽ không bao giờ xảy ra nữa trong Giáo hội.”

Theo Đức Cha O'Malley, báo cáo bảo vệ hàng năm - nêu rõ các chính sách và thủ tục của Vatican về việc bảo vệ trẻ vị thành niên - nhằm mục đích bổ sung cho vai trò vận động của ủy ban cũng như hỗ trợ công việc của Bộ Giáo lý Đức tin.

“Công việc của Bộ Giáo Lý Đức Tin đóng vai trò trung tâm trong việc thực thi công lý trong lĩnh vực lạm dụng tình dục, và nhiệm vụ của chúng tôi là cố gắng đưa chiều kích mục vụ vào vấn đề này và tiếng nói của các nạn nhân”.

Ủy ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên kỷ niệm 10 năm thành lập vào năm nay. Hiện tại, đây là một tổ chức thường trực trong Vatican có nhiệm vụ đồng hành và hỗ trợ các mục vụ bảo vệ của Giáo hội địa phương thông qua việc đào tạo và huấn luyện.





Bốn giám mục Đức chống chủ trương lợi dụng Thượng Hội đồng Giám mục thế giới

Bốn giám mục Công giáo tại Đức chống chủ trương lợi dụng Thượng Hội đồng Giám mục thế giới mới kết thúc để hỗ trợ cho Con đường Công nghị, mà nhiều giám mục và giáo dân cấp tiến tại Đức theo đuổi để cải tổ Giáo hội, theo đường hướng đã bị Tòa Thánh cảnh giác.

image.png

Con đường Công nghị được Ủy ban trung ương giáo dân Công giáo Đức và Hội đồng Giám mục nước này đề ra từ năm 2019 để cải tổ Giáo hội sau những phúc trình về những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trong gần 70 năm qua. Cải tổ trong bốn lãnh vực, là dân chủ hóa Giáo hội để giáo dân và phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo Giáo hội, thay đổi luật độc thân giáo sĩ và luân lý tính dục của Giáo hội. Mặc dù có sự cảnh giác của Tòa Thánh chống việc thành lập Hội đồng Công nghị (Synodal Rat), trong đó giám mục và giáo dân cùng cai quản Giáo hội, nhưng ủy ban chủ trương vẫn tiếp tục tiến hành và khóa họp tới dự kiến vào tháng Mười Hai tới đây của “Ủy ban Con đường Công nghị” (Synodal Ausschuss), hầu chuẩn bị cho việc thành lập Hội đồng Công nghị và bắt đầu hoạt động vào năm 2026.

Trong thông cáo chung, công bố hôm mùng 04 tháng Mười Một, bốn giám mục đã lên tiếng về vấn đề này là: Đức Hồng y Rainer Maria Woelki, Tổng giám mục Giáo phận Koeln, Đức cha Gregor Maria Hanke, Giám mục Giáo phận Eichstaett, Đức cha Stephan Oster, Giám mục Giáo phận Passau và Đức cha Rudolf Voderholzer, Giám mục Giáo phận Regensburg. Các vị khẳng định rằng các mục đích của Con đường Công nghị Đức và của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới ‘không đi đôi với nhau’. Vấn đề độc thân linh mục và luân lý tính dục không hề được nói tới trong Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng thế giới; tình trạng vấn đề truyền chức thánh cho phụ nữ cũng không có gì mới. Vấn đề quyền bính trong Giáo hội bị Đức Giáo hoàng Phanxicô tố giác là “duy giáo sĩ”, clericalismo, và đã được trả lời trong Văn kiện chung kết bằng một “dự án chung về con đường thiêng liêng của toàn Giáo hội”.

Bốn giám mục cũng phê bình Con đường Công nghị Đức về sự kiện khóa họp gần đây nhất ở thành phố Frankfurt trái ngược với điều mà Thượng Hội đồng Giám mục ở Roma thực hiện: bốn giám mục và nhiều vị khác có cảm tưởng Con đường Công nghị có cách thức hành động giống như một nghị viện chính trị, theo tiêu chuẩn đa số quyết định, mà không theo phương pháp phân định tinh thần, như Văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục thúc giục thực hiện.



Tổng giám mục Wisconsin thúc giục thay đổi quy định cấp thị thực vì hiện nay nhiều linh mục nước ngoài buộc phải rời khỏi Hoa Kỳ

Một tổng giám mục Wisconsin đang yêu cầu chính phủ liên bang thay đổi một quy định cấp thị thực mới đã tạo ra tình trạng tồn đọng đơn xin cấp thị thực, với cảnh báo của tổng giám mục rằng quy định mới này có thể buộc các linh mục nước ngoài phải trở về nước và gây ra tình trạng thiếu hụt linh mục tại Hoa Kỳ.

Đức Tổng Giám Mục Jerome Listecki cho biết trong tuần này, chỉ riêng Tổng giáo phận Milwaukee đã có tới hai chục linh mục nhập cư và người Công Giáo ở Wisconsin có nguy cơ không có thánh lễ nếu quy định về thị thực vẫn được duy trì.

Một thay đổi năm 2023 đối với các quy tắc thị thực của Hoa Kỳ đã tạo ra tình trạng tồn đọng đơn xin thị thực khiến các linh mục không thể xin được thẻ xanh trước khi thị thực tôn giáo ban đầu của các ngài hết hạn. Tình trạng tồn đọng này xảy ra khi Bộ Ngoại giao và Bộ An ninh Nội địa tăng số lượng người nhập cư từ El Salvador, Guatemala và Honduras đang nộp đơn xin thị thực EB-4, loại thị thực đặc biệt dành cho tôn giáo.

Các quan chức Giáo Hội đã cảnh báo rằng tình trạng tồn đọng có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt linh mục đáng kể ở nước này, khi Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ tuyên bố rằng, do thay đổi quy định, những người nhập cư có thị thực tạm thời R-1 có thời hạn 5 năm có thể buộc phải trở về nhà và chờ thêm nhiều năm nữa để được cấp thị thực EB-4 vĩnh viễn.

Năm linh mục nhập cư tại Giáo phận Paterson, New Jersey, đã kiện chính phủ liên bang vào tháng 8, lập luận rằng việc chính phủ tổ chức lại quy trình cấp thị thực sẽ yêu cầu các linh mục phải trở về quốc gia của họ và sau đó khiến họ phải chịu sự chậm trễ kéo dài khi nộp lại đơn xin thị thực để phục vụ tại Hoa Kỳ.

Trong một lá thư gửi cho Thượng nghị sĩ Wisconsin Tammy Baldwin tuần này, Đức Tổng Giám Mục Listecki cảnh báo rằng những thay đổi về thị thực của chính phủ “sẽ ngăn cản tất cả các giáo phận tại Hoa Kỳ hiện đang dựa vào sự hỗ trợ của những thừa sai quốc tế” và sẽ “cản trở khả năng thực hiện sứ mệnh tôn giáo của chúng ta theo các nguyên tắc sáng lập quốc gia”.

Trong lá thư gửi hôm thứ Ba, Đức Tổng Giám Mục Listecki cho biết Tổng giáo phận Milwaukee đang cùng các Giáo phận Madison, Green Bay, LaCrosse và Superior gửi đơn kiến nghị lên chính quyền nhằm giải quyết tình trạng tồn đọng.

Đức Tổng Giám Mục cho biết “các giáo phận trên khắp Hoa Kỳ” đang gặp phải những khó khăn tương tự với chương trình thị thực.

Đức Cha Listecki cho biết hiện tại tổng giáo phận có 24 linh mục trong các giáo xứ của mình có thị thực lao động tạm thời, khiến các ngài phải chịu “sự bất ổn của luật hiện hành”.

Các linh mục không chỉ phục vụ tại các giáo xứ mà còn là tuyên úy bệnh viện, vị giám mục cho biết. Ngoài ra còn có hai chủng sinh người nước ngoài hiện đang chuẩn bị cho chức linh mục trong tổng giáo phận.

Tổng giám mục thúc giục Baldwin hành động để giải quyết những khó khăn đang rình rập, mặc dù ngài cho biết Tòa Bạch Ốc có thể hành động đơn phương để rút ngắn thời gian một chức sắc tôn giáo phải ở bên ngoài Hoa Kỳ trước khi được phép quay trở lại. Ngài cho biết giải pháp tạm thời đó có thể “mang lại sự nhẹ nhõm có ý nghĩa” cho tổng giáo phận.

“Vấn đề này ảnh hưởng đến tiểu bang và đất nước chúng ta,” vị tổng giám mục viết.

Ngài cho biết các quy định của liên bang nên được giải quyết “không chỉ vì lợi ích của những người làm việc tôn giáo và người sử dụng lao động của họ mà còn vì lợi ích của nhiều cộng đồng người Mỹ phụ thuộc vào họ cho nhiều dịch vụ tôn giáo và xã hội”.

Trong tuyên bố đưa ra hôm thứ Tư, Giáo phận Superior đồng tình với tuyên bố của tổng giám mục, cho rằng việc sửa đổi thị thực “sẽ có tác động tiêu cực đến các giáo xứ và cộng đồng địa phương của chúng tôi”.

Giáo phận Superior “đã phải vật lộn để truyền chức linh mục mới nhằm đáp ứng số lượng ngày càng tăng các linh mục nghỉ hưu và bị bệnh”, tuyên bố cho biết. Giáo phận phụ thuộc rất nhiều vào các linh mục sinh ra ở nước ngoài để lấp đầy khoảng trống.

Giáo phận cho biết họ đang yêu cầu chính quyền liên bang “giảm thời gian cần thiết ở bên ngoài Hoa Kỳ” đối với các linh mục nói trên.

Tuyên bố này cũng kêu gọi “tất cả những người có đức tin và thiện chí… hãy liên hệ với đại diện của họ về vấn đề nhập cư quan trọng này”.

Năm ngoái, ủy ban di trú của USCCB đã tham gia vào một lá thư liên tôn cảnh báo chính phủ về “những khó khăn gia tăng trong việc tuyển dụng nhân sự tại các nhà thờ, trung tâm cộng đồng, trường học, hoạt động bác ái và các địa điểm khác” phát sinh từ việc thay đổi quy định.

Bức thư yêu cầu chính phủ “làm mọi thứ trong khả năng của mình để bảo vệ quyền tiếp cận có ý nghĩa” cho những người hoạt động tôn giáo đang tìm kiếm thị thực.




Milwaukee Archbishop Jerome E. Listecki



Mễ Du: Tòa Thánh sẽ cần phải phê duyệt những cái được cho là thông điệp trong tương lai


Trong cuộc họp báo, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin đã giải thích chi tiết hơn về cách Tòa thánh sẽ làm việc đối với các sự kiện ở Mễ Du.

 

Theo lời của Đức Hồng Y Victor Manuel Fernández, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin (DDF), trong cuộc học báo ngày 19 tháng 9 năm 2024, Tòa Thánh cho phép các thực hành sùng kính liên quan đến Đền thánh Đức Mẹ Mễ Du ở Bosnia-Herzegovina. Tuy nhiên, bất kỳ “thông điệp” trong tương lai nào đến từ những cuộc hiện ra được cho là của Đức Maria đều phải được phê duyệt trước khi công bố. Các quan sát viên cho rằng quyết định này là để giám sát địa điểm vốn đã gây tranh cãi trong suốt 40 năm qua.

 

Từ những cuộc được cho là hiện ra đầu tiên với sáu đứa trẻ vào năm 1981, danh tiếng của Đền thánh Đức Mẹ Mễ Du đã lan rộng khắp thế giới và nơi này cũng phải đối diện với những ý kiến trái chiều từ hàng giáo phẩm Công giáo. Ngoài những cảnh báo từ các Giám mục địa phương thuộc Giáo phận Mostar, một ủy ban điều tra được thành lập dưới thời Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng bày tỏ sự thận trọng về tính xác thực của hiện tượng này và đời sống cá nhân của những “thị nhân.”


Mặc dù các cuộc hành hương đã được Giáo hội Công giáo chính thức cho phép vào năm 2019, Đức Thánh Cha Phanxicô không ít lần phê phán ý tưởng về Đức Maria giống như một “người đưa thư”. Một số người được cho là thị nhân từ Mễ Du nói rằng họ vẫn sẽ tiếp tục được chứng kiến các cuộc hiện ra của Đức Mẹ, thậm chí còn xảy ra hàng ngày.

 

Hiện nay, Tòa Thánh đã bật đèn xanh cho việc sùng kính “Nữ vương Hòa bình”, đánh giá các thông điệp của Mễ Du nhìn chung là “tích cực và mang tính xây dựng”, nhưng không khẳng định rằng đó là lời của Đức Trinh Nữ.

 

Tuy nhiên, DDF cũng nhấn mạnh rằng vẫn cần phải cảnh giác. Vatican không bình luận về bản chất siêu nhiên của những cuộc hiện ra được cho là của Đức Trinh Nữ Maria.

 

Tòa Thánh nói rằng ngay từ đầu “độc giả nên biết rằng bất cứ khi nào Ghi chú này đề cập đến “các thông điệp” (messages) từ Đức Mẹ, thì nó có nghĩa là “các thông điệp được cho là của Đức Mẹ (alleged messages)”.

 

Vatican cũng chỉ ra sự dè dặt đối với một số thông điệp cụ thể, kêu gọi hãy thận trọng trong việc giải thích chúng.

 

Cảnh giác cho tương lai

Đức Hồng Y Fernández nói trong cuộc họp báo trình bày ghi chú của Bộ: “Xác quyết không gì ngăn trở (nihil obstat) không giải quyết hay khép lại mọi vấn đề trong tương lai”. Chẳng hạn, ngài nhấn mạnh rằng Roma sẽ can thiệp “nếu có một vụ bê bối, hoặc một sự kiện công khai khiến các tín hữu bối rối”.



image.png

Trên thực tế, Bộ trưởng đã giải thích rằng các văn bản trong quá khứ mà vẫn chưa được công bố và bất kỳ văn bản nào trong tương lai cũng cần phải được “đánh giá” và phê duyệt bởi “Thanh Tra Tông tòa (apostolic visitor)” do Đức Thánh Cha bổ nhiệm vào năm 2018 – hiện là Tổng Giám mục Aldo Cavalli – trước khi công bố: “Trước khi được xem xét, các tín hữu được khuyến cáo không nên coi chúng là những bản văn hướng dẫn. […] Có thể có sai lầm trong các thông điệp mới”, ngài cho biết thêm.

 

Nếu Thanh Tra Tông Tòa “thấy có điều gì đáng nghi ngờ, không rõ ràng, có thể khiến các tín hữu bối rối, ngài sẽ gửi câu hỏi hoặc gọi điện cho chúng tôi và chúng tôi sẽ cố gắng trả lời […] nội trong một tuần,” Đức Hồng Y Fernández giải thích.


Thận trọng với các thị nhân

 Trả lời câu hỏi của các nhà báo, Đức Hồng Y Fernández cho biết DDF đã không liên lạc với những người được cho là có thị kiến khi soạn ghi chú này. Ngài nói rằng ngài đã gửi cho họ một “bức thư ngắn” với “một vài gợi ý”, sẽ được Thanh Tra Tông tòa truyền đạt lại cho họ và nội dung đó được giữ “bí mật”.

 

Ngài Bộ trưởng cũng tuyên bố rằng các mối quan hệ với những thị nhân là “không bị cấm” nhưng cũng không được “khuyến khích”. Ngài giải thích rằng sự thận trọng này là chính đáng để đảm bảo sự cân bằng tâm lý cho các thị nhân, những người thường bị vây quanh bởi khách hành hương.

 

Đức Hồng Y Fernández lưu ý rằng nhiều chỉ trích đã nhắm vào những người được cho là thị nhân. Họ bị buộc tội nói dối hoặc làm giàu từ việc này. Nhưng ngài nhấn mạnh rằng ngay cả khi những cuộc hiện ra thực sự có nguồn gốc thiêng liêng , thì điều này cũng không đảm bảo cho “sự thánh thiện” của các thị nhân. “Họ có thể phạm tội trọng. […] Tất cả những điều này sẽ không khiến những sự tốt đẹp của Mễ Du trở nên xấu xa hay tà ác, và Nữ vương Hòa bình sẽ tiếp tục làm điều tốt. […] [Những thị nhân] cũng yếu đuối và bị tội lỗi cám dỗ như mọi người khác.”

 

Sáu người được cho là đã nhìn thấy thị kiến ở Mễ Du “cũng phần nào bị bỏ rơi trong một hoàn cảnh vượt quá khả năng của họ,” Đức Hồng Y Fernández thừa nhận. Ngài đề cập đến nhân vật có vấn đề là vị linh hướng đầu tiên của họ, cựu tu sĩ dòng Phanxicô Tomislav Vlasic người Croatia, người bị

 

Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin nhận xét rằng các thị nhân trẻ, những người có thể đã chịu ảnh hưởng từ vị linh hướng này, đã không được hưởng lợi từ việc “đồng hành thực sự”. Tuy nhiên, ngài kêu gọi không nên hạ thấp các sự kiện ở Mễ Du vì những vấn đề này.


Khoảng cách lành mạnh

 

Đức Hồng Y Fernández cũng đồng ý rằng Mễ Du không đặt ra “vấn đề giáo lý” như những nơi khác được cho là có sự hiện ra, nhưng luôn có nguy cơ “quá cuồng tín về thông điệp.”

 

Ngài nói thêm: “Ngay cả khi Đức Mẹ ban cho bạn một thông điệp, điều đó không có nghĩa là bạn là một con rối […], bạn vẫn giữ được khả năng phân định, trách nhiệm của bạn”.

 

Đức Hồng Y người Argentina đã từng đến thăm đền thánh và nói rằng ngài cảm thấy đây là nơi “của cầu nguyện, bình an và những khát khao thay đổi cuộc sống”, cũng loại trừ khả năng Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ công nhận tính chất siêu nhiên có thể có của hiện tượng này.

 

Theo các quy định mới về việc điều tra hiện tượng siêu nhiên, chỉ có Đức Giáo hoàng mới có quyền quyết định đưa ra phán quyết về vấn đề này. “Đức Giáo hoàng đã nói rõ ràng với tôi, […] ‘không, không sao (no not at all’ và ngài cho rằng việc tuyên bố  ‘không gì ngăn trở’  đã là quá đủ rồi (absolutely sufficient),” ngài Bộ trưởng giải thích.


 

Các tu sĩ Phanxicô nổi loạn

 

Đức Hồng Y Fernández cũng khẳng định rằng việc công nhận lòng sùng kính tại Mễ Du không hợp pháp hóa nhóm “tu sĩ Phanxicô nổi loạn” đang sống tại đó, một cộng đồng đã có xung đột quyền lực với Giáo phận từ những năm 1970.

 

Tác giả:  I.Media

Thăm Đại học Gregoriana, ĐTC Phanxicô cảnh giác sự hời hợt trong đào tạo đức tin

Thăm Đại học Giáo hoàng Gregoriana ở Roma vào sáng ngày 5/11/2024, Đức Thánh Cha cảnh giác các giảng viên và sinh viên tránh trở thành “môn đệ của linh đạo Coca-Cola”, cách nói ẩn dụ ám chỉ sự tiếp cận hời hợt đối với việc đào tạo đức tin.

Đức Thánh Cha đặt câu hỏi: “Anh chị em đã tự hỏi mình đang đi đâu và tại sao lại làm những điều mình đang làm chưa?” Ngài nói tiếp: “Cần phải biết mình đang đi đâu mà không đánh mất tầm nhìn về đường chân trời kết nối con đường của mỗi người với mục đích hiện tại và cuối cùng”.

Lấy ví dụ về Thánh Phanxicô Xaviê, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến nhu cầu “trở thành những nhà truyền giáo vì tình yêu thương dành cho anh chị em mình và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa”.

Ngài thúc giục cộng đồng học thuật tránh “những giả định biến dự án của Thiên Chúa thành thứ gì đó quan liêu, cứng nhắc và thiếu sự ấm áp khi áp đặt các chương trình nghị sự và tham vọng lên trên các kế hoạch của sự quan phòng”.

Tiếp đến, Đức Thánh Cha kêu gọi đưa “trái tim” vào công tác đào tạo, cảnh báo rằng nếu không có nó, giáo dục sẽ trở thành “chủ nghĩa duy lý trí khô khan hoặc chủ nghĩa ái kỷ lệch lạc”.

Ngài kêu gọi một trường đại học có “mùi của người dân”, nơi thúc đẩy trí tưởng tượng và thể hiện tình yêu của Thiên Chúa, “Đấng luôn đi đầu trong một thế giới dường như đã đánh mất trái tim mình”.

Ngài than thở rằng “thế giới đang bốc cháy” do “sự điên rồ của chiến tranh, bao phủ mọi hy vọng bằng bóng tối của cái chết”.

Đức Thánh Cha cũng thúc giục cộng đồng học thuật “mở rộng tầm nhìn của trái tim” và tìm kiếm sự thống nhất trong sự đa dạng thông qua việc trao đổi khả năng, kêu gọi nghiên cứu sâu hơn về các truyền thống Đông phương. Ngài thúc giục tránh những ý tưởng trừu tượng nảy sinh trong các văn phòng và cổ võ “tiếp xúc với cuộc sống của người dân, biểu tượng của các nền văn hóa và tiếng kêu đau khổ của người nghèo”.

Chuyến thăm đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử của đại học Gregoriana, mới hợp nhất ba tổ chức giáo dục - Collegium Maximum, Học viện Kinh Thánh và Học viện Đông phương - theo chỉ thị của Đức Thánh Cha.

Được thành lập vào năm 1551 bởi Thánh Inhaxiô thành Loyola với tên gọi là Học viện Roma, Đại học Giáo hoàng Gregoriana hiện có 2.952 sinh viên từ 121 quốc gia đang theo học thần học, triết học, giáo luật, tâm lý học và nhân chủng học, cùng nhiều chuyên ngành khác.





Vatican phát hành loạt tem thư, bưu thiếp mới dịp Giáng Sinh năm 2024 và Năm Thánh
Lễ Giáng Sinh 2024 và việc mở Cửa Thánh Năm Thánh, các chuyến tông du của Đức Thánh Cha trong năm 2023, vv., nằm trong số những chủ đề của loạt tem thư và bưu thiếp mới đang được Văn phòng Tem thư và Tiền đồng của Vatican phát hành.

image.png

Bưu thiếp các chuyến tông du của Đức Thánh Cha trong năm 2023 

Nhân dịp Giáng Sinh năm 2024, các tem thư, tập sách nhỏ, bưu thiếp và tem có dấu bưu điện đặc biệt được Vatican phát hành. Trong sự kiện này sẽ có lễ Giáng Sinh và mở Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô nhân dịp Năm Thánh 2025; Năm Thánh sẽ kết thúc một năm sau. Do đó, các yếu tố đồ họa điển hình của Lễ Giáng Sinh được đi kèm với các yếu tố đồ họa khác gắn liền với Năm Thánh, bao gồm cả logo chính thức của Năm Thánh 2025.


Tem thư thứ nhất có giá 1,25 euro, với hình thiên thần Giáng Sinh mang theo dải chữ "Gloria a Dio e Pace in terra" (Vinh danh Thiên Chúa và Bình an dưới thế), lời thiên thần hát mừng Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, lời loan báo vui mừng về vòng tay ôm giữa trời và đất. Đó là lời cầu nguyện chân thành vang lên trong những năm gần đây từ nhiều nơi trên thế giới bị tàn phá bởi bạo lực và chiến tranh.


Tem thư thứ hai có giá 1,30 euro, có hình Chúa Giêsu nằm trong máng cỏ và dòng chữ "Spes non confundit" (Hy vọng không làm thất vọng) (Rm 5,5), đề cập đến sắc chỉ công bố Năm Thánh và khẩu hiệu của Năm Thánh Những Người Hành hương của Hy vọng.

Trọng tâm được quy chiếu vào máng cỏ, một đồ vật khiêm tốn nhưng có ý nghĩa to lớn, và như Đức Thánh Cha đã nói trong bài giảng Thánh lễ ngày 24/12/2022: “để tái khám phá ý nghĩa của Lễ Giáng sinh, chúng ta phải nhìn vào đó. Nhưng tại sao máng cỏ lại quan trọng đến thế? Bởi vì đó là dấu hiệu, không phải ngẫu nhiên, mà Chúa Kitô bước vào thế giới. Đó là mặc khải qua đó Người trình bày cách Thiên Chúa sinh ra trong lịch sử để làm cho lịch sử được tái sinh. Máng cỏ muốn nói với chúng ta ít nhất ba điều: sự gần gũi, sự nghèo khó và sự cụ thể”. Giống như Lễ Giáng Sinh, Năm Thánh cũng sẽ cống hiến cho chúng ta một cơ hội cụ thể để đổi mới đức tin và tái khám phá, nơi Chúa Kitô, niềm hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng.


Tem thư lễ Giáng Sinh

Các bưu thiếp được phát hành còn có chủ đề các chuyến tông du của Đức Thánh Cha trong năm 2023 (CHDC Congo và Nam Suđan, Hungary, Lisbon, Mông Cổ và Marseille), và một số ngày kỷ niệm khác.




Đức Thánh Cha: Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa trở lại là dấu hiệu ngôn sứ từ Chúa

Trong sứ điệp được ký bởi Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, gửi đến các giám mục Pháp đang nhóm họp Đại hội toàn thể mùa thu tại đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa Giáo hội Pháp và các Giáo hội châu Phi, đồng thời cho rằng việc Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa trở lại là dấu hiệu ngôn sứ từ Chúa.




Đầu tiên, quan tâm đến tình huynh đệ giữa các Giáo hội, Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự cần thiết hỗ trợ lẫn nhau trong các cộng đoàn Giáo hội và lưu ý đôi khi các thế lực chính trị và kinh tế áp đặt các giá trị như lòng tham, ích kỷ, thờ ơ và bóc lột; những điều này  bóp méo các quan hệ giữa các quốc gia và dân tộc.

Tuy nhiên, ngài bày tỏ hy vọng mối quan hệ giữa Giáo hội Pháp và các giáo hội châu Phi có thể được truyền cảm hứng từ “một tinh thần trong Chúa Kitô”, phản ánh sự hiệp nhất của các cộng đoàn Kitô giáo.

Sứ điệp viết: “Cầu mong tình bác ái và sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các Giáo hội địa phương của anh chị em không chỉ tạo điều kiện cho việc canh tân truyền giáo của các cộng đoàn, nhưng còn góp phần xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn qua chứng tá của họ”.

Đức Thánh Cha khen ngợi các cuộc thảo luận liên quan đến các vấn đề loan báo Tin Mừng, như sự hiện diện của các linh mục trong các vùng lãnh thổ, các chủng viện, việc dạy giáo lý Công giáo, tổ chức các giáo phận. Ngài mời gọi các giám mục nỗ lực trong sự phong phú và kinh nghiệm của quá khứ, cũng như sẵn sàng đón nhận, không lo sợ những dấu chỉ đến từ Thánh Thần để đối diện với những thách đố và thấy trước những biến đổi và cải cách mà Thánh Thần đề nghị.

Sứ điệp còn nhấn mạnh đến niềm hy vọng không lay chuyển: chủ đề của Năm Thánh sắp tới. Và đối với Giáo hội tại Pháp, việc mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà là một dấu hiệu ngôn sứ. Đức Thánh Cha khẳng định rằng như tòa nhà tuyệt vời, được phục hồi này, được củng cố bởi đức tin, tự hào về lịch sử của mình và dấn thân với vai trò không thể thay thế trong sự phát triển của quốc gia, Giáo hội Pháp tiếp tục vui mừng loan báo Tin Mừng cứu độ.

Đề cập đến thông điệp về Thánh Tâm Chúa Giêsu “Dilexit Nos”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự cần thiết “tái khám phá hoặc khám phá” tình yêu Thánh Tâm, được ngài mô tả là “là chìa khóa duy nhất cho tương lai”.

Trích dẫn từ thông điệp, ngài nói “Cạnh sườn bị thương tích của Chúa Kitô tiếp tục tuôn trào dòng suối không bao giờ cạn, không bao giờ mất đi, nhưng luôn cống hiến hết lần này đến lần khác cho tất cả những ai muốn yêu như Người đã yêu. Vì chỉ có tình yêu của Người mới có thể mang lại một nhân loại mới”. Và theo ngài, các thánh người Pháp được công nhận vì vai trò quan trọng của các vị trong việc phát triển và đào sâu lòng sùng kính này.




Vẻ đẹp trong bi kịch: Chúa Giêsu Kitô hiện diện ở Tây Ban Nha bị ngập lụt

Nhờ các tình nguyện viên và các Linh mục, ít nhất 2 Giáo xứ ở Tây Ban Nha bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi cơn bão đã có thể cử hành Thánh lễ Chúa nhật giữa bùn đất và đống đổ nát.

Ảnh: © X AguileraJuan31


Tổng Giáo phận Valencia chia sẻ rằng, nhờ sự cộng tác của các Giáo xứ và các tình nguyện viên, Giáo xứ Đức Mẹ Ban Ơn (La Torre) và Giáo xứ Đức Maria Mẹ Hội Thánh (Catarroja) đã có thể cử hành Thánh lễ Chúa nhật, ngay cả trong bối cảnh hậu quả thảm khốc của trận lũ lụt tấn công Valencia, Tây Ban Nha, vào ngày 29 tháng 10 năm 2024.

Cha José Vicente Alberola, Cha sở của Giáo xứ Đức Maria Mẹ Hội Thánh, bình luận rằng “cả hai Giáo xứ đều có thể cử hành Thánh lễ Chúa Nhật, trong đó có sự tham dự của các tình nguyện viên, nhờ lễ phục được mang đến từ các Giáo xứ khác” vì mọi thứ trong nhà thờ của họ đều đã mất hết. Khi công việc dọn dẹp nhà thờ vẫn đang được tiến hành, Cha Alberola đã cử hành Thánh lễ bên ngoài, nơi vẫn còn bùn đất và những đống mảnh vỡ.


Thánh lễ được cử hành bên ngoài nhà thờ Giáo xứ Đức Mẹ Maria Mẹ Giáo Hội

Thánh lễ được cử hành bên ngoài nhà thờ Giáo xứ Đức Mẹ Maria Mẹ Giáo Hội

misa-dana-1


Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần

Cả hai Giáo xứ đều trở thành trung tâm hỗ trợ về vật chất và tinh thần. Hội đồng thành phố và lực lượng bảo vệ khẩn cấp quốc gia, cũng như các tình nguyện viên (phần lớn là thanh niên), đã tham gia vào công tác vệ sinh và hậu cần và đã phối hợp các hoạt động cần thiết để cung cấp mọi sự hỗ trợ có thể.

Trước khi tiếp nhận và phối hợp việc chuyển giao thực phẩm và nhu yếu phẩm, cần phải vệ sinh các tòa nhà, việc này được các Giáo xứ khác nhau cùng phối hợp thực hiện.

“Khi mọi người đến xin thức ăn, họ cũng nhân cơ hội này để cầu nguyện”, vị Linh mục Chánh xứ giải thích trong thông tin do Tổng Giáo phận công bố.

Tại Giáo xứ Đức Mẹ Ban Ơn, các tín hữ đã tự tổ chức cùng với các thành viên của nhóm Emmaus và Effetá và các tình nguyện viên khác đi bộ từ Valencia.

Ngoài những tình nguyện viên này, còn có các doanh nghiệp và những người sống lân cận đã tự tổ chức chuẩn bị và phân phát thực phẩm cho tất cả các tình nguyện viên đến giúp đỡ, không chỉ ở các Giáo xứ mà còn ở các gia đình xung quanh.


Sự hỗ trợ liên tục

Mặc dù nhiều Giáo xứ đang nỗ lực đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nhất, chẳng hạn như thuốc men cho các bệnh nhân và chăm sóc đặc biệt cho người cao tuổi, có những gia đình đã mất hết tất cả mọi thứ.

Vì lý do này, Cha Francisco Furió, Cha sở của Giáo xứ Aldaia, đã nhắc nhở chúng ta rằng sẽ cần sự giúp đỡ trong một thời gian dài sắp tới. Do đó, ngài kêu gọi sự liên đới và hợp tác trong khi những người bị ảnh hưởng phải thay thế đồ đạc cơ bản và nguồn lao động của họ.

“Chúng tôi trân trọng những dấu chỉ của sự liên đới của những người đang cung cấp cho chúng tôi thực phẩm và quần áo, giờ đây rất cần thiết. Nhưng chúng ta phải nhận thức rằng vấn đề sẽ xảy ra khi những người đã mất tất cả phải mua những thứ thiết yếu cho cuộc sống”.


Tượng Chúa Giêsu lấm lem đầy bùn đất

Trong bối cảnh này, bức tượng Chúa Giêsu đã trở thành biểu tượng mạnh mẽ cho sự hiện diện của Thiên Chúa trong quá trình phục hồi sau lũ lụt.

“Bức tượng Chúa Giêsu, với khuôn mặt đầy bùn, khiến chúng ta nhớ đến hơn một trăm người đã thiệt mạng ở Paiporta, và con số người mất tích cùng gia đình của họ vẫn chưa thể thống kê được”, Cha Gustavo Riveiro, Linh mục Chánh xứ Giáo xứ San Jorge, cho biết.

Bức tượng chịu nạn phủ đầy bùn đất giống như lớp bùn đất đã chôn vùi hàng trăm nạn nhân của thảm họa thiên nhiên chưa từng có này ở Tây Ban Nha.

Tác phẩm điêu khắc này đã tự nhiên trở thành biểu tượng của tất cả những sinh mạng bị cuốn trôi bởi dòng nước lũ điên cuồng. Chính Cha Riveiro đã kéo bức tượng ra khỏi đống bùn. Paiporta, nơi Giáo xứ của ngài tọa lạc, là một trong những thị trấn bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi trận lũ tàn phá cộng đồng Valencia vào đêm ngày 29 tháng 10. Đây là nơi có nhiều người thiệt mạng nhất.

Bức ảnh được chụp bởi Aguilera Juan, người đã đăng nó lên X bên cạnh một câu trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, gợi nhớ rất nhiều đến thảm kịch này: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20).

Theo số liệu mới nhất, ít nhất 217 người đã thiệt mạng trong trận lũ kinh hoàng này. Hiện tại, bờ biển Barcelona đang trong tình trạng báo động đỏ vào thứ Hai, ngày 4 tháng 11, do mưa lớn, chính quyền lo ngại rằng số người thiệt mạng vốn đã cao sẽ tiếp tục tăng

Anh sẽ có trường y khoa Công giáo đầu tiên vào năm 2026

Đại học Saint Mary ở Twickenham, Luân Đôn, đã công bố kế hoạch mở trường y khoa Công giáo đầu tiên của Anh vào tháng 9/2026.

Đại diện của trường Đại học nói: “Chúng tôi tự hào là trường đại học Công giáo Luân Đôn, và sẽ ra mắt trường y khoa đầu tiên tại một trường đại học Công giáo ở Vương quốc Anh. Đây là một sáng kiến thú vị và là ưu tiên chiến lược của trường đại học”.

Người này cho biết thêm: “Sứ vụ Công giáo của chúng tôi là một phần không thể thiếu trong các giá trị của trường, và chúng tôi sẽ đảm bảo rằng sinh viên của chúng tôi có thể phát triển với sự hỗ trợ tốt nhất có thể, phù hợp với một trường đại học Công giáo. Chúng tôi cũng sẽ giúp sinh viên tốt nghiệp trở nên có nhận thức về mặt đạo đức trong quá trình hành nghề”.

Tin về các kế hoạch của trường đại học được đưa ra khi tình trạng an tử và phá thai ở Vương quốc Anh tiếp tục gia tăng, và khi quốc gia phải đối diện với nhu cầu cấp thiết cần nhiều bác sĩ và chuyên gia y tế. Vì thế, trường đại học mong muốn đóng góp cho tương lai của dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại Anh bằng cách giúp cung cấp cho các thế hệ bác sĩ tiếp theo tận tâm, toàn diện, những người ưu tiên sức khỏe của bệnh nhân và sử dụng công nghệ y tế mới nhất, được hỗ trợ bởi sự hiểu biết toàn diện về các cuộc tranh luận về đạo đức sinh học tác động đến cộng đồng y tế.

Trong một thông cáo báo chí về trường y mới, đại học cho biết họ đã nhận được sự đảm bảo rằng trường “đang đi đúng hướng và đang đạt được tiến triển tốt hướng tới các tiêu chuẩn bắt buộc đối với giáo dục y khoa”.

Theo thông cáo, trường hiện ở trong top 10 quốc gia về trải nghiệm của sinh viên và top 5 về chất lượng giảng dạy.

Phó viện trưởng của trường Saint Mary, giáo sư Anthony McClaran, cho biết trong thông báo: “Trường không chỉ đóng góp vào nhu cầu phát triển lực lượng lao động tại Vương quốc Anh đối với nhiều bác sĩ và chuyên gia y tế, nhưng còn đào tạo các chuyên gia toàn cầu có khả năng làm việc ở mọi nơi trên thế giới”.

Giáo sư nói: “Phương pháp tiếp cận của chúng tôi nhằm phát triển con người toàn diện trong suốt thời gian sinh viên theo học ở trung tâm. Điều này sẽ giúp các bác sĩ tương lai khi rời khỏi trường đại học với các kỹ năng chuyên môn và cá nhân cần thiết để cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện, tận tâm và lấy bệnh nhân làm trung tâm”.







Giám mục cho biết Giáo hội tại Ukraine đã mất một nửa số giáo xứ ở những khu vực bị Nga tạm chiếm

Đức Cha Maksym Ryabukha, giám mục Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương mới của giáo phận Donetsk, cho biết hơn hai năm rưỡi sau cuộc xâm lược của Nga, Giáo hội tại Ukraine đã mất hơn một nửa số giáo xứ ở các vùng bị tạm chiếm.

Phát biểu với tờ báo Ý Avvenire, vị giám mục 44 tuổi cho biết “tình hình ngày càng đáng lo ngại” kể từ khi cuộc xâm lược của Nga bắt đầu vào tháng 2 năm 2022.

“Chúng tôi đã mất hơn một nửa số giáo xứ. Và với sự tiến quân của quân đội Nga, hàng chục nhà thờ khác đã được di tản”, Ryabukha, người có giáo phận nằm dưới sự kiểm soát một phần của Mạc Tư Khoa, bị chia cắt bởi hơn 483 km chiến hào, cho biết thêm.

Theo phương tiện truyền thông Ý, tại các nhà thờ Pokrovsk, Mirnohrad và Kostiantynivka — những khu vực bị quân đội Nga xâm lược — không còn đồ đạc, ghế ngồi hay đồ trang trí phụng vụ nào còn sót lại.

Vị giám mục mới của giáo phận Donetsk cho biết các linh mục “luôn gần gũi với người dân và thăm hỏi những người tị nạn đã rời bỏ nhà cửa”. Trong trường hợp của mình, ngài cho biết hiện ngài là “một giám mục trong thời kỳ đau thương, bi kịch, bất công và bất lực” khi chứng kiến Giáo hội của mình đau khổ.

Đức Cha Ryabukha cho biết rằng ở những khu vực bị Nga tạm chiếm, “những người công khai tự gọi mình là người Công Giáo biến mất: Một số bị bắn, những người khác bị bỏ tù. Không có quyền tự do tuyên xưng đức tin. Các tín hữu của chúng tôi vẫn nói: 'Chúng con đang chống đỡ, nhưng giống như bị nhốt trong tù vậy.'“

Trong số những trải nghiệm đau thương, vị giám mục nhớ lại việc giam cầm các linh mục Bohdan Geleta và Ivan Levitskyi, những người đã bị giam giữ hơn một năm sau khi bị quân Nga bắt giữ tại Berdyansk.

Cả hai đều được thả vào tháng 6, và Đức Cha Ryabukha cho biết câu chuyện của các ngài “cho thấy sức mạnh của lời cầu nguyện là sự hỗ trợ quan trọng trong bối cảnh của những hành động tàn bạo”.

“Hai linh mục của chúng tôi cảm thấy sự gần gũi của Giáo hội cho phép các ngài chống chọi với sự độc ác, sự tra tấn, sự vô nhân đạo mà các ngài đã trải qua trong các phòng giam của Nga. Và với lời cầu nguyện, tôi cũng có thể gần gũi với các cộng đồng mà người Nga ngăn cản tôi đến thăm. Mỗi ngày, tôi cầu xin Chúa bảo vệ các tín hữu của tôi”, ngài nói.

Vị giám mục, người thường xuyên đến thăm những người lính Ukraine, cho biết rằng nhiều người trong số họ, trước chiến tranh, “là những người cha đơn giản hoặc thậm chí là cựu học sinh Salêdiêng. Họ gác lại mọi kế hoạch cá nhân để bảo vệ đất nước”.

“Chúng tôi biết rằng chiến tranh sẽ kết thúc. Nhưng tất cả chúng tôi đều muốn điều này xảy ra càng sớm càng tốt và với hòa bình nhân danh công lý,” ngài nói thêm.




Church in Ukraine has lost half of its parishes in areas occupied by Russia, bishop says


ĐHY Pizzaballa: Hoà bình cho Jerusalem là hoà bình cho toàn thế giới
Gửi sứ điệp đến hội nghị quốc tế về hoà bình ở Giêrusalem do đại học Công giáo Gioan Phaolô II ở Lublin của Ba Lan tổ chức, từ ngày 05 đến ngày 07/11, Đức Hồng Y Pierbattista Pizzaballa, Thượng phụ Công giáo Latinh Giêrusalem nói rằng thành Giêrusalem, Giáo hội Giêrusalem, phải là nơi mà sự hiện diện của Chúa được nhìn thấy rõ ràng, vì thế cầu nguyện cho hòa bình ở Giêrusalem cũng là cầu nguyện cho hòa bình giữa mọi quốc gia.


Đức Hồng Y viết: “Đối với chúng ta, các Kitô hữu, hoà bình không chỉ là một trong những khía cạnh của đời sống Giáo hội, nhưng đúng hơn hoà bình và việc theo đuổi hoà bình là điều thiết yếu đối với căn tính và sứ vụ của Giáo hội. Trên hết, trước khi trở thành hành động mà Thiên Chúa mời gọi chúng ta, hoà bình nói với chúng ta về căn tính của Chúa. Sứ vụ của Giáo hội là loan báo Thiên Chúa, và khuôn mặt của Chúa trên hết là khuôn mặt của hoà bình”.

Về sứ vụ của Giáo hội tại Thánh Địa, Đức Hồng Y đề cập đến hai hình ảnh trong sách Khải Huyền: lều và Tân Nương. Theo một nghĩa nào đó, đây là căn tính của Giêrusalem. Ngài nhấn mạnh: “Giêrusalem từ trời xuống là thành nơi Thiên Chúa hiện diện, được tượng trưng bằng căn lều, và có sự gần gũi mật thiết với Đấng Tạo Hoá, được miêu tả là Tân Nương”.

Theo Đức Thượng Phụ, điều này cho chúng ta biết đôi điều về cuộc sống ở Giêrusalem cần phải như thế nào. Thành Giêrusalem, Giáo hội Giêrusalem, phải là nơi mà sự hiện diện của Chúa được nhìn thấy rõ ràng, và sự gần gũi của Chúa thể hiện rõ trong hành động của chúng ta. Vì thế, cầu nguyện cho hòa bình ở Giêrusalem cũng là cầu nguyện cho hòa bình giữa mọi quốc gia. Vì ở Giêrusalem, trái tim của mọi quốc gia thổn thức.

Đức Hồng Y nhắc lại tiếng gọi của người dân ở Thánh Địa là làm chứng cho một cuộc sống gần gũi với Chúa và mang lại sự sống cho những người khác nhờ tình yêu Chúa. Ngài kết luận: “Chúng ta cầu nguyện cho điều này và cố gắng trở thành một ví dụ nhỏ về điều đó. Tôi ý thức giới hạn của mình, nhưng chúng ta phải luôn nhớ chứng tá của chúng ta là chứng tá của cư dân Giêrusalem".




Một nữ tu viện tại Port-au-Prince, thủ đô Haiti, đã bị một nhóm võ trang tấn công và thiêu hủy.

image.png

La Maison des Sœurs missionnaires a été saccagée puis incendiée par des hommes d'un des nombreux gangs qui règnent sur Port-au-Prince

Tối ngày 26 tháng Mười vừa qua, nhóm võ trang do tên cầm đầu là Jimmy Chérizier chỉ huy, đã phá tường và đột nhập tu viện của các nữ tu Thừa sai bác ái, cướp phá tu viện và bệnh xá, lấy các ghế dài, giường và vật dụng y khoa, trước khi nổi lửa thiêu rụi. Một số vật dụng đó được bán chợ đen sau đó, ở Port-au-Prince.

Không có nữ tu nào bị thương. Hồi cuối tháng Chín vừa qua, cảnh sát đã kêu gọi các nữ tu rời bỏ khu phố Bas Delmas và đóng cửa tu viện, vì cuộc xung đột giữa các băng đảng võ trang trở nên nguy hiểm đối với sinh mạng của các chị.

Các nữ tu Thừa sai bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đến hoạt động tại khu vực này từ 47 năm nay (1977), tại trung tâm do chính Mẹ Têrêsa khánh thành sau đó, vào năm 1979. Trong các năm qua, các chị đón nhận khoảng 1.500 bệnh nhân mỗi năm tại bệnh xá và săn sóc miễn phí cho họ. Gần 30.000 bệnh nhân cũng được khám bệnh miễn phí.

Đây là lần đầu tiên các nữ tu Thừa sai bác ái bị tấn công tại Haiti. Cho đến nay cả các băng đảng bất lương cũng tôn trọng sứ vụ thiết yếu của các chị đối với dân chúng.

Toàn khu vực Delmas ở Port-au Prince được coi là “sào huyệt” của Jimmy Chérizier, quen gọi là “Barbecue”, một cựu cảnh sát viên, cầm đầu các băng đảng bất lương đang hoành hành tại Haiti. Tên này bị cáo là thủ phạm những vụ tàn sát trong các khu xóm nghèo ở Port-au-Prince, và hiện nay bị coi là kẻ hùng mạnh và đáng sợ nhất nước. Ông ta đã bác bỏ kế hoạch của Mỹ nhắm chấm dứt tình trạng hỗn loạn tại Haiti và quả quyết là muốn giải thoát đất nước khỏi “những chính trị gia truyền thống và những tên đầu sỏ tham nhũng tại đất nước này”.

Tình trạng nhân đạo khó khăn

Haiti tiếp tục ở trong tình trạng an ninh rất bấp bênh mặc dù đoàn quân quốc tế do Liên Hiệp Quốc tổ chức (MMAS) và do 700 binh sĩ Kenya, bên Phi châu đảm trách. Các quốc lộ ở Haiti tiếp tục do các băng đảng võ trang chiếm đóng và kiểm soát phần lớn thủ đô.

Haiti là nước nghèo nhất ở tây bán cầu và từ lâu phải chịu nạn bạo lực do các băng đảng bất lương. Các nhóm này bị cáo về nhiều tội: giết người, hãm hiếp, cướp bóc và bắt cóc người để đòi tiền chuộc mạng.

Hơn 700.000 người, trong đó một nửa là các trẻ em, đã phải di tản vì bạo lực băng đảng. Từ tháng Sáu năm nay, con số những vụ bạo lực gia tăng gần 25%, theo tin của Tổ chức quốc tế về di dân, có trụ sở tại Genève, Thụy Sĩ.





Thêm một linh mục bị bắt cóc tại Nigeria


Thêm một linh mục lại bị bắt cóc tại Nigeria: đó là cha Emmanuel Azubuike, hoạt động tại giáo xứ thánh Têrêxa ở Obollo, Isiala thuộc bang Imo ở miền nam nước này.
The Rev. Emmanuel Azubuike, Catholic priest kidnapped on Nov. 5, 2024 in Imo state, Nigeria


Vụ bắt cóc xảy ra, hôm mùng 05 tháng Mười Một vừa qua, trong lúc cha trở về giáo xứ. Theo thông cáo của Giáo phận Okigwe, cha Azukuike thụ phong linh mục cách đây 10 năm, ngày 27 tháng Chín năm 2014.

Ngoài ra, cha Thomas Oyode Giám đốc Tiểu chủng viện Agenegabole, thuộc bang Edo, ở miền nam Nigeria, bị bắt cóc ngày 27 tháng Mười mới đây. Cha bị bắt cóc vào lúc khoảng 7 giờ tối, trong lúc nguyện Kinh Chiều và chầu Thánh Thể ở nhà nguyện. Một số người võ trang đã tấn công và bắt cha, rồi dẫn vào rừng. Cha phó giám đốc cùng với các chủng sinh và nhân viên Tiểu chủng viện bình an và tạm thời được di chuyển đến nơi an toàn, vì tình hình địa phương vẫn còn bị coi là bất an.

Giám mục cấm các linh mục sử dụng điện thoại thông minh trong toà giải tội.

Đức Cha James Conley, Giám Mục của Giáo phận Lincoln, Nebraska, đã ban hành chính sách mới cấm các linh mục sử dụng điện thoại thông minh trong tòa giải tội.

Cha Caleb La Rue, chưởng ấn của Giáo phận Lincoln, nói với CNA rằng ngài đã nghe giai thoại về một số giáo phận khác thực hiện các chính sách tương tự, đặc biệt là vì lo ngại về quyền riêng tư — ngài lưu ý rằng có những ưu tư rằng vị linh mục có thể “vô tình chạm vào nút record, hoặc trường hợp xấu nhất là một linh mục gọi điện cho một người, rồi quên tắt đi và phát sóng lời thú tội của hối nhân”.

Tuy nhiên, Cha La Rue cho biết động lực chính cho chính sách của giáo phận Lincoln thực ra không phải là những lo ngại về quyền riêng tư mà là sự thừa nhận rằng thời gian giải tội của một linh mục phải yên tĩnh, cầu nguyện và không bị sao nhãng.

Cha cho biết Đức Cha Conley đã “khuyến khích mạnh mẽ” các linh mục không mang điện thoại thông minh vào phòng giải tội kể từ ít nhất năm 2014, nhưng vẫn chưa chính thức ban hành lệnh cấm cho đến năm nay.

“Bạn sẽ không để điện thoại trên bàn thờ khi đang cử hành Thánh lễ — tại sao bạn lại để điện thoại khi đang giải tội?” cha nói, đồng thời cho biết thêm rằng điều quan trọng là phải phản bác lại “quan niệm cho rằng có các linh mục đang lướt Twitter trong khi giải tội”.

Tuy nhiên, Cha La Rue thừa nhận rằng nhiều linh mục ở Lincoln — bao gồm cả ngài — thích sử dụng điện thoại thông minh trong phòng giải tội vì những lý do hoàn toàn vô hại, chẳng hạn như để xem giờ và tra cứu lời cầu nguyện hoặc bài đọc Kinh thánh. Những hối nhân cũng thường mang điện thoại vào toà giải tội vì họ có danh sách tội lỗi của mình trên đó hoặc vì họ cần đọc kinh Ăn Năn Tội trên đó.

Tuy nhiên, cuối cùng, Cha La Rue cho biết chính sách này thực chất là “loại bỏ bất cứ điều gì có thể cản trở hoặc trở thành trở ngại” đối với “cuộc gặp gỡ đích thực với Chúa Kitô”.

“Đó là cố gắng giữ các bí tích như những cuộc gặp gỡ thánh thiện với Chúa, đặc biệt là lòng thương xót của Chúa trong tòa giải tội,” ngài nói.

Điều quan trọng cần lưu ý là Giáo Hội Công Giáo rất coi trọng quyền riêng tư trong tòa giải tội.

Bí tích xưng tội, còn gọi là Bí tích Hòa giải, được Chúa Giêsu Kitô thiết định như một phương thế để tha thứ tội lỗi. Ngài truyền lại thẩm quyền tha tội cho các tông đồ, những người sau đó truyền lại cho các linh mục ngày nay.

“Ấn tín giải tội” ràng buộc các linh mục phải coi trọng tối đa quyền riêng tư của hối nhân với sự trang trọng; trên thực tế, trong nhiều thế kỷ, một số linh mục đã chọn cái chết thay vì tiết lộ những gì các ngài đã nghe. Nếu một linh mục tiết lộ bất kỳ thông tin nào mà ngài biết được trong bối cảnh tòa giải tội, ngài sẽ bị vạ tuyệt thông tiền kết khỏi Giáo hội latae sententiae — nghĩa là tự động bị vạ tuyệt thông.

Còn nếu người khác nghe được lời thú tội của bạn, hoặc bạn vô tình nghe được người khác thú tội thì sao? Vâng, trong trường hợp đó, người nghe được lời thú tội sẽ bị ràng buộc bởi cái được gọi là “bí mật” và bị cấm chia sẻ bất kỳ thông tin nào trong số đó.

Một giáo dân Công Giáo có thể bị vạ tuyệt thông vì tiết lộ bí mật, mặc dù thông thường việc này sẽ liên quan đến một quá trình trừng phạt chứ không diễn ra tự động như đối với các linh mục.

Như bạn có thể tưởng tượng, cố ý ghi lại lời thú tội của ai đó cũng là một điều tối kỵ. Giáo hội đã chính thức giải quyết vấn đề này trong một sắc lệnh năm 1988, trong đó Bộ Giáo lý Đức tin đã viết rằng bất kỳ ai ghi lại hoặc tiết lộ lời thú tội của một người đều bị vạ tuyệt thông tiền kết khỏi Giáo hội.



Sự riêng tư trong tòa giải tội: Điện thoại thông minh có đang nghe lén tội lỗi của bạn không?

Hầu hết mọi điện thoại hiện đại đều có một năng lực được gọi là “trợ lý thông minh”, chẳng hạn như Siri của Apple. Nó thực sự “lắng nghe” liên tục các từ ngữ đánh thức như “Hey Siri” trừ khi người dùng tắt cài đặt đó.

Chẳng hạn, nếu bây giờ bạn cầm một chiếc Iphone, và nói “Hey Siri, VietCatholic News” nó sẽ mở trang VietCatholic News cho bạn, bạn không cần bấm gì cả.

Tuy nhiên, có lẽ mối quan tâm sâu sắc hơn là vô số ứng dụng điện thoại thông minh vô cớ yêu cầu quyền truy cập đầy đủ vào máy ảnh, micrô và vị trí của người dùng — mặc dù không có nhu cầu rõ ràng về việc kiểm soát các khía cạnh đó của điện thoại người dùng. Những ứng dụng đó có thể là “gián điệp” trên chúng ta.

Nỗi sợ âm ỉ từ lâu này đã một lần nữa được đưa ra ánh sáng vào cuối năm ngoái khi người ta phát hiện ra rằng CMG Local Solutions, một công ty con của Cox Media Group, đã công khai khoe khoang về khả năng nghe lén qua micrô trên các thiết bị thông minh của mọi người để “xác định người mua dựa trên các cuộc trò chuyện thông thường theo thời gian thực” bằng trí tuệ nhân tạo.

CMG nhanh chóng rút lại lời tuyên bố khi bị phản đối, khẳng định rằng họ chưa bao giờ nghe lén cuộc trò chuyện riêng tư của bất kỳ ai và không có quyền truy cập vào bất kỳ thứ gì ngoài “dữ liệu được tổng hợp, ẩn danh và mã hóa của bên thứ ba được sử dụng để đặt quảng cáo”.

Mặc dù CMG có mối quan hệ với Google, Amazon và Facebook thông qua các chương trình đối tác quảng cáo của các công ty đó, cả ba công ty này đều phủ nhận họ từng là một phần của chương trình “Active Listening” của CMG. Nhưng nhiều người thấy những lời phủ nhận này không thuyết phục.

Khi duyệt trực tuyến, bạn sẽ thấy hàng trang cảnh báo rằng đúng là điện thoại thông minh của bạn đang nghe lén bạn. (Thật ra, nhiều trong số đó là các bài đăng trên blog của các công ty an ninh mạng đang bán các sản phẩm liên quan đến quyền riêng tư, điều này khiến chúng đáng tin cậy hơn hoặc ít hơn, tùy thuộc vào cách bạn nhìn nhận.) Thêm vào đó, tiết lộ từ CMG làm tăng thêm sự không chắc chắn.

Vậy bằng chứng cho thấy điều gì? Theo một chuyên gia công nghệ, điều này rất phức tạp.

David Choffnes, giám đốc điều hành Viện An ninh mạng và Quyền riêng tư tại Đại học Northeastern ở Boston, chia sẻ với CNA rằng nghiên cứu do chính ông thực hiện cho thấy câu hỏi liệu điện thoại thông minh có liên tục nghe lén các cuộc trò chuyện riêng tư của chúng ta hay không thì phần lớn là “không”.

Choffnes, cũng là phó giáo sư khoa học máy tính, đã tiến hành các nghiên cứu vào năm 2018 và 2020 để kiểm tra giả thuyết rằng điện thoại của chúng ta liên tục nghe lén. Choffnes và các đồng nghiệp của ông cuối cùng đã kiểm tra hơn 17.000 ứng dụng để cố gắng thu thập thông tin về khả năng gián điệp của chúng.

Mặc dù phân tích của họ đã phát hiện ra một số rủi ro bảo mật, nhưng “chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy các ứng dụng đang bí mật ghi âm từ micrô trên điện thoại của chúng tôi”, ông lưu ý.

Tuy nhiên, kết quả họ nhận được khi thử nghiệm loa thông minh như Amazon Alexa lại là một câu chuyện khác. Hầu hết các mẫu mà họ thử nghiệm, như đã đề cập trước đó, không “thức dậy” và bắt đầu ghi âm trừ khi một “từ ngữ đánh thức” cụ thể được nói ra. Nhưng đôi khi, Choffnes cảnh báo, loa thông minh có thể bất ngờ kích hoạt mà người dùng không biết vì chúng nghĩ rằng từ ngữ đánh thức đã được nói ra.

Choffnes cũng cho biết các thử nghiệm của họ cho thấy loa thông minh thường chỉ thu thập “vài giây bản ghi âm trong hầu hết thời gian, nhưng đôi khi lên tới hàng chục giây”.

Về việc liệu có con người thực sự nào nghe được những bản ghi âm đó hay không, Choffnes lưu ý rằng đã có những trường hợp các cuộc trò chuyện riêng tư được cung cấp cho các nhà thầu bên thứ ba để nghe lại nhằm mục đích cải thiện độ chính xác của trợ lý giọng nói trong việc nhận dạng giọng nói.

“Vì vậy, có lo ngại rằng có những người thực sự đã nghe những cuộc trò chuyện thực sự. Về mặt hợp đồng, những cuộc trò chuyện này không nên được chia sẻ hoặc rò rỉ, nhưng tất nhiên hợp đồng không ngăn chặn việc sử dụng sai mục đích”, ông nói.

“Tóm lại, tôi nghĩ rằng chúng ta nên luôn thận trọng, nhưng tôi không nghĩ rằng việc ghi âm bí mật bằng điện thoại thông minh phải là mối quan tâm chính của người dùng thiết bị thông minh tại thời điểm này”

“Mặt khác, tôi nghĩ việc loại bỏ công nghệ khỏi những không gian mà chúng ta muốn giữ riêng tư có giá trị đáng kinh ngạc — không chỉ vì sự riêng tư mà còn vì sự an tâm và loại bỏ những phiền nhiễu.”

Khi được hỏi về quan điểm của mình đối với chính sách cấm điện thoại thông minh trong tòa giải tội Công Giáo, Choffnes cho biết với tư cách là một nhà khoa học, ông “ủng hộ mạnh mẽ quan điểm này” — và không chỉ vì lo ngại về quyền riêng tư.

Ông cho biết: “Tôi nghĩ giá trị này không chỉ dừng lại ở quyền riêng tư, vì những thiết bị này cũng thường xuyên gây mất tập trung mà tôi cho là không được chào đón ở những nơi thờ phượng”.

Tuy nhiên, Choffnes nói tiếp rằng điều quan trọng cần lưu ý là “một ứng dụng di động ghi lại các cuộc trò chuyện của bạn thường không phải là mối đe dọa lớn nhất đến quyền riêng tư của bạn”.

Rốt cuộc, ai cũng biết rằng các công ty công nghệ có thể và thực sự theo dõi lịch sử duyệt web, việc sử dụng ứng dụng và vị trí chính xác của người dùng — sử dụng tất cả chúng cho mục đích tiếp thị. Ngay cả các ứng dụng tôn giáo đôi khi cũng bị phát hiện khai thác dữ liệu người dùng theo cách này, ông lưu ý.

“Do tôn giáo và hoạt động tôn giáo của mỗi người rất nhạy cảm và riêng tư, tôi nghĩ đây là một cân nhắc quan trọng đối với các giáo sĩ và giáo dân: Hãy suy nghĩ kỹ trước khi cài đặt ứng dụng, cố gắng đọc kỹ các điều khoản nếu có thể và không cấp các quyền không cần thiết”.

Và ông nhắc lại: “Hãy tắt thiết bị khi bạn cần sự riêng tư và tập trung”.





Christophe Dickès: “Giáo hội phải dựa vào lịch sử của mình để xây dựng tương lai”









Giữa những vụ tai tiếng, lạm dụng và tham nhũng, ngày nay Giáo hội như muốn cố gắng trút bỏ hình ảnh đen tối. Tuy nhiên, Giáo hội có lý do vững vàng để hy vọng và để tự hào về lịch sử của mình. Việc thành lập các bệnh viện, các trường đại học, các tiến bộ trong khoa học… Qua nhiều thế kỷ, Giáo hội đã đóng góp rất lớn vào sự phát triển của xã hội ngày nay. Tiến sĩ lịch sử Christophe Dickès quả quyết: “Lịch sử Giáo hội cho thấy, không có lãnh vực nào mà Giáo hội không phát huy ảnh hưởng của mình.” Ông là tác giả quyển sách “Những gì thế giới nợ Giáo hội” (Ce que le monde doit à l’Église). Thoạt nhìn chủ đề có vẻ quá tham vọng, khoa trương hay lạc lõng để có thể là chủ đề của một quyển sách. Trên thực tế, từ nhiều năm nay, Giáo hội bị nhận chìm trong các vụ tai tiếng, những lời chỉ trích chống Giáo hội vang lên tứ phía. Nhưng… sự đóng góp của Giáo hội cho xã hội rất đáng kể trong nhiều lãnh vực: giáo dục, khoa học, y học, nghệ thuật… Giáo hội đã định hình các xã hội như chúng ta biết ngày nay. Christophe Dickès, tiến sĩ lịch sử, chuyên gia về lịch sử công giáo thẳng thắn lên tiếng: “Trong nhiều năm, tôi rất ngạc nhiên khi thấy chúng ta tiếp tục nói về những trang đen tối của lịch sử Giáo hội mà không đề cập đến sự đóng góp đáng kể và những gì thế giới nợ Giáo hội. Với tôi, khi Giáo hội Tây phương bị mắc kẹt trong cuộc khủng hoảng không bao giờ kết, việc quan trọng là phải nhớ lại những gì Giáo hội đã làm tốt trong lịch sử của mình. Không phải chỉ vì hiếu kỳ để chứng tỏ Giáo hội có cơ sở để hy vọng, triết gia Cicero ở thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, bậc thầy về cuộc sống và sự thật đã nói: ‘Quá khứ soi sáng hiện tại để hình dung rõ hơn về tương lai’”.

Vì sao lịch sử Giáo hội không được báo chí quan tâm?

Tiến sĩ Christophe Dickès: Trên hết, có sự thiếu hiểu biết hoặc thậm chí thiếu văn hóa lịch sử ảnh hưởng đến cả những người có thẩm quyền cao nhất của Giáo hội. Điều này đã được ông Andrea Riccardi (chính trị gia Ý, đồng sáng lập Cộng đồng Sant’Egidio) nhấn mạnh trong tác phẩm Giáo hội cháy. Sự thiếu hiểu biết về lịch sử dẫn đến sự hiểu biết nghèo nàn về thực tế, đặc biệt với cuộc khủng hoảng Giáo hội đang trải qua ngày nay. Hơn nữa, thật kỳ lạ, Giáo hội đã áp dụng những lời chỉ trích theo đạo tin lành và thậm chí phản giáo sĩ đối với lịch sử của chính mình trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên ăn năn, dù hợp pháp đến đâu cũng không được làm lu mờ thiện ích lịch sử của chính mình. Năm 2000 Đức Gioan Phaolô II đã hiểu rất rõ điều này: một mặt nhìn nhận những lỗi lầm của người công giáo trong quá khứ, nhưng ngài không rơi vào những kế hoạch đơn giản hóa hoặc theo phái phân biệt thiện ác manikêô. Ngài khuyến khích nghiên cứu lịch sử. Là người Ba Lan, ngài gắn bó sâu sắc với danh tính của mình, ngài hiểu đất nước của ngài mắc nợ Giáo hội những gì. Tuy nhiên, ăn năn đã có tác dụng lớn lao trên điều ác đã làm, nhưng lại không xét đến điều tốt Giáo hội đã mang lại.

Giáo hội đã cấu trúc các xã hội như chúng ta biết ngày nay như thế nào?

Lịch sử của Giáo hội cho thấy không có lãnh vực nào mà Giáo hội không có ảnh hưởng. Từ nhận thức về thời gian đến các công việc chăm sóc tại bệnh viện, tại các cơ sở từ thiện; từ việc tổ chức Nhà nước hiện đại và luật pháp quốc tế thông qua vai trò trí tuệ hoặc đơn giản qua giáo dục; cả ở lãnh vực khoa học hay vị trí của phụ nữ trong xã hội… ảnh hưởng của Giáo hội rất đáng kể mà chúng ta không thực sự biết. Giáo hội đã vun trồng trên mọi lãnh vực của xã hội. Và rõ ràng nhất là vai trò của Giáo hội trong nghệ thuật. Tôi có thể nói, đó là điều dễ thấy nhất nhưng không thể giản lược Giáo hội chỉ chừng đó.

Giáo hội thường bị chỉ trích vì phản đối khoa học, nhưng giáo sư nói ngược lại. Những đóng góp và hỗ trợ của Giáo hội cho khoa học là gì?

Mọi người đều biết vụ Galilêô nổi tiếng: năm 1633, tòa án dị giáo đã kết án nhà khoa học Galilê khi ông nói Trái đất quay chung quanh mặt trời. Galilêô là cái cây che khuất rừng khoa học kitô giáo. Hơn nữa, Copernicus, Galilêô, Descartes và nhiều người khác đều là những người được đào tạo trong môi trường kitô giáo. Chúng tôi rất ấn tượng trước số lượng người trong Giáo hội đã nổi bật nhờ khoa học của họ, việc này đã có từ thời Trung cổ với sự xuất hiện của các trường đại học: Tôi đưa ra một danh sách không thể đầy đủ trong quyển sách của tôi.

Thậm chí còn tốt hơn: cách chúng ta nghĩ về khoa học liên kết mật thiết với kitô giáo. Thật vậy, sách Khôn Ngoan thưa với Thiên Chúa “Ngài đã quy định mọi sự bằng thước đo, số lượng và trọng lượng” (Kn 11,20). Vì thiên nhiên là tạo vật thiêng liêng, nên con người của Giáo hội đã tìm cách hiểu và biết những bí mật thiên nhiên. Do đó, kitô giáo đặt ra những trụ cột của trí tuệ khoa học: đặt ra sự nghi ngờ dẫn đến nghiên cứu; sự cần thiết phải chứng minh những gì chúng ta đang nói; ý tưởng cho rằng kiến thức là giải phóng; cuối cùng là hương vị của sự rõ ràng và trật tự. Vì thế Oppenheimer có câu nói nổi tiếng: “Kitô giáo là cần thiết để khai sinh ra khoa học hiện đại”. Thật sai lầm, xã hội đương đại của chúng ta phản đối khoa học và đức tin. Chắc chắn, mối liên kết giữa Giáo hội và khoa học đã bị đứt quãng bởi những do dự, căng thẳng và đôi khi là khủng hoảng. Tuy nhiên, ý tưởng về một Giáo hội chống lại khoa học là một trong những huyền thoại dai dẳng nhất trong nhận thức chúng ta.

Chăm sóc người anh em là một trong những trụ cột của kitô giáo. Giáo hội đã nuôi dưỡng kỷ luật này như thế nào?

Vào nửa sau của thế kỷ thứ 4, thời điểm chứng kiến sự chuyển đổi Đế chế la-mã sang kitô giáo, cái mà chúng ta gọi là vương cung thánh đường xuất hiện, được đặt theo tên của giám mục Basil của Caesarea (329-379). Giám mục đã thành lập các bệnh viện và các cơ sở trợ giúp: bệnh viện, nhà hưu dưỡng, viện mồ côi, nơi tạm trú cho người nước ngoài, v.v. Dưới thời Đế quốc, chăm sóc chỉ dành cho những người có đặc quyền, kitô giáo đã thay đổi mô hình. Giáo hội không chỉ chăm sóc người nghèo, người bệnh tật mà còn đòi hỏi Nhà Nước phải tham gia vào công việc này. Vì Đế quốc đã theo đạo nên giờ đây Nhà Nước có nghĩa vụ hỗ trợ về mặt đạo đức. Đó là cuộc cách mạng lương tâm mà ở phương Tây đã phát triển với sự xuất hiện của Hôtel-Dieu gắn liền với Nhà thờ Chính tòa. Giáo hội đã thực hiện điều mà dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu đã dạy: giúp đỡ người khác, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hay quốc gia.

Giáo sư dành một chương để nói về mối liên hệ giữa Giáo hội và chính trị. Xin giáo sư nói thêm về chủ nghĩa thế tục. Ở đây một lần nữa chúng ta có xu hướng chống lại Giáo hội và chủ nghĩa thế tục.

Về mặt lịch sử, chính Giáo hội thiết lập sự phân biệt giữa Giáo hội và Nhà Nước, giữa quyền lực tinh thần và quyền lực thế tục. Sự phân biệt này dựa trên câu nói nổi tiếng của Chúa Giêsu nói người Pharisêu: “Của Xêda trả lại cho Xêda; của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Vào cuối thế kỷ thứ 5, Gelasius là giáo hoàng đầu tiên đưa ra giả thuyết về mối quan hệ giữa hai bên. Ngài làm như vậy theo truyền thống của Thánh Ambrose thành Milan (thế kỷ thứ 4). Chắc chắn, lịch sử giữa Nhà Nước và Giáo hội sẽ không dễ dàng, nhưng chính Kitô giáo, bằng cách tạo ra sự khác biệt này, đã làm cho xã hội chúng ta trở nên khác biệt. Về vấn đề này, sử gia người Pháp René Rémond lưu ý: “Bản đồ của các quốc gia nơi nguyên tắc chủ nghĩa thế tục được công nhận và ít nhiều được tôn trọng trên thực tế gần như trùng khớp với bản đồ của các quốc gia thấm nhuần kitô giáo.”

Chúng ta thường có hình ảnh về một Giáo hội ra lệnh cho hành vi mà không thực sự dành chỗ cho lương tâm. Ngược lại, có phải giáo sư đang ám chỉ lương tâm rất thân thiết của xã hội chúng ta ngày nay phải chịu ơn Giáo hội rất nhiều?

Vấn đề lương tâm của mỗi người gắn liền với sự phát triển của việc xưng tội cá nhân có từ Công đồng Lateran IV năm 1215. Đây là cuộc cách mạng thực sự vì, đứng trước lỗi lầm, Giáo hội đã không còn thiết lập các thang bậc ăn năn nhưng quan trọng là ý chí ăn năn của người phạm tội. Ở đây chúng ta ở rất xa hình ảnh thường gắn liền với Giáo hội: hình ảnh của một thể chế không thể thay đổi, bị lên án bằng mọi giá. Nói cách khác, Giáo hội yêu cầu các cha giải tội phải tính đến hoàn cảnh đặc biệt của mỗi người: điều mà chúng ta gọi theo thuật ngữ pháp lý là nố lương tâm, nghĩa là tùy từng trường hợp. Cuộc cách mạng này cũng báo trước một hình thức chủ nghĩa cá nhân, theo thời gian, phát triển nhờ những hình thức tâm linh mới như lòng đạo đức hiện đại. Từ nay giáo dân qua việc giữ đạo cá nhân, có thể bảo đảm sự cứu rỗi của họ ở bên ngoài các tu viện. Thánh I-Nhã là ví dụ điển hình nhất về những thực hành cá nhân mới này. Tất cả những điều này làm cho lương tâm của mỗi người là nơi tôn nghiêm và cho phép, trong một số trường hợp cụ thể, không tuân theo chính quyền: mọi phản kháng của người công giáo trong Thế chiến thứ hai là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài về lương tâm, từ thời trung cổ đến thời hiện đại.

Liệu Giáo hội ngày nay có còn để lại dấu ấn tích cực trong Lịch sử không?

Có, tôi nghĩ có, nhưng Giáo hội phải muốn. Chúng ta không thể yêu người khác nếu chúng ta không yêu chính mình, nếu chúng ta không cảm thấy ít nhất một chút tự hào về những gì đã đạt được trong quá khứ. Vì thế Giáo hội phải có khả năng dựa vào lịch sử của mình để xây dựng tương lai, nếu không, Giáo hội sẽ bị kết án là một hình thức bất động. Nói cách khác, không kiêu hãnh nhưng cũng không mặc cảm, Giáo hội có thể và cũng phải tự hào về lịch sử của mình.






Mikali Nguyễn

unread,
Nov 15, 2024, 5:02:23 PM11/15/24
to alphonsefamily
SUY TƯ TIN MỪNG CHÚA NHẬT 33

Ngày tận thế: Bí ẩn chỉ có Chúa Cha biết

 

Câu hỏi về ngày tận thế thường gợi lên sự tò mò, lo lắng trong lòng mỗi người, nhất là khi người ta đối diện với sự bất định và lo ngại về tương lai. Câu hỏi đặt ra: “Khi nào đến ngày tận thế?” không chỉ là thắc mắc của các nhà thần học mà còn là trăn trở của mọi tín hữu. Tin mừng thường niên cuối cùng 33 hôm nay, Chúa Giêsu cũng tiết lộ một chút về ngày cánh chung này. Thánh Kinh cho viết: “Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.” (Mc 13,32).

 

Những lời trên của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng ngày cánh chung nằm trong kế hoạch và sự quan phòng của Thiên Chúa. Như vậy, thay vì lo sợ và đoán xét, chúng ta được mời gọi phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa và sống một đời sống đạo đức ngay trong hiện tại.

 

Trong dòng lịch sử, con người không ít lần đặt ra những giả thuyết cho ngày tàn của vũ trụ: từ khả năng chiến tranh hạt nhân, dịch bệnh toàn cầu, cho tới các va chạm thiên thạch. Thế nhưng, Giáo hội không nhìn nhận ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai như một “Ngày thịnh nộ” hay đe dọa, mà là ngày vui mừng. Bởi Chúa đến với con người trong vinh quang hạnh phúc. Ngôn ngữ Tin mừng gọi là ngày “Con Người quang lâm”. 

Điểm kết của lịch sử nhân loại

Thời gian tận thế được Chúa Giêsu mô tả bằng một khoảng thời gian: “Trong những ngày đó”. Theo lối nhìn của nhà thần học Teilhard de Chardin, Thiên Chúa là điểm khởi đầu và cũng là đích đến của thế giới. Ngài là Anpha và Ômêga. Thánh Gioan đã ghi nhận rằng: “Người là đầu và là cuối, là khởi nguyên và là tận cùng” (Kh 21,6). 

 

Thực ra Chúa Giêsu không hù dọa con người với những cảnh tượng hãi hùng. Thay vào đó, Lời Chúa khẳng định rằng cuộc sống của chúng ta không phải là chuỗi thời gian trống rỗng mà là một hành trình dẫn tới Chúa Kitô, Đấng ban sự sống vĩnh cửu. Bằng niềm tin vào Chúa Giêsu là sự sống, chúng ta được mời gọi đón nhận tất cả với lòng tín thác và hy vọng.

 

Dù khoa học hay lý thuyết nhân loại đưa ra dự đoán về tận thế, nhưng chỉ Thiên Chúa mới quyết định số phận của vũ trụ. Thay vì lo lắng cho ngày kết thúc, chúng ta nên tập trung vào lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em đừng sợ hãi… Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống” (Ga 11,25-26). Nhờ đó, chúng ta được thôi thúc sống với tâm thế của những người sẵn sàng cho Nước Trời ngay bây giờ. “Anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi.” (Mt 13,29).

 

Vinh quang hay sợ hãi?

Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI khuyến khích chúng ta nhìn vào ngày Chúa quang lâm như một thời điểm vinh quang, niềm vui cho tín hữu. Đó là ngày Chúa đến trong quyền năng để thiết lập trời mới, đất mới. Lời Kinh Thánh an ủi chúng ta: “Bấy giờ, Con Người sẽ ngự trong đám mây mà đến, đầy quyền năng và vinh quang” (Mc 13,26). Nếu ước ao gặp Thiên Chúa mỗi ngày, thì chúng ta không thể sợ giây phút huy hoàng ấy. “Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.”  (Mc 13,27)

 

Những hình ảnh này nhắc nhở chúng ta rằng ngày Chúa đến không phải là lời cảnh báo để làm chúng ta sợ hãi, nhưng là sự khích lệ để chúng ta sẵn sàng đón nhận Chúa trong yêu thương và tin tưởng. Đó là ngày mà Thiên Chúa sẽ lau sạch mọi nước mắt và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Bằng trái tim khao khát, chúng ta cùng nhau cầu nguyện: “Maranatha, Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” (Kh 22,20). Như vậy, ngày tận thế không phải là lúc khiếp sợ, mà là giây phút hạnh phúc khi được trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa.

 

Sống với niềm tin

Dù biết rằng cuộc đời có ngày kết thúc, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1,7). Lời này mời gọi chúng ta chú trọng vào hiện tại, cống hiến và sẵn sàng cho sự trở lại của Chúa bất cứ lúc nào. Thay vì bận tâm về tương lai mơ hồ, chúng ta được mời gọi dấn thân sống trọn vẹn trong giây phút hiện tại. Chính cuộc sống yêu thương, tha thứ và hy sinh trong đời sống hằng ngày là hành trang cần thiết để đón Chúa khi Ngài đến.

 

Với tâm thế đón chờ ngày Chúa đến, chúng ta hãy để trái tim tràn đầy niềm hy vọng và tin tưởng rằng dù cuộc đời này qua đi, Thiên Chúa vẫn hiện diện và bảo vệ chúng ta. Chẳng phải Chúa Giêsu thường khích lệ mỗi người, khi nói: “Ta đây, đừng sợ!” (Mc 6,50). Hãy nhìn về tương lai không phải bằng nỗi lo sợ, mà bằng ánh mắt vui mừng khi biết rằng Thiên Chúa sẽ “lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.” (Kh 21,4). Đây là khung cảnh và thời gian của trời mới đất mới, ngày vinh quang của Thiên Chúa và của mỗi người chúng ta nữa. Ngày này chỉ có Thiên Chúa Cha biết. 

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào sự quan phòng của Ngài. Từ đó chúng con sống mỗi ngày trong niềm vui, không lo sợ trước những điều chưa biết của tương lai. Xin hãy đến và củng cố niềm tin của chúng con. Chúng con luôn sẵn sàng đón nhận Ngài trong bình an và hân hoan, với trái tim tràn đầy hy vọng vào ngày vinh quang của Chúa. Amen.

 

Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J.




Đức Thánh cha bổ nhiệm một linh mục Việt Nam làm Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Melbourne, Australia


Ngày 08 tháng Mười Một năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã bổ nhiệm linh mục Gioakim Nguyễn Xuân Thinh làm Giám mục hiệu tòa Madauro, Phụ tá Tổng giáo phận Melbourne, bên Australia.

image.png
Đức Cha tân cử Gioakim Nguyễn Xuân Thinh

Đức cha Nguyễn Xuân Thinh năm nay 51 tuổi, sinh ngày 03 tháng Giêng năm 1973, tại Sài Gòn, là người con thứ mười một trong gia đình gồm mười ba anh chị em. Đức cha di cư sang Australia năm 13 tuổi, theo học tại Đại học Victoria và đậu Cử nhân ngành kỹ sư, năm 1995.

Sau đó, thầy Nguyễn Xuân Thinh gia nhập Đại chủng viện Corpus Christi, năm 1999 và thụ phong linh mục ngày 16 tháng Chín năm 2006, khi được 33 tuổi. Cha lần lượt làm cha phó tại hai xứ đạo, trước khi làm tuyên úy Đại học Melbourne, rồi làm cha sở giáo xứ Bennettswood, từ năm 2020; năm 2022, cha làm điều hợp viên Văn phòng về đời sống và sứ vụ giáo sĩ.

Tại Australia, đã có một giám mục người Việt, là Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Long, 63 tuổi, Dòng Phanxicô Viện Tu, đã từng làm Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Melbourne, từ năm 2011 đến 2016, rồi làm Giám mục Giáo phận Parramatta.


Các giám mục Hoa Kỳ công bố tuần cửu nhật kính Chúa Kitô Vua, kêu gọi cầu nguyện cho tự do của Giáo hội

Ủy ban Tự do Tôn giáo của các Giám mục, một văn phòng của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, gọi tắt là USCCB, đang khuyến khích các tín hữu tham gia lễ cầu nguyện chín ngày trước lễ Chúa Kitô Vua, sẽ được cử hành vào ngày 24 tháng 11 năm nay.

Tuần cửu nhật kính Chúa Kitô Vua sẽ bắt đầu vào thứ sáu, ngày 15 tháng 11 và kết thúc vào thứ bảy, ngày 23 tháng 11.

Các giám mục đã yêu cầu các tín hữu cầu nguyện với Chúa Kitô Vua “cho sự tự do của Giáo hội”.

Một số ý cầu nguyện trong tuần cửu nhật này là để những người có đức tin có thể tụ họp tại các nhà thờ mà không sợ hãi, để Chúa ban hy vọng và lòng can đảm cho những người đang sống trong sợ hãi vì bị ngược đãi, xin Chúa bảo vệ những người di cư và tị nạn, và xin cho các nhà lãnh đạo doanh nghiệp được tự do thúc đẩy văn hóa sự sống tại nơi làm việc của họ, cùng nhiều ý cầu nguyện khác.

Tuần cửu nhật bao gồm một ý định dành riêng cho mỗi ngày, tiếp theo là một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh và một lời cầu nguyện với Chúa Kitô Vua.

Vào năm 2012, các giám mục đã ban hành một tài liệu có tựa đề “Sự tự do đầu tiên và đáng trân trọng nhất của chúng ta: Tuyên bố về tự do tôn giáo”, trong đó các ngài khuyến nghị rằng lễ trọng Chúa Kitô Vua “phải là ngày được các giám mục và linh mục đặc biệt sử dụng để rao giảng về tự do tôn giáo, cả trong và ngoài nước”, vì đây là ngày lễ “ra đời từ sự phản kháng đối với những cuộc xâm lược toàn trị chống lại tự do tôn giáo”.

“Đối với tất cả những người Công Giáo, chúng tôi kêu gọi hãy tăng cường cầu nguyện và ăn chay để đất nước thân yêu của chúng ta được tái sinh trong nền tự do mới”, tài liệu nêu rõ.

Đức Giáo Hoàng Pius XI đã thiết lập lễ Chúa Kitô Vua vào năm 1925 với thông điệp Quas Primas (“Trong Đấng đầu tiên”) để đáp lại chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa vô thần đang gia tăng. Ngài nhận ra rằng việc cố gắng đẩy Chúa ra khỏi phạm vi công cộng sẽ dẫn đến sự bất hòa liên tục giữa con người và các quốc gia.

Trong thông điệp của mình, Đức Giáo Hoàng nói rằng Chúa Giêsu “là chính chân lý, và chính từ Người mà toàn thể nhân loại phải ngoan ngoãn đón nhận chân lý”.

Thông điệp nêu rõ: “Ngài phải ngự trị trong tâm trí chúng ta, tâm trí phải tuân theo các chân lý được mặc khải và các giáo lý của Chúa Kitô với sự phục tùng hoàn toàn và niềm tin vững chắc. Ngài phải ngự trị trong ý chí của chúng ta, tâm trí phải tuân theo các luật lệ và giới luật của Chúa. Ngài phải ngự trị trong trái tim chúng ta, tâm hồn phải từ bỏ những ham muốn tự nhiên và yêu Chúa trên hết mọi sự, và chỉ gắn bó với một mình Ngài. Ngài phải ngự trị trong thân xác và các chi thể của chúng ta, tâm hồn phải phục vụ như những công cụ để thánh hóa nội tâm của linh hồn chúng ta, hoặc dùng lời của Thánh Tông Đồ Phaolô, 'như những công cụ công lý cho Chúa.'“





U.S. bishops announce Christ the King novena, urge prayers for ‘freedom of the Church’




Thượng hội đồng có biến đổi Giáo hội giống như Vatican II đã biến đổi không?

Đức Phanxicô: “Thượng hội đồng có biến đổi Giáo hội giống như Công đồng Vatican II đã biến đổi Giáo hội không?”

Linh mục Gilles Routhier, chuyên gia tại Thượng Hội đồng về tính đồng nghị, nhà giáo hội học, giáo sư thần học tại Đại học Laval, Québec, Canada. Linh mục nói về mối liên hệ của linh mục với “kinh nghiệm” Công đồng Vatican II.

Đức Phanxicô và các thành viên tham dự Thượng Hội đồng ngày 26 tháng 10 tại Vatican. 

Vào cuối Công đồng Vatican II, nhiều tiếng nói vang lên: “Công đồng kết thúc…; công đồng bắt đầu!” Chúng tôi ý thức có rất nhiều điều phải được tiếp nhận và thực hiện nếu muốn Giáo hội có một khuôn mặt trẻ, mới như Đức Gioan XXIII mong muốn. Cuộc cải cách phụng vụ là một trong những cuộc đổi mới được thực hiện một cách có hệ thống nhất. Nhưng còn rất nhiều điều khác cần được thực hiện.

Dù có những thay đổi bất thường, những chống đối, những chệch hướng, Công đồng đã để lại những dấu vết sâu sắc trong đời sống Giáo hội, trong các thực hành, trong các mối quan hệ với người khác, giữa các tín hữu (giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân), giữa các tín hữu không công giáo thuộc các giáo phái khác và của Giáo Hội với thế giới đương thời. Điều này là do những gì Công đồng đã giảng dạy, cũng như thực tế Công đồng là một sự kiện.

Một giám mục tham dự Công đồng đã kể cho tôi nghe sự kiện này đã biến đổi ngài như thế nào. Đây cũng là kinh nghiệm mà nhiều người đã có được trong tiến trình Thượng Hội đồng và thách thức ngay từ đầu là làm cho hành trình này là kinh nghiệm có khả năng biến đổi cách chúng ta hiểu và sống Giáo hội. Vào năm 2021, khi trình bày cách tiếp cận đồng nghị đang bắt đầu, Tài liệu chuẩn bị đã nói lên những gì chúng ta mong chờ từ Thượng Hội đồng, đó không phải là đọc một tài liệu, nhưng là biến đổi trong cách thực hành của chúng ta, về cách chúng ta ở bên nhau, và đó là Giáo hội của Chúa, mục tiêu cuối cùng là đổi mới Giáo hội thông qua kinh nghiệm học hỏi và biến đổi này.

Hiện nay chúng ta vẫn chưa dễ dàng để đánh giá kết quả dù chúng ta phải làm, chúng ta phải đánh giá Thượng Hội đồng sắp kết thúc chứ không phải chỉ từ việc xem xét tài liệu cuối cùng. Chúng ta đã học cách trở thành Giáo hội cùng nhau, trong sự đa dạng về nguồn gốc văn hóa, sự đa dạng về đoàn sủng của các thành viên trong tổ chức này chưa?

Một quá trình đáng lo ngại 

Những gì được đề xuất là một kinh nghiệm học tập, “vừa học vừa làm”, đòi hỏi nhiều thời gian hơn là ban hành chỉ thị hoặc thông qua luật và trên hết là đòi hỏi sự tham gia của càng nhiều người càng tốt. Chính qua một tiến trình cụ thể mà tất cả giáo dân được mời gọi tìm hiểu Giáo hội là gì: một dân đang chuyển động, cùng nhau tìm ý Chúa, tiến về phía trước dù có những giới hạn và xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong khi nhiều người muốn ngài đưa ra phán quyết về một số vấn đề gây tranh cãi, nhưng ngài lại đưa ra một quy trình làm bối rối.

Quy trình không bắt đầu bằng một đại hội lớn ở Rôma, nhưng bằng thì giờ lắng nghe trong các Giáo hội địa phương, nơi hiện thực hóa Giáo hội. Chúng ta không đi từ Rôma đến các Giáo hội địa phương, nhưng từ các Giáo hội địa phương đến Rôma, điều này đã là một đảo ngược đáng kể. Vào cuối giai đoạn đầu tiên, Văn phòng Thư ký Thượng Hội đồng đã nhận được sự đóng góp của 112 trong số 114 Hội đồng Giám mục và 15 Giáo hội Công giáo Đông phương cũng như các nhóm khác. Trong giai đoạn giáo phận đầu tiên này, hàng triệu tín hữu trên khắp thế giới đã tham gia vào các nhóm đồng nghị.

Để đánh giá kinh nghiệm này có thực sự là kinh nghiệm biến đổi có khả năng tạo được thay đổi lâu dài trong cách thức trở thành Giáo hội hay không, chúng ta nên áp dụng cách tiếp cận và phương pháp giúp chúng ta quan sát những gì đang diễn ra trên thực tế chứ không chỉ đọc văn bản cuối cùng. Chúng ta biết, điều này đã thay đổi một số thực hành nào đó trong các giáo phận, giáo xứ, hoạt động của các Hội đồng Giám mục mặc dù vẫn còn nhiều việc phải làm, và tài liệu cuối cùng khẩn thiết kêu gọi chúng ta làm như vậy.

Chúng ta không chỉ xem xét những gì đã được nói mà còn xem xét những gì mọi người đã học được qua kinh nghiệm này, những gì đã thay đổi kể từ đó và những gì vẫn có thể thay đổi trong giai đoạn tiếp nhận đang bắt đầu. Cuộc họp thứ 16 của Thượng Hội đồng kết thúc, nhưng men phân tán của Thượng Hội đồng trong các Giáo hội vẫn được kêu gọi để hoạt động trong cơ thể giáo hội. Việc canh tân Giáo hội do Thượng Hội đồng khởi xướng (thái độ, thực hành, thể chế, linh đạo) được mời gọi tiếp tục thực hiện và không được dừng lại. 

Đã bắt đầu chuyển đổi

Tài liệu Tổng hợp giai đoạn đầu, chắc chắn là bản văn gần gũi nhất với kinh nghiệm cho thấy trên đường đi, các kitô hữu được trải nghiệm được niềm vui thấy mình giữa các anh chị em trong Chúa Kitô, được chia sẻ những gì vang vọng trong họ khi lắng nghe Lời Chúa để cùng nhau suy ngẫm về việc phục vụ Tin Mừng mà Giáo hội được kêu gọi để loan truyền cho thế giới. Điều này thúc đẩy ước muốn về một Giáo hội ngày càng có tính đồng nghị, và đối với nhiều người, tính đồng nghị không còn là một khái niệm trừu tượng mà trở thành một trải nghiệm cụ thể; họ đã nếm được hương vị và muốn tiếp tục hưởng hương vị này.

Điều này cũng đã được trải nghiệm trong giai đoạn lục địa và trong hai kỳ đại hội ở Rôma. Thành quả này phải ngày càng phát triển. Khi đưa vào huấn quyền các thành quả của các cuộc thảo luận, Đức Phanxicô cho chúng ta biết, việc điều hành Giáo hội và huấn quyền của giáo hoàng không thể tách rời khỏi cuộc thảo luận của toàn thể dân Chúa. Thượng Hội đồng đã kết thúc. Thượng Hội đồng bắt đầu. Tài liệu cuối cùng là lời kêu gọi hoán cải Giáo hội Công giáo, một cuộc hoán cải đã được tiến hành nhưng vẫn còn tiếp tục.



Đức Hồng y Müller bày tỏ lập trường về di dân


Đức Hồng y Gerhard Müller, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, khẳng định rằng: “Giáo hội phải bảo vệ nhân phẩm của tất cả mọi người, kể cả những người di dân bất hợp pháp, nhưng cần nhớ rằng không ai có quyền sống tại bất kỳ nơi nào họ muốn. Vì thế, việc can thiệp vào trường hợp di cư bất hợp pháp, không phải là trái với các quyền con người”.

Đức Hồng y Müller bày tỏ lập trường trên đây, trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Il TempoThời Báo, số ra ngày 12 tháng Mười Một vừa qua, tại Ý.

Trả lời câu hỏi: Phải chăng là điều phản Kitô việc trả về nước những người di dân bất hợp pháp? Đức Hồng y Müller đáp: “Tuyệt đối là không. Đứng trước việc di cư bất hợp pháp, nhà nước có quyền gửi những người ấy về quốc gia nguyên quán, nếu họ không bị nguy cơ mất mạng tại đó. Chúng ta phải giúp đỡ các nước đang phát triển, nhưng chúng ta không thể nghĩ, ví dụ như toàn thể dân chúng tại Phi châu có thể di cư tới Âu châu để giải quyết các vấn đề hiện nay. Nhà Nước có quyền bảo vệ biên giới của mình và tái lập chế độ pháp trị. Những người chết trên biển và ở trong tình trạng nguy hiểm cần phải được cứu giúp, nhưng những quy luật để ấn định việc di cư hợp pháp là vấn đề hoàn toàn khác”.

Trong cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y Müller cũng cho biết ngài không phật lòng vì ông Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ và tin rằng các phiếu của các cử tri Công giáo ở Mỹ đã giúp ông trở lại Nhà Trắng. Đức Hồng y nói: “Điều rõ ràng đối với tôi là lập trường luân lý đạo đức là điều quyết định đối với các cử tri Công giáo, vì ứng cử viên Kamala Harris hiển nhiên là người chống sự sống. Tiêu chuẩn còn lại là bỏ phiếu cho các chính trị gia ủng hộ sự sống”.

Trong bối cảnh này, Đức Hồng y Müller đánh giá tiêu cực về sự kiện Tổng thống Biden, tổng thống thứ hai là người Công giáo ở Mỹ, tuy tự xưng là Công giáo, nhưng lại theo đuổi những chính sách phản Kitô giáo.

Đức Hồng y Bechara Rai hy vọng nơi Tổng thống Trump

Đức Hồng y Bechara Rai, Giáo chủ Công giáo Maronite bên Liban, hy vọng việc bầu chọn tổng thống thứ 47 của Mỹ Donald Trump, có thể đưa tới một cuộc đình chiến dài hạn giữa các dân quân Hezbollah và Israel.



Trong bài giảng thánh lễ hôm Chúa nhật, ngày 10 tháng Mười Một vừa qua, tại Tòa Thượng phụ Maronite, ở Bkerké, gần Beirut, Đức Hồng y nói: “Tôi hân hoan chúc mừng nước Mỹ về việc bầu Tổng thống mới Donald Trump, và đích thân chúc mừng ông đắc cử, chúng tôi hy vọng việc bầu cử này có thể mang lại tin vui cho Liban và toàn vùng. Hy vọng ông Trump, qua đường ngoại giao, sẽ đạt tới một cuộc ngưng bắn trường kỳ giữa Israel và Hezbollah.”

Đức Thượng phụ tái kêu gọi các giới chức chính trị tại Liban bầu được một vị tổng thống mới, có thể hướng dẫn tất cả những cuộc thương thuyết liên quan đến Liban và bình thường hóa các cơ cấu của đất nước”.

Liban không có tổng thống từ cuối tháng Mười năm 2022, tức là đã hơn hai năm, sau khi Tổng thống Michel Aoun mãn nhiệm kỳ. Các đảng phái chính trị tại quốc hội nước này không thỏa thuận được với nhau để bầu một vị tổng thống mới cho đất nước.





Về kết quả bầu cử tổng thống, các giám mục Hoa Kỳ nhấn mạnh các ưu tiên mục vụ lâu dài

John Lavenburg của tạp chí Crux, ngày 13 tháng 11 năm 2024, tường trình bình luận về việc cựu Tổng thống Donald Trump đắc cử nhiệm kỳ tổng thống thứ hai, của Đức Cha Michael Burbidge, Giám mục của Arlington, để nhắc nhở rằng bất kể ai nắm giữ Nhà Trắng thì sự ủng hộ và các ưu tiên của Giáo hội sẽ không thay đổi.

“Bất kể kết quả cuộc bầu cử hôm thứ Ba là gì, chúng ta biết vào thứ Tư rằng điều gì đó sẽ không thay đổi – đó là chúng ta là một quốc gia dưới sự bảo vệ của Chúa,” ĐC Burbidge nói. “Bất kể điều gì xảy ra hôm thứ Ba, với tư cách mục tử, chúng ta vẫn duy trì nhiệm vụ công bố, tôn vinh Tin Mừng của sự sống, là trọng tâm của việc bảo vệ và che chở tất cả mọi người từ lúc thụ thai cho đến khi chết tự nhiên”.

ĐC Burbidge, chủ tịch Ủy ban Hoạt động Bảo vệ Sự sống của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, đã đưa ra những bình luận tại cuộc họp thường niên của các giám mục vào mùa thu tại Baltimore, diễn ra trong năm nay từ ngày 11 đến 14 tháng 11. Giống như ĐC Burbidge, những phát biểu về cuộc bầu cử tại phiên họp công khai ngày 12 tháng 11 đã được cân nhắc, tập trung vào các ưu tiên vận động của Giáo hội và vai trò trong xã hội đối lập với chính Trump.

Đức Hồng Y Christophe Pierre, sứ thần tòa thánh tại Hoa Kỳ, chỉ đề cập đến cuộc bầu cử trong các phát biểu trước các giám mục Hoa Kỳ khi nói rằng “chúng ta đã trải qua một chu kỳ bầu cử căng thẳng, điều này đã thách thức chúng ta làm chứng cho Tin Mừng hòa bình trong bối cảnh bầu không khí chính trị có vẻ giống như một cuộc chiến tranh”.

Trong khi đó, liên quan đến cuộc bầu cử, Đức Tổng Giám Mục Timothy Broglio – trong bài phát biểu của ngài với tư cách là chủ tịch Hội Đồng Giám mục Hoa Kỳ – đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc công bố Tin Mừng và tập hợp mọi người lại với nhau.

“Là những Người kế vị các Tông đồ và là đại diện của Chúa Kitô trong các giáo phận của chúng ta, chúng ta không bao giờ lùi bước hoặc từ bỏ giáo lý rõ ràng của Tin Mừng”, ĐTGM Broglio, người lãnh đạo Tổng giáo phận Quân đội Hoa Kỳ, cho biết.

“Chúng ta phải nhấn mạnh đến phẩm giá của con người từ khi còn trong bụng mẹ cho đến khi chết, không ngừng cam kết… nhìn thấy Chúa Kitô nơi những người cần nhất, bảo vệ và nâng đỡ người nghèo, và khuyến khích cải cách nhập cư, trong khi chúng ta tiếp tục chăm sóc những người cần vượt biên giới của chúng ta”, ngài nói tiếp.

“Đồng thời, chúng ta phải khuyến khích mọi người cùng nhau làm việc, lắng nghe nhau và trong bất đồng quan điểm, đừng bao giờ quên rằng người khác được tạo ra theo hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa, do đó, đáng được tôn trọng”, ngài nói. “Chúng ta phải tăng gấp đôi nỗ lực để đưa sự lịch sự vào các cuộc thảo luận hàng ngày”.

Trong khi ĐHY Pierre và ĐTGM Broglio đưa ra bình luận trong phiên họp công khai, ĐC Burbidge đưa ra bình luận của ngài trong một cuộc thảo luận có sự điều phối giữa trưa dành cho các nhà báo mà ngài tham gia cùng ĐTGM Broglio và ĐC Mark Seitz của El Paso, chủ tịch Ủy ban Di cư của Hội Đồng Giám mục Hoa Kỳ.

Bình luận từ ba vị giám mục về cuộc bầu cử phần lớn tránh đề cập cụ thể đến Ông Trump và các chính sách có thể có của ông, và tập trung nhiều hơn vào vai trò của họ với tư cách là mục tử để công bố Tin Mừng và tập hợp mọi người lại với nhau. Tuy nhiên, ĐC Seitz và ĐTGM Broglio đã thẳng thắn hơn khi được hỏi về cách tiếp cận có thể có của Trump đối với các vấn đề nhập cư.

Khi được hỏi về khả năng trục xuất hàng loạt, ĐC Seitz cho biết nếu điều đó trở thành chính sách, hội đồng sẽ "lên tiếng [một cách] to tiếng, đồng thời nói thêm rằng cách thức diễn ra sẽ là "một phép thử đối với quốc gia của chúng ta".

ĐC Seitz hỏi "Chúng ta có thực sự là một quốc gia dựa trên luật pháp, trên những luật cơ bản nhất về quyền của con người hay chúng ta không là?". “Và chúng ta không có lực lượng cảnh sát hay quân đội hay bất cứ thứ gì tương tự, nhưng chúng ta chắc chắn sẽ cố gắng hết sức phát biểu điều đó, và sau đó cũng đồng hành cùng những người bị đe dọa bởi những hành động cuối cùng sẽ là bất công đối với một số người.”

ĐC Seitz cũng thừa nhận về chủ đề đó rằng có những người nhập cư ở Hoa Kỳ không tôn trọng cơ hội nhập cảnh vào đất nước này và hệ thống tư pháp cần phải “hành động theo cách phù hợp” để giải quyết những người đã bị kết án phạm tội.

ĐTGM Broglio, về các cuộc trục xuất hàng loạt, cho rằng chúng có vẻ “không lành mạnh về mặt kinh tế”. Về vấn đề nhập cư nói chung, ngài cho biết hội đồng hy vọng chính quyền mới sẽ thực hiện các bước hướng tới cải cách nhập cư toàn diện, cũng như tôn trọng phẩm giá của con người.

“Chúng tôi chắc chắn không khuyến khích nhập cư bất hợp pháp, nhưng chúng tôi chắc chắn sẽ chăm sóc những người đến đất nước này và thực sự đại diện cho khuôn mặt của Chúa Kitô trong nhu cầu của họ, vì vậy tôi nghĩ rằng khi chúng ta tiến về phía trước, chúng ta hy vọng sẽ có một nỗ lực nghiêm túc để sửa đổi luật nhập cư ở đất nước này, và cũng sẽ có sự tôn trọng mới đối với phẩm giá của con ngườ,” ĐTGM Broglio nói.

Giống như bình luận của ĐC Burbidge lúc đầu, câu trả lời mà ngài đưa ra cho một câu hỏi bao quát về những bất đồng có thể xảy ra giữa hội đồng với chính quyền Trump sắp tới về phá thai, thụ tinh trong ống nghiệm và nhập cư, có lẽ tóm tắt cách tiếp cận của hội đồng.

“Chúng tôi sẽ tiếp tục đối thoại với các quan chức được bầu của mình như chúng tôi vẫn luôn làm với tất cả các chính quyền, để nắm bắt cơ hội giáo dục ở nơi chúng tôi có thể có một cuộc trò chuyện tôn trọng,” ĐC Burbidge nói. “Nhưng nhiệm vụ thì giống nhau và chúng tôi sẽ tiếp tục những nỗ lực đó.”


Liên minh bất ngờ giữa Donald Trump, Viktor Orban và Đức Giáo Hoàng Phanxicô có thể làm chệch hướng sự ủng hộ dành cho Ukraine

Trên tờ The Independent của Anh, ngày 11 tháng 11, 2024, David Maddox viết rằng Bộ ba bất ngờ gồm Donald Trump, thủ tướng cánh hữu Hungary Viktor Orban và Đức Giáo Hoàng Phanxicô có thể là dấu chấm hết cho hy vọng tiếp tục ủng hộ Ukraine trong cuộc chiến chống lại nước Nga của Vladimir Putin.

Tờ Independent đã trao đổi với đại sứ Hungary tại Vatican, Eduard Habsburg-Lothringen, người đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực tạo ra một liên minh quốc tế nhằm tìm ra một "thỏa thuận hòa bình" để chấm dứt chiến tranh.

Ông đã nói về cách Đức Giáo Hoàng Phanxicô đóng vai trò quan trọng trong việc ủng hộ một thỏa thuận mà có thể sẽ chứng kiến ông Trump thúc đẩy tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky nhượng lại lãnh thổ cho Nga.

Sự việc diễn ra khi Ngài Keir Starmer có cuộc hội đàm tại Paris với tổng thống Pháp Emmanuel Macron vào thứ Hai. Ukraine và nhu cầu về một hiệp ước an ninh châu Âu như một phần của quá trình thiết lập lại hậu Brexit là vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự khi các nhà lãnh đạo tuyên bố sẽ đảm bảo tiếp tục ủng hộ Kyiv.

Trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng John Healey đã bác bỏ một cách thách thức những tuyên bố rằng tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ sẽ đảo ngược chính sách hiện tại của Ukraine. Ông nói với Sky News: "Tôi không mong đợi Hoa Kỳ sẽ quay lưng lại với NATO. Họ nhận ra tầm quan trọng của liên minh. Họ nhận ra tầm quan trọng của việc tránh xung đột thêm ở châu Âu".

Đức Giáo Hoàng, cùng với Hungary, đã kêu gọi ngừng bắn và đàm phán "để phá vỡ chu kỳ" chiến tranh và đạt được hòa bình. Ông Orban được coi là nhà lãnh đạo Liên hiệp Âu Châu (EU) gần gũi nhất với ông Putin, thậm chí đã đến thăm Moscow vào mùa hè, trong khi ông cũng phản đối việc cung cấp vũ khí và tiền cho Kyiv.

Tuần trước tại hội nghị thượng đỉnh Cộng đồng Chính trị Châu Âu, ông Orban đã khoe khoang về cách "thế giới đang thay đổi" khi ông Trump tái đắc cử, đồng thời tái khẳng định yêu cầu ngừng bắn của Ukraine.

Cuộc đụng độ với ông Zelensky, người có mặt tại hội nghị thượng đỉnh, khiến nhà lãnh đạo Ukraine nhận định rằng thủ tướng Hungary là nhà lãnh đạo quốc gia thành viên NATO duy nhất phản đối tư cách thành viên của Ukraine trong liên minh quốc phòng.

Kể từ khi đắc cử cách đây chưa đầy một tuần, ông Trump đã được cho là đã có cuộc điện đàm với ông Putin, cảnh cáo ông này "không được leo thang chiến tranh" trước lễ nhậm chức.

Sau nhiều lần đến thăm ông Trump tại nhà riêng ở Mar-a-Lago, ông Orban đã chuyển từ việc bị cô lập trên trường quốc tế về cuộc chiến sang trở thành đồng minh thân cận nhất của tổng thống đắc cử tại châu Âu.

Phát biểu với tờ The Independent, ông Habsburg-Lothringen cho biết: "Trong nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên của Donald Trump, quan hệ chính trị giữa Hungary và Mỹ đã đạt đến đỉnh cao, với đối thoại và đàm phán đóng vai trò trung tâm trong việc giải quyết các cuộc xung đột đe dọa an ninh thế giới.

"Sau quyết định của cử tri Mỹ cách đây vài ngày, chúng tôi thực sự hy vọng rằng hợp tác chính trị giữa Hungary và Mỹ sẽ trở lại đỉnh cao: chúng tôi có chung quan điểm về hòa bình, nhập cư bất hợp pháp và bảo vệ gia đình. Tôi tin rằng có nhiều cơ hội hơn bao giờ hết để hòa bình cuối cùng sẽ trở lại Ukraine sau gần một nghìn ngày chiến tranh".

Đức Giáo Hoàng gần đây đã có chuyến thăm Hungary và nói với ông Habsburg-Lothringen rằng mối quan hệ của ngài với quốc gia Đông Âu này xuất phát từ một nhóm nữ tu Hungary sống ở Argentina sau khi chạy trốn sau cuộc xâm lược của Nga năm 1956.

Bây giờ, với quan điểm chung của họ là chấm dứt sớm chiến tranh, ông tin rằng Đức Giáo Hoàng sẽ ủng hộ một thỏa thuận hòa bình mà tất cả các đồng minh phương Tây khác trong NATO phản đối.

“Trong những năm qua, Hungary đã đấu tranh đơn độc để ngừng bắn ngay lập tức và hòa bình ở Ukraine. Là một nước láng giềng trực tiếp và có một nhóm thiểu số người Hungary bên trong Ukraine mang lại cho chúng ta một tầm nhìn rất rõ ràng. Đồng minh duy nhất là Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã nói theo cùng một hướng và tham gia vào ngoại giao hòa bình.

“Với Tổng thống mới Trump, chúng ta có một đồng minh đã tuyên bố rõ ràng, ngay cả trong bài phát biểu của mình trong đêm bầu cử, rằng ông muốn chấm dứt chiến tranh, điều đó cũng có nghĩa là chiến tranh ở Ukraine. Điều này khiến tôi tràn đầy hy vọng.”

Ông nói thêm: “Bạn có thể nói rất nhiều điều về Donald Trump, thậm chí bạn có thể không thích ông ấy, nhưng có một điều mà không ai nghi ngờ: ông ấy sẽ không bắt đầu một cuộc chiến tranh. Tôi coi ông ấy là người ghét chiến tranh, và là một doanh nhân thực thụ, người nghĩ rằng mọi thứ sẽ tốt hơn nếu không có chiến tranh.”

Trong một cuộc phỏng vấn trước đó với The Independent, đại sứ đã phác thảo lập trường của Hungary và Vatican về các cuộc đàm phán.

“Chừng nào không có ai đàm phán với Nga, thì sẽ không có cuộc đối thoại thực sự nào xảy ra. Vatican khuyến khích mạnh mẽ bầu không khí nói chuyện giữa mọi người với mọi người, và tôi tin rằng đây sẽ là bước tiến. Đó là điều tôi đã nói, trước khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Viktor Orban yêu cầu ngừng bắn ngay lập tức và đàm phán hòa bình ngay lập tức.”

Bốn Phép lạ Thánh Thể được công nhận từ thế kỷ 21

Trong các bài viết về Bí tích Thánh Thể, Cha Spitzer nhắc nhở chúng ta rằng một phép lạ Thánh Thể xảy ra mỗi ngày, tại mọi Thánh lễ trên khắp thế giới, khi bản chất của bánh và rượu được biến đổi thành bản chất của Mình và Máu Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, thuật ngữ “phép lạ Thánh Thể” cũng có thể ám chỉ những dấu hiệu thực nghiệm phi thường về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, chẳng hạn như bánh thánh chảy máu hoặc sự biến đổi bánh thánh đã được truyền phép thành một mảnh mô cơ tim.

“Đối với chúng ta, những người có đức tin, những gì chúng ta đã thấy là điều mà chúng ta luôn tin tưởng... Nếu Chúa chúng ta đang nói với chúng ta bằng cách ban cho chúng ta dấu hiệu này, thì chắc chắn chúng ta cần có phản hồi.” —Giám mục Cyril Mar Baselice, Tổng giám mục giáo phận Trivandrum cho biết như trên về Phép lạ Thánh Thể tại Chirattakonam, Ấn Độ

Một số phép lạ Thánh Thể đáng chú ý đã xảy ra cách đây nhiều năm (như Phép lạ Thánh Thể ở Lanciano, Ý, vào thế kỷ thứ 8 và Phép lạ Thánh Thể ở Santarem, Bồ Đào Nha, vào thế kỷ thứ 13). Những phép lạ khác đã xảy ra trong lịch sử gần đây hơn, chẳng hạn như các phép lạ Thánh Thể đã được khoa học chứng minh ở Buenos Aires vào năm 1992-1996. Tuy nhiên, có một số phép lạ đã xảy ra chỉ trong hai mươi năm qua. Dưới đây là bốn câu chuyện về các phép lạ Thánh Thể đã được chấp thuận và xảy ra mới gần đây thôi:

Legnica, Ba Lan, 2013

Chirattakonam, Ấn Độ, 2001

Tixtla, Mexico, 2006

Sokolka, Ba Lan, 2008

Phép lạ Thánh Thể tại Legnica: Một Bánh Thánh đang chảy máu

Vào ngày Giáng Sinh năm 2013, tại Nhà thờ Saint Hyacinth ở Legnica, Ba Lan, một bánh thánh đã được thánh hiến rơi xuống sàn. Bánh thánh được đặt vào một thùng chứa nước để hòa tan. Thay vào đó, nó tạo thành các vết màu đỏ. Vào tháng 2 năm 2014, bánh thánh đã được nhiều viện nghiên cứu khác nhau kiểm tra, bao gồm cả Khoa Y học Pháp y ở Szczecin. Các nhà nghiên cứu tuyên bố rằng:

“Trong hình ảnh mô bệnh học, các mảnh vỡ được tìm thấy chứa các phần bị phân mảnh của cơ vân chéo. Nó giống nhất với cơ tim.”

Ngoài ra, tương tự như những phát hiện trong phép lạ Thánh Thể ở Lanciano, bên Ý, nghiên cứu phát hiện ra rằng mô có những thay đổi xuất hiện trong tình trạng đau khổ lớn.

Bánh Thánh chảy máu ở Ba Lan đã được Đức Giám Mục Zbigniew Kiernikowski của Legnica chấp thuận cho tôn kính vào tháng 4 năm 2016. Ngài cho biết rằng nó “có dấu hiệu của một phép lạ Thánh Thể”.

Phép lạ Thánh Thể ở Tixtla, Mexico

Vào tháng 10 năm 2006, một giáo xứ trong Giáo phận Chilpancingo-Chilapa của Mexico đã tổ chức một buổi tĩnh tâm. Trong thánh lễ, hai linh mục và một nữ tu đang trao Mình Thánh Chúa thì nữ tu nhìn linh mục chủ tế nghẹm ngào với đôi mắt đẫm lệ. Mình Thánh mà sơ đang cầm trên tay đã bắt đầu chảy ra một chất màu đỏ.

Để xác định tính xác thực của sự kiện này, Đức Cha Alejo Zavala Castro đã yêu cầu Tiến sĩ Ricardo Castañón Gómez (người nghiên cứu phép lạ Thánh Thể ở Buenos Aires) và nhóm của ông tiến hành nghiên cứu khoa học.

Năm 2013, nghiên cứu kết luận rằng:

“Chất màu đỏ được phân tích tương ứng với máu có chứa hemoglobin và DNA có nguồn gốc từ con người... Nhóm máu là AB, tương tự như nhóm máu được tìm thấy trong Bánh thánh Lanciano và trong Tấm vải liệm Turin.”

Phép lạ Thánh Thể tại Chirattakonam, Ấn Độ, 2001

Mặc dù hầu hết các phép lạ Thánh Thể đều liên quan đến một Mình Thánh chảy máu, phép lạ ở Chirattakonam, Ấn Độ, lại có một chút khác biệt. Vào một buổi sáng tháng 4 năm 2001, Cha Johnson Karoor, cha xứ tại giáo xứ St. Mary ở Chirattakonam, Ấn Độ, đã đặt Mình Thánh Chúa để tôn thờ. Ngay sau đó, Cha Karoor nhận thấy ba chấm trên Mình Thánh và chia sẻ những gì ngài nhìn thấy với mọi người, những người cũng nhìn thấy các chấm đó.

Sau đó, vị linh mục rời đi trong một tuần và trở lại và thấy rằng bánh thánh đã tạo ra hình ảnh khuôn mặt người. Ông hỏi một người giúp lễ khác xem người ấy có thấy gì trong bánh thánh không để bảo đảm đó không phải là trí tưởng tượng của ngài. “Thưa cha, con thấy hình một người đàn ông”, người giúp lễ trả lời. Sau Thánh lễ, Cha Karoor đã nhờ một nhiếp ảnh gia địa phương chụp lại hình ảnh bánh thánh.

Phép lạ Thánh Thể ở Sokolka, Ba Lan

Trước khi có phép lạ Thánh Thể chảy máu ở Legnica, đã có một phép lạ Thánh Thể khác xảy ra ở thành phố Sokolka tại Ba Lan.

Phép lạ xảy ra vào năm 2008 tại nhà thờ St. Anthony. Sáng hôm đó trong Thánh lễ, một linh mục vô tình làm rơi một Mình Thánh khi đang trao Mình Thánh. Sau đó, Mình Thánh được đặt vào một bình đựng nước nhỏ. Cha Stanislaw Gniedziejko, là cha xứ, đã yêu cầu người giữ đồ thánh, Sơ Julia Dubowska thuộc Hội dòng các Nữ tu Thánh Thể, đặt bình đựng vào một két sắt trong phòng thánh. Sau một tuần, Sơ Julia đã kiểm tra Mình Thánh. Khi mở két sắt, Sơ ngửi thấy mùi gì đó giống như bánh không men, và Mình Thánh có một vết máu đỏ trên đó.

Ngay lập tức, Sơ Julia và Cha Gniedziejko đã báo cho Đức Tổng Giám Mục Bialystok, là Đức Cha Edward Ozorowski, về bánh thánh. Đức Giám Mục đã lấy bánh thánh nhuộm màu ra khỏi vật đựng và đặt trên một khăn thánh, và đặt ở trong nhà tạm trong ba năm. Trong thời gian này, mảnh bánh thánh nhuộm màu đã khô lại (trông giống như vết máu hoặc cục máu đông hơn), và một số nghiên cứu đã được tiến hành trên bánh thánh. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng mảnh bánh thánh bị biến đổi giống hệt với mô cơ tim của một người sắp chết. Ngoài ra, cấu trúc của các sợi cơ và cấu trúc của bánh mì được đan xen theo một cách mà con người không thể tạo ra được.



Vatican và Microsoft hợp tác để giúp du khách có trải nghiệm tuyệt vời về Đền thờ Thánh Phêrô

Ngày 11/11/2024, khi Giáo hội chuẩn bị cho việc cử hành Năm Thánh vào năm 2025, một dự án sử dụng Trí tuệ nhân tạo (AI) có tên: “Đền thờ Thánh Phêrô: Trải nghiệm nâng cao nhờ AI”, với sự hợp tác của Microsoft và Iconem, một công ty số hóa di sản, đã được công bố. Dự án nhắm đưa Đền thờ Thánh Phêrô đến gần hơn với khán giả toàn cầu và nâng cao trải nghiệm của khách hành hương và du khách.

Các diễn giả tại cuộc họp báo đã giải thích rằng việc tạo bản sao kỹ thuật số của Đền thờ Thánh Phêrô cho phép thực hiện các chuyến tham quan ảo và triển lãm kỹ thuật số chuyên sâu, giúp tái hiện rõ nét hơn sự vĩ đại của Đền thờ, một kỳ quan thời Phục hưng.

Đức Hồng y Mauro Gambetti, Giám quản Đền thờ, đã bày tỏ sự vui mừng trong buổi họp báo, so sánh trải nghiệm này với việc ngắm nhìn “bầu trời đầy sao vào một đêm hè”. Ngài nói: “Các công cụ mới hoạt động như một kính viễn vọng hoặc tàu vũ trụ để quan sát tốt hơn”.

Chủ tịch Microsoft Brad Smith phát biểu tại buổi họp báo rằng quan hệ đối tác giữa Vatican và Microsoft đáng chú ý không chỉ vì tham vọng mà còn vì việc sử dụng công nghệ sáng tạo để phục vụ đức tin và di sản.

Giúp tiếp cận di sản thiêng liêng

Trong một cuộc phỏng vấn của Vatican News, ông đã suy tư về vai trò độc đáo mà công nghệ có thể đóng góp trong việc kết nối quá khứ và hiện tại. Ông tin rằng nó bổ sung vào trải nghiệm thiêng liêng của những người hành hương đến Roma. Ông giải thích rằng trải nghiệm ảo mang đến một góc nhìn mới, cho phép người xem “nhìn thấy những phần của Đền thờ mà chúng ta không thể nhìn thấy” và thông qua triển lãm kỹ thuật số, du khách có thể tiếp cận những không gian thường nằm ngoài tầm với, như các lăng mộ thời đế quốc Roma bên dưới và các tác phẩm nghệ thuật phức tạp trên mái vòm cao của Đền thờ.

Khi trình bày sáng kiến này, ông giải thích rằng bản sao ảo được tạo ra bằng công nghệ máy bay không người lái, máy ảnh và công nghệ quét laser tiên tiến để ghi lại mọi chi tiết của Đền thờ, sau đó là các thuật toán AI tiên tiến để ghép nối dữ liệu lại với nhau. Điều này nhằm mục đích cho phép thế hệ mới tham gia vào sự tráng lệ của Đền thờ theo một định dạng phù hợp với họ.

Chủ tịch Microsoft nói rằng dự án này cho thấy rõ sự sẵn lòng của Vatican trong việc áp dụng công nghệ mới như một phương tiện thăng tiến đức tin và giúp kho báu của mình dễ tiếp cận theo những cách trước đây không thể tưởng tượng được.

Đức tin và công nghệ

Đề cập đến những lo ngại rằng các công nghệ mới như AI có thể xung đột với đức tin, ông nói: “Thông thường, người ta có thể bắt đầu bằng cách cho rằng công nghệ mới có sự căng thẳng với tôn giáo hoặc đức tin”, nhưng ông kết luận rằng dự án này cho thấy có một cách để hòa giải sự căng thẳng này. Dự án giải quyết vấn đề theo cách loại bỏ sự căng thẳng và “mang đến cho mọi người cơ hội làm điều gì đó lớn lao hơn những gì họ có thể tưởng tượng”.


Vatican cấm Thánh lễ Latinh truyền thống tại nhà thờ cũ của Đức Cha Strickland

Theo lệnh được Vatican phê chuẩn, việc cử hành Thánh lễ truyền thống bằng tiếng La-tinh tại nhà thờ chính tòa của Giáo phận Tyler, Texas, sẽ chấm dứt vào ngày 1 tháng 12, gần một năm sau khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô cách chức Giám mục của Đức Cha Joseph Strickland, một trong những người chỉ trích ngài thẳng thắn nhất, khỏi vị trí nhà lãnh đạo giáo phận.

Đức Cha Joe S. Vásquez của Austin, người từng là giám quản tông tòa của Giáo phận Tyler ở Đông Texas kể từ khi Đức Cha Strickland bị cách chức một cách đầy kịch tính vào ngày 11 tháng 11 năm ngoái, đã thông báo về động thái này trong một lá thư gửi cho giáo dân của Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội ở Tyler, nơi đã cử hành Thánh lễ Chúa Nhật lúc 2 giờ chiều bằng tiếng La tinh.

Phát ngôn nhân của giáo phận cũng xác nhận với CNA rằng các Thánh lễ được cử hành theo nghi thức phụng vụ trước Công đồng Vatican II cũng sẽ bị dừng lại tại bốn giáo xứ khác: Mary Queen of Heaven ở Malakoff, Sacred Heart ở Texarkana, St. Francis of Assisi ở Gilmer và Sacred Heart ở Nacogdoches.

Nhà báo Công Giáo Diane Montagna là người đầu tiên có được lá thư này và đã đăng nó trên X vào cuối tuần.

“Theo hướng dẫn của Tòa thánh,” Đức Cha Vásquez tuyên bố trong một lá thư ngày 6 tháng 11, “việc cử hành phụng vụ theo các sách phụng vụ đã được Thánh Phaolô Đệ Lục và Thánh Gioan Phaolô II chấp thuận theo Công đồng Vatican II” sẽ không còn được phép diễn ra trong nhà thờ chính tòa kể từ tháng 12 trở đi nhưng sẽ chỉ được phép diễn ra tại một giáo xứ trong Giáo phận Tyler.

Giáo xứ Thánh Giuse Thợ, được giao phó cho Hội Linh mục Thánh Phêrô, gọi tắt là FSSP chăm sóc, là giáo xứ duy nhất trong giáo phận được phép “sử dụng Sách lễ năm 1952, theo các điều khoản của Traditionis Custodes”, là tự sắc mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành năm 2021, cắt giảm mạnh việc cử hành Thánh lễ La tinh Truyền thống trên toàn thế giới.

Theo lá thư của Đức Cha Vásquez, Giáo xứ Thánh Giuse Thợ là một “giáo xứ tòng nhân” được thành lập vào năm 2003 để “chăm sóc mục vụ cho tất cả những người trong giáo phận cử hành theo các hình thức phụng vụ cũ”.

Phát ngôn nhân của giáo phận nói với CNA: “Trong tương lai, như lá thư nêu rõ, Giáo xứ Thánh Giuse Thợ ở Tyler, một giáo xứ tòng nhân được giao phó cho FSSP, sẽ tiếp tục phục vụ các tín hữu của giáo phận theo các quy tắc của Traditionis Custodes.”

Bức thư không nêu rõ lý do tại sao Thánh lễ La tinh Truyền thống lại kết thúc tại các nhà thờ, mặc dù việc Đức Cha Strickland từ chối thực hiện đầy đủ Traditionis Custodes được cho là một yếu tố dẫn đến việc ngài bị cách chức. Vatican vẫn chưa công khai tiết lộ lý do chính xác tại sao Đức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu ngài từ chức.

Đức Cha Strickland chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn với LifeSiteNews cách đây một năm: “Tôi biết tôi đã không thực hiện Traditiones Custodes vì tôi không thể để một bộ phận đàn chiên của mình chết đói”.

Trong thư, Đức Cha Vásquez cho biết ngài “gần đây đã nhận được phản hồi” từ Vatican sau khi gửi một lá thư tới Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích của Vatican về cách thực hiện tự sắc của Đức Thánh Cha tại Giáo hội địa phương sau khi Đức Cha Strickland ra đi.

Đức Cha Vásquez viết: “Mặc dù quá trình chuyển đổi này có thể khó khăn với một số người, nhưng tôi hy vọng rằng anh chị em sẽ mở lòng và tiến về phía trước trên con đường này với niềm tin và sự tin tưởng”.

“Tôi cầu nguyện rằng anh chị em sẽ cảm nghiệm được sự hiệp nhất sâu sắc hơn với toàn thể Giáo hội và nhận thức rõ hơn về sự phong phú về phụng vụ trong hình thức thông thường của phụng vụ Rôma,” ngài nói thêm.


image.png


Đức Tổng giám mục Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo từ chức


Hôm 12 tháng Mười Một vừa qua, Đức Tổng giám mục Giáo phận Canterbury, Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo, Justin Welby, đã từ chức vì đã không xử lý đúng vụ một người thiện nguyện bị cáo là đã lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên.

Đức Tổng giám mục Welby năm nay 68 tuổi, từ 12 năm nay (2012) là thủ lãnh tinh thần của 85 triệu tín hữu Anh giáo trên thế giới. Cao điểm trong nhiệm kỳ của Đức Tổng giám mục là đã chủ sự lễ phong vương cho Vua Charles III của Anh quốc, vào ngày 06 tháng Năm năm 2023, tại thánh đường Đan viện Westminster ở Luân Đôn.

Đức Tổng giám mục nguyên là một doanh nhân về dầu hỏa và có gia đình với sáu người con. Biến cố một người con gái nhỏ bị thiệt mạng vì tai nạn đã đưa doanh nhân này đến gần tôn giáo hơn và sau đó, đã đi học thần học, rồi năm 2011, thụ phong mục sư lúc 37 tuổi và năm 2011 thăng Giám mục Giáo phận Durham, năm sau đó, tháng Mười Một năm 2012 được Nữ hoàng Elizabeth II phong làm Giáo chủ Anh giáo tại Anh, kế nhiệm Đức Tổng giám mục Rowan William.

Hôm 12 tháng Mười Một vừa qua, Đức Tổng giám mục Welby đã đệ đơn từ chức và bày tỏ đau lòng về vụ luật sư John Smyth, một người hoạt động thiện nguyện, đã lạm dụng tính dục, tâm lý và thể lý, của khoảng 30 người ở Anh quốc và 85 người ở Phi châu, trong năm thập niên. Một phúc trình dài 250 trang, kết quả của một cuộc điều tra độc lập, cho thấy những hành động “kinh khủng” của Smyth đã được biết đến trong thập niên 1980, nhưng các vụ tố giác ấy chỉ được báo cho cảnh sát từ năm 2013 trở đi, năm mà Giám mục Welby được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Giáo phận Canterbury, Giáo chủ Anh giáo.

John Smyth không bị xét xử và bị trừng phạt vì ông chết năm 2018, trong thời gian điều tra. Và theo báo the Guardian, Đức Tổng giám mục Welby có tương quan với John Smyth thời còn trẻ, vì đã làm việc trong một trại hè do ông này tổ chức.

Theo phúc trình, Đức Tổng giám mục Welby đã tháp tùng Đức Thánh cha Phanxicô trong cuộc tông du tại Nam Sudan, và sau khi biết những tội ác của Smyth, Đức Tổng giám mục đã không thông báo cảnh sát và cũng không mở các cuộc điều tra phải phép.

Ban đầu, chính các thành viên Thượng Hội đồng của Anh giáo ở Anh quốc đã gửi thư thỉnh nguyện yêu cầu Đức Tổng giám mục Welby từ chức, vì cho rằng Đức Tổng giám mục đã mất sự tín nhiệm của Hàng giáo sĩ thuộc quyền. Tính đến trưa thứ Hai, ngày 11 tháng Mười Một, thỉnh nguyện đã thu được hơn 1.800 chữ ký trên trang mạng Change.org. Sau khi xin phép Vua Charles III, Đức Tổng giám mục Welby đã từ nhiệm.

Trong thông báo, Đức Tổng giám mục bày tỏ đau lòng với tất cả các nạn nhân và những người sống sót sau những vụ lạm dụng, và lấy làm tiếc và xấu hổ vì đã thất bại trong việc cứu vãn Giáo hội Anh giáo tại Anh quốc, và ngài viết rằng: “Tôi tin rằng việc tôi rút lui là điều tốt nhất cho Giáo hội tại Anh, Giáo hội mà tôi rất yêu mến và được vinh dự phục vụ. Tôi cầu nguyện để quyết định này đưa chúng ta trở lại tình yêu của Chúa Giêsu Kitô đối với mỗi người chúng ta”.

Địa vị của ông bị những người thân cận cho là “không thể đứng vững” được. Sự ra đi này xảy ra một tuần sau khi báo cáo Makin được đệ trình, một cuộc điều tra độc lập tiết lộ sự che đậy của các cấp trên của Giáo hội Anh về bạo lực do luật sư John Smyth đã làm từ những năm 1970 đến năm 2010 với ít nhất 115 bé trai và thanh niên trong các trại hè kitô giáo. Là giáo dân tận tụy, luật sư John Smyth bị cho “là kẻ lạm dụng hàng loạt nghiêm trọng nhất có liên quan đến Giáo hội Anh”.

Nếu báo cáo cho rằng “có khả năng” Tổng giám mục Justin Welby không biết về những nghi ngờ đè nặng trên luật sư John Smyth – điều mà ông hết sức bảo vệ – nhưng cách quản lý vụ việc năm 2013 của ông bị đặt vấn đề. Năm đó, Justin Welby được thông báo chính thức về cáo buộc chống lại cựu luật sư. Báo cáo Makin rất rõ ràng: tổng giám mục “có thể và lẽ ra phải” báo cáo sự việc cho cảnh sát. Vụ việc chỉ được đưa ra ánh sáng công khai năm 2017, sau cuộc điều tra của Kênh 4 tiết lộ hành vi lạm dụng trẻ em. Việc Justin Welby không hành động đã cho phép ông John Smyth (qua đời năm 2018), thoát khỏi công lý.

“Tôi phải chịu trách nhiệm”

Tổng giám mục Justin Welby giải thích về việc ông từ chức: “Rõ ràng là tôi phải đảm nhận trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm cơ quan của tôi trong giai đoạn đau thương lâu dài và mới này từ năm 2013 đến năm 2024.” Nếu Tổng Giám mục Canterbury phủ nhận việc che đậy sự việc thì với việc từ chức này, ông xác nhận ông không còn đủ thẩm quyền cần thiết để đảm nhận chức vụ và cuộc chiến chống bạo lực tình dục trong Giáo hội Anh. Trên thực tế, một bản kiến nghị yêu cầu ông ra đi được ba thành viên thuộc thượng hội đồng của Giáo hội Anh đưa ra vào ngày 9 tháng 11, đã có được hơn 5.000 chữ ký.

Tổng giám mục Justin Welby nói: “Tôi hy vọng quyết định này cho thấy rõ ràng Giáo hội Anh hiểu rõ sự cần thiết phải thay đổi và cam kết sâu sắc của chúng tôi trong việc tạo ra một Giáo hội an toàn hơn như thế nào. Khi rời nhiệm sở, tôi đau buồn cùng với tất cả các nạn nhân và những người sống sót sau vụ lạm dụng.” Nói rộng hơn, vụ việc này một lần nữa làm suy yếu tổ chức Anh giáo, trong một báo cáo bốn năm trước, họ đã bị cáo buộc đã cho phép thủ phạm bạo lực tình dục với trẻ vị thành niên “ẩn náu” và thoát khỏi công lý. Theo báo cáo này, một phần của cuộc điều tra rộng hơn về các tổ chức khác nhau trong nước, 390 người có liên hệ với Giáo hội Anh đã bị kết án về tội phạm tình dục từ những năm 1940 đến năm 2018.

Justin Welby là Tổng Giám mục Canterbury từ năm 2013, đứng đầu Giáo hội Anh giáo và Cộng đồng Anh giáo trên thế giới. Kể từ khi đứng đầu Giáo hội Anh giáo, Tổng giám mục Justin Welby được biết đến với những quan điểm tiến bộ, đã thực hiện một dự án truyền giáo với quy mô chưa từng có.

Việc từ chức của Tổng giám mục Justin Welby, gương mẫu khi đối diện với các vụ tai tiếng tình dục

Trong một hành vi tạo ấn tượng mạnh và bất ngờ, Tổng giám mục Tiến sĩ Justin Welby, người đứng đầu Anh giáo đệ đơn từ ngày thứ ba 12 tháng 11. Một quyết định được đưa ra một tuần sau khi một báo cáo độc lập tiết lộ về sự quản lý yếu kém của Giáo hội Anh giáo với một người đã phạm tội tấn công tình dục trẻ em trong hơn bốn mươi năm. Tổng giám mục Justin Welby là giáo chủ của 85 triệu người giáo dân Anh giáo trên khắp thế giới, bị cáo buộc đã không báo cáo các vụ này cho chính quyền năm 2013, dù đã biết các vụ này. Chúng ta có thể nói một cách đúng đắn, quyết định này đã đưa ra quá trễ và nhất là nó lại đến một lần nữa sau một báo cáo tiết lộ những sự việc rất cũ…

Tuy nhiên, việc từ chức của Tiến sĩ Welby cũng là một tín hiệu mạnh mẽ và rõ ràng được gởi đến cho tất cả những ai đứng đầu các cơ quan và những người đứng đầu dư luận trên hành tinh này. Điều này lại càng đúng hơn cho các nhà lãnh đạo tôn giáo, những người mà giáo dân mong chờ được giúp để phân định đúng sai. Một huấn quyền luân lý đi đôi với trách nhiệm: đó là biết nhận ra lỗi lầm của mình và rút lui khi hoàn cảnh đòi hỏi. Đối diện với những thảm kịch bạo lực tình dục thường xuyên tấn công các thể chế, giáo dân mong chờ họ nêu gương không hề sai lầm. Nhân danh sự tôn trọng thể chế của chính họ, niềm tin của họ vào Chúa và các nạn nhân.




Giáo hội và Nhà nước Pháp đang chuẩn bị sự kiện mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà Paris

Trong cuộc họp báo vào ngày 13/11/2024, các chi tiết đầu tiên về sự kiện mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà Paris đã được công bố. Nghi thức mở cửa sẽ vào chiều ngày 7/12 và cử hành phụng vụ đầu tiên sẽ vào ngày 8/12/2024.

image.png

Ngày 15/4/2019, trong quá trình trùng tu, một đám cháy đã bùng phát trên mái Nhà thờ Đức Bà Paris. Đám cháy đã phá hủy phần mái và kết cấu mái, một phần của các hầm và tháp giao cắt. Theo Điện Elysée, tổng chi phí tu sửa nhà thờ lên đến khoảng 700 triệu euro. Tuy nhiên, các công trình tiếp theo vẫn đang được lên kế hoạch xung quanh nhà thờ. Khu vực ngoài trời cũng sẽ được thiết kế lại.

Nghi thức mở cửa lại nhà thờ

Cha Guillaume Normand, người chịu trách nhiệm về cử hành phụng vụ vào ngày 7/12/2024, đã giải thích với báo “La Croix” rằng vào ngày 7/12, sau bài phát biểu của Tổng thống, Đức Tổng Giám mục Laurent Ulrich của Paris sẽ gõ cửa Nhà thờ Đức Bà bằng cây gậy của ngài “để nhà thờ mở ra và chào đón chúng ta”. Sau đó, tiếng đàn organ sẽ lại vang lên. Cử hành khai mạc sẽ kết thúc với thánh thi Te Deum, một thánh thi chúc tụng, tạ ơn và cầu xin. Sau đó, vào khoảng 9:30 tối, dự kiến có buổi biểu diễn của các diễn viên, vũ công và nhạc công tại sân trước của nhà thờ.

Thánh lễ thánh hiến bàn thờ

Thánh lễ thánh hiến bàn thờ sẽ được cử hành vào lúc 10:30 sáng ngày hôm sau, 8/12/2024, lễ trọng Đức Mẹ Vô nhiễm nguyên tội, với sự tham dự của hơn 170 giám mục từ Pháp và các quốc gia khác, cũng như một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số 106 giáo xứ của giáo phận Paris, và một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số bảy Giáo hội Công giáo Nghi lễ Đông phương. Tổng thống Pháp sẽ có mặt tại Thánh lễ. Dự kiến sẽ có 2.000 người bên trong nhà thờ trong hai ngày mở cửa trở lại này.

Hoạt động thăm viếng nhà thờ

Các du khách cá nhân có thể thăm viếng nhà thờ từ tối ngày 8/12/2024, theo thời gian cụ thể của tuần bát nhật. Trong tám ngày sẽ có các Thánh lễ cho người dân Paris và những người đóng góp vào việc trùng tu: lễ trọng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, lễ cho các tu sĩ, cho các nhà bảo trợ và các nhà tài trợ, các hiệp hội từ thiện, nhân viên và tình nguyện viên giáo phận, giới trẻ, lính cứu hỏa Paris và những người đồng hành.

Từ thứ Hai ngày 16/12/2024, công chúng sẽ có thể viếng thăm nhà thờ trong thời gian được kéo dài.

Dự kiến mỗi năm sẽ có 15 triệu du khách đến thăm Nhà thờ Đức Bà.

Khi được hỏi, Đức Tổng giám mục Ulrich một lần nữa từ chối đề xuất của Bộ trưởng Văn hóa Pháp Rachida Dati về việc thu phí thăm viếng nhà thờ.



Chuông Nhà thờ Đức Bà Paris vang lên lần đầu tiên kể từ vụ hỏa hoạn kinh hoàng cách đây 5 năm

Chuông của Nhà thờ Đức Bà Paris đã ngân lên lần đầu tiên kể từ tháng 4 năm 2019, khi một đám cháy kinh hoàng bùng phát ở đỉnh tháp và mái của nhà thờ lịch sử này ở Pháp.

Nhà thờ Đức Bà Paris đã vượt qua cột mốc quan trọng này vào khoảng 10:30 sáng 8 Tháng Mười Một, vừa qua, khi chỉ còn một tháng nữa là đến ngày mở cửa trở lại rất được mong đợi vào ngày 8 tháng 12. Nằm trong tháp chuông phía bắc của nhà thờ - nơi đã bị phá hủy một phần bởi đám cháy - Theo AFP, tiếng chuông vang lên từng hồi một, sau đó vang lên đồng loạt.

Mặc dù chính quyền chưa xác định được vụ hỏa hoạn có phải là tai nạn hay không, nhưng cuộc điều tra ban đầu cho thấy nguyên nhân có thể là do điện chập.

Tổng thống Pháp Emmanuel Macron ngay lập tức tuyên bố ý định sửa chữa nhà thờ trong vòng năm năm và thậm chí còn kêu gọi các đề xuất đương đại thay thế để tái thiết nhà thờ. Trong một thời gian ngắn, các cuộc tranh luận đã nổ ra về việc liệu chính phủ Pháp có chấp thuận việc cập nhật như vậy thay vì bảo tồn bản sắc ban đầu của Nhà thờ Đức Bà hay không.

Tuy nhiên, Quốc hội Pháp đã sớm thông qua một dự luật quy định rằng các nỗ lực tái thiết phải “bảo tồn lợi ích lịch sử, nghệ thuật và kiến trúc” của nhà thờ lịch sử. Macron chính thức tuyên bố một năm sau đó, vào năm 2020, rằng việc tái thiết sẽ tìm cách phục chế giống với cấu trúc ban đầu vì lợi ích hoàn thành dự án trước Thế vận hội Paris 2024.

Nhà thờ Đức Bà Paris được xây dựng từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 14. Phần chóp của nhà thờ được hoàn thành lần đầu tiên vào thế kỷ 13 nhưng cuối cùng đã được thay thế vào thế kỷ 19 do bị hư hại.


image.png

The rose window of Notre-Dame de Paris Cathedral is seen on Oct. 25, 2024, in Paris a few weeks before its reopening to the public scheduled for Dec. 8, 2024. 

Một linh mục Singapore bị tấn công bằng dao trong lúc cử hành Thánh lễ

Chiều thứ Bảy ngày 09/11 vừa qua, tại nhà thờ Thánh Giuse, quận Bukit Timah của Singapore, trong lúc đang cử hành Thánh lễ, cha Christopher Lee Colpito, 57 tuổi bị một người tấn công bằng dao, bị thương và đang được chăm sóc tại bệnh viện.

Nghi phạm người Singapore, 37 tuổi có tiền án về tội gây thương tích người khác và sử dụng ma tuý trái phép, đã bị các tín hữu đang tham dự Thánh lễ khống chế và sau đó cảnh sát bắt giữ.

Theo điều tra ban đầu của cảnh sát, nghi phạm hành động một mình và vụ tấn công không phải là hành động khủng bố.

Đức Hồng Y Goh, Tổng Giám Mục Singapore, cho biết ngài “bị sốc và vô cùng đau buồn” khi hay tin cha Christopher Lee Colpito bị tấn công bạo lực trong khi đang cử hành Thánh lễ.

Lo ngại về tác động tâm lý mà vụ việc này có thể gây ra cho trẻ em và tất cả những người chứng kiến vụ tấn công này, ngài yêu cầu các tín hữu bình tĩnh, không suy đoán về vụ việc hoặc đưa ra phán đoán mà không biết tất cả sự thật. Cần để chính quyền điều tra vấn đề này.

Thủ tướng Lawrence Wong cũng kêu gọi mọi người bình tĩnh, hỗ trợ nhau trên tinh thần hoà hợp và kiên cường, đồng thời tuyên bố “trong đất nước, không có chỗ cho bạo lực”.

Ông viết trên mạng xã hội: “Tôi rất sốc và đau buồn khi hay tin cha Christopher Lee bị đâm trong nhà thờ Thánh Giuse trong lúc đang cử hành Thánh lễ. Chúng ta cầu nguyện để linh mục được mau chóng bình phục. Trên hết, chúng ta phải bảo vệ an ninh và sự thánh thiêng của các nơi thờ phượng, những nơi mọi người tìm kiếm bình an, an ủi và tình cộng đoàn”.

Singapore được biết đến là một trong những thành phố an toàn nhất thế giới và không ai có thể ngờ điều này lại có thể xảy ra trong một nhà thờ, vốn được xem là một nơi an toàn hơn những đường phố bên ngoài.

Với 395.000 người Công giáo, Singapore là một Giáo hội năng động nhất ở Đông Nam Á, với số tín hữu ngày càng tăng. Theo số liệu chính thức mới nhất từ năm 2023, dân số Singapore đứng ở mức 5,92 triệu người, trong đó người Trung Quốc, Mã Lai và Ấn Độ là các nhóm chính. Trong số 5,92 triệu người này, có 4,15 triệu người là cư dân, trong đó có 3,61 triệu công dân và 540.000 thường trú nhân. 1,77 triệu người còn lại sống ở Singapore được phân loại là người không cư trú, chủ yếu là người lao động thường trú không có quyền chính trị và thường không được tính vào số liệu thống kê.


Hai thiếu niên giúp lễ bị giết trước nhà thờ ở bang Veracruz của Mexico

Các hành vi bạo lực tiếp tục gây đổ máu ở nhiều nơi ở Mexico. Tối ngày 9/11/2024, hai lễ sinh 13 và 15 tuổi đã bị bắn khi đang ở cùng mẹ trước nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe trong cộng đồng Entabladero, quận Espinal, phía bắc bang Veracruz của Mexico.

Một trong hai cậu bé chết ngay lập tức, trong khi em thứ hai được đưa vào bệnh viện. Theo báo chí địa phương, hai thiếu niên này là lễ sinh của nhà thờ. Trong một bài đăng trên mạng xã hội, giáo xứ yêu cầu thể hiện tình liên đới với mẹ của các nạn nhân.

Một vụ thảm sát nghiêm trọng khác xảy ra vào cuối tuần qua ở Quretaro, miền trung Mexico, phía bắc Mexico City. 10 người thiệt mạng bên trong quán bar Los Cantaritos.

Đức Cha Enrique Díaz Díaz, Giám mục giáo phận Irapuato (một thành phố không xa nơi xảy ra vụ việc), nói với báo chí địa phương: “Chúng tôi tự đặt ra nhiều câu hỏi xem ai là người đang làm việc này. Họ không phải là con cái của chúng ta, họ không phải là những người trẻ của chúng ta sao; tại sao lại đến mức này? Chúng ta sẽ phải tiếp tục nỗ lực chăm chỉ về giáo dục, nhưng cũng phải có phản ứng an ninh và sự quan tâm từ chính quyền đối với tất cả những tình huống đang xảy ra ở các bang khác nhau”.


Sau mười ngày bị bắt cóc, Giám đốc Tiểu chủng viện được trả tự do


Sau mười ngày bị bắt cóc, linh mục Thomas Oyode, Giám đốc Tiểu chủng viện Đức Mẹ Vô Nhiễm, ở Agenegabole, thuộc bang Edo, miền Nam Nigeria, đã được trả tự do.

Cha bị bắt cóc ngày 27 tháng Mười vào khoảng 7 giờ tối, trong lúc nguyện Kinh Chiều và chầu Thánh Thể ở nhà nguyện. Một số người võ trang đã tấn công và bắt cha, rồi dẫn vào rừng. Cha Phó giám đốc cùng với các chủng sinh và nhân viên tiểu chủng viện bình an và tạm thời được di chuyển đến nơi an toàn, vì tình hình địa phương vẫn còn bị coi là bất an.

Trong thông cáo hôm mùng 07 tháng Mười Một vừa qua, cha Peter Egielewa, Giám đốc truyền thông của Giáo phận Auchi, nói rằng cha Oyode đã được trả tự do, lúc 7 giờ tối, ngày 06 tháng Mười Một trước đó. Đức cha Gabriel Dunia, Giám mục bản quyền của giáo phận, cảm ơn tất cả những người đã cầu nguyện và hỗ trợ tinh thần trong những ngày cha Oyode bị giam giữ, kể cả các tín hữu Công giáo ngoài giáo phận, cũng như những người Nigeria, các thân hữu và những người khác trên thế giới. Đức cha không quên cảm ơn các cơ quan an ninh của Nigeria, cũng như những người đã truy lùng, làm việc ngày đêm để tìm kiếm linh mục bị bắt cóc.

Trong thông cáo, Đức cha Dunia kêu gọi chính phủ Nigeria gia tăng nỗ lực để đối phó với tình trạng an ninh bị suy thoái tại miền bắc bang Edo và toàn bang này, để bảo đảm cho người dân được an toàn khi trở về nhà, đến nông trại hoặc khi đi qua bang này.

Từ lâu Nigeria phải chiến đấu với nạn bạo lực do các băng đảng võ trang chuyên bắt cóc người gây ra để đòi tiền chuộc mạng và trong một số trường hợp, chúng sát hại các nạn nhân.

Nhóm khủng bố Hồi giáo Boko Haram là thách đố lớn nhất từ năm 2009 đối với Nigeria, quốc gia đông dân nhất ở Phi châu, với mục đích biến nước này thành một quốc gia Hồi giáo.

Hơn mười lăm giáo xứ Công giáo ở Nigeria đóng cửa vì bạo lực


Đức cha Wilfred Chikpa, Giám mục Giáo phận Makurdi thuộc bang Benue bên Nigeria, cho biết mười lăm giáo xứ trong giáo phận của ngài đã phải đóng cửa, vì tình trạng bạo lực kéo dài chống các tín hữu Kitô ở địa phương.

Bishop Wilfred Anagbe

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo ACI Phi châu, hôm mùng 08 tháng Mười Một vừa qua, bên lề hội nghị quốc tế về thần học lần thứ VII, do Học viện về đời sống thánh hiến ở Phi châu tổ chức, Đức cha Anagbe kêu gọi chính phủ Nigeria ưu tiên tái lập an ninh để mang lại hy vọng và để những người di tản được hồi hương. Đức cha nói: “Bang Benue giống như trung tâm của những gì đang xảy ra. Trong Giáo phận Makudi của tôi, tôi đã mất mười bốn, mười lăm giáo xứ. Khi nói giáo xứ, thì cũng phải hiểu mỗi giáo xứ có khoảng từ hai mươi họ lẻ, trong khu vực đường kính từ 20 đến 25 cây số. Do bạo lực, dân số của bang và giáo phận cũng giảm sút”.

Đức cha cho biết cả Giáo phận Otukpo và Katsina-Ala cũng lâm vào tình trạng bất an, vì ở trong khu vực có bạo lực và xung đột. Ngài bày tỏ lo âu vì những tin tức liên tục về những vụ giết người, bắt cóc, đồng thời ngài nhấn mạnh vai trò của chính phủ là bảo vệ sinh mạng và tài sản của dân chúng. Đức cha nói: “Chúng tôi bị lâm vào tình trạng cơ cực khôn tả, không những tại Makudi này nhưng cả nước. Khi di chuyển, bạn không biết mình có được an toàn không cho đến khi tới nơi!”

Đức cha Anagbe 59 tuổi, thuộc Dòng thánh Claret, hay là “Nam tử Khiết Tâm Đức Mẹ”. Ngài cũng cảnh giác rằng việc đóng cửa lâu dài các trường học cũng ảnh hưởng tới tương lai của người trẻ, góp phần tạo nên những kẻ cướp và khủng bố. Các trường học này bị đóng cửa hơn 10 năm rồi!”

Đức cha Anagbe cũng tố giác tình trạng bất an về lương thực ở Nigeria, quốc gia đông dân nhất ở Phi châu, vì chính phủ không bảo đảm được môi trường an ninh để các nông dân trở lại canh tác tại các đồng ruộng của họ.

Quyền được chăm sóc về mặt tinh thần trong thời điểm bệnh tật và qua đời được nhiều người coi là quyền cơ bản, và lệnh cấm gần đây của chính phủ đã làm dấy lên mối lo ngại trên toàn cầu về đường hướng của quyền tôn giáo dưới thời chính quyền Ortega.

Trong một lệnh hạn chế chưa từng có đối với quyền tự do tôn giáo, chính quyền Nicaragua, theo chỉ thị của Tổng thống Daniel Ortega và Phó Tổng thống Rosario Murillo, được cho là đã cấm các Linh mục Công giáo vào bệnh viện để thực hiện Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Bí tích này, một nghi lễ vô cùng quan trọng đối với các tín hữu đang phải đối mặt với căn bệnh hiểm nghèo hoặc gần cuối đời, hiện nay phần lớn không thể tiếp cận được tại các bệnh viện công của đất nước, theo luật sư và tác giả Martha Patricia Molina.


Luật sư Molina, tác giả của báo cáo “Nicaragua: Một Giáo hội bị đàn áp?”, đã mô tả tình hình với LA PRENSA như một sự tấn công trực tiếp vào Giáo hội và khả năng làm công việc mục vụ cho các tín hữu. “Là người Công giáo, chúng tôi thường mời các Linh mục đến để được xức dầu khi đối mặt với các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, để có được sự bình an về mặt thiêng liêng”, luật sư Molina nói. “Tuy nhiên, các Linh mục hiện đang bị từ chối tại các bệnh viện, nơi họ được thông báo rằng họ bị cấm vào”. Lệnh cấm này, luật sư Molina cho biết thêm, áp dụng cho mọi khu vực trong nước, khiến nhiều người Công giáo Nicaragua không thể lãnh nhận Bí tích thiết yếu này vào thời điểm nguy kịch trong cuộc đời họ.


Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, trước đây được gọi là Bí tích Xức Dầu Sau Cùng, được thực hiện để cung cấp sức mạnh tinh thần và ân sủng trong thời gian bệnh nặng hoặc tuổi già. Nghi thức này bao gồm việc xức dầu lên trán và tay của bệnh nhân, kèm theo lời cầu nguyện do một Linh mục chủ sự. Dành riêng cho những người đang đối mặt với những thách thức đáng kể về sức khỏe, Bí tích này mang lại sự bình an và sự sẵn sàng cho “cuộc chuyển tiếp đến nhà Cha”, như được mô tả trong Sách Giáo lý Công giáo. Với chính sách mới này, nhiều người Công giáo Nicaragua hiện có thể bị từ chối Bí tích này trong những giây phút cuối đời, một vấn đề mà luật sư Molina gọi là điều “tàn khốc”.


Mặc dù bề ngoài có vẻ êm đềm, nhưng cuộc đàn áp Giáo hội Công giáo của chính quyền Nicaragua vẫn nghiêm trọng như mọi khi, luật sư Molina nhấn mạnh. Bà chỉ ra việc giám sát liên tục, quấy rối và đe dọa các Linh mục là bằng chứng cho thấy sự thù địch đối với Giáo hội vẫn chưa giảm bớt. Bà cho biết “Cảnh sát liên tục theo dõi các Linh mục, đặt câu hỏi và thu thập thông tin cá nhân chi tiết, từ số điện thoại cho đến tên họ”. Theo luật sư Molina, sự cảnh giác này đã khiến nhiều Linh mục tìm cách lưu vong thay vì phải đối mặt với sự đe dọa và trong một số trường hợp là mối đe dọa bị cầm tù.


Một Linh mục từ Giáo phận Siuna, do Đức Giám mục Isidoro del Carmen Mora Ortega quản lý, gần đây đã gia nhập hàng ngũ các giáo sĩ lưu vong. Sau khi nhận được những lời đe dọa và lệnh triệu tập ra hầu tòa, vị Linh mục đã đưa ra quyết định khó khăn là rời khỏi Nicaragua, vì lo sợ bị giam giữ và bị đàn áp thêm. Bản thân Đức Giám mục Mora Ortega trước đó đã bị trục xuất khỏi đất nước, một nạn nhân khác của điều mà nhiều người gọi là chiến dịch đe dọa của chính quyền Ortega.


Với trường hợp mới nhất này, tổng cộng 67 giáo sĩ đã phải lưu vong để thoát khỏi sự đàn áp, gia nhập nhóm 255 nhân vật tôn giáo khác buộc phải rời khỏi Nicaragua. Trong số những người được tính trong báo cáo của luật sư Molina có 98 Nữ tu, cùng với các Giám mục, Linh mục và Chủng sinh. Ngoài ra, 34 người đã bị ngăn cản trở về Nicaragua, và ít nhất 9 người đã bị trục xuất hoàn toàn.


Sự di cư ngày càng tăng của các nhà lãnh đạo tôn giáo và khả năng phục vụ cộng đoàn của Giáo hội ngày càng giảm sút đã khiến nhiều người Công giáo ở Nicaragua cảm thấy dễ bị tổn thương. “Có thể có vẻ ngoài êm đềm, nhưng sự áp bức vẫn tiếp diễn”, luật sư Molina nhận xét. Việc tiếp tục giám sát và các biện pháp hạn chế áp đặt lên Giáo hội là lời nhắc nhở nghiêm túc về cách tiếp cận không khoan nhượng của chế độ đối với những tiếng nói bất đồng chính kiến, đặc biệt là những tiếng nói trong các cộng đồng tôn giáo.


Trong khi các tín hữu Nicaragua đang phải vật lộn với sự đàn áp đang diễn ra, cộng đồng quốc tế ngày càng được thúc giục phải giải quyết và lên án những hành vi xâm phạm tự do tôn giáo ngày càng gia tăng này. Quyền được chăm sóc về mặt tinh thần trong thời điểm bệnh tật và cận kề cái chết được nhiều người coi là quyền cơ bản, và lệnh cấm gần đây của chính phủ đã làm dấy lên mối lo ngại trên toàn thế giới về đường hướng của quyền tôn giáo dưới thời chính quyền Ortega.

Chế độ ở Nicaragua tiếp tục bách hại Công giáo

Đức cha Carlos Herrera, Giám mục Giáo phận Jinotega, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua, đã lên tiếng tố giác thị trưởng thành phố Leónidas Centeno và nhà chức trách khác tại địa phương đó, đã bố trí các loa phóng thanh và mở thật lớn trước nhà thờ chính tòa Leónidas Centeno, trong lúc thánh lễ được cử hành. Đức cha gọi hành động này là một “sự phạm thánh, vì họ biết giờ cử hành thánh lễ.”

Tin này được phổ biến trên mạng xã hội tên là Despacho 505 và các cơ quan truyền thông độc lập khác.

Thật ra, những vụ phá rối thánh lễ vẫn là điều thường xảy ra dưới chế độc của nhà cầm quyền Ortega và vợ là Rosario Murillo.

Ngoài ra, nữ luật sư Martha Patricio Molina, tác giả Phúc trình tựa đề “Nicaragua: Phải chăng là một Giáo hội bị bách hại?”, cho biết nhà nước tại đây cấm cản các linh mục không được vào nhà thương để ban bí tích xức dầu cho các bệnh nhân. Khoảng mười linh mục thuộc các giáo phận khác nhau xác nhận tình trạng này. Bà Molino nói: “Có vài linh mục được phép vào các nhà thương, nhưng đó là những linh mục thiện cảm với chế độ độc tài này. Thỉnh thoảng, họ có thể làm phép xức dầu nhưng không phải là điều thường xảy ra”.

Trong khi đó, Bộ nội vụ Nicaragua đã ra lệnh giải tán thêm mười hai tổ chức từ thiện, phi chính phủ, trong đó có một tổ chức Tin lành và tổ chức Flavio Galo, một tổ chức cơ bản để huấn luyện cho hàng ngàn trẻ em về âm nhạc.




Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua bị trục xuất sang Guatemala

Đức cha Carlos Enrique Herrera Gutiérrez, Giám mục của Jinotega, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua, đã bị chính quyền trục xuất sang Guatemala. Ngài là giám mục Nicaragua thứ ba bị chính quyền nước này trục xuất.

Đức cha Herrera đã lên tiếng tố cáo chính quyền địa phương ở Jinotega cố tình gây ồn ào, làm gián đoạn buổi cử hành phụng vụ vào Chúa nhật, ngày 10/11, tại Nhà thờ chính tòa Thánh Juan Bautista. Trong Thánh lễ, ngài tuyên bố: “Những gì chính quyền địa phương đang làm là phạm thánh... Chúng ta cầu xin Chúa tha thứ cho họ và cho chính chúng ta”.

Trước khi bị trục xuất, vào thứ Tư, trang Facebook chính thức của Giáo phận Jinotega đã bị đóng. Trang này được sử dụng để phát trực tiếp các Thánh lễ Chúa Nhật, chầu Thánh Thể thứ Năm và các sự kiện tôn giáo khác, đặc biệt là các sự kiện do Đức cha Herrera chủ sự.

Đức cha Herrera, 75 tuổi, là Giám mục thứ ba của nước này bị trục xuất. Trước ngài, hai giám mục khác cũng đã bị chính quyền Nicaragua trục xuất: Đức cha Rolando José Álvarez Lagos của Giáo phận Matagalpa và Đức cha Isidoro del Carmen Mora Ortega của Giáo phận Siuna.

Truyền thông địa phương cũng đưa tin các linh mục bị cấm vào các bệnh viện để ban Bí tích Xức dầu cho bệnh nhân. Mặc dù không có văn bản chính thức nào xác nhận điều này, nhưng các báo cáo cho biết biện pháp này đã gây ra sự đau khổ cho gia đình và bệnh nhân.






Các giám mục Bangladesh muốn có đại diện Kitô trong chính phủ


Một phái đoàn của Hội đồng Giám mục Bangladesh đã gặp Thủ tướng lâm thời của nước này, giáo sư Muhammad Yunus, để thỉnh cầu có đại diện của cộng đoàn Kitô trong chính phủ và trong tiến trình cải tổ quan trọng tại nước này.
Phái đoàn gồm tám giám mục, do Đức Tổng giám mục Bejoy N D’Cruz, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô Dhaka, hướng dẫn, đã gặp Thủ tướng Yunus, hôm mùng 07 tháng Mười Một vừa qua và trao cho ông một bức thư, đồng thời, bày tỏ nguyện vọng vừa nói và nhấn mạnh rằng tất cả các cộng đồng cần phải cộng tác với nhau để làm cho công cuộc cải tổ được thành công.

Chính phủ lâm thời của Bangladesh do Thủ tướng Yunus lãnh đạo, sau khi bà Thủ tướng Sheik Hasina phải bỏ chạy ra nước ngoài, hồi tháng Tám vừa rồi. Chính phủ gồm có hai mươi mốt thành phần, nhưng ngoại trừ hai thành viên thuộc cộng đồng chủng tộc Chakma và Ấn giáo, các cộng đồng chủng tộc và tôn giáo khác không có đại diện, không có người nào thuộc cộng đồng Kitô.

Các tôn giáo thiểu số có 17 triệu người, trong tổng số hơn 170 triệu dân cư, đa số theo Hồi giáo. Cộng đoàn Ấn giáo có gần 14 triệu người, trong khi đó có nửa triệu người là tín hữu Kitô, trong số này 400.000 là tín hữu Công giáo.

Đức Tổng giám mục D’Cruz nói với Thủ tướng Yunus rằng “Vì có một nỗ lực cải tổ hiến pháp, nên điều thiết yếu là hội nhập các ý tưởng về quốc gia, sự trung lập về tôn giáo, và không duy phe phái, ý tưởng về các quyền con người và những yếu tố để trở thành công dân tốt’.

Chính phủ lâm thời của Bangladesh đã thành lập mười ủy ban để đề nghị những thay đổi hiến pháp năm 1972 của nước này hầu làm cho việc cai quản đất nước có tính cách bao gồm và dân chủ hơn. Các Ủy ban có nhiệm vụ đưa ra những đề nghị để cải tổ hành chính, tuyển cử, tư pháp, cảnh sát, hệ thống chống tham nhũng, các vấn đề phụ nữ, các phương tiện truyền thông, sức khỏe, và các quyền của giới lao động.

Trong cuộc gặp gỡ, phái đoàn Hội đồng Giám mục Bangladesh cũng trình bày cho Thủ tướng Yunus về sự hiện diện của Giáo hội Công giáo tại tám giáo phận toàn quốc, đảm trách 1.000 trường Công giáo, học viện, đại học, các trường kỹ thuật, nhà thương và viện cô nhi.

Các giám mục đã trao cho thủ tướng tấm ngân phiếu hai triệu rưỡi đồng Taka, tương đương với 21.000 Mỹ kim để cứu trợ các nạn nhân bị lụt mới đây ở Bangladesh.




Kitô hữu chiếm 75% tổng số các cuộc bách hại chống các tôn giáo thiểu số

Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ (ACN) lên tiếng cảnh báo về sự gia tăng các cuộc bách hại chống Kitô hữu trên toàn thế giới. Cứ 7 Kitô hữu thì có một người bị ảnh hưởng bởi cuộc bách hại này, và 75% cuộc bách hại chống các tôn giáo thiểu số liên quan đến các Kitô hữu.

Trong một phúc trình có tựa đề “Bị bách hại và bị lãng quên?” được công bố vào ngày 22/10/2024, thực hiện từ tháng 8/2022 đến tháng 6/2024, Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết, tại 18 quốc gia được khảo sát, các vi phạm quyền tự do tôn giáo đối với các Kitô hữu đã đạt đến ngưỡng nghiêm trọng.

Phúc trình không những cho thấy quy mô mà còn cho biết tính đa dạng của các hành động chống các tín hữu. Tác giả của những hành vi này là các tổ chức nhà nước hoặc công cộng, nhưng cũng có thể là các nhóm, những kẻ cực đoan tôn giáo, các băng nhóm tội phạm, v.v.

So với các khu vực khác thì tình hình ở Trung Đông vẫn đặc biệt bi thảm. Ở Syria, Kitô hữu có hơn 1,5 triệu người vào năm 2011, ngày nay chỉ còn 250.000 người. Ở Iraq, Kitô hữu chưa đến 0,5% dân số và cộng đoàn chỉ còn dưới 200.000 người. Những con số này chứng tỏ nguy cơ tuyệt chủng thực sự của các Kitô hữu ở những khu vực này, hậu quả trực tiếp của chiến tranh, bách hại và lạm dụng do các nhóm cực đoan gây ra. Các Kitô hữu ở những khu vực này sống trong tình trạng bị đe dọa thường xuyên, giữa việc phá hủy nhà thờ, tàn sát dân thường và buộc phải di dời.

Châu Phi cũng đang chứng kiến sự gia tăng bạo lực tôn giáo. Burkina Faso, Mali, Niger, Nigeria và Mozambique bị ảnh hưởng đặc biệt bởi các cuộc nổi dậy của người Hồi giáo. Các nhóm thánh chiến thực hiện các cuộc tấn công bạo lực chống lại các cộng đoàn Kitô giáo. Những cuộc tấn công này không chỉ phá hủy các nhà thờ hay giết các tín hữu, nhưng cũng dẫn đến sự di dời của các Kitô hữu đến những khu vực an toàn hơn.

Ở châu Á, Kitô hữu thường bị coi là công dân hạng hai. Tại Ấn Độ và Pakistan, sự gia tăng bất khoan dung tôn giáo đang dẫn đến sự gia tăng các cuộc tấn công chống các Kitô hữu và Giáo hội của họ. Tình hình đặc biệt nghiêm trọng ở Ấn Độ, nơi các phong trào dân tộc theo Ấn giáo thường phát động các chiến dịch bạo lực chống các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt là Kitô hữu. Ở Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, sự đàn áp vẫn mang tính hệ thống.

Châu Mỹ Latinh, mặc dù có truyền thống Công giáo, nhưng không thoát khỏi sự bách hại tôn giáo. Phúc trình lưu ý mặc dù ở Nicaragua đa số dân theo Kitô giáo, nhưng chính phủ vẫn gia tăng bách hại các Giáo hội. Hàng chục linh mục đã bị trục xuất, và hàng trăm tổ chức phi chính phủ Kitô giáo đã bị đóng cửa vì lý do chính trị.

Trước thảm trạng này, Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ kêu gọi quốc tế hỗ trợ các Kitô hữu bị bách hại, nhấn mạnh sự cần thiết phải công khai các cuộc bách hại, tố cáo những hành vi vi phạm quyền tự do tôn giáo và thúc đẩy các chính phủ thực hiện các biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền của các tôn giáo thiểu số.


Đức Thánh Cha tiếp các tham dự viên hội nghị về sự tử đạo và hiến mạng sống

Thứ Năm ngày 14/11, Đức Thánh Cha tiếp các tham dự viên Hội nghị của Bộ Phong thánh về sự tử đạo và hiến mạng sống. Ngài nhắc lại ba nền tảng của tử đạo: vị tử đạo là một Kitô hữu, vì không muốn chối bỏ đức tin, đã chấp nhận một cái chết đau đớn; người sát hại là một kẻ bắt hại, thù ghét đức tin; nạn nhân có một thái độ bác ái, kiên nhẫn và hiền lành, noi gương Chúa Giêsu chịu đóng đinh.


image.png

Đức Thánh Cha nói nên thánh không chỉ cần nỗ lực của con người hay sự dấn thân cá nhân hy sinh và từ bỏ, nhưng trước hết chúng ta phải để cho mình được biến đổi bởi sức mạnh tình yêu Thiên Chúa, tình yêu lớn lao hơn chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng yêu thương vượt xa những gì chúng ta nghĩ mình có khả năng làm.

Đề cập đến chủ đề của hội nghị, Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em đã suy tư về hai hình thức thánh thiện được phong thánh: tử đạo và hiến mạng sống. Từ xa xưa, những người tin vào Chúa Giêsu đã đánh giá cao những người đã trả giá bằng chính mạng sống của mình cho tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo hội. Các ngôi mộ của các vị tử đạo thành nơi cầu nguyện. Mọi người tụ họp trong ngày các vị tử đạo được sinh ra trên trời để củng cố mối liên kết của tình huynh đệ mà trong Chúa Kitô Phục Sinh vượt quá giới hạn của cái chết, cho dù phải đổ máu và đau khổ”.

Ngài nhắc lại ba nền tảng của tử đạo: Đầu tiên, vị tử đạo là một Kitô hữu, vì không muốn chối bỏ đức tin, đã chấp nhận một cái chết đau đớn; Thứ hai, người giết Kitô hữu là kẻ bách hại, thù ghét đức tin; Thứ ba, nạn nhân có một thái độ bác ái, kiên nhẫn và hiền hành, noi gương Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Khái niệm của tử đạo không thay đổi theo thời gian, nhưng cách thức cụ thể trong bối cảnh lịch sử cụ thể thì thay đổi.

Theo nghĩa này, ngày nay, trên thế giới, có nhiều vị tử đạo đã hiến mạng sống vì Chúa Kitô. Trong nhiều trường hợp, người Kitô hữu bị bách hại vì được thúc đẩy bởi niềm tin vào Thiên Chúa, bảo vệ công lý, sự thật, hòa bình và phẩm giá của con người.

Liên kết với Năm Thánh, Đức Thánh Cha giải thích, trong Sắc chỉ Năm Thánh ngài đã xác định các vị tử đạo là những chứng từ thuyết phục nhất về niềm hy vọng. Chính vì lý do này mà trong Bộ Phong Thánh, ngài đã thành lập Ủy ban các vị Tử đạo mới - Chứng nhân Đức tin, để thu thập ký ức của các Kitô hữu cả trong các hệ phái Kitô giáo khác, những người đã hiến mạng sống để không phản bội Chúa. 


Giáo hội Ba Lan cử hành Ngày Liên đới với Giáo hội bị bách hại


Chúa nhật, ngày 10 tháng Mười Một vừa qua, Giáo hội Công giáo trên toàn Ba Lan đã cử hành Ngày Liên đới với Giáo hội bị bách hại, lần thứ XVI và năm nay có chủ đề là tình trạng Giáo hội tại Thánh địa, đang phải chiến đấu với một cuộc khủng hoảng nặng nề.


Ngày Liên đới bắt đầu từ lúc 7 giờ sáng, với thánh lễ trọng thể tại Đền thánh Lòng Chúa Thương Xót, ở Lagiewniki, gần thành phố Cracovia và trong thánh lễ, các tín hữu đặc biệt cầu nguyện cho các tín hữu Kitô bị bách hại.

Các buổi lễ với ý nguyện đặc biệt cũng được cử hành tại hơn 10.000 giáo xứ toàn quốc Ba Lan, và ban chiều, nhiều tín hữu tụ họp tại Đền thánh Đức Mẹ Jasna Góra, Nữ Vương Ba Lan.

Trong một sứ điệp gửi các tín hữu Công giáo toàn quốc nhân ngày này, Đức Tổng giám mục Tadeusz Wojda, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, viết: “Chúng ta hãy cố gắng nghĩ đến các tín hữu tại Thánh địa và nâng đỡ họ bằng kinh nguyện, hy sinh và trợ giúp tài chánh. Chúng ta hãy biến ngày này thành một ngày trách nhiệm của chúng ta đối với Thánh địa”.

Đức Tổng giám mục cũng nhắc đến những người phải chiến đấu hằng ngày tại Thánh địa để sống còn trong những điều kiện khó khăn.

Cha Bernard Maria Alter, cựu Viện phụ Đan viện Biển Đức Đức Mẹ An nghỉ ở núi Sion, Jerusalem, lưu ý đến ý nghĩa biểu tượng thánh giá trong đời sống của các tín hữu Kitô ở Trung Đông. Cha nói: “Chúng tôi là một Giáo hội dưới bóng Thánh Giá, và điều này thật là rõ ràng ở Thánh địa. Đời sống hằng ngày của chúng tôi là một cuộc sống giữa những khó khăn, nhưng gần gũi với hy vọng rằng thánh giá dẫn đến phục sinh”.

Các tín hữu Kitô ở Thánh địa, đặc biệt những người sống bằng nghề sản xuất các đồ thủ công bằng gỗ ô-liu, để bán cho các tín hữu hành hương và du khách, gặp khó khăn rất nhiều, vì Thánh địa không còn người hành hương. Chiến tranh, thất nghiệp, điều này có nghĩa là họ phải chiến đấu để có thể sống còn.

Cha Jan Witold Zelazny, Giám đốc phân bộ Ba Lan của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ, nói rằng: “Nhiều khi các tín hữu Kitô bị bách hại ấy là những anh chị em bị lãng quên của chúng ta. Họ là những người cùng chia sẻ niềm tin của chúng ta nơi Chúa Kitô, chia sẻ hy vọng của chúng ta nơi sự phục sinh, nhưng chúng ta quên lãng họ, tuy rằng nhiều khi chỉ cần một ít cũng đủ để giúp đỡ họ”. Ví dụ, mua một đồ kỷ niệm, một tràng hạt làm bằng gỗ ô-liu, cũng đủ để góp phần giúp đỡ các gia đình làm nghề này ở Thánh địa. Những cử chỉ bé nhỏ như thế có một ảnh hưởng lớn.

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 22, 2024, 6:19:19 PM11/22/24
to alphonsefamily

Trong bài Tin mừng Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ, chúng ta chiêm ngắm cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và Phi-la-tô [1]. Ngài đã bị bắt và bị điệu đến trước quan tổng trấn của Rô-ma, là người đại diện cho quyền lực thế gian. Mặc dù, Đức Giê-su đang bị tổn thương nhưng vẫn ngẩng cao đầu, khi đứng trước quan tổng trấn Phi-la-tô. Thật ngạc nhiên khi thấy sự bình thản, ung dung và tự tại ở nơi Đức Giê-su. Chắc hẳn, cái phong thái ấy đã gây ấn tượng sâu sắc đối với người quyền thế như Phi-la-tô.

 

Bên cạnh đó, vào những ngày cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội luôn mời gọi chúng ta suy ngẫm về mục đích sau cùng của thế giới này. Thế giới được tạo dựng, nhưng không phát triển một cách ngẫu nhiên, mà luôn có một đích nhắm tới. Mục đích tối hậu của thế giới là đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Nói một cách, thời khắc cuối cùng của lịch sử sẽ là vương quốc vĩnh cửu của Thiên Chúa. Và trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su sẽ nói cho chúng ta biết về vương quốc ấy.

 

Thứ nhất, vương quốc của Thiên Chúa không thuộc về thế gian này. 

Khi Phi-la-tô hỏi Đức Giê-su có phải là vua dân Do thái hay không. Đức Giê-su trả lời rõ ràng Ngài là Vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Vậy vương quốc của Ngài ở đâu?

 

Về cơ bản, Nước Thiên Chúa không giống như các vương quốc của người cai trị. Trong vương quốc của những người cai trị, họ thường dùng sức mạnh để đàn áp người khác, trong khi đó, Đức Giêsu đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người [2]. Bên cạnh đó, nhiều người mong muốn Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a theo kiểu chính trị. Họ hy vọng Ngài sẽ giúp người Do-thái thoát khỏi sự áp bức của ngoại bang và dùng sức mạnh để đáp trả bạo lực [3]. Ngược lại, Đức Giêsu lại tự nguyện chấp nhận đau khổ và chịu đóng đinh [4]. Khi người ta nghĩ rằng sự giàu có, quyền lực và sự nổi tiếng sẽ làm cho một người trở nên vĩ đại, thì Đức Giêsu lại dạy và sống theo tinh thần nghèo khó của các mối phúc, và lấy tình yêu làm nền tảng cho luật pháp của Nước mình. Ngài nhấn mạnh vương quốc của Thiên Chúa lấy tình yêu, lòng thương xót và sự phục vụ làm tiêu chuẩn. 

 

Như vậy, chúng ta thấy rõ vương quốc của Thiên Chúa không cạnh tranh với chính quyền La-mã, hay bất cứ chính quyền dân sự nào khác. Cho nên, qua câu trả lời của Đức Giê-su, Phi-la-tô hiểu rõ Đức Giê-su không có ý định lật đổ chính quyền La-mã. 

 

Thực vậy, trong suốt cuộc đời của mình, Đức Giê-su không có tham vọng làm chính trị. Sau khi thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng đã muốn tuyên xưng Ngài là vua, và hy vọng Ngài sẽ giúp họ lật đổ quyền lực của người La-mã và khôi phục vương quốc Is-ra-el. Tuy nhiên, Đức Giê-su biết rõ vương quốc của Ngài không thể đạt được bằng sự nổi loạn, bạo lực hay vũ lực. Đó là lý do tại sao Người đã rút lui, một mình lên núi để cầu nguyện với Chúa Cha [5]. Và giờ đây, khi trả lời Phi-la-tô, Ngài thẳng thắn nói rõ:

 

Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không thuộc chốn này.”

 

Thứ hai, vương quốc của Thiên Chúa khởi đầu từ con tim.

Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng có một sức mạnh lớn hơn quyền lực chính trị. Đức Giê-su nói với Phi-la-tô: Tôi đến thế gian này để làm chứng cho sự thật. Sự thật ấy cũng là thông điệp cốt lõi của Tin Mừng: “Thiên Chúa là tình yêu.” [6] Thiên Chúa muốn thiết lập vương quốc của mình dựa trên tình yêu, hòa bình và công lý. 

 

Trong vương quốc ấy Đức Giêsu là Vua, và Nước của Ngài tồn tại mãi. Lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy rằng những vương quốc dựa trên sức mạnh bạo lực và gieo rắc lòng hận thù, thì các vương quốc ấy đều mong manh và đã bị sụp đổ. Còn vương quốc của Thiên Chúa dựa trên tình yêu, hòa bình và công lý, nó sẽ tồn tại mãi và bén rễ sâu trong trái tim con người. Tất cả những ai mở lòng đón nhận Nước Thiên Chúa, thì trái tim họ sẽ đầy ắp bình an, tự do và sự sống vĩnh cửu.

 

Thứ ba, khao khát xin cho Nước Cha trị đến. Đây là lời cầu nguyện mà Đức Giê-su đã dạy trong Kinh Lạy Cha.

Nếu chúng ta tuyên xưng Chúa Kitô là Vua, thì cần phải để cho Ngài là Vua trong đời sống cá nhân, trong gia đình và trong cộng đoàn của mình. Chúng ta hãy thành thật và tự hỏi chính mình: Chúa Kitô có thực sự là Vua của tôi hay không? Tôi đã để cho Ngài ngự trị trong tâm hồn, để cho Ngài bước vào và hướng dẫn cuộc sống của tôi hay chưa? Thực vậy, Đức Kitô chỉ thực sự là Vua của chúng ta, nếu mỗi người chúng ta để cho Ngài hướng dẫn mọi ước muốn, suy nghĩ và hành động của mình. 

 

Nước của Thiên Chúa sẽ mau trị đến trên thế gian này, nếu trước tiên, Nước Thiên Chúa được phát triển trong tâm hồn và ý chí của mỗi người. Tiếp đến, vương quốc của Thiên Chúa sẽ được lan tỏa đến mọi khía cạnh trong cuộc sống xã hội. Lúc ấy, mọi điều chúng ta suy nghĩ và hành động đều theo ý muốn của Thiên Chúa. Và trong tất cả mọi việc chúng ta làm, Thiên Chúa thực sự là Vua, Ngài điều khiển và hướng dẫn mọi sự.

 

Hôm nay, khi mừng lễ Chúa Kitô Vua, chúng ta được nhắc nhớ về lời cầu nguyện: xin cho Nước Cha mau trị đến. Chúng ta cũng được mời gọi dành thời gian để duyệt xét lại đời sống của mình:

 

  1. Điều gì hay ai đang cai trị trái tim tôi?
  2. Tôi cần thay đổi điều gì để Đức Giêsu thực sự trở thành Vua, trở thành trung tâm của đời sống tôi, của cộng đoàn tôi và của gia đình tôi?
  3. Tôi cần phải làm gì để cộng tác hơn vào việc mở rộng Nước Thiên Chúa?

 

Lm Giuse Trần Văn Ngữ, S.J.

 

 

[1] Tin Mừng Chúa Nhật Chúa Kitô Vua Vũ Trụ (Ga 18,33b-37).

[2] Xem Mt 20, 24-28.

[3] Xem Mt 26,51; Lc 9,54; Ga 18,10-11; Cv 1,6.

[4] Xem Mc 8,31; Mt 26,52; Lc 9,55-56.

[5] Xem Ga 6, 5-15.

[6] Xem 1 Ga 4,8.



Kể từ khi chiến tranh bùng nổ ở Ukraina, hàng trăm ngàn người được cho là đã thiệt mạng, trong khi gần 11 triệu người phải di dời. Theo thông tin được kiểm chứng bởi Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp quốc (Unicef), đã có ít nhất 2.406 trẻ em thương vong, trong đó có 659 em thiệt mạng và 1.747 em bị thương; trung bình mỗi tuần có 16 em thiệt mạng hay bị thương.

Con số thống kê không chắc chắn bởi vì nhiều số liệu bị cố tình che giấu, vì chiến tranh diễn ra bằng cả thông tin lẫn vũ khí.

Số nạn nhân

Về số nạn nhân, vào tháng 9, The Wall Street Journal, trích dẫn các nguồn tin tình báo, đã viết rằng kể từ ngày 24/2/2022, khoảng một triệu người đã chết, cả người Ukraina và người Nga. Hầu hết trong số đó là binh lính của cả hai bên, tiếp theo là thường dân Ucraina. Cùng tháng đó, BBC và trang web độc lập Mediazone ước tính có 70.000 binh lính Nga đã chết ở Ukraine, trong đó 20% là lính tình nguyện.

Khoảng 6,7 triệu người Ukraine đã chạy trốn khỏi đất nước, trong khi khoảng 4 triệu người phải di tản nội địa.

Cơ sở hạ tầng bị phá hủy 

Cơ sở hạ tầng bị phá hủy khi tên lửa đã nhắm vào 3.798 trường học, phá hủy 356 trường trong số đó.

Kể từ khi chiến tranh nổ ra, 1.619 cơ sở y tế đã bị hư hại và 214 cơ sở bị xóa sổ, trong đó các cơ sở ở Kharkiv, Donetsk, Mykolaiv, Kyiv, Kherson và Zaporizhzhia là những nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất.

Kinh tế suy thoái

Tất cả những điều này đều tác động đến nền kinh tế của Ukraine, vốn trước đây dựa trên nông nghiệp. Cho đến vài năm trước, nước này được coi là “vựa lúa mì của thế giới”, xuất khẩu 20% lúa mì và 45% dầu hướng dương của thế giới. Do các cuộc tấn công vào các cảng ở Biển Đen, Ukraine gần như mất toàn bộ sức mạnh thương mại của mình. Nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh, lạm phát lên đến 8,6% do giá lương thực tăng, chi phí sản xuất tăng và áp lực liên tục từ việc tiền tệ bị phá giá. Mặc dù dân số Ukraina đang giảm, tỷ lệ thất nghiệp vào tháng 10 vẫn ở mức trên 15% và chỉ số nghèo đói vẫn ở mức 20%. Doanh thu ngân sách nhà nước ở Ukraine đã được sử dụng để tài trợ cho quốc phòng. Trong khi đó, chi phí dân sự đã được hỗ trợ bởi viện trợ bên ngoài.

Các nạn nhân trẻ em

Trong số các nạn nhân của chiến tranh, hàng triệu trẻ em Ukraine tiếp tục bị đảo lộn cuộc sống do các cuộc tấn công đang diễn ra. Đặc biệt, trẻ em ở vùng Donbass ở phía đông Ukraine đã phải sống cảnh chiến tranh hơn 10 năm.

Trong một thông cáo ngày 18/11, bà Catherine Russell, tổng giám đốc Unicef tuyên bố: “Gánh nặng đối với trẻ em thật kinh khủng và không thể chấp nhận được. Trẻ em đã bị giết trên giường, trong bệnh viện và trên sân chơi, khiến các gia đình bị tàn phá bởi sự mất mát của tuổi thơ hoặc những vết thương làm thay đổi cuộc đời”. Bà cũng nói thêm: “Hàng triệu trẻ em thường xuyên phải sống trong nỗi sợ hãi, nhiều em phải sống khoảng 6 giờ mỗi ngày trong ngục tối dưới còi báo động không kích. Nếu không có sự hỗ trợ nhiều hơn và liên tục cho trẻ em, những vết sẹo tâm lý của cuộc chiến này sẽ để lại hậu quả cho nhiều thế hệ”.

Do đó, bà Russell nói: “Trẻ em Ukraina phải được bảo vệ khỏi nỗi kinh hoàng kéo dài của cuộc chiến này. Thế giới không thể im lặng khi các em phải chịu đau khổ”


Đức Sứ thần Tòa Thánh tại Ucraina: Một ngàn ngày chiến tranh, số người chết ngày càng gia tăng


Đức Tổng giám mục Visvaldas Kulbokas, Sứ thần Tòa Thánh tại Ucraina, mô tả thực tại hằng ngày khó khăn của dân Ucraina, nhưng đồng thời cũng nhận ra những yếu tố hy vọng là sự liên đới: sự trợ giúp của những người thiện nguyện tại nước này là những dấu chỉ nhân đạo trong tăm tối của xung đột.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, nhân kỷ niệm một ngàn ngày chiến tranh tại Ucraina, giữa ảo tưởng nơi khả năng giải quyết của các tổ chức quốc tế và sự tín thác qua các hoạt động của một Giáo hội không ngừng vun trồng và phổ biến niềm hy vọng, cũng như gần gũi dân chúng đang đau khổ từ quá lâu vì sự gây hấn của quân Nga. Cuộc phỏng vấn diễn ra hôm trước ngày Nga tấn công ồ ạt trên toàn nước Ucraina bằng các tên lửa và máy bay không người lái, đánh vào các cơ cấu hạ tầng, và làm cho nhiều người chết và bị thương.

Đức Sứ thần Tòa Thánh nhìn nhận rằng nhiều khi chỉ còn phương thế cầu nguyện là sức mạnh duy nhất, nhưng ngài rất tin tưởng lời cầu nguyện có thể làm phép lạ. Các mục tử ở cạnh các tín hữu của mình và điều này là một hồng ân của Giáo hội Công giáo cũng như của các Giáo hội khác, và các cộng đồng tín ngưỡng. Đức Tổng giám mục Kulbokas nói: “Tôi đã sống điều đó tại thành Kherson, khi nghe các câu chuyện của các linh mục ở lại với dân, như điểm tham chiếu cho dân chúng và vì thế, dân rất biết ơn các linh mục. Do vậy, việc ở lại với nhau là điều rất quan trọng. Ngoài ra, hoạt động của các linh mục tuyên úy quân đội cũng rất quan trọng, vì các quân nhân không biết ngày mai mình có còn sống hay không, và chính trong những trường hợp đó, câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống là rất quan trọng. Tôi đã nghe kể những người thiện nguyện mang thuốc men cho binh sĩ và thường nghe các quân nhân này nói rằng anh chị đối với tôi giống như Chúa Giêsu, vì anh chị đến tận đây để mang thuốc men cho tôi. Vì thế, tại những nơi đó có một cảm thức tình nhân đạo rất mạnh”.

Thứ Ba, ngày 19 tháng Mười Một năm 2024, đánh dấu một ngàn ngày quân Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện vào Ucraina, ngày 24 tháng Hai năm 2022. Trong dịp đau buồn này, Đức Thánh cha Phanxicô, một lần nữa bày tỏ tình liên đới với người dân Ucraina, đang chịu đựng đau thương bi thảm vì chiến tranh.

1.000 ngày chiến tranh, Đức Thánh Cha gửi thư bày tỏ sự gần gũi với Ucraina

Thứ Ba ngày 19/11, đánh dấu 1.000 ngày Ucraina bị Nga tấn công, Đức Thánh Cha gửi thư cho Đức Tổng Giám Mục Visvaldas Kulbokas, Sứ thần Toà Thánh tại Ucraina, bày tỏ sự gần gũi với dân tộc tử đạo, nhấn mạnh “Chúa sẽ có lời cuối cùng đối với thảm kịch to lớn này”.
Không có lời nào của con người có thể đủ để bảo vệ mạng sống người dân Ucraina khỏi những vụ đánh bom hàng ngày, cũng không thể đủ để an ủi những người đang khóc thương người chết, chữa lành vết thương, đưa trẻ em về nhà, trả tự do cho tù nhân, hoặc phục hồi công lý và hoà bình”.

Tuy nhiên Đức Thánh Cha nói thêm chính vì “hoà bình” mà ngài cầu nguyện để một ngày nào đó “hoà bình” một lần nữa vang lên trong các ngôi nhà, gia đình và đường phố của Ucraina.

Trong thư gửi đến vị đại diện của mình tại đất nước này, Đức Thánh Cha cũng nhắc đến “phút mặc niệm toàn quốc” mà mỗi ngày vào lúc 9 giờ sáng người dân Ucraina thực hiện để tưởng nhớ các nạn nhân chiến tranh: trẻ em và người lớn, dân thường và binh lính, cũng như các tù nhân bị giam giữ trong những điều kiện khủng khiếp.

Nghĩ đến những người này, Đức Thánh Cha cầu nguyện với Thánh vịnh 121 “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”, đồng thời nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta rằng sự giúp đỡ của Chúa đến ngay cả trong những thời điểm đen tối. Ngài viết: “Nguyện xin Chúa an ủi tâm hồn chúng ta và củng cố niềm hy vọng rằng, khi Người gom hết mọi giọt nước mắt đã rơi và sẽ xét xử mọi sự, Người vẫn luôn ở bên chúng ta, ngay cả khi những nỗ lực của con người dường như không mang lại kết quả và những hành động không đủ”.

Trong thư gửi Sứ thần Toà Thánh, Đức Thánh Cha nhắc lại lời cầu nguyện cho hoà bình, điều mà từ khi được bầu chọn làm Giáo hoàng, ngài không ngừng lặp lại. Ngài xin cho mọi trái tim được hoán cải để thúc đẩy đối thoại và hoà hợp.

Kết thúc thư, Đức Thánh Cha ban phép lành cho các giám mục, linh mục, những mục tử vẫn kiên định trong sứ vụ đồng hành và hỗ trợ các tín hữu tại Ucraina. Ngài cũng gửi lời chúc lành cho toàn thể người dân Ucraina, bày tỏ tin tưởng rằng “Chúa sẽ có lời cuối cùng đối với thảm kịch to lớn này”.


ĐHY Parolin hy vọng cột mốc 1.000 ngày chiến tranh có thể đánh thức ý thức trách nhiệm chấm dứt chiến tranh

Trong cuộc trò chuyện với Vatican News nhân tròn một ngàn ngày cuộc chiến của Nga tại Ucraina, Đức Hồng y Pietro Parolin đã suy tư về tình hình hiện tại của cuộc xung đột và bày tỏ hy vọng rằng cột mốc này sẽ “đánh thức ý thức trách nhiệm trong mỗi người, đặc biệt là những người có thể ngăn chặn cuộc tàn sát đang diễn ra”.

Đức Hồng y Quốc vụ khanh Tòa Thánh cho biết ngài có cảm giác “buồn sâu sắc” trước tin tức chúng ta nhận được hàng ngày về cái chết và sự hủy diệt ở Ucraina. Ngài đau lòng trước “sự hy sinh của cả thế hệ nam giới, người trẻ cũng như người không còn trẻ, bị kéo ra khỏi việc học tập, công việc và gia đình” để bị đưa ra mặt trận. Ngài khẳng định Ucraina “là một quốc gia bị tấn công và tử đạo”.

Nga cần đi bước trước

“Phải làm gì để ít nhất ngăn chặn được cuộc đụng độ vũ khí?”, theo Đức Hồng y Parolin, “chúng ta cần những người cam kết hòa bình chứ không phải chiến tranh” và những người “nhận ra trách nhiệm to lớn mà việc tiếp tục xung đột gây ra” với những hậu quả khủng khiếp đối với Châu Âu và toàn thế giới. Theo ngài, Nga có lẽ cần đi bước trước bởi vì Nga là nước đã khởi xướng xung đột và nên chấm dứt hành động xâm lược”.

Đàm phán với sự tin tưởng

Ngài nói: “Cần biết bao những chính khách có tầm nhìn xa, có khả năng thực hiện những cử chỉ khiêm tốn can đảm, có khả năng nghĩ đến lợi ích của người dân mình”. Ngài khẳng định rằng “ngay cả khi các dấu hiệu không tích cực, một cuộc đàm phán luôn có thể thực hiện được và đáng mong muốn đối với tất cả những ai quan tâm đúng mức đến sự thánh thiêng của sự sống con người. Đàm phán không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối mà là sự can đảm”. Ngài nói thêm rằng đối thoại chỉ có thể diễn ra khi có sự tin tưởng tối thiểu giữa các bên. Và điều đó đòi hỏi thiện chí của mọi người.

Cầu nguyện và trợ giúp cho Ucraina

Để giúp Ucraina, theo Đức Hồng y, là các Kitô hữu, chúng ta có thể và phải cầu nguyện. Hãy cầu xin Chúa hoán cải tâm hồn của các “chúa tể chiến tranh”. Chúng ta cũng cần tiếp tục dấn thân liên đới với những người đau khổ, những người cần được chăm sóc, những người phải chịu đựng cái lạnh, những người cần mọi thứ.

“Chúng ta không thể đầu hàng trước sự tất yếu của chiến tranh!"

Kết thúc cuộc phỏng vấn, Đức Hồng y bày tỏ: “Chúng ta không thể đầu hàng trước sự tất yếu của chiến tranh! Tôi chân thành hy vọng rằng ngày đau buồn này, ngày thứ một ngàn kể từ khi bùng nổ cuộc xâm lược quân sự chống lại Ucraina, sẽ gây ra một cú sốc trách nhiệm nơi mọi người và đặc biệt là những người có thể ngăn chặn cuộc tàn sát đang diễn ra”.


Đức Thánh Cha tiếp các tham dự viên Hội nghị Thư viện Vatican

Đức Thánh Cha mời gọi các tham dự viên của Hội nghị về Thư viện Vatican, được ngài tiếp kiến vào sáng thứ Bảy, ngày 16/11/2024 nhớ bốn tiêu chí: thời gian vượt không gian, thống nhất chiếm ưu thế hơn xung đột, thực tế quan trọng hơn ý tưởng, toàn thể lớn hơn bộ phận.



image.png

Đi từ mục đích của Hội nghị: Thư viện Vatican muốn mở ra đối thoại với thế giới, Đức Thánh Cha nói với các tham dự viên Hội nghị gồm các ân nhân, các đại diện của 23 thư viện lớn trên thế giới rằng, Thư viện Vatican muốn đối thoại với các tổ chức thân hữu về một số điểm chính, đưa ra các bản nghiên cứu mà ngài hy vọng có thể tiếp tục làm phong phú lẫn nhau.

Với thực tế công nghệ phát triển, giúp hoạt động thư viện mau chóng hơn, nhưng cũng có nguy cơ khó kiểm soát, chi phí cao cho việc quản lý các bộ sưu tập bằng giấy, Đức Thánh Cha khích lệ những người làm việc trong các thư viện tiếp tục làm việc để những nơi này trở thành một nơi bình an, ốc đảo gặp gỡ và tự do thảo luận.

Để nâng đỡ sự dấn thân này, Đức Thánh Cha nói ngài muốn giao phó cho mọi người bốn tiêu chí mà ngài đã đề xuất trong Evangelii Gaudium-Niềm Vui Tin Mừng (số 222-237).

Thứ nhất: thời gian vượt không gian. Những người làm việc trong lĩnh vực thư viện gìn giữ kho tàng kiến thức to lớn. Những kho tàng này có thể trở thành những nơi dành thời gian suy ngẫm, mở ra chiều kích tâm linh và siêu việt. Và do đó, họ có thể khuyến khích các nghiên cứu dài hạn mà không bị ám ảnh về kết quả ngay lập tức, khuyến khích sự phát triển của một chủ nghĩa nhân văn mới trong thinh lặng và suy tư.

Thứ hai: sự thống nhất chiếm ưu thế hơn xung đột. Nghiên cứu hàn lâm chắc chắn sẽ nảy sinh những khoảnh khắc gây tranh luận, điều này phải được thực hiện trong một cuộc tranh luận nghiêm túc, để không dẫn đến lạm quyền. Thư viện phải mở cho tất cả các lĩnh vực kiến thức, thể hiện mục đích chung giữa các quan điểm khác nhau.

Thứ ba: thực tế quan trọng hơn ý tưởng. Điều tốt là tính cụ thể của các lựa chọn và sự quan tâm đến thực tế phát triển trong mối liên hệ chặt chẽ với cách tiếp cận phê bình và suy lý, để tránh bất kỳ sự đối lập sai lầm nào giữa suy nghĩ và kinh nghiệm, giữa sự kiện và nguyên tắc, giữa thực hành và lý thuyết. Có một tính ưu việt của thực tại mà sự suy tư phải luôn tôn trọng nếu muốn chân thành tìm kiếm sự thật.

Thứ tư: toàn thể lớn hơn bộ phận. Chúng ta được mời gọi hòa giải sự căng thẳng giữa địa phương và toàn cầu, nhớ rằng không ai là cá nhân cô lập, nhưng mọi người đều là người sống với các mối quan hệ và mạng lưới xã hội, để tham gia một cách có trách nhiệm.

Sau cùng Đức Thánh Cha khích lệ mọi người đừng sợ sự phức tạp của thế giới trong đó chúng ta được mời gọi làm việc. Ngài cầu chúc những gì mọi người đã chia sẻ sẽ giúp phát triển, trong thư viện, những “kinh sư” khôn ngoan được Chúa Giêsu ca ngợi, những người biết rút ra những điều mới và cũ từ kho tàng của mình, vì lợi ích của mọi người (Mt 13, 52).


Giáo hội Anh ở giai đoạn bấp bênh sau khi Tổng giám mục Welby từ chức


image.png
Tổng giám mục Justin Welby, giáo phận Canterbury

Sau một tuần đầy biến động và sự từ chức đầy kịch tính của Tổng giám mục Justin Welby, Giáo hội Anh đang cố gắng ổn định vào thời điểm bấp bênh này.

Nhiều tín hữu sống kinh nghiệm đau đớn sâu đậm này, với họ hướng đi của Giáo hội bây giờ là vô cùng quan trọng. Với một số người, kể cả các nạn nhân bị lạm dụng, nỗi đau là lời nhắc nhở Giáo hội không phải là nơi mọi người có thể tin tưởng để được an toàn, vì thế một số tín hữu cảm thấy nhẹ nhõm khi Tổng giám mục Canterbury Justin Welby từ chức vì đã mất uy tín trong việc quản lý các vụ lạm dụng.

Nhưng cũng có một số tín hữu buồn vì họ cảm thấy Tổng giám mục Welby đã làm nhiều điều tốt và, dù chậm nhưng cố gắng điều khiển  Giáo hội theo một hướng tốt hơn.

Là nhà quan sát vô tư của nhiều cộng đồng đức tin, tôi cảm thấy có ít  tổ chức phù hợp với Giáo hội Anh trong quan điểm rộng lớn này. Giáo hội Anh có giám mục nữ và cũng có các giám mục nam từ chối phong chức cho phụ nữ.

Trong một lãnh vực khác, Giáo hội đã bỏ phiếu thuận để chúc phúc cho các cặp đồng tính và nếu các giáo sĩ nào không cảm thấy thoải mái khi chúc phúc thì họ không buộc phải làm. Qua Hội nghị quốc gia của Giáo hội, Thượng Hội đồng chung cho thấy Giáo hội Anh bị phân cực trên nhiều vấn đề. Sau các cuộc tranh luận, cuối ngày họ đến với nhau trong giờ thờ phượng. Tổng giám mục Welby xem đây là phần quan trọng trong công việc của ngài để tập hợp các phe phái rất khác nhau trong Giáo hội Anh và thậm chí còn khó khăn hơn, trong Giáo hội toàn cầu rộng lớn hơn Hiệp thông Anh giáo của 85 triệu người.

Theo ngài, đây là sự sống còn của một Giáo hội đã suy giảm rất nhiều, lần đầu tiên giảm xuống dưới 50%, với con số của những người không liên kết với một tôn giáo nào ngày càng tăng.

Trong suốt 12 năm tại chức, Tổng giám mục đã nỗ lực tìm những điểm chung trong lúc có những thay đổi xã hội quan trọng khác, ngài chứng tỏ cho thấy ngài là nhà điều hành chính trị sắc sảo.

Đầu nhiệm kỳ với tư cách là Tổng Giám mục Canterbury, ngài đã mở cuộc bỏ phiếu cho phép phụ nữ trở thành giám mục, ủng hộ việc chuyển đổi trong sự chia rẽ thường xuyên đầy sóng gió.

Về vấn đề tình dục và kết hợp đồng tính, ngài đã có một hành trình gay go – chuyển từ một vị trí rất bảo thủ sang một vị trí mà cuối cùng ngài thông qua cuộc bỏ phiếu để cho phép chúc phúc cho các kết hợp đồng giới.

Nhưng các nhà quan sát xem đây là một chút lừa dối của Giáo hội và của Tổng giám mục Welby. Cuộc tranh luận đã không bắt đầu với tiền đề người đồng tính bình đẳng trong Giáo hội và xứng đáng được bình đẳng hôn nhân (một điều không được đưa ra bỏ phiếu) và kết quả không đại diện cho một sự thay đổi đáng kể trong giáo huấn của Giáo hội.

Nhưng các nhà lãnh đạo Giáo hội cũng không lên án các kết hợp đồng tính như một số người theo chủ nghĩa truyền thống mong muốn. Giáo hội đã làm rõ, với các Giáo hội Châu Phi, lời cầu nguyện chúc phúc đã được bỏ phiếu thông qua là để chúc phúc cho các cá nhân trong kết hợp đồng tính chứ không phải chúc phúc cho chính kết hợp này.

Đó là chủ đề mà khi quá tập trung vào việc giữ mọi thứ lại với nhau,  đôi khi lại như cố gắng trở thành tất cả mọi thứ cho tất cả mọi người, trên nguyên tắc, Tổng giám mục Welby đã bị nhiều người ở cả cánh hữu và cánh tả cho là không có lập trường.

Ngài đã ứng xử như một chính trị gia và theo một cách nào đó đã phải đối diện với sự sụp đổ của một chính trị gia hoặc giám đốc điều hành, chứ không phải là nhà lãnh đạo tinh thần.

Điều mà giáo dân Anh giáo đang kêu gọi bây giờ là có một thần học gia để lãnh đạo Giáo hội hơn là nhà điều hành, nhưng trong thế giới hiện đại với những trách nhiệm hiện đại, nhà lãnh đạo cần có những yếu tố cần thiết để điều hành.

Chủ nghĩa bộ tộc và phân cực thường thấy rõ trong Giáo hội làm cho một số người nhận thấy nên có một chính trị gia tài năng, đó là cách duy nhất để thể chế không bị rạn nứt.

Dù Tổng giám mục Welby có thể có kỹ năng gì, nhưng đã không xử lý đúng các trường hợp lạm dụng khi vấn đề đã được mọi người chú ý đến và bảo đảm để mọi người tuân thủ thì ngài đã đánh mất niềm tin của người tín hữu vào Giáo hội.

Giải quyết dứt khoát vấn đề quan trọng này có thể đã giúp ích trong sứ mệnh của ngài để xây dựng sự hiệp nhất và để ngăn chặn tình trạng giáo dân ngày càng đi xuống.


Giáo hội Anh: hướng tới việc bổ nhiệm một phụ nữ làm Tổng Giám mục Canterbury?

Lần đầu tiên sau 80 năm, Giáo hội Anh phải đẩy nhanh tiến trình thay thế Tổng giám mục Justin Welby, tổng giáo phận Canterbury. Một số phụ nữ ở trong danh sách kế nhiệm ngài.

image.png

Tổng giám mục Rose Hudson-Wilkin, giáo phận Dover phát biểu trong buổi lễ có sự tham dự của Vua Charles III của Anh tại Nhà nguyện St George Lâu đài Windsor, London ngày 22 tháng 6 năm 2023.

Giáo hội Anh đang trải qua giai đoạn gần như chưa từng có. Trong hơn một trăm năm qua, chỉ có sự kế vị của Tổng giám mục William Temple, qua đời năm 1944 mới tạo ra mức độ bất ổn như vậy.

Kể từ năm 1975, Giáo hội và Quốc hội Anh đã thông qua đạo luật các giáo chủ phải nghỉ hưu ở tuổi 70. Năm 2022, trong một phỏng vấn với báo Times, Tổng giám mục Justin Welby cho biết ngài sẽ tiếp tục tại vị cho đến giới hạn tuổi năm 2026.

Một Tổng giám mục lâm thời cho giáo phận York?

Việc ngài bất ngờ từ chức ngày 12 tháng 11 đã làm xáo trộn lịch sinh hoạt bình thường của Giáo hội, việc bổ nhiệm Giám mục thay thế vẫn chưa được ấn định, nên chưa ai có thể nói chính xác những gì sẽ xảy ra trong vài tháng tới. Ngày 20 tháng 11, Tổng giám mục Justin Welby thông báo ngài sẽ chấm dứt chức vụ của ngài ngày 6 tháng 1 năm 2025. Có tin đồn Tổng giám mục Stephen Cottrell, giáo phận York sẽ tạm thời thay thế.

Tất cả đều hướng về tương lai. Cho đến năm 1976, Tổng Giám mục Canterbury được Thủ tướng trực tiếp lựa chọn. Giáo hội Anh mong muốn có được độc lập vì các việc bổ nhiệm đều phải được Ủy ban Bổ nhiệm của Hoàng gia thông qua. Ủy ban này có 16 thành viên: Tổng Giám mục Canterbury, người sẽ được thay thế bởi một giám mục khác, Tổng Giám mục York, sáu thành viên của thượng hội đồng, ba đại diện của giáo phận Canterbury và năm thành viên của Cộng đồng Anh giáo trên toàn thế giới.

Việc lựa chọn người đứng đầu Anh giáo rất cụ thể: mỗi người phải đại diện cho một lục địa khác nhau, ít nhất hai người trong số này là phụ nữ và tối đa có hai người “da trắng”. Sau khi phỏng vấn các ứng viên, Ủy ban sẽ đề xuất một nhân vật lên Vua Charles III, Vua sẽ phê chuẩn ứng viên này.

Suy nghĩ về việc đề cử một phụ nữ

Hiện tại, danh sách có 7 người thường được báo chí nhắc đến. Ông Stephen Cottrell, 66 tuổi tuyên bố trên nhật báo Guardian, ông không nghĩ mình là ứng viên vì Giáo hội cần người có thể cống hiến ít nhất 5 đến 10 mười năm. Ông hoan nghênh phụ nữ ở chức vụ này. đây sẽ là một cuộc cách mạng nhỏ, vì chưa bao giờ có phụ nữ nắm giữ trách nhiệm cao nhất này trong Giáo hội Anh.

Mười năm sau lần phong nữ giám mục đầu tiên, có 4 phụ nữ ở trong danh sách được mến chuộng: Bà Rose Hudson-Wilkin, 63 tuổi, người phụ nữ da đen đầu tiên làm giám mục ở Dover; Guli Francis-Dehqani, 58 tuổi, giám mục Chelmsford; Sarah Mullally, 62 tuổi, giám mục Luân Đôn và Rachel Treweek, 61 tuổi, giám mục Gloucester.

Tuy nhiên, sự hiện diện của năm đại diện không phải người Anh có thể làm rắc rối cho việc bầu cử. Linh mục thần học gia Martyn Percy giải thích: “Đa số các Hiệp hội nước ngoài vẫn phản đối giám mục nữ. Nếu bạn tham khảo ý kiến của những người từ các châu lục khác, bạn sẽ ít có khả năng chọn được một ứng viên ủng hộ LGBTQ hoặc một phụ nữ ở giáo phận Canterbury vì bạn sẽ phải cố gắng làm vừa lòng mọi người. Như thế có thể có lợi cho Giám mục Martyn Snow, 56 tuổi hoặc Giám mục Graham Usher, 54 tuổi.”

Ngoài vấn đề giới tính, người đứng đầu sẽ phải giải quyết các vấn đề lớn trong những năm gần đây. Giáo dân mong Giáo hội chú ý nhiều hơn đến thần học và đời sống thiêng liêng, được các nhà lãnh đạo là thần học gia dẫn dắt rõ ràng, chứ không phải các nhà quản lý.”



Trong 20 năm qua Giáo hội Mỹ trả 4 tỷ đô la tiền bồi thường cho các nạn nhân bị lạm dụng tình dục

Vụ dàn xếp trị giá 880 triệu đô la của Tổng giáo phận Los Angeles được công bố ngày 16 tháng 10, nâng tổng số tiền các giáo phận Mỹ thanh toán để giải quyết các vụ lạm dụng kể từ năm 2004 lên hơn 4,4 tỷ đô la. Đây là con số được trang thông tin OSV News công bố ngày 8 tháng 11-2024, tổng cộng hai thập kỷ báo cáo của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ. Thông báo cho biết các giáo phận và giáo phận đông phương của đất nước đã trả khoảng 3,7 tỷ đô la để giải quyết các vụ khiếu nại từ năm 2004 đến năm 2023. Việc giải quyết 776 triệu đô la của Tổng giáo phận Los Angeles và 284 triệu đô la của giáo phận Rockville Center (New York) công bố ngày 26 tháng 9, gần 1 tỷ đô la trong thời gian chưa đầy một tháng. Hai con số này cộng với tổng số tiền của Hội đồng Giám mục Mỹ từ năm 2004 đến năm 2023 lên đến 4,8 tỷ đô la.

Tổng số tiền Hội đồng Giám mục Mỹ trả cho giai đoạn 2004-2023 không tính đến 660 triệu đô la được Tổng giáo phận Los Angeles công bố năm 2007, cùng với khoản giải quyết ngày 16 tháng 10, nâng tổng số tiền của Tổng giáo phận này lên 1,1 tỷ đô la chi phí liên quan đến lạm dụng trong 20 năm qua.

Số tiền bồi thường lên đến 5,4 tỷ đồng

Tổng số tiền thanh toán của các giáo phận Mỹ trong 20 năm qua có thể vượt quá 6,24 tỷ đô la nếu các dữ liệu Hội đồng Giám mục Mỹ bao gồm khoản thanh toán do Tổng Giáo phận Los Angeles thực hiện năm 2007.

Để tính toán tổng số tiền bồi thường trả trong 20 năm qua, dữ liệu từ báo cáo thường niên của Hội đồng Giám mục Mỹ về việc thực hiện “Hiến chương Bảo vệ Trẻ em và Thanh thiếu niên” – còn được gọi là Hiến chương Dallas – đã được kiểm tra. Kể từ khi thông qua hiến chương năm 2002, Hội đồng Giám mục Mỹ đã báo cáo tổng chi phí của các giáo phận toàn quốc đã chi trả để giải quyết các khiếu nại về lạm dụng tình dục.

Chi phí bổ sung bao gồm trong số liệu thống kê

Chi phí thể hiện số tiền “chi tiêu hoặc phát sinh” trong một năm cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên. Các khoản thanh toán, thanh toán trị liệu cho những người sống sót (nếu không được bao gồm trong thỏa thuận dàn xếp) và cho người phạm tội cũng như phí luật sư đều được bao gồm trong các số liệu.

Dữ liệu này được Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Tông đồ (CARA) tại Đại học Georgetown lấy từ các cuộc khảo sát trực tuyến và qua thư. Tỷ lệ phản hồi của các giáo phận trong giai đoạn 2004-2023 là từ 99% đến 100%. CARA cũng đưa vào báo cáo hàng năm dữ liệu tương tự về các viện giáo sĩ và các tổ chức tôn giáo hỗn hợp; nhưng tỷ lệ phản hồi của các nơi này thường từ 68% đến 72%.

Tổng số tiền các giáo phận phải trả để thiết lập và duy trì để có môi trường an toàn lên tới ít nhất 628,8 triệu đô la trong những năm 2004-2023.

Dữ liệu của USCCB-CARA không bao gồm các khoản dàn xếp mà các giáo phận đã ký kết với các nạn nhân trước năm 2004. Những số tiền này khác nhau và nhiều số tiền không được các giáo phận tiết lộ.

Đức Hồng y Willem Eijk kêu gọi truyền lại trọn vẹn luân lý tính dục cho hậu thế


Đức Hồng y Willem Eijk, Tổng giám mục Utrecht, Giáo chủ Công giáo Hòa Lan, kêu gọi các tín hữu Công giáo công bố trọn vẹn luân lý tính dục Công giáo cho các thế hệ trẻ, trong bối cảnh xã hội tục hóa hiện nay.


Đức Hồng y Eijk bày tỏ lập trường trên đây, trong bài thuyết trình tại Đại hội quốc tế lần thứ III, về hôn nhân và gia đình, tiến hành từ ngày 13 đến 15 tháng Mười Một vừa qua, tại thành phố Cracovia, bên Ba Lan. Ngài cũng cảnh giác trước ý niệm mơ hồ về người nam và người nữ trong nền văn hóa hiện đại, làm cho việc công bố đức tin Kitô trong những năm tới đây trở nên khó khăn.

Đức Hồng y Eijk nguyên là một bác sĩ y khoa trước khi đi tu làm linh mục. Trong bài thuyết trình, ngài nói về những thay đổi trong quan niệm về hôn nhân và việc làm cha làm mẹ, cũng như những hậu quả từ đó mà ra. Ngài ghi nhận rằng Giáo hội Công giáo hiện nay là tổ chức duy nhất trên thế giới còn duy trì ý niệm truyền thống về hôn nhân và các giá trị cũng như những quy luật về tính dục. Nòng cốt giáo huấn của Hội Thánh trong lãnh vực này là có một liên hệ chặt chẽ giữa hôn nhân, quan hệ tính dục và sinh sản. Chỉ được quan hệ tính dục sau khi kết hôn. Hôn nhân và quan hệ tính dục cởi mở đối với sự sinh sản con cái. Điều này đối với nhiều người trong xã hội ngày nay là điều không thể hiểu nổi, vì nhờ các phương tiện ngừa thai, bán trên thị trường từ thập niên 1960, người ta có thể tránh thai, cũng như nhờ sự thụ thai nhân tạo, người ta có thể có con ngoài hôn nhân.

Một yếu tố khác ảnh hưởng lớn trong lãnh vực này là tầm quan trọng của Thiên Chúa trong đời sống thường nhật, trong các tương quan xã hội và các tổ chức xã hội bị giảm bớt. Do đó, hôn nhân ngày càng không còn được coi như một định chế do Thiên Chúa thiết đặt. Và từ đó, các giá trị và quy luật liên quan đến kinh nghiệm tính dục và sinh sản sẽ không còn nữa.

Đức Hồng y Giáo chủ Công giáo Hòa Lan cũng nói đến những yếu tố khác ảnh hưởng lớn đến sự thay đổi trong quan niệm về hôn nhân, tính dục và các quy luật đi kèm. Đó là sự thịnh vượng gia tăng làm cho con người có cơ hội tự tổ chức cuộc sống độc lập với người khác. Ngoài ra, có trào lưu nữ quyền cực đoan, theo đó phụ nữ và người trẻ tự do chọn những gì mình muốn về tính dục, từ đó dẫn tới việc đề ra lý thuyết Gender, về giống, vai trò xã hội của người nam và người nữ có thể hoàn toàn tách biệt khỏi tính dục về sinh học. Theo lý thuyết này, người ta có thể tự do chọn là người nam hay người nữ, bất luận phái tính sinh học của mình là gì.

Đức Hồng y Eijk nhận xét rằng lý thuyết về giống gây khó khăn cho Giáo hội trong việc rao giảng luân lý về hôn nhân và luân lý tính dục. Ngài cũng trưng dẫn kinh nghiệm của Giáo hội Hòa Lan, muốn thích ứng luân lý tính dục của Giáo hội với trào lưu xã hội ngày nay, nhưng kết quả là tỷ lệ sống đạo của các tín hữu Công giáo sa sút trầm trọng: ngày nay chỉ còn 2,5% người Công giáo nước này đi lễ mỗi Chúa nhật. Trong bối cảnh đó, Giáo hội cần tiếp tục công bố giáo huấn về luân lý tính dục một cách chân thành và tự do. Ngài cũng ghi nhận có những dấu hiệu hồi sinh của Giáo hội Hòa Lan: những người trẻ xin được đón nhận vào sự hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Công giáo qua bí tích rửa tội hoặc thêm sức, và có khuynh hướng đón nhận hoàn toàn đạo lý Công giáo.






ĐTC Phanxicô: Yêu mến Giáo hội như Giáo hội là, một Giáo hội có những sai lầm

Trong lá thư được công bố ngày 21/11/2024, Đức Thánh Cha đã mời gọi các chủng sinh, giáo sĩ và tín hữu canh tân sâu rộng việc học hỏi lịch sử Giáo hội để hiểu rõ hơn thực tế. Ngài nói rằng chúng ta phải từ bỏ quan niệm Giáo hội như “thiên thần” và chấp nhận “những vết nhơ và nếp nhăn” của Giáo hội để yêu Giáo hội như Giáo hội là.

Nuôi dưỡng mối liên kết với các thế hệ đi trước

Mở đầu lá thư được công bố trong buổi họp báo tại Phòng Báo chí Tòa Thánh, Đức Thánh Cha đề cập đến nhu cầu cổ võ “ý thức lịch sử đích thực”, với việc xét đến “chiều kích lịch sử của chúng ta như là những con người”. Ngài nhấn mạnh: “Không ai có thể thực sự biết được căn tính sâu xa nhất của mình, hoặc điều họ mong muốn trở thành trong tương lai, nếu không chú ý đến những mối liên kết gắn kết họ với các thế hệ trước”.

Giáo hội là người mẹ phải được yêu mến như Giáo hội là

Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha tuyên bố rằng chúng ta phải từ bỏ quan niệm “thiên thần” về Giáo hội và chấp nhận “những vết nhơ và nếp nhăn” của Giáo hội để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự là. Ngài viết: “Giáo Hội cũng như người mẹ, phải được yêu thương như Giáo hội vốn là, nếu không chúng ta không yêu Giáo hội chút nào, hoặc chúng ta chỉ yêu một bóng ma trong trí tưởng tượng của mình”. Giáo hội học hỏi từ những sai lầm của mình và nhận ra chính mình “ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối”, chữa lành vết thương của chính mình và của thế giới nơi Giáo hội đang sống.

Nền văn hóc hủy bỏ

Nói về tầm quan trọng của việc bảo tồn lịch sử trong Giáo hội và trong xã hội, Đức Thánh Cha đã cảnh báo về “văn hóa hủy bỏ” và những câu chuyện lịch sử thiên vị bóp méo quá khứ để biện minh cho các hệ tư tưởng hiện tại. Theo ngài, chúng ta cần có sự tham gia cân bằng vào lịch sử, thừa nhận cả những chương đen tối nhất của nhân loại và những khoảnh khắc ân sủng phi thường. Ngài nhấn mạnh, ký ức “không phải là trở ngại cho sự tiến bộ mà là nền tảng cho công lý và tình huynh đệ”.

Tham chiếu các nguồn lịch sử chính yếu của Giáo hội

Đức Thánh Cha đã đề cập đến một số lĩnh vực cần đổi mới trong việc nghiên cứu lịch sử Giáo hội. Ngài chỉ trích những cách tiếp cận giản lược lịch sử Giáo hội thành những sự kiện theo trình tự thời gian đơn thuần, và nhấn mạnh đến nhu cầu nghiên cứu lịch sử một cách say mê và nhiệt huyết. Ngài cũng kêu gọi nhấn mạnh nhiều hơn vào các nguồn chính yếu, thúc giục các chủng sinh đào sâu các tác phẩm thời đầu Kitô giáo.

Sự tử đạo

Cuối cùng, Đức Thánh Cha suy tư về tính trung tâm của sự tử đạo trong lịch sử Giáo hội, nhắc nhở các tín hữu rằng Giáo hội thường tìm thấy vẻ đẹp vĩ đại nhất của mình trong những khoảnh khắc bị bách hại và đau khổ, khi chứng tá của Giáo hội về Chúa Kitô tỏa sáng nhất. 

Kết thúc lá thư, Đức Thánh Cha nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu lịch sử và nhắc nhở rằng “nghiên cứu không phải là chuyện ngồi lê đôi mách”. Nghiên cứu thực sự đòi hỏi lòng can đảm để đặt ra những câu hỏi sâu sắc và chống lại sự xao lãng của chủ nghĩa tiêu thụ về văn hóa.



Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi nghiên cứu lịch sử Giáo hội thoát khỏi ý thức hệ


Đức Giáo Hoàng Phanxicô phát biểu trước những người hành hương tụ họp trong buổi tiếp kiến chung vào thứ Tư ngày 20 tháng 11 năm 2024, tại Quảng trường Thánh Phêrô tại Vatican. 

Almudena Martínez-Bordiú của ACI Prensa, đối tác tiếng Tây Ban Nha của CNA, ngày 21 tháng 11 năm 2024, tường trình rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công bố một lá thư gửi riêng cho các linh mục đang trong quá trình đào tạo để thúc đẩy đổi mới việc nghiên cứu lịch sử Giáo hội, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này trong việc diễn giải thực tại tốt hơn.

Mở đầu lá thư, được trình bày tại Văn phòng Báo chí Vatican vào thứ Năm, Đức Thánh Cha đề cập đến nhu cầu thúc đẩy "cảm thức lịch sử đích thực" có tính đến "chiều kích lịch sử vốn là của chúng ta với tư cách là những con người".

"Không ai có thể thực sự biết được bản sắc sâu sắc nhất của mình, hoặc họ muốn trở thành gì trong tương lai, nếu không chú ý đến những mối liên kết gắn kết họ với các thế hệ đi trước", Đức Thánh Cha nói. Đức Giáo Hoàng cũng chỉ ra rằng mọi người, không chỉ các ứng viên cho chức linh mục, đều cần sự đổi mới này.

‘Yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu’

Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha tuyên bố rằng chúng ta phải từ bỏ quan niệm “thiên thần” về Giáo hội và chấp nhận “những vết nhơ và nếp nhăn” của Giáo hội để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu.

Tóm lại, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu thấy Giáo hội thực sự “để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu”, một Giáo hội đã học được “và tiếp tục học hỏi từ những sai lầm và thất bại của mình”.

Theo Đức Thánh Cha, điều này có thể “đóng vai trò như việc điều chỉnh cho cách tiếp cận sai lầm vốn chỉ nhìn nhận thực tại từ việc bảo vệ hiếu thắng cho chức năng hoặc vai trò của chúng ta”.

Nguy cơ của cách đọc lịch sử theo ý thức hệ

Trong bức thư, Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ trích việc thao túng lịch sử bằng các ý thức hệ “phá hủy (hoặc bãi bỏ) mọi sự khác biệt để chúng có thể thống trị mà không bị phản đối”. Ngài nói rằng những ý thức hệ này tìm cách dẫn dắt những người trẻ “từ chối sự giàu có về mặt tinh thần và nhân bản được thừa hưởng từ các thế hệ đi trước” và phớt lờ mọi thứ đã có trước họ.

Đối với Đức Giáo Hoàng, điều này cũng dẫn đến việc đặt ra “những vấn đề sai lầm” và tìm kiếm “những giải pháp không thỏa đáng”, đặc biệt là trong một thời đại được đánh dấu bằng xu hướng “bỏ qua ký ức về quá khứ hoặc bịa ra một ký ức phù hợp với yêu cầu của các ý thức hệ thống trị”.

“Đối diện với việc xóa bỏ lịch sử quá khứ hoặc với những câu chuyện lịch sử rõ ràng thiên vị, công việc của các nhà sử học, cùng với kiến thức và việc phổ biến công việc của họ, có thể đóng vai trò như một biện pháp kiềm chế những sự xuyên tạc, những nỗ lực phe phái trong chủ nghĩa xét lại và việc sử dụng chúng để biện minh cho” bất cứ số lượng tội ác nào, bao gồm cả chiến tranh và đàn áp, Đức Giáo Hoàng cho thấy.

Do đó, Đức Giáo Hoàng nói rằng “chúng ta không thể nắm bắt được quá khứ bằng những diễn giải vội vàng tách biệt khỏi hậu quả của chúng” và thực tại “không bao giờ là một hiện tượng đơn giản có thể giản lược thành những sự đơn giản hóa ngây thơ và nguy hiểm”.

Đức Giáo Hoàng cảnh cáo về những nỗ lực của những người hành động như “các vị thần” muốn “xóa bỏ một phần lịch sử và nhân tính”.

Sự yếu đuối của con người và việc truyền bá Tin Mừng

Đức Thánh Cha tiếp tục thừa nhận “sự yếu đuối của con người đối với những người được ủy thác Tin Mừng” và khuyên nhủ các tín hữu không nên bỏ qua những thiếu sót và “chiến đấu với chúng một cách cần cù” để chúng không cản trở việc truyền bá Tin Mừng.

Đức Thánh Cha nhắc lại rằng “tha thứ không có nghĩa là quên lãng”, và ngài khuyến khích Giáo hội “khởi xướng — và giúp khởi xướng trong xã hội — những con đường chân thành và hiệu quả cho sự hòa giải và hòa bình xã hội”.

Ngài cũng kêu gọi tránh “cách tiếp cận chỉ theo trình tự thời gian” đối với lịch sử của Giáo hội, điều này “sẽ biến lịch sử của Giáo hội thành một chỗ dựa đơn thuần cho lịch sử thần học hoặc tâm linh của các thế kỷ trước”.

ĐTC Phanxicô tổ chức lại hệ thống Quỹ hưu trí của Vatican
Đức Thánh Cha gửi thư cho các hồng y, các tổng trưởng và người đứng đầu các tổ chức của Giáo triều và các cơ quan liên kết với Tòa Thánh yêu cầu “các biện pháp khẩn cấp” để đạt được tính bền vững của Quỹ, bởi vì, hiện tại, “việc hoàn thành nghĩa vụ lương hưu cho các thế hệ tương lai” không thể đảm bảo, do đó cần có “sự nhạy cảm và sẵn sàng hy sinh của mọi người”.

Nhấn mạnh tính cấp bách của vấn đề, Đức Thánh Cha cho biết: “Dữ liệu hiện tại cho thấy, sau các phân tích chuyên sâu mới nhất do các chuyên gia độc lập thực hiện, sự mất cân bằng nghiêm trọng trong Quỹ, quy mô của Quỹ có xu hướng tăng theo thời gian nếu không có sự can thiệp”. Ngài nói tiếp, “thật không may, hệ thống hiện tại không có khả năng đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ lương hưu cho các thế hệ tương lai trong trung hạn”.

Đức Thánh Cha giải thích rằng việc quản lý Quỹ hưu trí từ lâu đã là mối quan tâm của các Giáo hoàng, được thúc đẩy bởi trách nhiệm đạo đức trong việc cung cấp lương hưu công bằng và có phẩm giá cho nhân viên của Tòa thánh và Quốc gia Thành Vatican.

Ngài thừa nhận rằng việc giải quyết vấn đề này sẽ đòi hỏi “những quyết định khó khăn đòi hỏi sự nhạy cảm, quảng đại và sẵn sàng hy sinh đặc biệt từ mọi người”.

Bày tỏ sự tin tưởng vào khả năng lãnh đạo của Đức Hồng y Kevin Farrell, Đức Thánh Cha thông báo quyết định bổ nhiệm Đức Hồng y Farrell làm Quản trị viên duy nhất của Quỹ hưu trí.

Ngài ca ngợi những người trước đây đã làm việc về vấn đề này nhưng nhấn mạnh đến nhu cầu “bắt đầu giai đoạn mới, rất quan trọng đối với sự ổn định và phúc lợi của cộng đồng chúng ta”. Ngài cũng kêu gọi sự đoàn kết và hợp tác giữa Giáo triều Roma và các tổ chức liên kết với Tòa Thánh, thúc giục tất cả mọi người tiếp cận các cải cách cần thiết với tầm nhìn chung.

Kết thúc lá thư, Đức Thánh Cha kêu gọi cầu nguyện và hỗ trợ trong giai đoạn chuyển đổi đầy thách thức này.



Tiến sĩ George Weigel: Tai tiếng vẫn đang tiếp diễn về chính sách của Vatican đối với Trung Quốc

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “The Continuing Scandal of the Vatican’s China Policy”, nghĩa là “Tai tiếng vẫn đang tiếp diễn về chính sách của Vatican đối với Trung Quốc”.



Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Trong biên niên sử về những quái gỡ trong lịch sử, sẽ khó có thể tìm thấy điều gì đó tệ hại hơn thời điểm Tòa thánh gia hạn thỏa thuận năm 2018 với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cho phép Đảng Cộng sản Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc bổ nhiệm các giám mục Công Giáo. Sự gia hạn đó diễn ra vào ngày 22 tháng 10: lễ tưởng niệm phụng vụ của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người bảo vệ quyền tự do tôn giáo đã góp phần hạ bệ chủ nghĩa cộng sản Âu Châu, và mong muốn cháy bỏng được đến thăm Trung Quốc của người đã bị chế độ Cộng sản phản đối, rõ ràng là bọn cầm quyền lo sợ rằng ngài có thể châm ngòi cho một cuộc cách mạng lương tâm khác ở đó. Thật khó hiểu trước sự tương phản này.

Ngày lễ của Đức Gioan Phaolô II được tổ chức đúng nghĩa hơn ở Luân Đôn, nơi Ngài Alton xứ Liverpool, một người Công Giáo trung thành, người ủng hộ quyền được sống và nhân quyền, đã giúp công bố một báo cáo của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ về “Những người bị ngược đãi và lãng quên”—và đã nói như sau về thỏa thuận Vatican-Trung Quốc:

Kể từ khi được ký kết lần đầu tiên vào năm 2018, thỏa thuận Trung-Vatican chỉ dẫn đến sự gia tăng và tăng cường đàn áp tôn giáo ở Hoa Lục và không dẫn đến bất kỳ sự cải thiện nào. Hãy hỏi những người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ bị đàn áp ở Tân Cương, những người theo đạo Phật ở Tây Tạng, các Kitô hữu từ mọi giáo phái và Pháp Luân Công. Thật là vấn đề sâu sắc khi thỏa thuận này lại được gia hạn một lần nữa mà không có cuộc tranh luận, sự giám sát hoặc điều gì đó có vẻ như là điều kiện. Việc thả các giám mục và linh mục Công Giáo bị bỏ tù ít nhất phải là một điều kiện để Vatican đồng ý gia hạn thỏa thuận tầm thường này. Vatican cũng nên kêu gọi chấm dứt việc giam giữ bất công liên tục đối với Jimmy Lai, một người Công Giáo trung thành và hết lòng tận tụy bị giam cầm ở Hương Cảng, như một điều kiện tiên quyết. Thay vào đó, lại có một sự im lặng điếc lác khi nói đến quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Sự im lặng của Vatican về nhân quyền và tự do tôn giáo ở Trung Quốc là điều vô cùng đáng thất vọng và phản tác dụng một cách nguy hiểm.

Tại cùng sự kiện ở Cung điện Westminster, Ngài Alton cũng đọc tên của mười giám mục Trung Quốc bị đàn áp, những trường hợp của các ngài đã được ghi chép lại bởi nhà vận động tự do tôn giáo không biết mệt mỏi Nina Shea trong một báo cáo do Trung tâm Tự do Tôn giáo của Viện Hudson công bố. Bản tóm tắt của báo cáo Shea bao gồm bảy bước hành động mà chính quyền Hoa Kỳ tiếp theo nên thực hiện để giải quyết cuộc khủng hoảng tự do tôn giáo đang gia tăng ở Trung Quốc; người ta hy vọng những khuyến nghị này sẽ có hiệu lực kể từ ngày 20 tháng Giêng. Tuy nhiên, ngoài các chỉ định về chính sách, báo cáo Shea còn mang đến những bài đọc tâm linh mạnh mẽ, khi luật sư nhân quyền kỳ cựu (người từng bảo vệ người đoạt giải Nobel Hòa bình Andrei Sakharov) kể câu chuyện về mười người đàn ông dũng cảm, trung thành với lời thề mà họ đã tuyên hứa trước khi được tấn phong làm giám mục, đã trở thành những người kế vị thực sự của các tông đồ tử đạo đã đồng hành cùng Chúa Giêsu và hy sinh mạng sống của mình để vâng theo lệnh của Người là “Hãy đi... và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28:19).

Khi Mùa Vọng đang đến gần, hãy nhớ đến những vị này và lời chứng của các ngài: Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, giám mục danh dự của Hương Cảng, người đã sống cuộc sống hưu trí của mình với nguy cơ lớn như một tiếng nói cho những người không có tiếng nói; Đức Giám Mục Giacôbê Tô Triết Dân (蘇哲民,Su Zhi-min), bị giam giữ bí mật liên tục trong hai mươi bảy năm sau khi bị tra tấn trong trại lao động; Đức Giám Mục Phêrô Thiệu Chúc Mẫn Phêrô Thiệu Chúc Mẫn (Shao Zhumin, 邵竹民), bị giam giữ bí mật vào ngày 2 Tháng Giêng vừa qua, là lần giam giữ thứ sáu của ngài kể từ khi thỏa thuận Vatican-Trung Quốc được ký kết lần đầu tiên; Đức Giám Mục Augustinô Thôi Thái (Cui Tai - 崔泰), bị đàn áp từ năm 1993 và hiện đang bị giam giữ bí mật, được một trong những giáo dân của ngài mô tả là “giám mục của chúng ta người đã trở thành một con chiên hiến tế”; Đức Giám Mục Giả Chí Quốc (Julius Jia Zhiguo, 賈志國), người sáng lập một trại trẻ mồ côi dành cho trẻ em khuyết tật sau đó bị chế độ giải thể vì là “hoạt động tôn giáo trái phép”, được cho là bị quản thúc tại gia từ năm 2020; Đức Giám Mục Giuse Trương Vĩ Trụ (Zhang Weizhu, 张伟柱), bị bắt vào năm 2021 khi đang dưỡng bệnh sau ca phẫu thuật ung thư và bị giam giữ bí mật mà không qua thủ tục tố tụng hợp pháp; Đức Giám Mục Giuse Trương Vĩ Trụ (Zhang Weizhu, 张伟柱), mất tích từ năm 2011; Giám mục Tađêô Mã Đại Thanh (Ma Daqin, 马达钦, bị thay thế bởi một giám mục tuân thủ chế độ trong một động thái được Vatican chấp thuận một cách yếu ớt; Giám mục Mêchiô Thạch Hồng Trinh (Shi Hongzhen, 石鴻禎), bị giam giữ trong một khuôn viên nhà thờ giáo xứ trong mười lăm năm và được chế độ công nhận một cách đầy hoài nghi là giám mục của Thiên Tân khi ngài đã chín mươi lăm tuổi và quá yếu để thực hiện các nhiệm vụ giám mục của mình; Giám mục Vinh Sơn Quách Hy Cẩm (Guo Xijin - 郭希錦), bị Đức Thánh Cha Phanxicô tước chức giám mục theo điều kiện của thỏa thuận Trung-Vatican năm 2018, bị buộc phải ngủ trên đường phố trong mùa đông, hiện không rõ tung tích.

Giáo hội nợ Nina Shea và David Alton một món nợ lớn về lòng biết ơn vì đã đưa những người tuyên xưng đức tin tử đạo thế kỷ 21 này đến với sự chú ý của thế giới. Thật đáng xấu hổ khi món nợ như vậy không được công nhận trong triều đại giáo hoàng này. Thật đáng xấu hổ khi thỏa thuận Vatican-Trung Quốc tầm thường, đáng xấu hổ và phá hoại về mặt truyền giáo đã được gia hạn.

Tuần lễ Đỏ tại Ý về các tín hữu Kitô bị bách hại


Tổ chức bác ái Trợ giúp các Giáo hội đau khổ ở Ý phát động cử hành Tuần lễ Đỏ, từ Chúa nhật, 17 đến 24 tháng Mười Một này để gây ý thức trong dư luận quần chúng về các tín hữu Kitô bị bách hại trên thế giới.


image.png


Sáng kiến quốc tế này được hưởng ứng tại 30 thành phố tại Ý. Cao điểm trong tuần lễ này là thứ Tư, ngày 20 tháng Mười Một, với nhiều sáng kiến được thực hiện: từ các buổi cầu nguyện chung, cho tới các cuộc triển lãm, trình bày chứng từ của những người đã và đang sống trong những bối cảnh các tín hữu bị bách hại, có cả những cuộc chiếu đèn đỏ tại mặt tiền các nơi thờ phượng hoặc các đền đài, dinh thự lịch sử. Màu đỏ tượng trưng máu các Kitô hữu đổ ra vì đức tin.

Theo phúc trình mới nhất của tổ chức bác ái quốc tế này, trong số 196 nước trên thế giới, có 61 nước giới hạn mạnh quyền tự do tôn giáo. Số các tín hữu Kitô sống tại những nước có bách hại và giới hạn như thế là 307 triệu người. Các thống kê cho thấy Kitô giáo tiếp tục là tôn giáo bị bách hại nhất trên thế giới. Trong Tuần lễ Đỏ, sẽ có phần trình bày phúc trình năm 2024, với tựa đề “Phải chăng bị bách hại và quên lãng?” (Perseguitati & dimenticani?), đặc biệt nói về tình trạng 18 nước trong đó hoàn cảnh sống của các Kitô hữu đặc biệt khó khăn.

Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội đau khổ là một tố chức bác ái Giáo hoàng có trụ ở tại 24 quốc gia và có những dự án tài trợ và hoạt động tại khoảng 140 nước trên thế giới. Năm 2015, tổ chức này đã đề ra sáng kiến “Tuần lễ Đỏ”, bắt đầu với việc chiếu đèn đỏ vào Tượng Chúa Kitô Cứu Thế ở thành phố Rio de Janeiro, bên Brazil để gây ý thức về tình trạng các Kitô hữu ở Irak, bị các nhóm thánh chiến Hồi giáo ISIS bách hại đến độ phải bỏ quê hương đi lánh nạn.

Sáng kiến này sau đó dần dần được hàng trăm quốc gia hưởng ứng. Cả năm nay, các đền đài nổi tiếng như Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức, Đền thờ Thánh Gia ở Barcelona, Đền thánh Giuse ở Mont Royal, Montréal Canada.

Hơn 2.400 tội ác thù ghét chống Kitô hữu ở châu Âu trong năm 2023

Nhân Ngày Quốc tế Khoan dung của Unesco 16/11, Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu châu (OSCE) công bố phúc trình, ghi nhận trong năm 2023, có hơn 2.400 tội ác thù ghét chống Kitô hữu ở Âu châu.

Cụ thể, trong năm vừa qua, có 2.444 tội ác chống Kitô hữu được cảnh sát và xã hội dân sự ghi nhận ở 35 quốc gia châu Âu, bao gồm 232 vụ tấn công cá nhân Kitô hữu, như quấy rối, đe dọa và bạo lực thể xác.

Giám đốc điều hành Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu châu, bà Anja Homann cho biết thực tế có thể cao hơn, vì có nhiều trường hợp không được báo cáo.

Pháp là quốc gia có số tội ác thù ghét chống Kitô hữu nhiều nhất, với gần 1.000 vụ vào năm 2023. Trong khi đó, tại Vương quốc Anh cũng đã tăng với 700 vụ. Ở Đức, mức  tăng tới 105%, từ 135 vụ trong năm 2022 lên 277 vụ vào năm 2023. Cũng tại Đức, cảnh sát ghi nhận hơn 2.000 trường hợp tấn công gây thiệt hại tài sản các nơi thờ phượng.

Theo bà Regina Polak, đại diện Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu châu về cuộc chiến chống phân biệt chủng tộc, bài ngoại và phân biệt đối xử, các Kitô hữu là mục tiêu của tội ác thù ghét trên khắp khu vực châu Âu.

Các hình thức bạo lực phổ biến nhất được Tổ chức báo cáo: phá hoại nhà thờ (62%) bao gồm nhiều trường hợp vẽ bậy lên các tài sản của các Giáo hội (24%), chặt đầu tượng tôn giáo, tấn công đốt phá (10%) và đe dọa (8%).

Về hạn chế tự do tôn giáo, phúc trình cho biết tại Vương quốc Anh, chỉ 36% Kitô hữu dưới 35 tuổi cho biết họ cảm thấy tự do bày tỏ quan điểm Kitô giáo của mình về các vấn đề xã hội tại nơi làm việc. Năm vừa qua, người ta cũng chứng kiến một loạt các hạn chế về tự do tôn giáo của các chính phủ châu Âu, như lệnh cấm các cuộc rước kiệu tôn giáo, ngăn chặn việc thể hiện niềm tin tôn giáo một cách ôn hòa. Theo Tổ chức An ninh và Hợp tác Âu châu, đây là những xu hướng mà cần phải cảnh báo để tăng cường nỗ lực bảo vệ quyền tự do tôn giáo, gồm quyền tự do thảo luận một cách cởi mở và tôn trọng các quan điểm triết học và tôn giáo khác nhau về các vấn đề nhạy cảm mà không sợ bị trả thù và kiểm duyệt. Sự gia tăng phân biệt đối xử và tội ác thù ghét chống các Kitô hữu ở châu Âu phải được các chính phủ và xã hội dân sự xem xét nghiêm túc hơn và đòi hỏi phải có nghiên cứu chuyên sâu để hiểu bản chất và nguyên nhân cụ thể của vấn đề.


Ai là người đứng sau các cuộc tấn công bạo lực vào Giáo hội?

Philip Lawler của Catholic World News có bài nhận định nhan đề “Who’s behind the violent attacks on the Church?” nghĩa là “Ai là người đứng sau các cuộc tấn công bạo lực vào Giáo hội?”

Tiêu đề Catholic World News hôm nay bao gồm hai báo cáo khác nhau về các cuộc tấn công bạo lực vào giáo sĩ Công Giáo: một ở Tây Ban Nha, một ở Singapore. Trong mỗi trường hợp, kẻ tấn công đều nhanh chóng bị bắt giữ; trong mỗi trường hợp, nghi phạm đều có tiền sử phạm tội liên quan đến ma túy và có vẻ bị rối loạn nghiêm trọng. Trong mỗi trường hợp, chính quyền đều bảo đảm với chúng ta rằng đây không phải là hành động khủng bố.

Vậy phải chăng chúng ta có thể thư giãn, yên tâm rằng sẽ không có cuộc tấn công đồng loạt trên toàn thế giới vào các linh mục Công Giáo và Giáo Hội Công Giáo? Có lẽ là không.

Đôi khi các cuộc tấn công bạo lực vào các mục tiêu Công Giáo (linh mục hoặc tu sĩ, nhà thờ hoặc trường học) rõ ràng được thực hiện bởi những kẻ cuồng tín tôn giáo hoặc ngông cuồng ý thức hệ: những người theo chủ nghĩa Hồi giáo hoặc chủ nghĩa Marx hoặc những người theo chủ nghĩa dân tộc Hindu. Đôi khi chúng có thể là một phần của một chiến dịch chính trị, trong đó những người Công Giáo có liên hệ (đúng hoặc sai) với một trong hai đảng đối địch, như ở Miến Điện hoặc Cộng hòa Dân chủ Congo. Đôi khi các cuộc tấn công có thể được thúc đẩy bởi một mong muốn đơn giản là lợi nhuận tài chính, như trong hàng loạt vụ bắt cóc ở Nigeria. Và đôi khi—như với làn sóng phá hoại ở Canada và Hoa Kỳ—Giáo hội đã trở thành mục tiêu ưa thích của những người chạy theo cuộc cách mạng tình dục.

Vì vậy, có nhiều lý do khác nhau khiến những người tức giận có thể tấn Công Giáo Hội Công Giáo, giáo sĩ và các tổ chức của Giáo hội. Nhưng sự đa dạng về động cơ đó không nhất thiết có nghĩa là các cuộc tấn công không được phối hợp. Đúng vậy, chúng ta không thể truy tìm tất cả các vụ bạo lực đến nguồn gốc từ bất kỳ thẩm quyền nào của con người. Nhưng chúng ta biết rằng Có người ghét Giáo hội, và cuộc chiến lớn nhất của chúng ta luôn là với các thế lực và quyền lực.


Who’s behind the violent attacks on the Church?

By Phil Lawler | Nov 11, 2024



Từ một năm nay, có khoảng 1.700 nhà thờ không được dùng đến ở Pháp

Nhà nguyện Saint-Ceneri-le-Gerei ở Orne, Normandy.


Các nhà thờ bị đóng cửa, các di sản phi vật thể bị hư hại, các hành vi phá hoại… Tổng cục Di sản Tôn giáo được thành lập cách đây một năm và kết thúc ngày 18 tháng 11, đây là kết quả chính của cuộc khảo sát lớn này.

1.679: là con số nhà thờ bị đóng cửa từ một năm nay ở Pháp, tuy không bị xúc phạm, nhưng gần như các nhà thờ này không có đời sống tâm linh và tôn giáo vì nhiều lý do: vấn đề sức khỏe, sa mạc hóa nông thôn, mất an ninh, nhà thờ không được dùng hoặc có những lệnh gây nguy hiểm.

Thành lập vào tháng 9 năm 2023, Tổng cục Di sản Tôn giáo có mục đích tìm hiểu rõ hơn về di sản tôn giáo của Pháp để quảng bá và duy trì di sản, đồng thời xác định “các mục đích sử dụng nào được xem là thích hợp” với việc thờ phượng của tòa nhà. Vì thế sau hơn một năm khảo sát trên 94 giáo phận, một bản tổng kết đầy đủ về di sản: vật chất và phi vật chất (các lễ hội, kiệu, hành hương…) đã được thực hiện. Tổng giám mục Éric de Moulin Beaufort, chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp vui mừng trong bài phát biểu bế mạc: “Chúng tôi vui mừng đã làm được việc này. Đây là kết quả không chỉ giới hạn trong một danh sách, nhưng là một huy động khẩn cấp và cần thiết vì phần di sản này có nguy cơ biến mất. Chúng tôi chấp nhận một phần nước Pháp sẽ chết, rất nhiều ngôi làng ở vùng quê vắng vẻ, nhà thờ là nơi phục vụ công cộng cuối cùng.”

Ai chịu trách nhiệm chính trong tình trạng này? Tổng giám mục Alain Planet, giám mục danh dự của Carcassonne và Narbonne, chủ tịch Ban Chỉ đạo Di sản giải thích: “Khi tín hữu được quyền tụ tập, họ đặt tên cho địa điểm mới này là ‘ecclesia‘ có nghĩa là ‘cộng đồng’. Không có cộng đồng thì không thể có nhà thờ. Chúng tôi chấp nhận một phần nước Pháp đang chết dần. Có rất nhiều ngôi làng ở vùng nông thôn vắng vẻ, Giáo hội là dịch vụ công cộng cuối cùng. Ngay cả khi không còn bưu điện, các trung tâm thương mại, trường học, nếu chúng tôi còn được mời cử hành lễ rửa tội, đám tang, chúng tôi sẽ đi. Nhưng chúng tôi đang thiếu nhà thờ trầm trọng, đặc biệt ở các khu vực mở rộng của thị trấn!”

Bà Rachida Dati, bộ trưởng Văn hóa cho biết: “Đã hơn một năm kể từ khi thành lập Tổng cục Di sản Quốc gia với mục đích đánh giá đầy đủ về di sản vô giá này, chúng tôi đã có thể đánh giá những gì còn phải làm để truyền bá tốt hơn di sản đặc biệt thuộc về mọi người, dù họ có tôn giáo nào, việc bảo tồn di sản tôn giáo là ưu tiên hàng đầu. Tôi muốn thu tiền vào cửa Nhà thờ Đức Bà Paris. Đề xuất này đã được tranh luận, nhưng tôi thấy nó nhất quán, tôi tin di sản của chúng ta đáng để đấu tranh.”

4.538 tòa nhà bị tấn công

Cuộc điều tra nêu lên các hành vi ác ý mà các nhà thờ và các nơi thờ phượng công giáo khác bị tổn hại từ năm 2000. Tổng cộng: 4.538 tòa nhà đã bị nhắm mục tiêu ở 69 giáo phận (có khoảng 100 giáo phận ở Pháp): 2.666 nhà thờ bị ăn trộm, 1.476 nhà thờ bị hư hại và 396 bị xâm phạm. Theo báo cáo của 87 giáo phận, 226 nhà thờ thuộc các thành phố trực thuộc trung ương bị hủy, 411 nhà thờ giáo phận bị hủy từ năm 1905 đến năm 2023. Theo giáo luật, hủy nhà thờ là nơi này không còn dùng vào việc thờ phượng. Việc ngừng hoạt động là thủ tục dân sự trong đó quyền sử dụng nhà thờ được giao lại cho chính quyền thành phố phụ trách. Trên thực tế, chính quyền không can thiệp và phải đáp ứng các tiêu chuẩn: không cử hành thánh lễ từ ít nhất sáu tháng, linh mục đề nghị chính quyền thành phố tiếp thu.

Những con số đáng lo ngại này đã thúc đẩy Ban Chỉ đạo các Di sản đưa ra các khuyến nghị để giúp các thị trưởng duy trì và bảo đảm an ninh cho các nơi thờ phượng, mở rộng lãnh vực hoạt động phù hợp để không mâu thuẫn với việc thờ phượng.



Số người xin ra khỏi Giáo hội Công giáo và Tin lành tăng vọt tại Thụy Sĩ


Số tín hữu Kitô xin ra khỏi Giáo hội Công giáo và Tin lành tại Thụy Sĩ gia tăng trong năm 2023, do ảnh hưởng của nạn lạm dụng tính dục và trào lưu tục hóa.



Theo Viện Mục vụ xã hội (SPI), trong năm ngoái (2023), có 67.500 người làm đơn xin ra khỏi Giáo hội Công giáo, tức là tăng gấp đôi so với năm 2022 trước đó. Tính đến cuối năm ngoái, Giáo hội Công giáo tại Thụy Sĩ có khoảng hai triệu 800.000 tín hữu.

Một trong những nguyên do chính, theo nghiên cứu của Đại học Zurich, là những vụ lạm dụng tính dục trong Giáo hội đã gây kinh hoàng tại Thụy Sĩ. Cả cuộc điều tra của Tòa Thánh đối với một số giám mục đương nhiệm hoặc về hưu, về cách xử lý những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục cũng ảnh hưởng tới dư luận.

Theo nghiên cứu, tại Thụy Sĩ có 1.002 vụ và 510 người bị kết tội lạm dụng, kể từ giữa thế kỷ thứ XX, nhưng đây chỉ là một mỏm của tảng băng.

Đức cha Felix Gmuer, Giám mục Giáo phận Bâle, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Thụy Sĩ, không ngạc nhiên về sự giảm sút tín hữu vừa nói. Đức cha cho biết có một lý do khác khiến cho nhiều tín hữu làm đơn xin ra khỏi Giáo hội, đó là môi trường Giáo hội Công giáo biến chuyển mau lẹ hoặc môi trường ấy không còn nữa. Liên hệ tới Giáo hội, đức tin không còn giữ vai trò trong đời sống thường nhật của nhiều người và do đó, đức tin không còn được thông truyền nữa. Nhiều cố gắng đã được thực hiện để phục hồi sự tín nhiệm của dân chúng.

Và Đức cha Gmuer kết luận rằng: “Rất tiếc, Giáo hội tiếp tục suy giảm và đó là một xu hướng không thể chặn đứng”.

Về phần Giáo hội Tin lành cải cách ở Thụy Sĩ, trong năm ngoái, Giáo hội này bị mất 39.000 tín hữu, tức là giảm thêm 30% số thành viên.

Cuộc nghiên cứu của Viện Mục vụ xã hội tại Thụy Sĩ được trình bày hôm 14 tháng Mười Một vừa qua, tại thủ đô Berne.

Tuy nhiên, sự suy giảm tín hữu thành viên trái ngược với sự gia tăng của những người thiện nguyện trong Giáo hội Tin lành. Trên lãnh thổ Giáo hội Tin lành cải cách ở bang Berne-Jura và Soleur, có hơn 588.000 giờ làm việc thiện nguyện được thực hiện mỗi năm, con số này tương đương với hơn 31 triệu quan Thụy Sĩ, tức là hơn 35 triệu Mỹ kim.

Cũng nên nói thêm rằng tại bốn bang nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ là Genève, Valais, Neuchâtel và Vaud, hầu như không có ghi nhận nào về số tín hữu xin ra khỏi Giáo hội. Viện Mục vụ xã hội cho biết sở dĩ có tình trạng này là vì tại bốn bang vừa nói, không có chế độ đóng thuế cho Giáo hội như tại các bang nói tiếng Đức. Tại các bang này, giống như tại Đức quốc và Áo, ai muốn khỏi đóng thuế Giáo hội thì phải làm đơn chính thức xin ra khỏi Giáo hội của mình.

Đức Giáo hoàng Phanxicô tuyên bố hoàn tục một linh mục lạc giáo người Argentina


"Với một quyết định tối cao và dứt khoát," Đức Giáo hoàng Phanxicô đã trục xuất Fernando María Cornet, một linh mục người Argentina, khỏi hàng giáo sĩ vì tội ly giáo. Cornet đã từng là linh mục phục vụ tại Tổng Giáo phận Sassari, Ý.

Cornet, 57 tuổi, đã viết một cuốn sách có tựa đề ¿Habemus antipapam? ("Chúng ta có một phản giáo hoàng không?"), được nhà xuất bản Edizioni del Faro phát hành vào năm 2023, tờ báo La Nación của Argentina đưa tin. Trong cuốn sách của mình, Cornet khẳng định rằng việc từ chức của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI là vô giá trị và do đó, việc bầu chọn Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng không hợp lệ.

Khi công bố quyết định này, Tổng Giám mục Sassari, Gian Franco Saba, kêu gọi cộng đồng cầu nguyện cho sự hiệp nhất của Giáo hội.

“Các thành viên của Chúa Kitô không được xung đột với nhau; tất cả những ai tạo thành Thân Thể Ngài phải hoàn thành chức vụ của mình... để không có sự chia rẽ nào,” ngài nói.

Tổng Giáo phận cũng thông báo rằng cha Antonino Canu, phụ trách Khu vực Trung tâm Đô thị Lịch sử, sẽ đảm nhận vai trò quản nhiệm giáo xứ St. Donatus và St. Sixtus tại Sassari.

Ngài sẽ nhận sự hỗ trợ trong công tác mục vụ từ các linh mục của Cottolengo, những người đã làm việc tại Trung tâm Lịch sử và các linh mục khác có mặt trong khu vực mục vụ, theo thông báo của Tổng Giáo phận.

Tuyên bố, được ký ngày 13 tháng 11, do Chưởng ấn của Tổng Giáo phận, Cha Antonio Spanu, ký.

Theo báo La Nación, vào giữa tháng Năm, một bức thư từ Vatican đã yêu cầu Cornet "rút cuốn sách khỏi lưu hành, công khai tuyên bố rằng nó có sai sót, xin tha thứ và công nhận Đức Giáo hoàng Phanxicô là giáo hoàng hợp pháp."

Tuy nhiên, linh mục đã bị hoàn tục này cho biết rằng ông “không thể làm như vậy vì sự việc không như thế và cũng vì không ai từ Bộ Giáo lý Đức tin có thể giải thích cho tôi biết những sai sót trong cuốn sách của tôi là gì; không ai từng đưa ra cho tôi một lập luận nào."

Cornet đã lường trước rằng ông sẽ phải chịu bản án này và tuyên bố rằng vì viết cuốn sách của mình, "ông sẽ bị ngược đãi bởi những người đã chiếm giữ một vị trí không thuộc về họ, khiến Giáo hội lâm vào khủng hoảng với những quyết định và sự bổ nhiệm giám mục bất hợp pháp."

Tội lạc giáo là gì?

Theo Điều 751 của Bộ Giáo luật của Giáo hội Công Giáo, lạc giáo xảy ra khi một người đã chịu Phép Rửa tội “từ chối vâng phục Đức Giáo hoàng hoặc từ chối hiệp thông với các chi thể của Giáo hội thuộc quyền ngài.”

“Người bội giáo, lạc giáo hay ly giáo đều bị vạ tuyệt thông tiền kết (latae sententiae)”, theo Điều 1364 của Bộ Giáo luật, và cũng có thể bị trừng phạt bằng các hình phạt khác bao gồm, trong trường hợp của các linh mục, sa thải khỏi bậc giáo sĩ.


theo  Catholic News Agency



Người giữ sổ sách nhà thờ Florida bị kết án tù liên bang sau khi lấy cắp 875.000 đô la từ giáo xứ

Một nhân viên kế toán tại một giáo xứ Công Giáo ở Florida đã bị kết án hơn hai năm tù liên bang sau khi lấy cắp gần 900.000 đô la từ nhà thờ nơi cô quản lý hồ sơ tài chính.

Theo Văn phòng Luật sư Hoa Kỳ tại Quận Trung Florida, Heather Darrey sẽ phải ngồi tù 27 tháng vì tội lừa đảo qua mạng liên quan đến vụ trộm 875.323 đô la từ Giáo xứ Christ the King - Chúa Kitô Vua - ở phía nam Tampa.

Văn phòng công tố không nêu tên giáo xứ, nhưng tờ Tampa Bay Times xác định nhà thờ đó là Nhà thờ Christ the King.

Văn phòng luật sư Hoa Kỳ cho biết Darrey làm quản lý hồ sơ và tài chính tại giáo xứ.

Văn phòng công tố cho biết cô “đã lợi dụng vị trí được tín nhiệm của mình bằng cách tham gia vào một kế hoạch tạo ra các tấm chi phiếu ngân hàng giả mạo và gian lận được rút từ tài khoản ngân hàng kinh doanh của nhà thờ và chuyển chúng vào tài khoản của riêng cô”.

Các tấm chi phiếu cũng được viết để thanh toán cho công ty thế chấp của cô và các chủ nợ khác.

Các công tố viên cho biết Darrey soạn thảo những tấm chi phiếu hợp pháp cho các nhà cung cấp trong giáo xứ và ký tên, sau đó cô ta sẽ hủy những tấm chi phiếu đó và tự mình viết những tấm phiếu giả.

Darrey cũng “nhập dữ liệu sai lệch và gian lận” vào hệ thống nhu liệu kế toán của giáo xứ.

Công tố viên cho biết số tiền này “chủ yếu được dùng để trả tiền thế chấp, vay mua xe hơi và thuyền, cũng như thanh toán hóa đơn thẻ tín dụng cho quần áo, nhà hàng, kỳ nghỉ và vé hòa nhạc”.

Người giữ sổ sách được cho là đã cố gắng giảm thiểu số tiền cô ta đã đánh cắp từ giáo xứ khi các viên chức xem xét sự khác biệt về tài trợ ở đó. Cô ta cũng được cho là đã yêu cầu nhà thờ không báo cáo vấn đề này với cơ quan thực thi pháp luật.

Darrey trước đó đã nhận tội vào ngày 6 tháng 6. Tòa án cũng đã ra “lệnh đóng băng ngân hàng” để người giữ sổ sách trả lại số tiền thu được từ tội ác của mình.

Tờ Tampa Bay Times đưa tin vụ trộm đã “gây khó khăn về tài chính” cho Nhà thờ Christ the King, với số tiền bị đánh cắp “làm hỏng một dự án xây dựng trị giá 7 triệu đô la và làm tổn hại đến lòng tin của giáo đoàn”.




Việc kính nhớ người qua đời có trước hay có sau việc kính nhớ các Thánh?

7

Kính thưa quý vị,

Phụng vụ mừng lễ Các Thánh vào ngày đầu tháng 11, và ngày hôm sau, tưởng nhớ các người qua đời. Xét theo nguồn gốc lịch sử, lễ kính nào ra đời trước: việc kính nhớ các người qua đời có trước, hay lễ các thánh có trước? 

Linh mục Phan Tấn Thành trả lời.

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải phân biệt nhiều vấn đề. Việc kính nhớ các linh hồn qua đời là một chuyện, còn việc dành ra một ngày trong năm để tưởng nhớ tất cả các linh hồn là chuyện khác. Một cách tương tự như vậy, kính nhớ các thánh là một chuyện, còn dành ra một ngày để kính nhớ tất cả các thánh là một chuyện khác. Chúng ta sẽ cố gắng đi từng bước một: chúng ta hãy khởi hành với thực tại ngày nay, rồi chúng ta sẽ đi lùi ngược lại dòng lịch sử.

Ngày nay lễ tưởng nhớ các người qua đời diễn ra vào ngày hôm sau lễ các thánh. Từ khi nào lịch phụng vụ ấn định việc cử hành hai ngày lễ đó?

Việc dành ngày 2 tháng 11 để tưởng nhớ tất cả các người qua đời bắt đầu từ năm 998, do sáng kiến của thánh Ôđilon, viện phụ đan viện Cluny dòng Biển Đức. Trong ý định của ngài, sau khi đã dành ngày 1/11 để kính tất cả các thánh, nghĩa là những tín hữu đang hưởng hạnh phúc bên Chúa, thì chúng ta nên dành ngày kế tiếp (2/11) để tưởng nhớ và cầu nguyện cho những tín hữu còn phải chịu đau khổ trong nơi luyện tội. Một câu hỏi đương nhiên được đặt ra là: từ khi nào có lễ kính tất cả các thánh? Câu hỏi này khá dài dòng, bởi vì lễ kính chung tất cả các thánh có sau lễ kính riêng từng vị thánh. Và nguồn gốc của việc kính các thánh bắt đầu từ việc tưởng nhớ người qua đời. Đến đây, thứ tự thời gian bị đảo ngược.

Tại sao việc tôn kính người qua đời lại có trước việc tôn kính các thánh? Nếu chưa làm thánh thì đâu được phép tôn kính?

Chúng ta cần phân biệt nhiều cấp độ tôn kính: tôn kính tổ tiên thì khác với tôn kính Thiên Chúa. Khi tôn kính các bậc tổ tiên, chúng ta không có ý đặt các ngài ngang hàng với Thiên Chúa. Tuy nhiên ở đây, chúng ta không đi sâu vào vấn đề thần học mà chỉ dừng lại ở khía cạnh lịch sử. Vào các thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu, và cụ thể là tại Rôma, cũng giữ những phong tục an táng và tưởng nhớ các thân nhân qua đời. Vào dịp ấy, người Rôma tụ họp nhau và tổ chức bữa tiệc, không chỉ để tưởng nhớ người quá cố mà còn muốn mời người quá cố tham dự. Người Kitô giáo chấp nhận tập tục này, nhưng dần dần, họ thay bữa tiệc bằng việc dâng Thánh lễ. Chúng ta sẽ bàn đến các tập tục quanh lễ an táng sau; ở đây, chúng ta chỉ muốn theo dõi sự tiến triển của việc tôn kính các thánh. Khởi đầu là các vị tử đạo. Đó là những tín hữu đã chết vì đức tin, chết vì lòng yêu mến Chúa Giêsu. Cái chết của những người này khác với những cái chết khác, do đó lễ an táng cũng khác. Thi hài của các vị tử đạo được tổ chức long trọng, và ngày qua đời của họ được cử hành như là “sinh nhật” (dies natalis): họ được sinh vào cuộc sống mới, cuộc sống vĩnh cửu. Vào dịp giáp năm ngày sinh nhật, các tín hữu tổ chức việc tưởng nhớ bên mộ, không phải để khóc than, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa. Thay vì cầu nguyện cho họ, các tín hữu xin họ hãy cầu nguyện cho mình. Đó là khởi điểm của việc tôn kính các thánh, và chính xác hơn nữa, việc tôn kính các thánh tử đạo. Mãi đến thế kỷ IV, việc tôn kính các thánh cũng được mở rộng ra đến các vị giám mục, đan sĩ, trinh nữ. Không nói ai cũng biết, vào những thế kỷ đầu tiên, việc tôn kính này mang tính địa phương, nghĩa là mỗi giáo phận chỉ kính những vị thánh của địa phương mình, nghĩa là những người mà mình quen biết. Dần dần, qua những cuộc tiếp xúc giữa các giám mục hoặc nhờ những cuộc hành hương, người ta mới thông tin cho nhau các vị thánh của mình.

Từ lúc nào có lễ kính chung tất cả các thánh?

Các sử gia đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, bởi vì nó bắt nguồn từ nhiều tập tục địa phương, rồi sau đó mới được phổ biến trong toàn thể Hội thánh. Những tài liệu sử học sớm nhất cho thấy rằng ngay từ thế kỷ IV, các giáo hội bên Đông phương đã mừng lễ tất cả các thánh tử đạo, tuy vào những ngày khác nhau. Giáo hội ở Antiokia mừng vào Chúa nhật sau lễ Ngũ tuần, và tục lệ này vẫn còn duy trì cho đến nay; ra như người ta muốn ca ngợi những tín hữu đã được kết hợp với mầu nhiệm Vượt qua bằng cái chết của mình. Bên Tây phương, lễ mừng tất cả các thánh xuất hiện muộn hơn, và có lẽ bắt nguồn từ lễ cung hiến điện Pantheon ở Rôma. Trước đây, người Rôma cất một đền thờ kính vạn thần, với hai chủ đích chính. Một đàng, họ muốn tôn kính tất cả các vị thần, vì sợ rằng nếu có thần nào không được thờ thì sẽ gây oai tác quái cho nhân dân. Đàng khác, họ muốn đem các thần của các dân đã bị chiếm đóng về thủ đô, để xoa dịu lòng căm phẫn thù hận, khi biết rằng thần của mình được tôn kính ngay tại thủ đô của Đế quốc. Sau khi Đế quốc Rôma trở lại Kitô giáo, đức thánh cha Bonifacio IV đã cung hiến đền thờ này cho Đức Mẹ Maria và các thánh tử đạo, ngày 13/5/609 (hoặc 610). Về sau, lễ này được Đức thánh cha Gregorio III (731-741) dời sang ngày 1/11, kỷ niệm ngày cung hiến một nhà nguyện trong đền thờ thánh Phêrô để kính nhớ “tất cả các thánh tông đồ, tử đạo, tuyên tín, và các người công chính trên khắp thế giới”. Từ năm 835, lễ này được tuyên bố là lễ nghỉ dân sự.

Lễ các thánh có trùng với lễ Halloween không?

Câu hỏi cũng có thể đặt ngược lại: lễ Halloween có trùng với lễ các thánh không? Các sử gia đang tranh cãi. Nếu xét theo từ ngữ, thì Halloween có nghĩa là áp lễ các thánh (ghép bởi All Hallows nghĩa là các thánh, và eve có nghĩa là bữa trước). Xét theo nguồn gốc, thì người ta đoán rằng vào ngày 1/11, dân tộc ở miền Bắc Âu có một lễ tân niên, gọi là Samhain. Hôm đó người ta tin rằng các vong hồn sẽ trở về hội ngộ với người sống; cần phải tổ chức lễ hội để đón rước. Về sau này, Giáo hội muốn thay thế lễ ấy bằng lễ các thánh. Không hiểu sự thật như thế nào, nhưng chúng ta thấy rằng trên thực tế, không ít ngày lễ của Kitô giáo được đặt ra để thay thế những lễ của ngoại giáo, điển hình là lễ Chúa Giáng sinh thay thế lễ kính thần mặt trời ở Rôma, và lễ các thánh kỷ niệm việc biến đổi đền vạn thần thành lễ kính Đức Mẹ và các thánh tử đạo.

Chúng ta đã theo dõi sự tiến triển của việc tôn kính các thánh khởi đi từ các lễ nghi tôn kính người chết ở Rôma. Còn đối với những người không phải là thánh thì sao?

Như vừa nói, trải qua lịch sử, Giáo hội lấy lại nhiều phong tục địa phương, và đồng thời loại bỏ những yếu tố mang tính cách mê tín. Điều này thấy rõ nơi lễ nghi an táng và tôn kính người chết, mà Giáo hội tiếp nhận từ phong tục Rôma. Trước khi đi vào vấn đề, ta đừng nên quên rằng người thời xưa bên Âu cũng như bên Á, không chỉ coi viện tang ma như là một hành vi xã hội, nhưng nhất là một hành vi tín ngưỡng, mang tính cách thánh thiêng, vì đụng chạm đến thế giới thần linh. Luật Rôma bảo vệ các nghĩa trang như là đất thánh, khu vực bất khả xâm phạm; chắc hẳn ý tưởng này được chấp nhận dễ dàng vào trong luật Giáo hội. Việc tôn kính dành cho người chết bao hàm nhiều hành động: từ khi tẩm liệm cho đến khi an táng, cũng như những nghi thức theo sau nữa. Chúng ta bắt đầu bằng việc tẩm liệm. Thân xác được tắm rửa và xức thuốc thơm. Giáo hội tiếp nhận tập tục này dễ dàng, vì ý thức rằng thân xác người Kitô hữu đã được thánh hóa nhờ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh thể, đã trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần, cho nên đáng được tôn trọng. Không lạ gì mà phụng vụ đã xông hương thi hài trước khi đặt vào hòm. Sau khi đã được tắm rửa và xức dầu thơm, thi hài được khoác áo với vải quý giá, nhất là thi hài của các vị tử đạo. Tuy nhiên, vì có những sự lạm dụng xảy ra, chẳng hạn như dùng lụa là gấm vóc để phô trương, cho nên các giáo phụ đã lên tiếng cảnh cáo thói xa hoa ấy. Những nghi thức vừa rồi diễn ra trước sự chứng kiến của cộng đoàn. Cộng đoàn cầu nguyện, hát thánh vịnh, công bố Lời Chúa. Bên cạnh quan tài, người ta thắp đèn dầu, và những ngọn đèn này sẽ hộ tống quan tài ra tới huyệt. Người Rôma còn đặt trên miệng người chết một đồng tiền, để trả cho thần Caronte khi lên thuyền đi vào âm phủ. Các Kitô hữu đã thay thế tục lệ này bằng việc đặt Mình Thánh Chúa trên miệng người chết như của ăn đàng, trước khi liệm vào hòm. Mặc dù nhiều giáo phụ phản đối tục lệ này, nhưng nhiều nơi vẫn duy trì trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất, và mãi đến năm 1200, mới bị bãi bỏ hoàn toàn. Thay vì đặt Mình Thánh Chúa trên miệng, người ta đặt thánh giá trên tay của người quá cố (hoặc tràng chuỗi Mân côi). Chặng kế tiếp là việc đưa đám. Thời xưa, các tín hữu đưa đám ban đêm, vì thế họ thắp đuốc đốt đèn để soi đường. Về sau này, dù khi đưa đám vào ban ngày, người ta cũng thắp đèn, với một ý nghĩa tượng trưng: người tín hữu là đèn sáng, bởi vì họ là chứng nhân cho Đức Kitô, ánh sáng của thế gian. Một nét khác biệt của đám tang người Kitô hữu với đám tang người ngoại là niềm hân hoan. Dân ngoại thuê những bà đến khóc trong đám tang, còn người Kitô hữu thì hát Alleluia. Sang thời Trung cổ, bầu khí vui tươi dần dần biến đi, nhường chỗ cho sợ hãi tang tóc, bởi vì người ta hình dung Đức Kitô như là vị thẩm phán đáng sợ.

Thời xưa, các tín hữu đưa quan tài thẳng ra mộ, chứ không vào nhà thờ hay sao?

Trong những thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo chưa được phép xây nhà thờ. Tuy vậy, lễ an táng đã sớm được gắn liền với Thánh lễ, hiểu là tại tư gia hoặc tại nghĩa trang. Người Rôma quen tổ chức các bữa tiệc trên mộ người quá cố; các Ki-tô hữu đã sớm thánh hóa tục lệ này và thay thế bằng việc dâng Thánh lễ, hiểu là trên ngôi mộ. Thánh lễ được cử hành không chỉ vào lúc an táng mà còn vào các dịp giỗ. Người Rôma tổ chức tiệc giỗ vào ngày thứ 9 và 40 sau khi qua đời. Các Ki-tô hữu cử hành Thánh lễ vào các ngày kỷ niệm 3, 7, 30 ngày: 3 ngày để tưởng nhớ cuộc Chúa Giêsu phục sinh sau ba ngày được an táng trong mộ; 7 ngày được thánh Augustino giải thích như là tưởng nhớ tuần lễ tạo dựng, Thiên Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy; 30 ngày nhắc đến thời gian dân Israel để tang cho ông Môsê (Ds 20,30; Đnl 34,8). Sau cùng, thiết tưởng nên nêu bật một đặc trưng của người Kitô hữu là tên gọi nơi chôn cất kẻ qua đời. Người Rôma gọi nơi đó là necropolis, thành phố của người chết; các Ki-tô hữu gọi là coemeterium, có nghĩa là nơi an giấc, hiểu ngầm là chờ đợi sẽ được đánh thức, nghĩa là sống lại.

Vatican đơn giản hóa nghi thức tang lễ cho các Giáo hoàng

Vatican cập nhật nghi thức tang lễ cho các Giáo hoàng, đơn giản hóa theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô

Vatican đã cập nhật sách phụng vụ quy định nghi thức tang lễ của các Giáo hoàng, đơn giản hóa một số nghi thức theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô.


Ấn bản thứ hai của Ordo Exsequiarum Romani Pontificis (“Nghi thức Tang lễ cho Giáo hoàng”) là bản sửa đổi của phiên bản được xuất bản năm 2000, từng được sử dụng trong tang lễ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào năm 2005 và Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI vào năm 2023.

Theo Vatican News, một trong những thay đổi trong ấn bản mới là việc loại bỏ sử dụng ba loại quan tài bằng gỗ bách, chì và gỗ sồi, cùng với khả năng cho phép một Giáo hoàng qua đời được chôn cất bên ngoài Vương cung thánh đường Vatican.

Một thay đổi khác là việc trưng bày thi hài trước tang lễ sẽ diễn ra với thi hài đã được đặt trong một quan tài gỗ đơn giản, thay vì đặt trên bục cao như trước đây. Việc xác nhận cái chết của Giáo hoàng cũng sẽ được thực hiện tại nhà nguyện của Giáo hoàng, thay vì trong phòng của ngài.

Đức Tổng Giám mục Diego Ravelli, người phụ trách nghi lễ của Giáo hoàng, nói với Vatican News rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô “đã nhiều lần nhấn mạnh nhu cầu đơn giản hóa và điều chỉnh một số nghi thức để việc cử hành tang lễ của Giám mục Rôma có thể diễn tả tốt hơn đức tin của Giáo hội vào Đức Kitô Phục sinh.”

Ngài Ravelli cho biết: “Nghi thức được đổi mới cũng cần nhấn mạnh hơn nữa rằng tang lễ của Giáo hoàng Rôma là tang lễ của một mục tử và môn đệ Đức Kitô, chứ không phải của một người quyền lực trong thế gian này.”

Văn phòng Cử hành Phụng vụ của Đức Thánh Cha đã soạn và phát hành ấn bản thứ hai của Ordo Exsequiarum Romani Pontificis (Nghi thức tang lễ cho Đức Giáo hoàng). 
Đức Thánh Cha đã phê chuẩn ấn bản mới này vào ngày 29/4/2024 và hôm 4/11/2024 ngài đã nhận được bản in đầu tiên

Mikali Nguyễn

unread,
Nov 29, 2024, 6:30:29 PM11/29/24
to alphonsefamily

Các bạn thân mến!

Trong Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng I, Giáo Hội viết:

 

“Khi người đến lần thứ nhất, mặc lấy thân xác yếu hèn, Người đã thực hiện hồng ân mà Chúa đã dự định từ xưa và mở đường cứu độ đời đời cho chúng con, để khi Người đến lần thứ hai trong uy linh, nhờ hồng ân bấy giờ được tỏ hiện, chúng con sẽ lãnh nhận điều Chúa đã hứa mà ngày nay chúng con đang tỉnh thức vững dạ đợi chờ.”

 

Như thế, Kinh Tiền Tụng đã tóm tắt những điều chính yếu của Mùa Vọng. Tâm tình Mùa Vọng mang hai ý nghĩa nổi bật vừa chuẩn bị mừng Con Chúa đến lần thứ nhất, vừa trông chờ Ngài đến trong vinh quang lần thứ hai.[1] Vì vậy, Mùa vọng trả lời cho chúng ta câu hỏi về việc chúng ta chờ ai và trông chờ điều gì.

 

Chờ đợi là hướng đến cuộc gặp gỡ

Đức Tin – Đức Cậy – Đức Mến là ba nhân đức đối thần và hướng người Ki-tô hữu trực tiếp đến Thiên Chúa. Niềm tin Kitô không chờ đợi một điều gì không có cơ sở nhưng chúng ta chờ đợi dựa vào lời hứa và niềm tin vào thẩm quyền của Đấng đáng tin. Nhờ thẩm quyền của Đấng ấy mà chúng ta tin rằng những điều Người ấy nói và hứa sẽ trở thành hiện thực. Chúng ta chờ đợi Đấng đã đến và sẽ đến. Niềm tin vào lời hứa cứu độ của con người vào Thiên Chúa đã trải dài suốt dòng lịch sử. Lời hứa ấy đã được kiện toàn nơi Ngôi Lời nhập thể. Thiên Chúa đã chọn đất Israel để làm dân riêng và biểu lộ ơn cứu độ của Ngài. Khởi từ dân tộc ấy, Ngài muốn muôn dân nhận biết Người là Đấng xót thương. Lời tiên báo của tiên tri Giê-rê-mia là một lời đầy an ủi khi ông loan báo về sự xuất hiện của Đấng Công Chính. “15Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình chính trực.”[2] Sự xuất hiện của Đấng Công Chính làm thỏa mãn những khát vọng vô biên của con người. Một mặt Đấng ấy sẽ thiết lập trật tự của lòng người và trật tự trên thế giới. Mặt khác Ngài sẽ giải phóng con người khỏi muôn vàn hình thức nô lệ và đem lại sự tự do đích thực.

 

Tình trạng thế giới mà chúng ta đang sống, chúng ta đang đối diện với những bóng tối, chiến tranh, xung đột, bất công, nghèo đói, nô lệ. Giữa cảnh huống đó, con người mong hòa bình, khao khát được giải phóng như “lính canh mong đợi hừng đông.” Nhưng hòa bình chỉ có được khi có công lý ngự trị và công lý chỉ có được khi có sự thật làm nền tảng và sự thật chỉ có được khi con người biết mở lòng ra với Đấng là Sự Thật Tuyệt Đối.” Sự xuất hiện của Đấng được loan báo không khỏa lấp những ao ước về mặt chính trị xã hội cho bằng lấp đầy khao khát vô biên nơi lòng người và mở ra cho con người con đường đón nhận ơn cứu độ.    

 

Người Kitô hữu sống tâm tình chờ đợi không sống trong thái độ thụ động nhưng bằng những dấn thân cụ thể. Sống tâm tình Mùa Vọng không theo nghĩa thụ động nhưng là mang một cuộc gặp gỡ với Đấng mà chúng ta chờ mong vào trong giây phút hiện tại. Cách thức cụ thể nhất để mang cuộc gặp với Đấng mà tôi chờ đợi trong giây phút hiện tại là ở trong tình yêu của Ngài, là sống giới răn của Ngài. “Yêu mến là chu toàn lề luật.”[3]

 

Chờ đợi là mở ra một không gian nội tâm

Khi chúng ta nói đến sự chờ đợi, chúng ta không nói đến một không gian khép kín nhưng là một không gian mở ra với Thiên Chúa và tha nhân. Mở ra một không gian nội tâm trước hết đó là sự thay đổi quan niệm và hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa. Kinh nghiệm quá khứ và những đau thương trong cuộc sống khiến cho tâm hồn chúng ta khép kín lại trên chính mình. Chúng ta không dám mở ra cho Chúa và cho những cuộc đối thoại. Kết quả lại tôi tạo cho tôi một không gian khép kín. Điều này tạo cho cuộc sống của tôi không được tự do và phát triển. Ngôi Lời không thể nhập thể trong lòng tôi.

 

Mùa Vọng là thời gian nhận ra tình trạng nội tâm của tôi. Tôi dám mở ra với Chúa và làm mới lại tương quan của tôi với Ngài.

 

Thay đổi nội tâm không chỉ là thay đổi về mặt quan niệm và ý nghĩ nhưng là thay đổi trọng tâm trong đời sống và dám để cho Chúa thiết lập một trật tự mới trong nội tâm của tôi. Sự xuất hiện của Con Người tạo nên sự rung chuyển của vũ trụ, trật tự tự nhiên và trật tự nội tâm. Sự xuất hiện đó chắc chắn cũng làm một sự rung chuyển “vũ trụ nội tâm.”[4] Với những người công chính, sự xuất hiện của Con Người làm lay chuyển quyền lực trên trời và là dấu chỉ của niềm hy vọng.

 

“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.[5]

 

Thực tế cuộc sống đôi khi làm cho chúng ta mất cảnh giác, thiếu đề phòng, tâm hồn mình bị nặng nề bởi những đam mê thế trần. Âm vang của Mùa Vọng mời gọi tôi “cầu nguyện và tỉnh thức.” Với những người thiếu tỉnh thức biến cố Con Người xuất hiện là biến cố làm “rung chuyển đời sống” của họ nhưng với những người luôn sống trong thái độ tỉnh thức thì đây là biến cố đầy hy vọng vì “Thầy đã thắng thế gian.”

 

Sống tâm tình Mùa Vọng là tôi luôn sống với tâm thế đứng thẳng, tư thế của con người tự do, tư thế của một người công chính, để bất cứ khi nào Ngài đến, tôi luôn sẵn sàng để chào đón Ngài. Chính tư thế nào giúp tôi có khả năng siêu thăng con người của tôi để vươn lên tới Ngã Siêu Việt.   

 

Chờ đợi là hướng đến sự trở về

Sự chờ đợi của người Kitô hữu bị đặt trong hai thái cực. Một mặt tôi hướng đời sống của tôi tới biến cố đã xảy ra trong lịch sử nhân loại khi Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Mặt khác sự chờ đợi cũng hướng tôi đến cuộc giáng lâm vinh hiển của Đấng là Vua Trời Đất. Nói cách khác việc sống trong tâm tình Mùa Vọng mời gọi tôi sống hai biến cố, tôi vừa để cho Ngôi Lời nhập thể trong lòng tôi. Tôi vừa mang con người tôi tới gần hơn với biến cố sẽ đến.

 

Trong thực tế đời sống của tôi cũng luôn đối diện với sự căng thẳng, sự căng thẳng giữa sự chờ đợi và kết quả, giữa vô hạn và giới hạn, giữa chân trời và những giới hạn. Một mặt tôi đang sống trong giây phút hiện tại và tôi phải đối diện với tất cả những tình huống thực tế của đời sống con người nhưng mặt khác tôi được mời gọi hướng đến cái vô hạn, những chân trời mới. Đây là một sự giằng co thuộc thân phận làm người. “Có một sự căng thẳng giữa sự viên mãn và những giới hạn, giữa từng khoảnh khắc và cái chân trời rộng mở. Điều mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là thời gian lớn hơn không gian.”[6]

 

Tuy nhiên nếu tôi nhìn biến cố này như là một sự kiện lịch sử khách quan bên ngoài tôi thì có lẽ biến cố ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì cho đời tôi. Việc chờ đời và biến cố nhập thể phải là biến cố diễn ra bên trong tôi, đụng chạm đến toàn thể con người tôi và toàn thể lịch sử này. Sự chờ đợi của tôi với Đấng là Ngôi Lời Nhập Thể mang tôi bước vào trong sự hiện diện với Đấng ấy. Mặt khác biến cố nhập thể và sự chờ đợi hướng đến biến cố quang lâm phải là một biến cố nội tâm. Nội tâm tôi là thế giới mà Ngôi Lời đang nhập thể vào.

 

Thiên Chúa đang nhập thể trong tâm hồn, trong những chọn lựa và trong từng biến cố của cuộc đời tôi. Sao cho mỗi chọn lựa của tôi, mỗi bước đi của tôi, những gì tôi sống và những gì tôi đụng chạm phải là những cách mà tôi làm cho khuôn mặt của Đức Ki-tô nhập thể sáng lên trong cuộc đời của tôi. Biến cố đó làm thay đổi toàn bộ định hướng và hiện hữu của tôi.   

 

Trở về mà tôi được mời gọi là trở về với nền móng của đời tôi, với nội tâm của tôi. Tôi đặt đời tôi lên Ngài và chọn Ngài làm trung tâm. Vọng không chỉ là hướng tới nhưng thực chất là trở về, trở về với cõi sâu thẳm của lòng tôi, trở về với nền móng căn nhà tâm hồn của mình, trở về với giá trị cốt lõi nguyên thủy làm nên ý nghĩa cho đời tôi, trở về với những gợi hứng làm nên động lực cho sứ mạng của tôi, trở về với nguồn sức mạnh giúp tôi vượt qua những sóng gió của cuộc sống. Vọng là tỉnh thức, là chờ đợi, là mang sự hiện hữu của Ngài trong giây phút hiện tại, là để Ngài là tâm điểm đời tôi. Vọng không chỉ là hướng đến tương lai nhưng làm đầy giây phút hiện tại bằng sự hiện diện của Ngài.   

 

Lm. Gioan Phạm Duy Anh, S.J.

 

[1] CHỈ NAM GIẢNG LỄ, Bộ Phụng tự và Kỷ Luật Bí Tích, Học Viện Đa Minh, 2015, 81-82, hoặc Sách Lễ Roma, Kinh Tiền Tụng Mùa Vọng I, Tr. 22

[2] Gr 33, 15

[3] Rm 13, 10

[4] Lc 21, 25-27

[5] Lc 21, 28

[6] Evangelii Gaudium, 222




                                                 Giáng sinh đã về Quảng trường Thánh Phêrô

          image.png

Cây thông Giáng sinh được dựng ở Quảng trường Thánh Phêrô ngày thứ sáu 22 tháng 11-2024 

Quảng trường Thánh Phêrô náo nức chuẩn bị lễ Giáng sinh. Ngày thứ năm 21 tháng 11, cây thông truyền thống đã về Quảng trường Thánh Phêrô, sẽ được trang trí và sẽ được khánh thành cùng với máng cỏ ngày 7 tháng 12.

Cây thông 200 tuổi, cao 29 mét của vùng Ledro, đông bắc nước Ý, thị trấn có 5.300 người dân sinh sống giữa các ngọn núi hùng vĩ Tyrol. Cây thông được chọn vì thẩm mỹ và đến từ khu rừng được quản lý theo một số yêu cầu về môi trường, xã hội và kinh tế. Trong một kiến nghị, các nhà hoạt động môi trường đã phản đối việc chặt cây thông này, nhưng cây thông ở trong các lô đất phải bị đốn hạ để khai thác rừng một cách hợp lý.

Truyền thống dựng cây thông Giáng sinh có từ rất xưa, năm 1982 Đức Gioan-Phaolô II đã đặt cây thông Giáng sinh tại Quảng trường Thánh Phêrô. Dù phong tục này đã quen thuộc ở quê hương Ba Lan của ngài, nhưng ngài mong muốn Vatican cũng có truyền thống này. 40 năm sau, mỗi mùa Giáng sinh về, cây thông sáng rực làm nung nấu tâm hồn trẻ con cũng như người lớn chuẩn bị sống mầu nhiệm Chúa Giáng sinh một cách sốt sắng.

Trong một thư ngỏ gởi Đức Phanxicô, các nhà hoạt động môi trường ở miền bắc nước Ý lo ngại cho số phận cây thông 200 năm, cao 29 mét sẽ được dựng lên ở Quảng trường Thánh Phêrô nhân dịp lễ Giáng sinh năm nay.

Chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là đến Noel, mọi người đã sẵn sàng, kể cả ở Vatican, nhưng có một chút lo ngại về cây thông truyền thống. Kể từ ngày 4 tháng 11 năm 2024, các nhà hoạt động môi trường ở tỉnh Trentino miền bắc nước Ý phẫn nộ khi cây thông 200 tuổi của họ ở Ledro sẽ bị đốn, tạo sự căng thẳng cho các nhà bảo vệ môi trường, chính quyền địa phương và Tòa thánh và đã có gần 50.000 người ký bản kiến nghị gởi Đức Phanxicô.

Trong thư ngỏ, họ tố cáo “một hy sinh không cần thiết, một việc làm của chủ nghĩa tiêu dùng”. Cây thông chỉ có một mục đích: quảng cáo và để du khách chụp những bức ảnh selfie lố bịch. Họ nói: “Một lựa chọn vô lý” và lên kế hoạch phong tỏa đường đi để ngăn cây thông về Rôma!

Đức Phanxicô đối diện với những mâu thuẫn của ngài

Năm nay Quảng trường Thánh Phêrô sẽ không có cây thông Noel? Đó là điều các nhà hoạt động này hy vọng, họ nhắc Đức Phanxicô về các cam kết của ngài với khí hậu, với tạo dựng và hệ sinh thái, đặc biệt là Thông điệp Laudato SiTông huấn Anh em hãy rao giảng Tin Mừng  thông điệp Terra madre. Không chặt cây thông là thực hiện các cam kết của ngài: “Thật không nhất quán khi chúng ta nói về biến đổi khí hậu nhưng lại duy trì các truyền thống này, chúng ta phải bỏ việc này.”

Trước các cuộc biểu tình ngày càng tăng, ông Renato Girardi, thị trưởng thị trấn nhỏ Ledro kiên trì: chúng tôi sẽ gởi cây thông 200 tuổi về Vatican, ông nói với báo chí Ý: “Chúng tôi chỉ muốn tặng cây thông, nếu không tặng chúng tôi sẽ đưa cây thông vào xưởng cưa.”

Truyền thống cây thông Noel ở Vatican có từ năm 1982. Kể từ đó, hàng năm một cây thông của nước Ý hoặc của một quốc gia châu Âu sẽ được dựng lên vào tuần lễ thứ hai của tháng 12 tại Quảng trường Thánh Phêrô. Món quà cây thông thường là niềm tự hào của các thị trưởng. Ông Renato Girardi chỉ trích các nhà hoạt động “hủy hoại tinh thần lễ Giáng sinh chỉ vì một cái cây”, ông không ngờ có phản ứng gay gắt như vậy, ông sẽ tặng cho Vatican 39 cây thông khác để trang trí cho các tòa nhà Vatican.

Vatican chưa phản ứng trước sự việc này.



Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ mở Cửa Năm Thánh trong các nghi lễ Giáng sinh 2024

Vatican công bố lịch trình các nghi lễ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Mùa Giáng sinh, trong đó ngài sẽ mở Cửa Năm Thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô và nhà tù Rebibbia ở Rome.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ bắt đầu Năm Thánh Hy vọng bằng Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào đêm trước Giáng sinh, mở Cửa Thánh của Vương cung thánh đường tại Vatican.
Vào Ngày Giáng sinh, Đức Giáo Hoàng sẽ đọc bài diễn văn Urbi et Orbi truyền thống và ban phước lành "Cho Thành phố Roma và Thế giới".
Sau đó, vào ngày lễ Thánh Stephanô, ngày 26 tháng 12, Đức Thánh Cha sẽ chủ trì Thánh lễ tại nhà tù Rebibbia ở Rome để mở Cửa Năm Thánh duy nhất không nằm trong một vương cung thánh đường của giáo hoàng.
Vào đêm giao thừa (Tây Lịch), Đức Giáo Hoàng sẽ chủ sự giờ Kinh Chiều đầu tiên và Kinh Tạ Ơn (Te Deum) tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, kết thúc năm 2024.
Ngày hôm sau, ngài sẽ chủ trì Thánh lễ đánh dấu Ngày đầu năm mới và Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 58.
Vào ngày 6 tháng 1, Đức Giáo Hoàng Phanxicô sẽ chủ trì Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào Lễ trọng kính Chúa Hiển linh.
Ngài sẽ kết thúc Mùa Giáng sinh bằng Thánh lễ tại Nhà nguyện Sistina vào ngày 12 tháng 1 để cử hành Lễ Chúa chịu phép rửa, ban phép rửa tội cho một số trẻ em của các nhân viên Vatican.








 Tòa Thánh Công Bố Mới Về Việc Phong Thánh cha Diệp

image.png

Ngày 25/11, trong cuộc tiếp kiến dành cho Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, Đức Thánh Cha đã cho phép Bộ ban hành sắc lệnh liên quan đến tiến trình phong chân phước cho cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, và các sắc lệnh liên quan đến tiến trình phong thánh và chân phước cho năm nhân chứng đức tin khác.


image.png
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp

Sinh ngày 01/01/1897 tại Tân Đức, tỉnh An Giang, Việt Nam, nhưng trong lãnh thổ của hạt đại diện Tông toà Phnom Penh, phó tế Trương Bửu Diệp được chịu chức linh mục vào năm 1924.

Lúc đầu cha là cộng tác viên mục vụ trong cộng đồng người Việt ở Campuchia, tiếp đến cha được gọi về Việt Nam làm giáo sư tại Đại chủng viện, và sau đó được gửi đến tỉnh Bạc Liêu. Tại đây cha Diệp thành lập sáu cộng đoàn mới và dấn thân chăm sóc ơn gọi.

Vào cuối Thế chiến thứ hai, nhiều khu vực trên đất nước Việt Nam bị cướp bóc bởi những địa chủ giàu có với sự hỗ trợ của các băng nhóm vũ trang bạo lực. Ngay cả lãnh thổ giáo xứ của vị Tôi tớ Chúa cũng bị cướp bóc và dân chúng bị đe dọa. Mặc dù được khuyên nên ẩn náu ở một nơi an toàn, nhưng vì muốn bảo vệ quyền của người dân, không muốn từ bỏ cộng đoàn, nên vào ngày 12/3/1946, cha Diệp bị một nhóm dân quân cùng với những người khác bắt làm tù binh. Cha bị nhốt trong kho gạo, đưa đi thẩm vấn, vài ngày sau người ta phát hiện thi thể của cha, đã bị giết và biến dạng dưới mương.

Sau khi cha qua đời, rất nhiều tín hữu đã bắt đầu đến kính viếng mộ cha, xin cha chuyển cầu và nhận được nhiều phép lạ.

Với việc nhìn nhận sự tự đạo, bị giết vì thù ghét đức tin vào ngày 12/03/1946 tại Tắc Sậy, cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp sẽ được tôn phong chân phước trong thời gian sẽ được ấn định.

Các sắc lệnh khác

Cũng trong buổi tiếp kiến Đức Hồng Y Tổng trưởng, Đức Thánh Cha đã cho phép Bộ Phong thánh ban hành các sắc lệnh liên quan đến:

Phép lạ được cho là nhờ sự chuyển cầu của Chân phước Maria Troncatti (1883-1969), nữ tu người Ý, thuộc Hội dòng Con Đức Mẹ Phù hộ các Kitô hữu, từng là thừa sai phục vụ các dân tộc bản địa ở Ecuador.

Phép lạ được cho là nhờ sự chuyển cầu của Chân phước Pier Giorgio Frassati (1901-1925), sinh viên trẻ đến từ Torino của Ý, thuộc Dòng Ba Đa Minh và là thành viên của Dòng Vinh Sơn, Fuci và Công giáo Tiến hành. Ngài là một trong những chân phước nổi tiếng nhất trong số các thế hệ tín hữu Công giáo mới, được coi là một trong những vị thánh “xã hội” người Ý. Là thành viên của một gia đình giàu có, chuyên tâm cầu nguyện và giúp đỡ những người dễ bị tổn thương, ngài cũng là một vận động viên giỏi. Đức Gioan Phaolô II đã gọi ngài là “một vận động viên leo núi… vĩ đại” và đã phong chân phước cho “cậu bé trong Tám Mối Phúc Thật” này vào năm 1990. 

Kế đến là sự tử đạo của Tôi tớ Chúa Floribert Bwana Chui Bin Kositi (1981-2007), giáo dân người Congo, luật sư và là thành viên của Cộng đoàn Thánh Egidio. Vị chân phước tương lai làm việc với tư cách là ủy viên cho một cơ quan hải quan kiểm soát nguồn cung cấp thực phẩm nhập vào đất nước, một vai trò trong đó ngài phản đối một số hành vi tham nhũng. Vì điều này, ngài đã bị bắt cóc, tra tấn và giết chết vào tháng 7/2007.

Nhân đức anh hùng của Tôi tớ Chúa, Giuseppe Lang (1857-1924), người Croatia, Giám mục hiệu tòa của Alabanda và Giám mục phụ tá của Zagreb. Ngài được biết đến với việc phục vụ người nghèo và đào tạo chủng sinh.

Xác nhận việc tôn kính

Cuối cùng, Đức Thánh Cha cho phép Bộ Phong thánh ban hành sắc lệnh xác nhận việc tôn kính Tôi tớ Chúa Gioan Thánh Giá (1481-1534), thuộc Dòng Ba Phanxicô, viện mẫu của Tu viện “Đức Maria Thánh Giá” ở Cubas Madrid.






Giáo hội nghiên cứu lịch sử của mình để sống đức tin tốt hơn

Suy tư về thư của Đức Thánh Cha gửi ngày 20/11/2024, về đổi mới việc nghiên cứu lịch sử của Giáo hội, ông Andrea Tornielli, Tổng Biên tập Vatican News, nói Đức Thánh Cha mời gọi các thần học gia nghiên cứu sâu về lịch sử Giáo hội, để hoạt động của Chúa Thánh Thần có thể được mặc khải trọn vẹn.

Ông Andrea Tornielli viết: người ta kể rằng Thánh Philip Neri thường nói với người bạn Cesare Baronio, người sáng lập ngành sử học Công giáo hiện đại: “Ít nhất mỗi tháng hãy dạy lịch sử Giáo hội cho học sinh của chúng ta, vì họ không còn biết lịch sử nữa. Và nếu người ta không biết về lịch sử, người ta sẽ không còn biết đức tin nữa”.

Sự chú ý đến việc nghiên cứu lịch sử này phù hợp hơn bao giờ hết, và thư của Đức Thánh Cha chỉ rõ điều này. Như thư được công bố vào tháng 8 của ngài tập trung vào tầm quan trọng của văn học, Người kế vị Thánh Phêrô trước hết nói với các linh mục về việc đào tạo, nhưng ngài cũng làm sáng tỏ một chủ đề mà mọi người đều quan tâm.

Nghiên cứu lịch sử Giáo hội là cách lưu giữ ký ức và xây dựng tương lai, cũng đây là cách tốt nhất để diễn giải thực tế xung quanh chúng ta. Giáo dục thế hệ trẻ đào sâu về quá khứ, không tin vào những khẩu hiệu quá đơn giản, giúp tìm ra hướng đi trong mê cung của hàng triệu “tin tức” vốn thường sai sự thật và không đầy đủ, là sứ vụ mà tất cả chúng ta đều phải thực hiện. Lời của Thánh Philip Neri nhấn mạnh mối liên hệ duy nhất giữa đức tin Kitô giáo và lịch sử. Sự nhập thể, cái chết và sự phục sinh của Con Thiên Chúa là một sự kiện chia tách lịch sử nhân loại thành trước và sau. Trên hết, đức tin Công giáo không phải là một ý tưởng, triết lý hay đạo đức; đó là một mối quan hệ, cuộc sống, cụ thể và lịch sử. Chúng ta là Kitô hữu vì lời chứng được truyền từ mẹ đến con trai, từ cha đến con gái, từ ông bà đến cháu chắt. Và việc quay trở lại chuỗi mắt xích này dẫn chúng ta đến những chứng nhân đầu tiên, các tông đồ, những người mỗi ngày chia sẻ toàn bộ đời sống công khai của Chúa Giêsu.

Tình yêu dành lịch sử này, cùng với cái nhìn đức tin, cho phép chúng ta khám phá những trang đen tối và kém cao quý trong quá khứ của Giáo hội. Khi mở Văn khố Mật của Vatican vào năm 1889, Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã nói: “Nghiên cứu không định kiến, vì Giáo hội không cần lời nói dối nhưng chỉ cần sự thật”.

Nghiên cứu lịch sử rõ ràng giúp chúng ta tiếp xúc với những “vết nhơ” và “nếp nhăn” của quá khứ. Đức Thánh Cha giải thích: “Lịch sử Giáo hội giúp chúng ta thấy được Giáo hội thực sự và yêu mến Giáo hội như Giáo hội thực sự là, yêu mến những gì Giáo hội đã học được và tiếp tục học hỏi từ những sai lầm và thất bại của Giáo hội”. Nhận thức được ngay cả những thời điểm đen tối nhất giúp Giáo hội hiểu được “những vết nhơ và vết thương” của thế giới ngày nay.

Quan điểm của Đức Thánh Cha không nhắm đến bất kỳ hình thức quan tâm biện hộ nào nhằm trình bày một thực tế lý tưởng, và cũng như tránh xa khuynh hướng ý thức hệ miêu tả Giáo hội như một nơi của nhiều điều xấu. Thực tế, nếu Giáo hội có thể thành thật đối diện với mọi khía cạnh trong quá khứ, thì Giáo hội sẽ có nhiều khả năng vẫn khiêm nhường hơn vì nhận ra rằng nhân loại được Chúa cứu độ, chứ không phải nhờ các chiến lược tiếp thị mục vụ hay sự nổi tiếng của bất kỳ cá nhân nổi bật nào.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi nghiên cứu lịch sử Giáo hội thoát khỏi ý thức hệ

Almudena Martínez-Bordiú của ACI Prensa, đối tác tiếng Tây Ban Nha của CNA, ngày 21 tháng 11 năm 2024, tường trình rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã công bố một lá thư gửi riêng cho các linh mục đang trong quá trình đào tạo để thúc đẩy đổi mới việc nghiên cứu lịch sử Giáo hội, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này trong việc diễn giải thực tại tốt hơn.



Mở đầu lá thư, được trình bày tại Văn phòng Báo chí Vatican vào thứ Năm, Đức Thánh Cha đề cập đến nhu cầu thúc đẩy "cảm thức lịch sử đích thực" có tính đến "chiều kích lịch sử vốn là của chúng ta với tư cách là những con người".

"Không ai có thể thực sự biết được bản sắc sâu sắc nhất của mình, hoặc họ muốn trở thành gì trong tương lai, nếu không chú ý đến những mối liên kết gắn kết họ với các thế hệ đi trước", Đức Thánh Cha nói. Đức Giáo Hoàng cũng chỉ ra rằng mọi người, không chỉ các ứng viên cho chức linh mục, đều cần sự đổi mới này.

‘Yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu’

Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha tuyên bố rằng chúng ta phải từ bỏ quan niệm “thiên thần” về Giáo hội và chấp nhận “những vết nhơ và nếp nhăn” của Giáo hội để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu.

Tóm lại, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu thấy Giáo hội thực sự “để yêu Giáo hội như Giáo hội thực sự hiện hữu”, một Giáo hội đã học được “và tiếp tục học hỏi từ những sai lầm và thất bại của mình”.

Theo Đức Thánh Cha, điều này có thể “đóng vai trò như việc điều chỉnh cho cách tiếp cận sai lầm vốn chỉ nhìn nhận thực tại từ việc bảo vệ hiếu thắng cho chức năng hoặc vai trò của chúng ta”.

Nguy cơ của cách đọc lịch sử theo ý thức hệ

Trong bức thư, Đức Thánh Cha Phanxicô chỉ trích việc thao túng lịch sử bằng các ý thức hệ “phá hủy (hoặc bãi bỏ) mọi sự khác biệt để chúng có thể thống trị mà không bị phản đối”. Ngài nói rằng những ý thức hệ này tìm cách dẫn dắt những người trẻ “từ chối sự giàu có về mặt tinh thần và nhân bản được thừa hưởng từ các thế hệ đi trước” và phớt lờ mọi thứ đã có trước họ.

Đối với Đức Giáo Hoàng, điều này cũng dẫn đến việc đặt ra “những vấn đề sai lầm” và tìm kiếm “những giải pháp không thỏa đáng”, đặc biệt là trong một thời đại được đánh dấu bằng xu hướng “bỏ qua ký ức về quá khứ hoặc bịa ra một ký ức phù hợp với yêu cầu của các ý thức hệ thống trị”.

“Đối diện với việc xóa bỏ lịch sử quá khứ hoặc với những câu chuyện lịch sử rõ ràng thiên vị, công việc của các nhà sử học, cùng với kiến thức và việc phổ biến công việc của họ, có thể đóng vai trò như một biện pháp kiềm chế những sự xuyên tạc, những nỗ lực phe phái trong chủ nghĩa xét lại và việc sử dụng chúng để biện minh cho” bất cứ số lượng tội ác nào, bao gồm cả chiến tranh và đàn áp, Đức Giáo Hoàng cho thấy.

Do đó, Đức Giáo Hoàng nói rằng “chúng ta không thể nắm bắt được quá khứ bằng những diễn giải vội vàng tách biệt khỏi hậu quả của chúng” và thực tại “không bao giờ là một hiện tượng đơn giản có thể giản lược thành những sự đơn giản hóa ngây thơ và nguy hiểm”.

Đức Giáo Hoàng cảnh cáo về những nỗ lực của những người hành động như “các vị thần” muốn “xóa bỏ một phần lịch sử và nhân tính”.

Sự yếu đuối của con người và việc truyền bá Tin Mừng

Đức Thánh Cha tiếp tục thừa nhận “sự yếu đuối của con người đối với những người được ủy thác Tin Mừng” và khuyên nhủ các tín hữu không nên bỏ qua những thiếu sót và “chiến đấu với chúng một cách cần cù” để chúng không cản trở việc truyền bá Tin Mừng.

Đức Thánh Cha nhắc lại rằng “tha thứ không có nghĩa là quên lãng”, và ngài khuyến khích Giáo hội “khởi xướng — và giúp khởi xướng trong xã hội — những con đường chân thành và hiệu quả cho sự hòa giải và hòa bình xã hội”.

Ngài cũng kêu gọi tránh “cách tiếp cận chỉ theo trình tự thời gian” đối với lịch sử của Giáo hội, điều này “sẽ biến lịch sử của Giáo hội thành một chỗ dựa đơn thuần cho lịch sử thần học hoặc tâm linh của các thế kỷ trước”.

Đức Thánh Cha: Cần phát triển một nền thần học về hiệp hành

Trong buổi tiếp kiến các tham dự viên Khóa họp Toàn thể của Uỷ ban Thần học Quốc tế, sáng thứ Năm ngày 28/11, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự cần thiết đưa Chúa Kitô trở lại trung tâm, và phát triển một nền thần học về hiệp hành

image.png

Trước hết, đưa Chúa Kitô trở lại trung tâm, Đức Thánh Cha nói Năm Thánh sắp đến mời gọi chúng ta tái khám phá khuôn mặt Chúa Kitô và “tái tập trung” vào Người. Năm Thánh này cũng là dịp cử hành 1700 năm Công đồng Đại kết Nicea, một cột mốc lịch sử của Giáo hội và toàn thể nhân loại. Đức tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể “vì loài người chúng ta và vì ơn cứu độ chúng ta”, đã được định nghĩa và tuyên xưng như ánh sáng chiếu soi ý nghĩa thực tại và vận mệnh của toàn bộ lịch sử.

Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em được kêu gọi nuôi dưỡng một cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô và đạt đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về mầu nhiệm của Người, để chúng ta có thể ‘thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Chúa Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết’ (Ep 3, 18-19)”.

Ngài nhấn mạnh thêm, đặt Chúa Kitô trở lại trung tâm có nghĩa là thắp lại hy vọng về một thế giới trong đó mọi người sống tình huynh đệ, trở thành nghệ nhân của hoà bình. Và đây chính là những gì thần học được kêu gọi thực hiện, với sự kiên trì, khôn ngoan và tầm nhìn xa, và trong cuộc đối thoại với tất cả các lĩnh vực kiến thức khác.

Đức Thánh Cha đi đến điểm thứ hai: phát triển một thần học về tính hiệp hành. Ngài nhắc lại văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng Giám mục đã mời gọi các tổ chức thần học tiếp tục nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ và đào sâu ý nghĩa của tính hiệp hành (số 67). Thực vậy, đã đến lúc phải thực hiện một bước can đảm về phía trước và phát triển một nền thần học về tính hiệp hành, một suy tư thần học có thể giúp, khuyến khích và đồng hành với tiến trình thượng hiệp hành, cho một giai đoạn truyền giáo mới, sáng tạo và táo bạo hơn, được truyền cảm hứng bởi Kerygma và liên quan đến mọi thành phần của đời sống Giáo hội.

Đức Thánh Cha kết thúc bài nói chuyện, đưa ra hình ảnh Thánh Gioan Tông đồ nghiêng đầu vào ngực Chúa trong bữa Tiệc ly, và trích số 31 của Tông huấn Dilexit nos nhằm nhấn mạnh rằng “bằng cách ở gần Thánh Tâm Chúa, nền thần học của anh chị em sẽ được kín múc suối nguồn và sinh hoa trái trong Giáo hội và thế giới”.

Vatican công bố phụng vụ đơn giản hóa tang lễ Giáo hoàng

Ngày thứ tư 20 tháng 11, Văn phòng Phụng vụ Giáo hoàng công bố nghi thức phụng vụ trong tang lễ các Giáo hoàng đã được Đức Phanxicô phê chuẩn. Trong một nghi thức phụng vụ đơn giản, Đức Phanxicô cho biết ngài muốn an nghỉ tại Đền thờ Đức Bà Cả Rôma chứ không ở Đền thờ Thánh Phêrô.

image.png

Tang lễ Đức Bênêđíctô XVI ngà6-1-2023


Tháng 12 năm 2023 ngài đã cho biết ý định ngài muốn được chôn cất ở đền thờ Đức Bà Cả, chứ không ở Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày thứ tư 20 tháng 11, Vatican công bố ấn bản mới của Ordo Exsequiarum Romani Pontificis, nghi thức hệ thống hóa tang lễ của các giáo hoàng.

Ấn bản này đã được Đức Phanxicô phê chuẩn vào tháng 4 và đã được làm lại để “đơn giản hóa” phù hợp với mong muốn của ngài. Tổng giám mục Diego Ravelli, người đứng đầu Văn phòng phụng vụ giáo hoàng lúc đó giải thích: “Nghi thức được đổi mới nhấn mạnh tang lễ của giáo hoàng là tang lễ của mục tử và môn đệ của Chúa Kitô chứ không phải tang lễ của người có quyền lực trên thế gian này.”

Một quan tài duy nhất

Nếu ba “nơi” của nghi thức an táng được giữ nguyên – trong các căn hộ giáo hoàng, trong vương cung thánh đường Vatican, trong nơi an táng – nhưng một số đặc điểm mới đã được đưa vào. Bây giờ việc thông báo cái chết của Giáo hoàng sẽ được tuyên bố ở nhà nguyện riêng của ngài chứ không ở phòng ngủ như trước đây. Sau đó thi thể được đặt trong một chiếc quan tài bằng gỗ duy nhất, bên trong bọc kẽm và được chuyển đến Đền thờ Thánh Phêrô, thi thể được quàn trong quan tài mở nắp để giáo dân đến viếng. Trước đây thi thể được quàn tại nhà thờ trong ba chiếc quan tài làm bằng cây bách, chì và gỗ sồi. Ngoài ra, nghi lễ được cải tiến, các giáo hoàng sẽ chọn một địa điểm chôn cất khác ngoài Đền thờ Thánh Phêrô.

Phụng vụ lễ an táng cũng nhẹ hơn, phù hợp hơn với Sách lễ Rôma kể cả các bài hát và các thánh vịnh. Các nghi thức tuần cửu nhật sau tang lễ cũng được sửa đổi. Các lời cầu nguyện trong sách lễ Rôma được dùng lại, các bài đọc đã bị xóa.

Tổng giám mục Ravelli giải thích: “Đây là một Ordo theo nghĩa đen của thuật ngữ, gồm các chỉ dẫn về nghi thức, sự phát triển của các nghi thức và ý nghĩa riêng của các văn bản. Các chỉ dẫn khác đều đã có trong sách lễ, sách bài đọc, vì thế đây là bản văn chính xác, dễ dùng trong tang lễ.”



Những sửa đổi đối với Nghi thức tang lễ của Giáo hoàng có ý nghĩa gì?


image.png


Chuyên gia về Vatican, Andrea Gagliarducci của National Catholic Register, ngày 25 tháng 11 năm 2024, nhận định rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người sẽ bước sang tuổi 88 vào ngày 17 tháng 12, hiện đã biết chính xác tang lễ cuối cùng của mình sẽ như thế nào.

Các chi tiết cụ thể được nêu trong ấn bản thứ hai của Ordo Exsequiarum Romani Pontificis, do Văn phòng Lễ nghi Phụng vụ của Giáo hoàng biên soạn và công bố cho công chúng vào ngày 19 tháng 11.

Theo Vatican News, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, người đã phê duyệt các nghi lễ đã được sửa đổi vào tháng 4, đã nhận được bản sao đầu tiên của tập sách in vào ngày 4 tháng 11.

Các bản sửa đổi phản ảnh mong muốn của Đức Phanxicô là đơn giản hóa các nghi lễ và trong một số trường hợp, loại bỏ các truyền thống có từ nhiều thế kỷ trước mà nguồn gốc cổ xưa của chúng đã trở nên khó giải mã ngay cả đối với các chuyên gia của Vatican.

Nhưng trong khi một số chi tiết đã thay đổi, thì bản chất của tang lễ của giáo hoàng thì không: Đây vẫn là một sự kiện công khai được đánh dấu bằng sự chú ý và các nghi thức đặc biệt mà người ta mong đợi để tôn vinh một nhà lãnh đạo thế giới quan trọng.

Đây vẫn là trường hợp, mặc dù Đức Phanxicô muốn đảm bảo rằng "lễ tang của Giám mục Rôma là của một mục tử và một môn đệ của Chúa Kitô, chứ không phải của một người quyền lực của thế giới này", như Đức Tổng Giám Mục Diego Ravelli, người dẫn chương trình nghi lễ giáo hoàng, đã giải thích.

Vậy điều gì đã thay đổi?

Trước hết, việc chứng nhận cái chết của Giáo hoàng không còn diễn ra trong căn phòng nơi ngài qua đời mà diễn ra trong nhà nguyện riêng của ngài. Trước khi chứng nhận này, thị thần [camerlengo], vị giáo phẩm điều hành Vatican trong khoảng thời gian từ khi một giáo hoàng qua đời hoặc từ chức cho đến khi bầu ra người kế nhiệm, sẽ gọi giáo hoàng bằng tên rửa tội của ngài ba lần, xác nhận rằng không có phản hồi. Tên rửa tội được sử dụng thay vì tên giáo hoàng, vì danh tính và chức năng giáo hoàng của giáo hoàng đã khuất sẽ chấm dứt sau khi ngài qua đời.

Một thay đổi khác là thi thể của giáo hoàng được đặt ngay vào bên trong một chiếc quan tài mở, thay vì một chiếc quan tài nâng cao, được gọi là canaletto ("giường chết"), như đã xảy ra với Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô XVI. Ngoài ra, các nghi lễ được sửa đổi đã loại bỏ việc sử dụng ba chiếc quan tài — một chiếc bằng gỗ bách, một chiếc bằng chì và một chiếc bằng gỗ sồi.

Thay vào đó, thi hài được đặt trong một chiếc quan tài gỗ đơn giản có lớp lót bằng kẽm và được chuyển ngay đến Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, mà không cần phải đi qua Cung điện Tông đồ để được trưng bày thêm như trước đây.

Việc chia thành "ba chặng vẫn còn, tức là ba chặng trong hành trình của Đức Giáo Hoàng quá cố: đầu tiên là tại nhà của người quá cố, sau đó là tại Vương cung thánh đường và cuối cùng là tại nơi chôn cất".

Chặng thứ ba đánh dấu một sự sửa đổi lớn khác: Đức Giáo Hoàng có thể được chôn cất bên ngoài Vatican nếu ngài muốn. Như chúng ta đã biết, Đức Phanxicô đã làm như vậy: Ngài sẽ được chôn cất tại Santa Maria Maggiore [Nhà thờ Đức Bà Cả], cùng với năm vị giáo hoàng khác đã chọn Vương cung thánh đường đó làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình.

Người ta cũng nói về việc sửa đổi toàn diện Ordo mới liên quan đến các bản văn và bản dịch đã được hòa hợp. Ordo cũng cập nhật Kinh cầu Các Thánh. Những bài hát này được hát trong các nghi thức tang lễ trong quá trình chuyển đến Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô và trong lời cầu nguyện truyền thống của Giáo hội Rôma.

Truyền thống novemdiales vẫn còn — tức chín ngày Thánh lễ cầu nguyện cho cố giáo hoàng, mặc dù đã được sửa đổi, bao gồm các lời cầu nguyện từ Sách lễ Rôma và bỏ qua các bài đọc.

Phong tục đã có là cử hành 100 Thánh lễ để thương tiếc vị giáo hoàng đã khuất. Điều này là do trách nhiệm mà một người được kêu gọi càng quan trọng thì khả thể mắc lỗi và phạm tội càng lớn, do đó, các lời khẩn cầu và cầu nguyện càng cần thiết. Người ta không biết liệu truyền thống này có bị bãi bỏ hay không, nhưng nó không nhất thiết phải là một phần của Ordo.

Những điều chỉnh tương đối nhỏ như vậy không thay đổi một sự kiện quan trọng, theo ghi chú của Đức ông Stefano Sanchirico, một viên chức của Văn khố Tông đồ Vatican và là giáo sư lịch sử của Giáo triều Rôma: Cái chết của giáo hoàng và việc trưng bày thi hài của ngài là công khai.

“Thật vậy, cái chết và những khoảnh khắc trước đó trở thành cơ hội để đưa ra lời chứng tối cao về đức tin vào sự phục sinh”, đức ông, cựu giám mục của Phòng chờ của Đức Thánh Cha, cho biết.

Trước cuộc cải cách này, những cải cách cuối cùng đối với nghi thức tang lễ của các giáo hoàng là những cải cách được Thánh Gioan Phaolô II chấp thuận và được Đức Tổng Giám Mục Piero Marini giám sát với tư cách là người chủ trì các buổi lễ phụng vụ của giáo hoàng.

Như Đức Tổng Giám Mục Ravelli giải thích, sách nghi lễ mới “không được thiết kế như một sách lễ toàn diện, mà đúng hơn là một ordo theo đúng nghĩa — một hướng dẫn chứa các hướng dẫn nghi lễ, việc phát triển các nghi thức và bản văn chuyên biệt, trong khi tham chiếu các sách phụng vụ hiện hành như sách lễ, sách bài đọc và ca tiến cấp cho mọi điều khác”. Ngài cho biết: “kết quả là một cuốn được đơn giản hóa, dễ dàng tham khảo và chính xác trong các hướng dẫn nghi thức của nó”.

Tòa án tối cao Úc tuyên bố Giáo phận không phải chịu trách nhiệm thay thế cho các linh mục lạm dụng tình dục

Tòa án tối cao Úc trong đơn kháng cáo lên Tòa án tối cao Victoria đã ra phán quyết rằng một giáo phận Công Giáo không phải chịu trách nhiệm thay thế cho hành vi lạm dụng tình dục một bé trai năm tuổi của một linh mục từ một nhà thờ giáo xứ trong giáo phận. Nguyên đơn ở tuổi 49 đã đệ đơn kiện về những tổn thương tâm lý mà anh ta phải chịu đựng khi còn nhỏ do hai vụ tấn công tình dục riêng biệt của vị linh mục xảy ra tại nhà của đứa trẻ. Ý kiến đa số thay mặt cho năm thẩm phán đã cho biết:

Một giáo phận, thông qua giám mục của giáo phận đó, bổ nhiệm các linh mục và linh mục phụ tá cho các giáo xứ trong giáo phận đó.... Năm 1966, Coffey được Giám mục Ballarat lúc bấy giờ bổ nhiệm vào nhà thờ giáo xứ St Patrick.... Coffey không được Giáo phận tuyển dụng hoặc được Giáo phận thuê như một nhà thầu độc lập. Không có phát hiện nào cho thấy Coffey có mối quan hệ lao động với Giáo phận.

Mối quan hệ lao động luôn là tiền đề cần thiết ở quốc gia này để tìm ra trách nhiệm pháp lý thay thế và luôn cần thiết rằng các hành vi sai trái phải được thực hiện trong quá trình hoặc phạm vi lao động. Không có nền tảng vững chắc nào để mở rộng học thuyết hoặc vẽ lại ranh giới của nó.

Vatican thành lập nhóm nghiên cứu để phân loại tội phạm lạm dụng tinh thần


image.png
Đức Giáo Hoàng Phanxicô chào đón Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, trong cuộc họp với các thành viên của Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng vào ngày 11 tháng 4 năm 2024 tại Vatican. 

Elise Ann Allen của tạp chí Crux, ngày 27 tháng 11 năm 2024, tường trình rằng đối diện với một loạt vụ tai tiếng liên quan đến những người sáng lập và những cá nhân có sức thu hút khác đã phạm tội lạm dụng dưới vỏ bọc là những trải nghiệm tâm linh và thần bí sai lầm, Vatican đang thành lập một nhóm nghiên cứu để định nghĩa rõ ràng hơn về tội phạm trong luật giáo hội.

Một thông cáo do Hồng Y người Argentina Víctor Manuel Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin (DDF) của Vatican ký ngày 22 tháng 11 và được Đức Giáo Hoàng Phanxicô chấp thuận, đã giải quyết một cuộc tranh chấp lâu dài giữa các nhà giáo luật về khái niệm “chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo”.

Theo truyền thống, “chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo” được coi là một tội ác chống lại đức tin, thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo lý Đức tin, nhưng không có tiêu chuẩn pháp lý được xác định rõ ràng.

Điều 10 của Quy định của Bộ Giáo lý Đức tin năm 1995, do Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, tức Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tương lai, ký, nêu rõ rằng phần kỷ luật trong Bộ Giáo lý Đức tin “xử lý các tội ác chống lại đức tin, cũng như các tội ác nghiêm trọng nhất, theo phán quyết của thẩm quyền cấp trên, vi phạm đạo đức và trong việc cử hành các bí tích”.

Bộ này cho biết, họ chịu trách nhiệm về nhiều vấn đề và hành vi liên quan đến kỷ luật đức tin, chẳng hạn như "các trường hợp huyền nhiệm giả tạo, các vụ được cho là hiện ra, các thị kiến và thông điệp được cho là có nguồn gốc siêu nhiên, thuyết duy linh, ma thuật và buôn thần bán thánh".

Tuy nhiên, theo thông cáo của Bộ Giáo lý Đức tin, được công bố trên trang web của Bộ Giáo lý Đức tin, thuật ngữ "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" được giải quyết trong một bối cảnh cụ thể liên quan đến "tâm linh và các hiện tượng được cho là siêu nhiên ", và hiện được giải quyết trong phần giáo lý của Bộ Giáo lý Đức tin.

Trong bối cảnh này, ĐHY Fernández cho biết, thuật ngữ "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" ám chỉ "những cách tiếp cận tâm linh gây tổn hại đến sự hòa hợp giữa sự hiểu biết của Công Giáo về Thiên Chúa và mối quan hệ của chúng ta với Người. Theo nghĩa này, cụm từ này xuất hiện trong Huấn quyền".

Ví dụ, Bộ Giáo lý Đức tin đã trích dẫn thông điệp Haurietis Aquas năm 1956 của Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII, trong đó ngài bác bỏ khái niệm của Jansen về Thiên Chúa tách biệt khỏi sự nhập thể của Chúa Giêsu là "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo".

"Do đó, thật sai lầm khi khẳng định rằng việc chiêm ngưỡng Trái tim vật chất của Chúa Giêsu ngăn cản việc tiếp cận tình yêu thương sâu sắc của Thiên Chúa và kìm hãm tâm hồn trên con đường đạt được các nhân đức cao nhất", Đức Pi-ô XII nói, gọi đây là "học thuyết huyền nhiệm giả tạo".

Mặc dù một số nhà giáo luật cũng sử dụng cụm từ "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" liên quan đến các trường hợp lạm dụng, nhưng không có tội phạm nào được phân loại là "chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo" trong Bộ luật Giáo luật, ĐHY Fernández cho biết.

Mặc dù gần đây đã sửa đổi bộ luật hình sự của Vatican, bao gồm các điều khoản rộng hơn cho giáo dân và những người sáng lập giáo dân bị buộc tội lạm dụng, nhưng vẫn chưa có tội phạm nào được phân loại cho loại lạm dụng này, khiến nhiều chuyên gia giáo luật mô tả là một lỗ hổng pháp lý trong luật giáo hội.

Một số người đã chỉ ra trường hợp của Cha Francisco Javier Garrido Goitia, một người Tây Ban Nha theo dòng Phanxicô, bị tòa án giáo hội kết án vào năm ngoái về hai tội danh "huyền nhiệm giả tạo và yêu cầu được xưng tội", như một tiền lệ tiềm năng.

Tuy nhiên, các chuyên gia khác đã lập luận rằng trong trường hợp của Garrido Goitia, cáo buộc " huyền nhiệm giả tạo" được coi là một hoàn cảnh gia trọng chứ không phải là một tội ác, và nếu cáo buộc chỉ liên quan đến huyền nhiệm giả tạo, thì nó sẽ không được chấp nhận vì không có phân loại nào về nó trong Luật Giáo hội.

Trong khi một số nhà giáo luật thúc đẩy việc phân loại tội " huyền nhiệm giả tạo" liên quan đến các trường hợp lạm dụng, những người khác lại cho rằng thuật ngữ này quá chung chung vì nó đã được sử dụng trong cả bối cảnh giáo lý và kỷ luật và do đó gây nhầm lẫn.

ĐHY Fernández trong thông cáo của mình cho biết vấn đề về những trải nghiệm tâm linh và huyền nhiệm sai lầm khi phạm tội lạm dụng được giải quyết trong “Các chuẩn mực tiến hành trong việc phân định các hiện tượng được coi là siêu nhiên” mới được công bố vào tháng 5, trong đó Bộ Giáo lý Đức tin tuyên bố rằng “việc sử dụng những trải nghiệm siêu nhiên được cho là hoặc các yếu tố huyền nhiệm được công nhận như một phương tiện hoặc một cái cớ để kiểm soát mọi người hoặc thực hiện hành vi lạm dụng phải được coi là có tính nghiêm trọng về mặt đạo đức”.

“Việc xem xét này cho phép đánh giá tình huống được mô tả ở đây là một hoàn cảnh gia trọng nếu nó xảy ra cùng với các hành vi phạm tội”, ĐHY Fernández cho biết.

Ngài cho biết có thể đưa ra một phân loại các tội ác này dưới tiêu đề “lạm dụng tâm linh”, đồng thời tránh thuật ngữ “chủ nghĩa huyền nhiệm giả tạo”, một thuật ngữ bị ngài cho là một cách diễn đạt “quá rộng và mơ hồ”. Để đạt được mục đích này, ĐHY Fernández cho biết ngài đề xuất rằng Bộ Văn bản Lập pháp của Vatican và Bộ Giáo lý Đức tin thành lập một nhóm làm việc, do Bộ Văn bản Lập pháp làm chủ tịch, để tiến hành phân tích chung về loại phân loại này và đưa ra các đề xuất cụ thể.

Ngài cho biết bộ trưởng Bộ Văn bản Lập pháp, Tổng giám mục Filippo Iannone, đã chấp nhận đề xuất này “và đang tiến hành thành lập Nhóm làm việc theo kế hoạch, bao gồm các thành viên do cả hai bộ chỉ định, để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó càng sớm càng tốt”. Việc thành lập nhóm làm việc diễn ra trong bối cảnh danh sách những cá nhân bị cáo buộc có hành vi lạm dụng tình dục kết hợp các yếu tố của trải nghiệm huyền nhiệm và tâm linh sai lầm ngày càng tăng, bao gồm các trường hợp nổi bật như trường hợp của người sáng lập Sodalitium Christiane Vitae (SCV) có trụ sở tại Peru, Luis Fernando Figari và Linh mục người Slovenia Marko Rupnik, bị cáo buộc lạm dụng khoảng 40 phụ nữ trưởng thành.

Một số chuyên gia cho biết, chính lỗ hổng pháp lý xung quanh các vụ lạm dụng được thực hiện bằng cách sử dụng các trải nghiệm tâm linh hoặc huyền nhiệm sai lầm đã cho phép những kẻ bị cáo buộc lạm dụng như Rupnik tránh bị hình phạt.

ĐHY Fernández trong thông cáo của mình đã không đưa ra mốc thời gian về thời điểm nhóm làm việc sẽ được thành lập hoặc thời hạn nhiệm kỳ của nhóm.


        Đức Thánh Cha Phanxicô: Khát vọng và hy vọng Kitô giáo có thể vượt qua ‘bệnh dịch nguy hiểm’ của thuyết hư vô



Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ Bộ Văn hóa và Giáo dục tại Vatican vào ngày 21 tháng 11 năm 2024 (Ảnh: Truyền thông Vatican)

Đức Thánh Cha Phanxicô gặp gỡ Bộ Văn hóa và Giáo dục tại Vatican vào ngày 21 tháng 11 năm 2024 


Trong bài phát biểu trước những người tham dự phiên họp toàn thể đầu tiên của Bộ Văn hóa và Giáo dục vào ngày 21 tháng 11, Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết khát vọng, lòng dũng cảm và hy vọng Kitô giáo là những phương thuốc cần thiết để vượt qua “cái bóng của chủ nghĩa hư vô” đang phổ biến trong xã hội.

Mô tả chủ nghĩa hư vô rằng đó “có lẽ là tai họa nguy hiểm nhất của nền văn hóa ngày nay” vì nó cố gắng “xóa bỏ niềm hy vọng” trên thế giới, Đức Thánh Cha nói với các thành viên của Thánh Bộ rằng tổ chức của họ nên hướng tới mục tiêu truyền cảm hứng cho nhân loại.

“Các trường học, các trường đại học, trung tâm văn hóa phải dạy chúng ta biết mong muốn, biết khát khao, biết ước mơ, bởi vì, như Thư thứ hai của Thánh Phêrô nhắc nhở chúng ta, chúng ta ‘chờ đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị’”, Đức Thánh Cha nói.

“Hãy hiểu sứ mạng của anh chị em trong lĩnh vực giáo dục và văn hóa như một lời kêu gọi mở rộng tầm nhìn, tràn đầy sức sống bên trong, tạo không gian cho những khả năng vô hình, ban tặng những cách thức tặng trao những món quà vốn chỉ trở nên rộng lớn hơn khi được sẻ chia”, Đức Thánh Cha tiếp tục.

Nhắc nhở cá thính giả về di sản văn hóa và giáo dục rộng lớn của Giáo hội Công giáo, Đức Thánh Cha cho biết “không có lý do gì để phải sợ hãi”.

“Nói tóm lại, chúng ta là những người thừa kế niềm đam mê giáo dục và văn hóa của rất nhiều vị thánh”, Đức Thánh Cha nói sau khi trích dẫn tấm gương của các Thánh Augustinô, Tôma Aquinô, Edith Stein và nhà khoa học Công giáo Blaise Pascal.

“Được bao quanh bởi rất nhiều chứng nhân, chúng ta hãy gạt bỏ mọi gánh nặng của sự bi quan; bi quan không phải là tinh thần Kitô giáo”, Đức Thánh Cha cho biết thêm.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng dựa trên các tác phẩm văn hóa của những vĩ nhân âm nhạc và văn học, bao gồm Mozart và nhà thơ người Mỹ Emily Dickinson, và đồng thời nhấn mạnh rằng họ cũng có thể là nguồn cảm hứng cho các dự án văn hóa và giáo dục khác nhau của Thánh Bộ.


Đức Thánh Cha Phanxicô phát biểu tại 

Hội nghị toàn thể của Bộ Văn hóa và Giáo dục 

‘Chúng ta hãy nghĩ về tương lai của nhân loại’

Xác định đói nghèo, bất bình đẳng và loại trừ là “những bệnh lý của thế giới hiện tại”, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Giáo hội có “mệnh lệnh đạo đức” là phải đảm bảo mọi người — đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên — được tiếp cận với nền giáo dục toàn diện.

“Khoảng 250 triệu trẻ em và thanh thiếu niên không được đến trường”, Đức Thánh Cha tuyên bố. “Anh chị em thân mến, đó là tội diệt chủng văn hóa khi chúng ta đánh cắp tương lai của trẻ em, khi chúng ta không cung cấp cho chúng những điều kiện để trở thành những gì chúng có thể trở thành”.

Chia sẻ với các thành viên của Thánh Bộ về trải nghiệm của Antoine de Saint-Exupéry với những khó khăn của các gia đình tị nạn, Đức Thánh Cha cho biết nhà văn người Pháp cảm thấy bị tổn thương sau khi nhìn thấy những đứa trẻ.

“Tôi rất đau khổ khi thấy rằng nơi mỗi người đàn ông này đều có một Mozart nhỏ bé bị giết hại”, de Saint-Exupéry viết trong tác phẩm tự truyện “Land of Men” (Vùng đất của con người) của mình.

Kết thúc buổi tiếp kiến riêng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc đến chủ đề của hội nghị toàn thể của Thánh Bộ, “Chúng ta hãy sang bờ bên kia” (x. Mc 4:35), và đồng khuyến khích các tham dự viên hãy can đảm và thực hiện công việc của mình với tinh thần hy vọng.

“Tôi nhắc lại: Chúng ta không được để cảm giác sợ hãi chiến thắng. Hãy nhớ rằng những đoạn văn về văn hóa phức tạp thường chứng tỏ là những đoạn văn có hiệu quả và sáng tạo nhất cho sự phát triển tư duy của con người”, Đức Thánh Cha Phanxicô nói.

“Việc chiêm ngưỡng Chúa Kitô hằng sống giúp chúng ta có can đảm tiến vào tương lai”, Đức Thánh Cha cho biết thêm.


Chuyên gia Công Giáo cho biết giới tính không phải là vấn đề thuật ngữ mà là nhân chủng học đứng đằng sau nó


Giáo sư Marta Rodríguez Díaz, giảng viên khoa triết học của Pontifical Athenaeum Regina Apostolorum


Nicolás de Cárdenas của ACI Prensa, đối tác của CNA, ngày 21 tháng 11 năm 2024, đã phỏng vấn Marta Rodríguez Díaz, một chuyên gia Công Giáo về ý thức hệ phái tính. Chuyên gia này cho biết thay vì đấu tranh chống lại ý thức hệ phái tính, sứ mệnh của Giáo Hội Công Giáo là "tìm cách làm cho ánh sáng chiếu rọi trong bóng tối" và đưa ra đối thoại mang tính phê phán.

Rodríguez cũng chỉ ra rằng “nếu Giáo hội không đáng tin cậy ngày nay về mặt giới tính, thì không phải vì không có nhiều điều để nói mà vì thiếu những nhà giáo dục biết cách truyền tải thông điệp của mình một cách toàn diện và chính xác”.

Rodríguez được Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha chọn để đào tạo cho các đại biểu giáo phận về mục vụ chăm sóc gia đình và cuộc sống liên quan đến thách thức mà vấn đề ý thức hệ phái tính gây ra cho Giáo Hội Công Giáo.

Bà có bằng tiến sĩ triết học từ Đại học Giáo hoàng Gregorian và là giáo sư khoa triết học của Đại học Giáo hoàng Athenaeum Regina Apostolorum. Bà cũng là điều phối viên lĩnh vực học thuật của Viện Nghiên cứu Phụ nữ.

Rodríguez cũng là giám đốc học thuật của khóa học về giới tính, tình dục và giáo dục tại Đại học Francisco de Vitoria hợp tác với Regina Apostolorum và là thành viên của Bộ Giáo dân, Gia đình và Cuộc sống.


Sau đây là nguyên văn cuộc phỏng vấn:

ACI Prensa: Giáo hội nên chống lại ý thức hệ phái tính như thế nào?

Rodríguez: Tôi không biết mình có thích hạn từ "chiến đấu" không… Tôi nghĩ rằng sứ mệnh của Giáo hội là trở thành ánh sáng và tìm cách làm cho ánh sáng chiếu rọi trong bóng tối. Trở thành ánh sáng có nghĩa là đề xuất toàn bộ sự thật về con người, giáo dục và cũng cảnh cáo và chỉ ra những ý tưởng mâu thuẫn với phẩm giá của con người hoặc không giúp đạt được sự trọn vẹn của con người.

Cá nhân tôi muốn thấy chúng ta, với tư cách là một Giáo hội, cống hiến nhiều hơn cho một cuộc đối thoại có khả năng giải quyết nghiêm túc các ý thức hệ của thời đại chúng ta hơn là đưa ra những lời lên án hoàn toàn mà chỉ những người đã suy nghĩ như chúng ta mới hiểu.

Theo dữ kiện mà bà cung cấp, những người làm công tác mục vụ hoặc có hiểu biết mơ hồ về giáo lý Công Giáo về chủ đề này hoặc không biết hoặc không hiểu gì cả. Những bước nào phải được thực hiện để đảo ngược tình thế này?

Đào tạo, đào tạo, đào tạo. Cần phải đào tạo về nhân chủng học Kitô giáo. Theo kinh nghiệm của tôi, những người làm công tác mục vụ không có đủ kiến thức về nó và không có khả năng đề xuất nó trong tất cả vẻ đẹp và chiều sâu của nó. Ngoài ra, cần phải đào tạo về thần học luân lý để họ biết cách phân định các ứng dụng mục vụ phù hợp trong từng trường hợp, mà không làm lu mờ sự thật về nhân vị. Cũng cần phải đào tạo theo phong cách mục vụ biết cách kết nối với thế giới hậu hiện đại và đề xuất vẻ đẹp trường tồn của Tin Mừng bằng ngôn ngữ mà thế giới ngày nay có thể hiểu được.

Tôi nghĩ rằng nếu Giáo hội không đáng tin cậy ngày nay về các vấn đề giới tính, thì không phải vì Giáo hội không có nhiều điều để nói mà vì thiếu những người đào tạo biết cách truyền tải thông điệp của mình một cách toàn diện và chính xác.

Có một cuộc khủng hoảng trong gia đình, trong đó vai trò của nam giới và nữ giới bị nhầm lẫn. Đây có phải là nguyên nhân chính gây ra sự nhầm lẫn trong giới trẻ về vấn đề giới tính không? Những yếu tố nào khác thúc đẩy theo hướng này?

Chắc chắn, cuộc khủng hoảng về nữ tính và nam tính mà chúng ta đang trải qua có tác động rất mạnh đến những người trẻ tuổi. Nếu không có những hình mẫu hấp dẫn, sẽ rất khó để thực hiện quá trình xác định giới tính của chính mình, điều cần thiết ở tuổi vị thành niên. Ngoài ra, còn có cuộc khủng hoảng của chính gia đình: nhiều gia đình bất ổn, không có cha và mẹ.

Phương tiện truyền thông, mạng xã hội và phim ảnh chắc chắn cũng có ảnh hưởng, vì chúng nhấn mạnh rất rõ ràng vào một thông điệp duy nhất. Tóm lại, tôi nghĩ rằng trẻ em ngày nay bị tấn công bởi những ý tưởng khiến chúng bối rối và chúng không có điểm tham chiếu vững chắc nào để hướng dẫn chúng.

Bà nói rằng việc biết mọi điều chưa được thực hiện tốt cho đến nay là "giải phóng". Theo nghĩa nào?

Theo nghĩa là nó khiến chúng ta thấy được điều gì phụ thuộc vào chúng ta và chúng ta có thể cải thiện diễn ngôn của mình ở đâu để đáng tin cậy hơn. Cá nhân tôi rất lo ngại khi người ta nói rằng nguyên nhân gây ra mọi sự bối rối ở những người trẻ tuổi là từ phương tiện truyền thông xã hội, phương tiện truyền thông, luật pháp... bởi vì tất cả những điều đó là đúng, nhưng cũng đúng là có vẻ như điều đó sẽ không thay đổi trong vài năm tới.

Nhưng nếu, cùng một lúc chúng ta nhận ra tác động của tất cả các yếu tố bên ngoài này, chúng ta nhận ra rằng với tư cách là một Giáo hội, chúng ta không phải lúc nào cũng sẵn sàng cho nhiệm vụ; chúng ta chưa thể đề xuất thông điệp với chiều sâu và vẻ đẹp mà thời đại chúng ta đòi hỏi… thì chúng ta có những thứ phụ thuộc vào chúng ta, và cho phép chúng ta hy vọng rằng cảnh quan thực sự có thể được cải thiện.

Bà liệt kê một số rủi ro trong lĩnh vực giáo dục. Bà đang ám chỉ điều gì khi nói đến “các phương pháp y khoa ít được chứng minh từ quan điểm khoa học?”

[Tôi muốn nói] đến các phương pháp điều trị bằng hormone cho trẻ em và thanh thiếu niên. Tôi không phải là bác sĩ, nhưng nhiều bác sĩ và nhà tâm lý học đã đưa ra những phản đối nghiêm trọng đối với loại hình thực hành này. Ở các quốc gia khác, họ đang lùi bước, nhưng ở Tây Ban Nha, chúng tôi vẫn đang tiến hành các thí nghiệm.

Bà tuyên bố rằng “không cần thiết phải tuyên chiến với thuật ngữ ‘phái tính’: Có thể tiếp nhận nó một cách phê phán”. Theo giáo huấn của Giáo hội, phần nào của ngôn từ đó được chấp nhận?

Vấn đề không phải là thuật ngữ phái tính mà là nhân học mà nó rút ra. Amoris Laetitia số 56 nêu rằng “phá tính và giới tính có thể phân biệt được, nhưng không thể tách rời”. Điều tương tự cũng được nói trong văn kiện Male and Female He Created Them ở số 6 và 11. Và Dignitas Infinita một lần nữa khẳng định điều này. Tôi tin rằng xu hướng hợp nhất của huấn quyền trong những năm gần đây là ngừng tuyên chiến với thuật ngữ này và tham gia vào một cuộc đối thoại phê phán với điều mà tôi gọi là "các lý thuyết phái tính".

Phái tính là sự phát triển hoặc diễn giải văn hóa về giới tính. Phân biệt nó với giới tính là công bằng, nhưng không được tách biệt nó khỏi giới tính.

Điều gì làm cho thời đại này khác với những thời đại khác về mặt thay đổi văn hóa và khoảng cách giữa các thế hệ khiến cho việc đối thoại về những vấn đề này trở nên khó khăn như vậy?

Tôi nghĩ rằng khó khăn nằm ở điều mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi là "sự thay đổi của thời đại". Văn hóa luôn thay đổi liên tục, nhưng có những thời điểm trong lịch sử khi sự thay đổi thực sự của thời đại xảy ra. Đó là thời điểm đứt gãy, khi thời gian "thay đổi lớp da" và cần phải có sự thích nghi sâu sắc hơn về ngôn ngữ, quan điểm và tầm nhìn.

Tông hiến Veritatis Gaudium thừa nhận rằng "chúng ta vẫn thiếu nền văn hóa cần thiết để đối diện với cuộc khủng hoảng này; chúng ta thiếu sự lãnh đạo có khả năng mở ra những con đường mới". Đó là về việc học cách đề xuất vẻ đẹp của Chúa Kitô và của con người trong thế giới hậu hiện đại. Điều này đòi hỏi một lời tiên tri mới.

Làm thế nào chúng ta có thể cân bằng giữa việc chào đón những người bị tổn thương bởi ý thức hệ phái tính như người Samaritanô nhân hậu đã làm, với việc tuyên bố chân lý nhân học về việc tạo ra đàn ông và đàn bà như hình ảnh của Thiên Chúa và những gì tiếp theo từ lời khẳng định này?

Trong Chúa Giêsu không có mâu thuẫn giữa chân lý và lòng bác ái. Cùng một Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố Bài giảng trên núi và nói rằng ngoại tình bắt đầu từ trái tim, đã nâng đỡ người phụ nữ ngoại tình.

Khẳng định rằng giới tính là một thực tại cấu thành của con người và nó thấm nhuần vào cơ thể và tâm hồn không mâu thuẫn với sự công nhận rằng bản sắc theo nghĩa tâm lý có tính sinh học-tâm lý-xã hội và con người có nhiệm vụ tích hợp các yếu tố khác nhau: cơ thể, tâm lý, văn hóa…

Chúng ta có thể nói rằng tôi sinh ra là một người phụ nữ, nhưng đồng thời tôi phải trở thành một người phụ nữ. Quá trình này không hề đơn giản, và thậm chí còn không đơn giản như vậy ngày nay. Tôi tin rằng chúng ta phải nghiêm túc xem xét trải nghiệm của mỗi người.

Nhân chủng học Kitô giáo không phải là một chân lý lý thuyết mà chúng ta phải ném vào mọi người… Nếu chúng ta tin rằng chúng ta được tạo ra tốt đẹp [bởi Thiên Chúa], chúng ta biết rằng chân lý nằm trong mỗi chúng ta và chúng ta có thể nhận ra nó trong những khát khao của trái tim mình.

Có lẽ nhiệm vụ của người bạn đồng hành Kitô hữu là đồng hành với mọi người như Chúa Giêsu đã làm với các tông đồ [trên đường đến] Emmaus, giúp họ làm giàu ngữ pháp mà họ dùng để diễn giải câu chuyện của mình. Nếu chúng ta tin rằng “chân lý giải phóng chúng ta”, thì có lẽ điều chúng ta cần là rất nhiều sự kiên nhẫn và tình yêu để đồng hành với mọi người để họ ngày càng trở nên chân thực hơn.






Giáo dân nên có tiếng nói nhiều hơn trong việc chọn lựa giám mục của họ

Vì vai trò của các giám mục trong Giáo hội Công giáo rất quan trọng cho đời sống Giáo hội địa phương nên quá trình chọn lựa giám mục có tác động rất lớn trên giáo dân, nhưng hiện nay họ không có tiếng nói trong việc chọn lựa giám mục của mình.

Các nghị phụ của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị thừa nhận đây là một vấn đề và trong tài liệu cuối cùng, họ mong muốn “Dân Chúa có tiếng nhiều hơn trong việc chọn lựa giám mục”.

Hiện nay quy trình chọn giám mục tập trung tại Vatican, trao cho giáo hoàng quyền tối cao trong quy trình này.

Quy trình bắt đầu với việc các giám mục trong giáo phận lập danh sách các linh mục có thể là ứng viên cho chức giám mục. Danh sách được giao cho sứ thần, sứ thần lập danh sách terna, ba ứng viên cho một giáo phận còn trống. Ngài có thể đề cử một ứng viên khác nếu ngài muốn.

Sứ thần soạn một báo cáo cho từng ứng viên với các nguồn tài liệu ngài có, kể cả bảng câu hỏi bí mật ngài gởi cho các giáo sĩ và giáo dân được chọn, những người biết các ứng viên. Bảng câu hỏi này được sửa đổi trong các triều giáo hoàng khác nhau, được giữ bí mật cho đến khi lần đầu tiên tôi công bố trên tạp chí America năm 1984.

Thông thường, sứ thần cũng hỏi ý kiến các giám mục địa phương cũng như các viên chức của Hội đồng Giám mục và các giám mục quan trọng khác trong nước.

Sứ thần viết báo cáo giáo phận cần một giám mục mới. Sứ thần Pio Laghi, đại diện giáo hoàng tại Hoa Kỳ từ năm 1980 đến năm 1990 so sánh công việc này với công việc của một kiến trúc sư cố gắng tìm một bức tượng phù hợp với một hốc trong nhà thờ chính tòa.

Chẳng hạn nếu giáo phận bị ảnh hưởng bởi nạn lạm dụng tình dục, họ sẽ tìm người có uy tín trong việc giải quyết vấn đề này. Nếu giáo phận gặp khó khăn về tài chính, họ sẽ tìm người có kỹ năng tài chính. Nếu giáo phận bị chia rẽ, họ sẽ tìm người xây dựng hòa bình.

Mỗi giáo hoàng cũng có những tiêu chuẩn riêng của các ngài để tìm ứng viên. Trước Công đồng Vatican II, nhiều phản ảnh cho rằng các giám mục Hoa Kỳ giống các nhân viên ngân hàng và xây dựng hơn là mục tử. Đức Phaolô VI muốn có nhiều giám mục mục vụ hơn. Đức Gioan Phaolô II nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiệp nhất và lòng trung thành với giáo hoàng. Đức Phanxicô muốn có các giám mục gần gũi với người nghèo, “những mục tử có mùi chiên như đàn chiên của họ”

Danh sách terna và các báo cáo được gởi về Bộ Giám mục, Bộ xem xét và trình lên Ủy ban gồm các hồng y và giám mục phụ trách Bộ. Nếu Bộ không bằng lòng các ứng viên, Bộ sẽ xin sứ thần làm một danh sách khác. Cuối cùng, Ủy ban bỏ phiếu chọn ứng viên và đệ trình đề nghị của họ lên giáo hoàng, ngài sẽ chấp nhận hoặc bác bỏ đề xuất của họ.

Trong quá trình này, ý kiến đóng góp của giáo sĩ và giáo dân chiếm vị trí rất hạn chế, ngoại trừ những cá nhân được sứ thần gởi bảng câu hỏi.

Quá trình này cho phép tham khảo ý kiến giáo hội địa phương về nhu cầu của giáo phận và tính cách cần thiết nào cho một ứng viên giám mục, nhưng thường thường giáo dân muốn giám mục giống Chúa Kitô có thêm bằng Cao học của Đại học Harvard, nhưng người như thế này lại không có! Theo quy tắc hiện hành, không được thảo luận công khai về tên ứng viên, dù ủng hộ hay phản đối. Vatican cho rằng bất kỳ cuộc thảo luận công khai nào về các ứng viên đều sẽ gây chia rẽ và dẫn đến các phe phái ủng hộ và phản đối các ứng viên.

Vai trò trung ương của giáo hoàng trong việc lựa chọn giám mục là một hiện tượng hiện đại. Ở Giáo hội sơ khai, khi một giám mục qua đời, giáo dân tập trung tại nhà thờ chính tòa và bầu giám mục mới, có thể là một linh mục hoặc giáo dân. Cuối cùng, quyền bầu cử giới hạn ở giáo sĩ hoặc một phần của giáo sĩ, ví dụ tu nghị của nhà thờ chính tòa.

Nhưng điều này không nhất thiết loại bỏ giáo dân khỏi quá trình. Vào thế kỷ thứ năm, Giáo hoàng Lêô Cả cho rằng một giám mục nên được giáo sĩ bầu chọn, được giáo dân chấp nhận và được các giám mục của các giáo phận lân cận tấn phong.

Một điều đáng buồn, khi Giáo hội giàu có và quyền lực, các vua chúa và giới quý tộc can thiệp vào quá trình, họ đe dọa hoặc họ hối lộ. Vào thế kỷ 19, khi chế độ quân chủ sụp đổ, những người cải cách xem chức giáo hoàng là thể chế, họ bổ nhiệm các giám mục phục vụ lợi ích của Giáo hội thay vì mục đích chính trị của nhà nước.

Ngày nay, những người cải cách muốn Giáo hội quay về với thông lệ cổ xưa, giáo dân hoặc giáo sĩ bầu giám mục ở cấp địa phương. Dù điều này có thể có hiệu quả ở các quốc gia dân chủ tôn trọng sự độc lập của Giáo hội, nhưng lịch sử cảnh báo cho chúng ta biết, giới tinh hoa chính trị và những kẻ độc tài có thể sẽ can thiệp vào các cuộc bầu cử.

Việc bầu ông Donald Trump làm Tổng thống Hoa Kỳ nên làm cho những người theo chủ nghĩa tiến bộ phải dừng lại trước khi họ dân chủ hóa Giáo hội. Dân chủ không phải là bất khả xâm phạm.

Thượng Hội đồng về tính đồng nghị mời gọi chúng ta đối thoại để mọi người có tiếng nói nhiều hơn trong việc lựa chọn giám mục. Đối thoại này nên được thực hiện theo cách thức công nghị, chúng ta lắng nghe mọi tiếng nói để xác định Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt chúng ta đến đâu ngày nay.

Các cơ quan tư vấn giáo phận (hội đồng linh mục, hội đồng mục vụ, cộng đồng) nên được trao vai trò vì họ đại diện cho giáo dân và linh mục. Họ có thể đề cử ứng viên hoặc bỏ phiếu tư vấn về terna do sứ thần chuẩn bị không? Sự tham gia đó nên công khai hay bảo mật?

Giáo hội Công giáo cũng có thể học hỏi từ các giáo hội khác cách dùng các phương pháp khác nhau để lựa chọn các nhà lãnh đạo của họ.

Tất cả các cuộc thảo luận này có thể dẫn đến việc phát triển một mô hình lựa chọn giám mục có thể được thử nghiệm trong nhiều tình huống khác nhau theo quyết định của sứ thần.

Lịch sử cho chúng ta thấy các giám mục đã được lựa chọn theo nhiều cách trong nhiều thế kỷ và mỗi cách đều có những vấn đề riêng. Không có cách hoàn hảo nào để chọn giám mục. Ngay cả Chúa Giêsu cũng bị lầm về một trong 12 tông đồ của Ngài.

Giáo hoàng Lêô đã khôn ngoan khi đề xuất hệ thống kiểm tra và cân bằng liên quan đến giáo sĩ, giáo dân và Hội đồng Giám mục. Đã đến lúc chúng ta cần thử nghiệm những cách mới để chọn giám mục, để “Dân Chúa có tiếng nói nhiều hơn trong việc chọn giám mục của mình”.





Xung đột phụng vụ tái diễn ở Tổng giáo phận Syro-Malabar của Ấn Độ đang gặp khó khăn

Lễ phong chức linh mục cho 8 phó tế bị trì hoãn trong tháng này tại Tổng giáo phận Ernakulam thuộc Giáo hội Syro-Malabar, gọi tắt là SMC tại Ấn Độ đã làm nổi bật sự chia rẽ đang tiếp diễn trong tổng giáo phận đang gặp khó khăn, nơi vẫn bị tê liệt bởi cuộc đấu tranh phụng vụ cay đắng nổ ra cách đây ba năm.

Lễ tấn phong — bị hoãn lại từ Giáng Sinh năm 2023 vì tranh chấp phụng vụ — diễn ra tại tiểu chủng viện của tổng giáo phận vào ngày 4 tháng 11, với hàng chục cảnh sát được điều động bên ngoài. Và trong khi hơn 200 linh mục của tổng giáo phận tham dự, phần lớn trong số họ đã tẩy chay Thánh lễ do Đức Cha Bosco Puthur, quản lý của tổng giáo phận, chủ trì vì phụng vụ mà ngài sử dụng.

Bên cạnh tranh chấp phụng vụ này, nhiều giáo sĩ và giáo dân địa phương đã tức giận hơn nữa về việc Đức Cha Puthur gần đây bổ nhiệm Cha Joshy Puthuva làm thủ quỹ của tổng giáo phận. Cha Puthuva có 15 vụ án hình sự đang chờ giải quyết bắt nguồn từ nhiệm kỳ trước của ngài với tư cách là viên chức tài chính của tổng giáo phận.

Giáo hội Syro-Malabar là một trong ba Giáo hội Ấn Độ hiệp thông trọn vẹn với Rôma, cùng với Giáo Hội Công Giáo La tinh địa phương và Giáo hội Syro-Malankara. Giáo hội này có khoảng 5 triệu thành viên, bao gồm hơn 600.000 thành viên tại Tổng giáo phận Ernakulam.

Vào tháng 8 năm 2021, Thượng hội đồng giám mục của SMC đã ra lệnh rằng các linh mục cử hành Thánh lễ phải quay về phía bàn thờ sau lời cầu nguyện dâng lễ, một quyết định đã gây ra tranh chấp về phụng vụ. Mặc dù các giáo phận SMC khác đã chấp nhận quyết định này, nhưng phần lớn trong số 460 linh mục của Tổng giáo phận Ernakulam đã từ chối tuân theo chỉ thị, thay vào đó, các ngài vẫn tiếp tục cử hành Thánh lễ như trong các nhà thờ Công Giáo Latinh, nghĩa là quay mặt về phía mọi người trong suốt thời gian diễn ra Thánh lễ, như đã được thực hiện trong tổng giáo phận kể từ Công đồng Vatican II.

Đức Cha Puthur được Vatican bổ nhiệm làm giám quản tông tòa của tổng giáo phận sau đơn từ chức nghỉ hưu vào tháng 12 năm 2023 của Đức Tổng Giám Mục Andrews Thazhath cùng với Đức Hồng Y George Alencherry, nhà lãnh đạo của Giáo hội Syro-Malabar, người đang phải đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ do tranh cãi về phụng vụ.

Mối bất hòa cay đắng dường như đã được giải quyết sau khi hội đồng đưa ra một công thức thỏa hiệp vào tháng 7, yêu cầu các giáo xứ trong tổng giáo phận phải cử hành ít nhất một Thánh lễ theo công đồng vào các ngày Chúa Nhật và những ngày bắt buộc khác nhưng cho phép các Thánh lễ khác tiếp tục với phụng vụ luôn hướng về mọi người. Việc truyền chức cho tám phó tế, vốn đã bị trì hoãn vì ban đầu họ từ chối ký vào bản tuyên bố rằng họ sẽ cử hành Thánh lễ theo quyết định công đồng Syro Malabar, đã được chấp thuận sau khi họ ký vào bản tuyên bố sau khi công thức mới được đưa vào.

Nhưng việc các linh mục tẩy chay Thánh lễ truyền chức cho thấy hòa bình phụng vụ vẫn chưa đạt được.

Lá thư gây ra nhiều tranh cãi hơn

Vào ngày 30 tháng 10, Đức Cha Puthur đã công bố một lá thư không khoan nhượng cảnh báo về hành động kỷ luật nếu Thánh lễ bắt buộc hàng tuần của Thượng hội đồng không được tổ chức như một Thánh lễ giáo xứ theo lịch trình thay vì chỉ là một sự bổ sung. Nó cũng cấm bất kỳ thông báo hoặc tuyên bố nào chống lại các quyết định chính thức của Giáo hội trong Thánh lễ, trong các cuộc họp cấp giáo xứ hoặc trên phương tiện truyền thông xã hội, cũng như cấm bất kỳ sự liên kết nào với các nhóm nổi loạn chống lại thẩm quyền của Giáo hội địa phương. Và nó khuyên rằng “sự trợ giúp của cảnh sát” sẽ được sử dụng để bảo đảm việc quản lý có trật tự trong tòa tổng giám mục.

Bức thư của Đức Cha được đưa ra sau những cuộc phản đối mạnh mẽ của cả giáo sĩ và giáo dân chống lại các cuộc bổ nhiệm mới của giáo xứ cho tổng đại diện, hiệu trưởng và giám đốc tài chính được công bố vào giữa tháng 10. Các cuộc phản đối chủ yếu tập trung vào việc bổ nhiệm Cha Puthuva, người đã bị cách chức giám đốc tài chính vào năm 2017 vì liên quan đến các giao dịch đất đai gây tranh cãi dưới thời Alencherry dẫn đến tổn thất tài chính đáng kể cho tổng giáo phận.

Cha Kuriakose Mundadan, thư ký hội đồng linh mục tổng giáo phận, nói với tờ Register: “Sự bình yên đang được xây dựng trong tổng giáo phận sau ngày 3 tháng 7 đã bị phá hỏng khi cha Puthuva được tái bổ nhiệm, người đã bị cách chức vào năm 2017 theo yêu cầu của hội đồng linh mục vì vai trò của ngài trong vụ bê bối đất đai.”

“Đây là một nỗ lực cố ý nhằm kích động các linh mục và giáo dân để đưa chúng tôi vào thế xấu. Chúng tôi sẽ tiếp tục phản đối những động thái bất công như vậy”, Cha Mundadan, người dẫn đầu một phái đoàn gồm một chục linh mục cao cấp đã gặp Đức Cha Puthur sau khi ngài không trả lời đơn thỉnh cầu của giáo sĩ yêu cầu hủy bỏ các cuộc bổ nhiệm mới vào tòa Giám Mục.

Cảnh sát túc trực tại dinh thự của tổng giám mục ban đầu đã từ chối cho phái đoàn gặp giám mục, nhưng sau khi trao đổi với ngài, họ đã nhượng bộ.

Theo Mundadan, cuộc họp ngày 28 tháng 10 đã không diễn ra tốt đẹp.

“Chúng tôi đã bị sốc khi ba viên chức cảnh sát ngồi trong phòng với chúng tôi khi chúng tôi nêu vấn đề nghiêm trọng về các bổ nhiệm mới của Tòa Giám Mục là không thể chấp nhận được và những lo ngại khác”, ông nói.

“Giám mục Bosco không đưa ra bất kỳ bình luận nào, và phản ứng của ngài là thông tư cứng rắn được ban hành hai ngày sau đó. Đó là lý do tại sao các linh mục quyết định không đọc thông tư này trong các giáo xứ.”

Biểu tình của giáo dân

Sự phản đối mạnh mẽ cũng được thể hiện trong số các giáo dân tụ tập tại Giáo xứ St. Joseph ở khu phố Vazhakkala của Kochi vào ngày 3 tháng 11 sau Thánh lễ Chúa Nhật lúc 6:30 sáng để chứng kiến cảnh công khai đốt lá thư của giám mục.

Trong khi nhiều kênh tin tức ghi lại cuộc biểu tình, hàng chục người, bao gồm cả phụ nữ lớn tuổi, đã tiến lên, đốt các bản sao của bức thư và bỏ chúng vào thùng rác đặt trước nhà thờ.

“Chúng tôi không phải là những kẻ nổi loạn. Chúng tôi muốn công lý được thực thi trong Giáo hội. Một linh mục ô uế không thể tham gia vào việc quản lý Giáo hội,” giáo dân Kuriakose Kalarickal, một người ủy thác của giáo xứ 640 gia đình cho đến khi ông hoàn thành nhiệm kỳ của mình cách đây hai tháng, nói với Register.

“Bạn có thấy ai ở đây phản đối không? Điều đó cho thấy tâm trạng của giáo xứ,” Kalarickal nói.

Tại Vương cung thánh đường St. Mary của tổng giáo phận, hai chục người Công Giáo khác cũng đã thực hiện một “cuộc đốt thông tư” tương tự vào cùng ngày, theo thời gian đã được thông báo trước với giới truyền thông.

Riju Kanjookaran, phát ngôn nhân của nhóm Almaya Munnetam đã kêu gọi đốt bức thư này, trả lời tờ Register vào ngày 7 tháng 11 rằng: “Tờ thông tư đã bị đốt tại hơn 200 giáo xứ, và thậm chí không có ai đọc nó tại 10 trong số hơn 320 giáo xứ trong tổng giáo phận”.

Kanjookaran nói thêm: “Sự đoàn kết của giáo dân với các cuộc biểu tình cho thấy sự tức giận của họ trước những gì đang xảy ra trong tổng giáo phận của chúng tôi”.

Bảo vệ giám mục

Cha Jacob Palackapilly, vị tổng đại diện mới của tổng giáo phận, đã phản bác lại những lời chỉ trích về việc bổ nhiệm giáo sĩ.

“Lãnh đạo Giáo hội đang hành động theo chỉ thị của Tòa thánh. Giám mục được tự do bổ nhiệm các thành viên Tòa Giám Mục,” ngài nói với Register.

“Cha Puthuva chưa từng bị kết án trong bất kỳ trường hợp nào. Chừng nào ngài chưa bị kết án, thì không thể có rào cản nào đối với việc bổ nhiệm ngài vào các vị trí trong Giáo hội”, Cha Palackapilly, cũng là phó tổng thư ký và phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Công Giáo Kerala, cho biết.

Khi được hỏi về phản ứng của ngài trước những lời đe dọa tẩy chay Tòa Giám Mục và thậm chí là giữ lại tiền quyên góp của giáo xứ, Cha Palackapilly trả lời: “Chúng tôi sẽ có hành động thích hợp để lập lại trật tự và giải quyết những thách thức”.

Cha Antony Vadakkekara, phát ngôn nhân của Giáo hội Syro-Malabar, cũng ủng hộ Đức Cha Puthur khi được hỏi về việc bổ nhiệm Puthuva.

Cha Vadakkekara cho biết: “Theo luật giáo luật, việc bổ nhiệm các viên chức là đặc quyền của giám mục và toàn thể giáo phận phải tuân theo chỉ thị của giám mục”.

Nghị sĩ George, chủ tịch Hiệp hội Công Giáo Nazrani, một nhóm ủng hộ lập trường của giáo sĩ về tranh chấp phụng vụ, nói với tờ Register rằng cần phải có hành động mạnh mẽ để kiểm soát các cuộc biểu tình.

“Lãnh đạo Giáo hội Syro-Malabar nên hành động cứng rắn để giải quyết cuộc nổi loạn ở Tổng giáo phận Ernakulam,” ông nói. “Nếu không, tình hình sẽ chỉ trở nên tồi tệ hơn.”

Left: Protesters burn a bishops’ circular in front of St. Mary’s Basilica, the cathedral of Ernakulam Archdiocese in India. 
Right: An elderly woman puts a burning circular into a bin in front of Vazhakkala, India, church. 



Liturgical conflict resurfaces in troubled Indian Syro-Malabar archdiocese


Bi Kịch và Tín Điều

Cha Benedict Kiely, trên The Catholic Thing, Thứ sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024, có bài viết tựa là “The Drama and the Dogma” (Bi kịch và Tín điều):

Gần đây, tôi thấy trên mạng xã hội một yêu cầu mọi người nói lý do tại sao họ là Ki-tô hữu trong năm chữ hoặc ít hơn. Tôi đã định diễn giải lại lý do Chesterton theo đạo Công Giáo và dùng mấy chữ: "Đó là sự thật". Sau đó, tôi nhớ đến tiểu thuyết gia và người trở lại Công Giáo Walker Percy, khi được hỏi tại sao ông trở lại Công Giáo, đã trả lời: "Còn gì khác nữa ở đó?"

Có tuyên bố sứ mệnh nào lớn hơn thế mà dường như mọi giáo xứ đều yêu cầu hay một bản thiết kế tốt hơn cho công cuộc truyền giáo không? Tất nhiên, chỉ có một tuyên bố sứ mệnh thực sự, đó là "Ủy mệnh vĩ đại" của Chúa Kitô trong Tin Mừng Thánh Mát-thêu. Khi bạn xem xét các lựa chọn thay thế được đưa ra cho con người thế kỷ 21 - tôn giáo xanh, cách mạng tình dục, chủ nghĩa hư vô hoặc quay trở lại Chủ nghĩa cộng sản, nghĩa là bất cứ hy vọng sai lầm nào vào một giải pháp chính trị cho nhu cầu của con người - "Còn gì khác nữa ở đó?" đều có thể diễn đạt tốt sự thật của đức tin Công Giáo.

Câu “còn gì khác nữa ở đó” của Công Giáo hàm ý một niềm tin mãnh liệt, không những vào tín điều mà, như Dorothy L. Sayers đã nói, vào cả “bi kịch” nữa. Trọng tâm của bi kịch là phụng vụ, các Mầu nhiệm Thần thiêng. Không có tín điều, sẽ không có bi kịch. Nên, như Chesterton mô tả, nền chính thống mạnh mẽ chính là nhiên liệu thắp sáng ngọn lửa.

Không đi sâu vào tranh luận, sau sáu mươi năm kể từ khi Công đồng khai mạc, chúng ta nên thành thật xem xét tác động của sự tục hóa đối với cả bi kịch và tín điều.

Trong một bài viết của ngài, Đức Bênêđictô XVI đã nhắc đến lời của nhà văn Eugène Ionesco, một trong những người sáng lập ra Nhà hát Phi lý. Viết vào năm 1975, Ionesco đã mô tả sự tục hóa mà ông trải qua trong Giáo hội là “thực sự đáng thương”. Ông nói thêm rằng trong khi “thế giới đang lạc lối, thì Giáo hội đang đánh mất chính mình trong thế giới”. Những lời nói từ gần năm mươi năm trước nghe có vẻ rất đương thời.

Đức Bênêđictô XVI đã đề xuất một giải pháp, trả lời Ionesco: Giáo hội đương thời cần "lòng can đảm để đón nhận những gì thánh thiêng", chứ không phải, điều mà ngài gọi là "tính hiếu sự [officiousness] tầm thường".

Phản ứng của phần lớn Giáo hội đối với đại dịch do virus Corona gây ra đã tiết lộ nhiều "tính hiếu sự tầm thường". Nó phơi bày những gì đã ẩn núp bên dưới bề mặt trong một thời gian, trong thế giới thánh thiêng và thế tục.

Tấm bảng có hình Chúa Kitô trao chìa khóa cho Thánh Phê-rô và Luật pháp cho Thánh Phao-lô của một nghệ sĩ người Đức vô danh, khoảng năm 1150–1200


Trong thế giới thế tục, Nhà nước luôn xâm lược đã mở rộng quyền kiểm soát của mình bằng các luật lệ hà khắc đối với mọi khía cạnh của cuộc sống trong những gì mà nhiều người ngây thơ tin là nền dân chủ tự do. Đáng buồn thay, trong Giáo hội, cũng có nhiều thứ có vẻ tầm thường và hời hợt. Ionesco mô tả thế giới khi đó, cũng như bây giờ, là "thay đổi liên tục", "không còn gì cho chúng ta; không có gì là vững chắc", nhưng "những gì chúng ta cần là một tảng đá".

Khi thế giới đang thay đổi, khi không có gì là vững chắc, Giáo hội phải là tảng đá, trình bày tín điều và bi kịch của Công Giáo cho những người tìm kiếm chân lý.

Trong một dịp khác, Walker Percy nhận xét rằng thế giới phương Tây "quá thối nát và nhàm chán" đến nỗi cuối cùng, những người trẻ tuổi "sẽ chán ngấy và tìm kiếm thứ gì đó khác". Những vùng ngoại vi thực sự trong xã hội thế tục hiện đại nằm ở những người tìm kiếm điều tốt, điều chân thực và điều đẹp đẽ. Sẽ vô ích khi cung cấp cháo khi cần thịt cứng, cũng như phủ nhận rằng có một vấn đề.

Trong cuốn sách The Next Pope của Edward Pentin, Đức Hồng Y Willem Eijk được trích dẫn (chúng ta có được phép nói "Tôi thích Eijk không"). Đức Hồng Y so sánh công việc của giám mục ngày nay giống như một nhà khí tượng học: "một giám mục có nhiều nhiệm vụ, nhưng giả vờ rằng thời tiết tốt đang đến không phải là một phần của nó". Ngài nói tiếp, "một mặt trận bão tố thực sự đang đến".

Tuy vậy, ngài tiếp tục nói rằng chúng ta không nên khuyến khích sự rút lui thụ động vào sự tối tăm, hoặc thừa nhận rằng sứ mệnh đã thất bại. Thay vào đó, điều ngược lại phải xảy ra; Giáo hội một lần nữa phải được đề nghị trong tất cả sự thật và vẻ đẹp của nó.

Một mặt trận bão tố thực sự có thể đang đến, chắc chắn là đối với phần lớn Tây Âu, và ngày càng tăng ở Hoa Kỳ. Nhưng lời tiên tri của Đức Hồng Y, nếu được đối đầu một cách thực tế và với sự sáng suốt và lòng nhiệt thành tông đồ, sẽ mang đến cho Giáo hội một khoảnh khắc hoàn hảo để thuyết phục thế giới rằng thực sự có câu trả lời cho câu hỏi "Còn gì khác nữa ở đó?"

Cần phải có sự lãnh đạo can đảm, chính thống, tầm nhìn và sự sáng tạo đích thực, không phải là thứ gì đó, thật không may, đang được trưng bày rộng rãi ngay bây giờ tại các cuộc tụ họp đông đảo của những người kế vị các tông đồ.

Hiển nhiên không phải chỉ có hàng giáo sĩ. Chúng ta đã thấy nhiều sự sáng tạo, chính thống và tầm nhìn từ giáo dân tín hữu: trong các phương tiện truyền thông, học thuật và nhiều lĩnh vực khác.

Có thời điểm nào tốt hơn không, khi thế giới đang thay đổi – với những đám mây chiến tranh bao phủ khắp nơi, các chính phủ đưa ra luật an tử, và những câu hỏi cơ bản về cái chết và vị trí của nhân loại trên trái đất này, bị đại dịch làm trầm trọng thêm – để Giáo hội công bố Tin Mừng về sự sống, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, và hy vọng thực sự mà Tin Mừng mang lại?

Đây là thời điểm để cung cấp trợ giúp và vẻ đẹp, trải nghiệm về sự siêu việt, về sự thờ phượng đích thực, để các giáo xứ trở thành trường học cầu nguyện, như Đức Giáo Hoàng Bênêđictô đã khuyến khích. Thay vì khóa chặt cửa theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, đây là lúc mở toang chúng ra để tiết lộ điều thánh thiêng, với cả tín điều lẫn bi kịch làm nền tảng cho một xã hội đổi mới.

Lòng can đảm để đón nhận điều thánh thiêng bao gồm việc trình bày cho những người "phát ngán" với những gì thế giới phải cung cấp, không phải, như Đức Bênêđictô XVI đã viết, "sự xác nhận" của thế giới, mà là "chủ nghĩa cấp tiến của Tin Mừng".

Thế giới, hoặc ít nhất là phương Tây, có thể "đã là một đống đổ nát", như Whittaker Chambers đã từng nhận xét với William F. Buckley Jr. Nhưng ít nhất chúng ta, những người tin Chúa, có thể là những con người, Chambers nói, "vào lúc màn đêm buông xuống, đã dùng suy nghĩ yêu thương để bảo tồn những dấu hiệu của hy vọng và sự thật".



Nhà thờ lắp đặt phòng xưng tội AI

Nhà nguyện Peter ở Lucerne, Thụy Sĩ, thử nghiệm áp dụng AI để trò chuyện với những người đến xưng tội.

image.png

Hình ảnh Chúa Jesus được tạo ra bởi AI. 


Nhà nguyện Peter - nhà thờ lâu đời nhất ở thành phố Lucerne - gây nhiều chú ý khi thiết lập một phòng xưng tội áp dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI). Một bức tượng Chúa Jesus được tạo ra bằng AI, có thể nói chuyện bằng 100 ngôn ngữ, sẵn sàng lắng nghe và phản hồi chia sẻ của những người đến xưng tội.

"Đây thực ra là một thử nghiệm. Chúng tôi muốn xem mọi người phản ứng với một vị chúa AI thế nào. Họ sẽ nói chuyện về điều gì? Liệu có hứng thú khi nói chuyện không? Chúng tôi có lẽ là những người tiên phong trong lĩnh vực này", Marco Schmid, một nhà thần học của nhà thờ, cho biết.

Hệ thống AI này được gọi là Deus in Machina, ra mắt hồi tháng 8. Đây là kết quả hợp tác sau nhiều năm giữa nhà thờ và phòng nghiên cứu của trường đại học địa phương. Sau các dự án thử nghiệm với thực tế ảo và thực tế tăng cường, nhà thờ quyết định bước tiếp theo là chọn ra một nhân vật đại diện cho AI.

"Chúng tôi đã thảo luận về việc hình đại diện đó sẽ là loại hình nào, một nhà thần học, một con người hay một vị thánh? Chúng tôi nhận ra rằng hình tượng phù hợp nhất chính là Chúa Jesus", Schmid nói thêm

Nhà thờ lắp đặt một hệ thống máy tính trong buồng xưng tội, hiện thị hình ảnh của Chúa Jesus thay vì sắp đặt linh mục để tiếp chuyện người dân như thông thường. Du khách được mời đặt câu hỏi cho AI và nhận được câu trả lời ngay sau đó, hoàn toàn tự động.

Hơn 1.000 người đã tham gia trải nghiệm xưng tội với AI tại nhà nguyện Peter ở Lucerne, Thụy Sĩ. 


Mọi người được khuyên không tiết lộ bất kỳ thông tin cá nhân nào và xác nhận họ chấp nhận rủi ro khi tương tác với AI. Trong suốt hơn hai tháng thử nghiệm, hơn 1.000 người bao gồm cả các khách du lịch tới từ châu Á đã trải nghiệm xưng tội với AI.

"Phản hồi từ hơn 230 người dùng cho thấy 2/3 trong số họ cho rằng đây là một trải nghiệm tâm linh. Chúng ta có thể nói rằng họ đã có một khoảnh khắc tích cực về mặt tôn giáo với cha xưng tội AI này. Đối với tôi, điều đó thật đáng ngạc nhiên.

Những người khác thì tiêu cực hơn, một số người nói họ không thể trò chuyện với máy móc. Một phóng viên địa phương từng thử thiết bị này đã mô tả các câu trả lời đôi khi 'lặp đi lặp lại và toát lên sự khôn ngoan sáo rỗng', nhà thần học Marco Schmid cho hay.

Theo Schmid, thử nghiệm này cũng phải đối mặt với sự chỉ trích từ một số người trong cộng đồng nhà thờ. Các đồng đạo Công giáo phản đối việc sử dụng phòng xưng tội AI trong khi những người theo đạo Tin lành không hài lòng với việc sử dụng hình ảnh Chúa Jesus theo cách này.


Chuyện có thật: Vatican mắc nợ Lucifer

image.png

Roberto Lucifero.

John L. Allen Jr. của Crux, ngày 23 tháng 11 năm 2024, thuật lại câu chuyện hi hữu có thật về nhân vật Lucifer đã cứu Tòa Thánh và nước Ý qua một khủng hoảng thương thảo. John Allen kể như sau:

Đầu tháng này, một video do AI tạo ra đã lan truyền với nội dung được cho là cảnh các nhà lãnh đạo Vatican tụ tập quanh một bàn thờ và thờ lạy Satan. Mặc dù điều đó rõ ràng là sai sự thật, nhưng vẫn có sự kiện lịch sử là việc Vatican thực sự mắc nợ Lucifer vì đã duy trì một thỏa thuận với Ý, thỏa thuận này là cốt lõi của cả chủ quyền và sự giàu có của Vatican cho đến ngày nay.

Sau khi Thế chiến II kết thúc, Ý đã phải đưa ra một số quyết định lớn. Đầu tiên, vào tháng 6 năm 1946, là sự lựa chọn giữa việc duy trì chế độ quân chủ dưới triều đại Savoia hoặc trở thành một nước cộng hòa dân chủ. Phe Cộng hòa đã giành chiến thắng và một hội đồng lập hiến đã bắt đầu soạn thảo một hiến pháp mới, làm cơ sở cho các cuộc bầu cử dân chủ vào năm 1948.

Một vấn đề gây tranh cãi trong các cuộc đàm phán về hiến pháp, tất nhiên, là mối quan hệ giữa nền cộng hòa mới và Vatican.

Theo quan điểm của Vatican, vấn đề này đã được giải quyết vĩnh viễn theo Hiệp ước Lateran năm 1929, trong đó Vatican công nhận nhà nước Ý mới và đổi lại, Ý công nhận chủ quyền của Vatican và thực hiện khoản thanh toán một lần hơn 1 tỷ đô la theo giá trị hiện nay để bồi thường cho sự mất mát của các Nhà nước Giáo hoàng. Mặc dù thực tế là thỏa thuận đã được ký kết với chế độ phát xít của Mussolini, Vatican vẫn coi đó là một hiệp ước quốc tế ràng buộc về mặt pháp lý mà không bên nào có thể đơn phương thay đổi.

Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo, là đảng lớn nhất trong hội đồng, ủng hộ lập trường của Vatican, nhưng lúc đầu, cả Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản đều phản đối, những đảng này cùng nhau chiếm 40 phần trăm hội đồng, gần như đủ để ngăn chặn việc phê duyệt nếu họ có thể giành được một vài phiếu bầu khác. Họ muốn thay vào đó, mối quan hệ giữa nhà thờ và nhà nước được điều chỉnh bằng một hiệp ước mới, có thể mang lại cho chính phủ cơ hội để đạt được một thỏa thuận tốt hơn.

Đúng lúc những khác biệt giữa hai phe dường như không thể vượt qua, một thành viên của hội đồng từ một đảng thiểu số, đảng vẫn có thiện cảm với chế độ quân chủ, đã tiến tới đưa ra một thỏa hiệp: Hiến pháp thực sự có thể công nhận Hiệp ước Lateran là cơ sở cho mối quan hệ giữa nhà thờ và nhà nước, nhưng cũng có thể thêm vào điều khoản cảnh cáo rằng những thay đổi trong tương lai mà cả hai bên đồng ý sẽ không yêu cầu phải sửa đổi hiến pháp. Theo cách đó, Vatican đã đạt được điều mình muốn, nhưng đồng thời cánh cửa vẫn mở ra cho các cuộc đàm phán lại trong tương lai.

Với điều khoản đó, Đảng Cộng sản Ý đã từ bỏ sự phản đối và Điều 7 của hiến pháp đã được thông qua: “Nhà nước và Giáo Hội Công Giáo độc lập và có chủ quyền, mỗi bên trong phạm vi của riêng mình. Mối quan hệ của họ được điều chỉnh bởi Hiệp ước Lateran. Các sửa đổi đối với các Hiệp ước như vậy được cả hai bên chấp nhận sẽ không yêu cầu thủ tục sửa đổi hiến pháp”.

Ai là nhà lập pháp đã làm trung gian cho thỏa hiệp này? Tên ông là Roberto Lucifero. Đúng vậy, thưa quý ông và quý bà: Lucifer thực sự đã cứu vãn mối quan hệ giữa nhà thờ và nhà nước ở Ý!

Để nói rõ hơn, Robert Lucifero không phải là một người theo chủ nghĩa vô chính phủ tôn thờ Satan. Là một luật sư được đào tạo, ông đã từng là thành viên của Hạ viện dưới thời Vương quốc Ý và là một người bảo thủ mạnh mẽ. Trong chiến tranh, ông đã tham gia một bộ phận quân chủ của lực lượng kháng chiến du kích chống lại phát xít và sự chiếm đóng của Đức. Năm 1944, ông bị SS bắt và đưa đến nhà tù Regino Coeli của Rome, nơi ông được quân đội Hoa Kỳ giải thoát. Sau đó, ông trở thành một nhà báo và nhà lập pháp lỗi lạc, cuối cùng gia nhập Đảng Quân chủ Quốc gia.

Theo lịch sử, gia tộc Lucifer ở Ý là một gia đình quý tộc lỗi lạc có nguồn gốc từ vùng Calabria ở miền nam nước Ý, có nguồn gốc từ thời cổ đại. Trong nhiều thế kỷ, đã có những Lucifer trong chính trị (bao gồm mười thị trưởng của thành phố quê hương Crotone ở Calabria), cũng như những người lính, nghệ sĩ, trí thức, nhà lãnh đạo trong kinh doanh và, tất yếu đối với một gia đình người Ý, một số lượng lớn các linh mục và giám mục.

Cho đến ngày nay, nếu bạn đến thăm Crotone, bạn sẽ thấy huy hiệu giám mục của Giám mục Antonio Lucifero, người đã lãnh đạo nhà thờ ở đó từ năm 1508 đến khi qua đời vào năm 1521, phía trên lối vào dinh thự của giám mục. (Lucifero đã trả tiền để mở rộng nhà thờ và dinh thự.) Nếu bạn đến Nhà thờ St. Joseph của thành phố, bạn sẽ thấy "Nhà nguyện Lucifer", được đặt theo tên của một thành viên khác trong gia đình, người bảo trợ cho giáo xứ.

Về nguồn gốc, họ của gia đình có lẽ bắt nguồn từ nền văn hóa tiền Kitô giáo khi "Lucifer" (theo nghĩa đen trong tiếng Latin là "người mang ánh sáng") gắn liền với hành tinh Venus, còn được gọi là "sao mai" vì nó có thể nhìn thấy vào lúc bình minh. Với tư cách đó, người La Mã có một vị thần nhỏ tên là "Lucifer" được xác định với ngôi sao buổi sáng. Bởi vì cùng một hành tinh cũng có thể nhìn thấy vào buổi tối, người La Mã cũng gọi nó là Vespero, cung cấp gốc gác cho thuật ngữ “vespers” dành cho buổi cầu nguyện buổi tối.

Thậm chí còn có một Thánh Lucifer, một giám mục thế kỷ thứ tư ở Cagliari, trên đảo Sardinia, người đã bảo vệ sự chính thống chống lại tà giáo Arian. Mặc dù không có lý do gì để nghĩ rằng ông xuất thân từ cùng một gia đình, nhưng vẫn đáng lưu ý điều này: cho đến ngày nay, người ta vẫn có thể tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Lucifer ở Cagliari, nằm trên đường St. Lucifer.

Lucifer không trở thành tên gọi của quỷ dữ cho đến khi phiên bản Kinh thánh Phổ thông bằng tiếng Latinh vào thế kỷ thứ tư, vào thời điểm đó, Lucifer là một họ đã được sử dụng phổ biến ở Ý, mà không nhất thiết mang ý nghĩa tiêu cực. Vào những năm 1950, đã có một thương hiệu bút chì có tên là “Lucifer” được công ty Lyra Italia tiếp thị cho trẻ em học đường Ý, một phần của toàn bộ loạt bút viết được đặt theo tên của nhiều nhân vật chiêm tinh khác nhau.

Tuy nhiên, không thể không có vẻ mỉa mai rằng chính Lucifer – mặc dù là “một” Lucifer, không phải “the” Lucifer – đã can thiệp vào thời điểm quan trọng để bảo vệ lợi ích của giáo hội tại quốc gia nơi đặt trụ sở chính của giáo hội.

Chắc chắn là hầu hết mọi người sẽ coi đây chỉ là một giai thoại lịch sử thú vị. Một số ít người hoài nghi có thể bị cám dỗ coi đây là sự xác nhận mang tính vũ trụ rằng khi giáo hội tìm kiếm lợi ích định chế của riêng mình, bao gồm cả sự giàu có và quyền lực, thì họ đang thực hiện một thỏa thuận với quỷ dữ.

Dù trường hợp nào đi nữa, thì hồ sơ cũng rõ ràng: Về mặt lịch sử, Vatican nợ Lucifer một điều.

Các linh mục Công giáo phải đối mặt với áp lực theo luật tôn giáo mới ở Belarus
Theo luật tôn giáo mới của Belarus, các giáo xứ phải nộp đơn xin lại tư cách pháp lý và hạn chế hoạt động giáo dục và truyền giáo của các nhà thờ. Các linh mục có thể bị bắt và giáo xứ của họ bị tước tư cách pháp lý, nếu họ đăng hoặc chia sẻ bất cứ điều gì bị coi là cực đoan. Do đó, các Giám mục yêu cầu các giáo sĩ ngừng hoạt động trên mạng xã hội.

image.png

Một nhóm tín hữu Belarus tại buổi tiếp kiến chung với ĐTC Phanxico

Theo luật Tự do Tín ngưỡng và Tổ chức Tôn giáo mới, được tổng thống Lukashenko ký vào tháng 12/2023, hoạt động giáo dục và truyền giáo của các Giáo hội bị hạn chế, trong khi tất cả các giáo xứ phải đăng ký lại trước tháng 7/2025 hoặc phải đối mặt với việc giải thể.

Bà Natallia Vasilevich, điều phối viên của tổ chức đại kết “Christian Vision” cho biết các cơ quan giám sát chính thức đã kiểm tra hồ sơ phương tiện truyền thông xã hội như một phần của cuộc thanh trừng phương tiện truyền thông độc lập, thường lưu giữ ảnh chụp màn hình, buộc nhiều linh mục phải đóng tài khoản của họ thay vì dành thời gian chỉnh sửa chúng.

Bà cũng cho biết các linh mục cũng bị ngăn cản thảo luận về các vấn đề với giáo dân vì biết rằng tin nhắn điện thoại riêng tư của họ có thể bị cảnh sát kiểm tra.

Belarus đã bị tổ chức “Open Doors” đưa vào Danh sách theo dõi thế giới năm 2024; đây là lần thứ hai kể từ năm 2023.

Theo tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ, “Hầu hết các quyền con người, bao gồm cả quyền tự do tôn giáo, đều bị đe dọa do bản chất độc đoán của chính phủ Belarus”.

Hai linh mục đang phải đối mặt với cáo buộc phân phối “tài liệu cực đoan” theo Điều 19:11 của Bộ luật vi phạm hành chính của Belarus.

Cha Yuri Barauniou, cha sở giáo xứ Thánh Tâm Chúa Giêsu tại Krulevshchina, gần Vitebsk, đã bị giam giữ trong 10 ngày vào tháng 10 vì cáo buộc “tàng trữ và phân phối các tài liệu cực đoan”, trong khi Cha Andrei Keulich, người đứng đầu giáo hạt Mogilev, cũng bị giam giữ một ngày sau đó với cùng cáo buộc.

Báo cáo của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết 36 giáo sĩ Công giáo nghi lễ Latinh và nghi lễ Đông phương đã “phải chịu ... sự đàn áp vì lý do chính trị” kể từ năm 2020, cùng với 21 giáo sĩ Chính thống giáo và 29 mục sư Tin Lành.


Đời sống đạo của các Kitô hữu ở Triều Tiên giống thời đế quốc Roma

Trong cuộc phỏng vấn với Vatican News, được công bố ngày 28/11, cha Philippe Blot, thành viên Hội Thừa sai Paris, hoạt động mục vụ ở Hàn Quốc từ 34 năm qua cho biết, các Kitô hữu ở Triều Tiên sống đạo âm thầm, không dám công khai, bị bách hại giống các tín hữu thời đế quốc Roma.

image.png

Theo cha Philippe Blot, khi đất nước bị phân chia vào năm 1953, Triều Tiên sát hại tất cả linh mục và tu sĩ, trong đó có khoảng 10 tu sĩ dòng Biển Đức, người Đức và Hàn Quốc. Vào thời điểm đó, Bắc Hàn có nhiều Kitô hữu hơn Nam Hàn, nhưng tất cả đều bị cấm thực hành đạo, các tôn giáo khác cũng bị như vậy. Trong những năm qua, do áp lực kinh tế từ quốc tế, họ đã mở cửa một chút, bề ngoài dường như có vẻ tự do nhưng thực ra không phải vậy.

Như nguồn tin về việc xây một ngôi thánh đường ở Bình Nhưỡng và thành lập một hiệp hội người Công giáo ở Triều Tiên, tất cả chỉ là giả dối. Trong thời gian ở Triều Tiên, cha Philippe Blot yêu cầu được dâng Thánh lễ ở nhà thờ Bình Nhưỡng nhưng luôn bị từ chối. Buổi cử hành phụng vụ ở đó không có linh mục, mọi người tham dự đều mặc trang phục truyền thống, hát rất hay nhưng như một cuộc biểu diễn. Họ được trả tiền hoặc bị ép tham dự cuộc họp mặt. Có phần trao Mình Chúa, nhưng không ai biết bánh đã được truyền phép hay chưa. Tất cả đều giả.

Do những bất công, nghèo đói và bách hại đang diễn ra, họ sợ các linh mục, vì các linh mục lên tiếng bảo vệ người nghèo và công nhân. Ở quốc gia này, không có tự do. Họ biết Kitô giáo, và trên hết là Chúa Giêsu, ủng hộ tự do. Trong suy nghĩ của họ, Kitô giáo đại diện cho một hình thức chống quyền lực. Họ biết Kitô hữu có thể chịu đựng rất mạnh mẽ khi bị bách hại. Kitô hữu đích thực không bao giờ chối bỏ đức tin, và điều này là không thể chấp nhận được với Kim Jong-Un, người luôn cho mình ở trên Chúa. Các Kitô hữu, nếu chọn Chúa, sẽ bị đưa đến các trại, hoặc bị giết ngay tại chỗ. Cuộc bách hại rất khắc nghiệt.

Cha cho biết thêm, trước đại dịch Covid-19, một thoả thuận giữa Trung Quốc và Triều Tiên cho phép một số người sống gần biên giới được qua lại thăm người thân hai hoặc ba lần một tháng. Trong lúc ở Trung Quốc một số biết Chúa và được rửa tội. Nhưng khi về Triều Tiên họ không được phép thực hành đạo, đặc biệt họ không được phép mang Kinh Thánh về vì sẽ nguy hiểm đến tính mạng nếu bị phát hiện.

Mọi người không được công khai bày tỏ niềm tin của mình. Từ khi lên hai, ba tuổi, các trẻ em đã được dạy không nói lớn tiếng khi ra ngoài đường, ở lớp học không nói những chuyện ở nhà. Ở đất nước này, mọi người dễ dàng tố cáo nhau. Nếu bị phát hiện cầu nguyện sẽ bị bắt ngay. Luật im lặng ngự trị trong gia đình.

Trước thực trạng này, cha cho biết các tín hữu ở đây sống đạo âm thầm như các Kitô hữu thời đế quốc Roma, trong các hang toại đạo. Tất nhiên, không có giáo sĩ, không có Kinh Thánh, không có người hướng dẫn cầu nguyện. Tìm cách để không bị phát hiện khi cầu nguyện chung, nhưng nếu bị phát hiện họ rất can đảm, không chối bỏ Chúa và kiên trung cầu nguyện.



⛪⛪⛪⛪⛪



Luật sư Ribqa Nevash được vinh danh vì can đảm bảo vệ các Kitô hữu Pakistan bị bách hại

Cô Ribqa Nevash, luật sư trẻ người Pakistan vừa được Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ vinh danh vì can đảm lên tiếng bảo vệ các Kitô hữu bị bách hại.
image.png

Vào ngày 20/11/2024, tại Nhà thờ Brompton ở Anh, trong Thánh lễ Thứ Tư Đỏ - cầu nguyện và thể hiện tình liên đới với các Kitô hữu bị bách hại vì đức tin trên thế giới - Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ đã trao Giải thưởng Kitô hữu Can đảm cho cô Ribqa Nevash.

Cô Nevash được biết đến với vai trò là người đấu tranh mạnh mẽ cho quyền lợi của phụ nữ và trẻ nữ Kitô hữu ở Pakistan. Cụ thể luật sư nêu bật hoàn cảnh khốn khổ của những phụ nữ và trẻ nữ bị bắt cóc, ép cải sang đạo Hồi và kết hôn với người bắt cóc. 

Qua các cuộc phỏng vấn, bài viết và họp báo, cô đã đưa ra ánh sáng câu chuyện của những người sống sót sau cuộc bách hại tôn giáo, bao gồm hậu quả của các cuộc bạo loạn chống các Kitô hữu ở Jaranwala, tỉnh Punjab, vào tháng 8/2023.

Bày tỏ lòng biết ơn đối với Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ về sự công nhận này, Nevash xúc động nói: “Tôi cảm thấy rất vinh dự và biết ơn khi được trao giải giải thưởng và cam kết sẽ tiếp tục dấn thân cho hoạt động này”. 

Nữ luật sư quả quyết: “Tôi sẽ làm mọi sự có thể để giúp các anh chị em đang đau khổ của tôi”. Và nói thêm rằng cảm thấy “hơn bao giờ hết có động lực nhiều để lên tiếng” cho các Kitô hữu bị bách hại, khuyến khích họ “giữ vững đức tin mặc dù phải đối diện với nhiều khó khăn và đấu tranh hàng ngày”.

Bày tỏ lòng biết ơn Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ vì sự hỗ trợ cho các Kitô hữu, cô nói: "Tôi thực sự trân trọng tất cả những gì Tổ chức làm cho các Kitô hữu ở Pakistan. Cám ơn quý vị rất nhiều vì mọi sự”.

Được thành lập vào năm 2023, Giải thưởng Kitô hữu Can đảm vinh danh những người thể hiện lòng can đảm và dấn thân đặc biệt cho đức tin của mình. Người đầu tiên nhận giải là Margaret Attah, một người sống sót sau vụ tấn công chết người của phiến quân thánh chiến vào một nhà thờ Công giáo ở phía tây nam Nigeria.

Tiến sĩ Caroline Hull, giám đốc quốc gia của Tổ chức các Giáo hội Đau khổ ở Vương quốc Anh, ca ngợi lòng dũng cảm và khả năng phục hồi của cô Nevash: "Chúng tôi rất vui mừng được trao Giải thưởng cho cô Nevash, để ghi nhận sức mạnh, lòng dũng cảm và quyết tâm phi thường của luật sư trong việc ủng hộ Giáo hội đang đau khổ ở Pakistan”.

Tiến sĩ Hull nói thêm: “Luật sư thực sự là một phụ nữ trẻ đáng chú ý, luôn kiên trung với đức tin của mình trước sự phân biệt đối xử và những khó khăn mà cô ấy đã trải qua khi lớn lên với tư cách là một cô gái Công giáo ở Pakistan”.

Là một Kitô hữu ở Pakistan, Nevash đã phải đối diện với những thách đố lớn. Không chỉ bị áp lực khi là sinh viên Kitô giáo duy nhất trong lớp tại Đại học Faisalabad, cô còn bị sự phân biệt đối xử trong các cuộc phỏng vấn xin việc chỉ vì là Kitô hữu.

Khen ngợi những nỗ lực không biết mệt mỏi của Nevash, tiến sĩ Hull nói: “Đức tin và lòng nhiệt thành của Nevash là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng ta. Luật sư này làm việc rất chăm chỉ và đã làm được rất nhiều, mặc dù còn trẻ, để giúp nâng cao nhận thức về nhiều bất công mà Giáo hội ở Pakistan phải đối diện”.

Tiến sĩ Hull bày tỏ sự lạc quan về những nỗ lực trong tương lai của Nevash, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ủng hộ hành trình của cô và lan truyền tiếng nói của cô nhằm ủng hộ các Kitô hữu đang phải chịu đau khổ trong im lặng vì đức tin của họ.


Thời gian, Hy vọng và Mọi Linh hồn




Stephen P. White, thuộc Trung tâm Đạo Đức và Chính sách Công (EPPC), Thứ bảy, ngày 2 tháng 11 năm 2024 nhận định rằng Thiên Chúa, mà tình yêu của Người là vô hạn, yêu một số lượng người hữu hạn. Người có thể yêu tất cả mọi người, nhưng con số đó vẫn hữu hạn.

Tôi đọc ở đâu đó rằng tổng số người đã từng sống ước tính ở đâu đó trên 100 tỷ. Nghĩa là rất nhiều người. Cách người ta ước tính một con số như vậy có phần mơ hồ đối với tôi, nhưng nếu chúng ta coi con số đó là chính xác hợp lý, thì điều đó có nghĩa là khoảng bảy hoặc tám phần trăm những người đã từng sống vẫn còn sống ngày nay.

Cách nào đó, điều trên khiến tôi cảm thấy hơi ngỡ ngàng - giống như cảm giác mà người ta có được lần đầu tiên nhận ra rằng những năm tháng mình đã sống có lẽ nhiều hơn, hoặc ít nhất là cân bằng, những năm tháng còn lại để sống. Không phải là những điều như vậy thực sự là của chúng ta - không phải ngày hay giờ - nhưng việc lái xe đi khắp nơi với một bình xăng đầy sẽ bớt lo lắng hơn. Điều đó mang lại cho người ta sự bình yên tuyệt vời.

Thiên Chúa đã hứa với Ápraham, “Ta sẽ ban phước cho ngươi và làm cho dòng dõi ngươi đông như sao trên trời và cát dưới biển.” Tôi đã kiểm tra (đọc: Tôi đã Google) và rõ ràng là có nhiều hạt cát hơn nhiều so với số người đã từng sống, theo nhiều cấp độ. Và số lượng các vì sao trên bầu trời làm lu mờ số lượng hạt cát. Trong bối cảnh này, 100 tỷ dường như là một con số khiêm tốn.

Không cho rằng Chúa có ý định được coi là chính xác kiểu toán học, có lẽ sẽ có nhiều người hơn nữa trong chúng ta sẽ đến. Có lẽ, một ngày nào đó, nhiều thiên niên kỷ sau, con người sẽ nhìn lại thời đại của chúng ta và tự hỏi cuộc sống sẽ như thế nào khi loài người còn rất nhỏ và rất trẻ. Và có lẽ họ, những người đàn ông tương lai này, sẽ thắc mắc khi nào Chúa cuối cùng sẽ trở lại trong vinh quang. Họ sẽ nghĩ, chắc chắn phải sớm thôi? Hay họ sẽ nghĩ, chắc chắn là không phải trong một thời gian dài?

Cuộc sống của chính chúng ta gần như ngắn ngủi một cách buồn cười. “Bảy mươi là tổng số năm của chúng ta, hoặc tám mươi, nếu chúng ta mạnh mẽ,” Thánh vịnh gia từng viết như thế, và nói thêm, “Hầu hết trong số chúng là công việc khó nhọc và đau buồn; chúng trôi qua nhanh chóng, và chúng ta đã biến mất.” Thời gian ngắn ngủi mà chúng ta có là một hồng phúc. Điều này đúng theo nhiều nghĩa: theo nghĩa cuộc sống là một hồng phúc; theo nghĩa thời gian của chúng ta trên trái đất bị giới hạn là một hồng phúc; và thậm chí theo nghĩa chúng ta trải nghiệm thời gian là một hồng phúc.

Điều trên có vẻ xa vời, nhưng hãy kiên nhẫn với tôi.

Vào cuối câu chuyện Kinh thánh về Sự sa ngã, có một cuộc trò chuyện rất kỳ lạ mà Thiên Chúa đã có với chính Người, một câu chuyện dễ bị bỏ qua. “Bấy giờ, Chúa là Thiên Chúa phán rằng: Kìa! Con người đã trở nên giống như một trong chúng ta, biết điều thiện và điều ác! Bây giờ, nếu nó cũng đưa tay ra hái trái cây sự sống, ăn và sống mãi mãi thì sao?” Chúa trục xuất Ađam và Evà khỏi Vườn Địa đàng như một hình phạt cho sự bất tuân của họ. Cho đến lúc này, thì vẫn tốt thôi.


Nhưng hình phạt cũng là một hành động thương xót, như chúng ta được nhắc nhở trong Thánh lễ vào các Chúa Nhật Mùa Thường Niên (Kinh Tiền tụng 3):

Vì chúng con biết rằng điều đó thuộc về vinh quang vô biên của Chúa,
Rằng Chúa đã đến giúp đỡ những người phàm bằng thần tính của Chúa
Và thậm chí còn tạo ra cho chúng con một phương thuốc từ chính sự chết.
Để nguyên nhân khiến chúng con sa ngã,
Có thể trở thành phương tiện cứu rỗi chúng con,
Qua Chúa Kitô, Chúa chúng con.


Sự sống là tốt đẹp; một hồng phúc. Nhưng sẽ thật khốn khổ khi bị mắc kẹt trong trạng thái sa ngã này mãi mãi. Sự bất tử trong cuộc sống này sẽ không phải là một phước lành mà là một lời nguyền.

Như tôi đã nói, bản thân thời gian là một hồng phúc. Không chỉ là sự phân bổ riêng biệt về giờ và ngày mà chúng ta có trước khi chết, mà còn là hiện tượng trôi qua trong sự tồn tại mà tất cả chúng ta đều trải qua và chúng ta gọi là "thời gian". Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên của hiện hữu, mọi thứ chúng ta trải nghiệm đều diễn ra trong khuôn khổ thời gian không thể tránh khỏi: sự phát triển, sự phát triển mạnh mẽ, sự học hỏi, sự suy nghĩ, sự ghi nhớ, sự lãng quên, sự già đi, sự chết của chúng ta. Tất cả vẻ đẹp và sự mong manh khiến chúng ta trở thành con người đều giả định rằng chúng ta bị giới hạn bởi thời gian.

Điều này trở nên rõ ràng ngay lập tức khi người ta xem xét các thiên thần. Giống như chúng ta, các thiên thần được tạo ra; họ có một khởi đầu. Giống như linh hồn chúng ta, họ bất tử. Giống như chúng ta, họ được tạo ra tự do; một số thậm chí đã sa ngã. Nhưng sự tự do của chúng ta được thực hiện trong thời gian, và điều đó tạo nên tất cả sự khác biệt. Khi một thiên thần sa ngã, sự sa ngã của họ là không thể thay đổi. Vì thời gian, chúng ta có thể trải qua mất mát, đau đớn, đau khổ và cái chết. Nhưng vì thời gian, chúng ta có thể trải nghiệm điều mà ngay cả các thiên thần cũng không thể: sự cứu chuộc.

Không giống như các thiên thần, chúng ta có thể biết hy vọng.

Hôm nay, Giáo hội tưởng niệm các Linh hồn. Giáo hội cầu nguyện cho những linh hồn của những người trung thành đã khuất đang được thanh tẩy để chuẩn bị cho Phúc lành. Chúng ta không biết các Linh hồn nghèo khổ trải nghiệm "thời gian" trong Luyện ngục như thế nào. (Dễ tưởng tượng ra việc thoát khỏi cơ thể hơn là tưởng tượng ra việc thoát khỏi thời gian.) Chúng ta biết rằng họ phải chịu đựng “lửa thanh tẩy”. Chúng ta cũng biết rằng bất kể ngọn lửa này như thế nào, thì nó hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị nguyền rủa.

Như chúng ta nghe trong các bài đọc hôm nay: “Vì nếu trước mặt loài người, quả thực họ bị trừng phạt, nhưng hy vọng của họ vẫn tràn đầy sự bất tử; bị trừng phạt một chút, họ sẽ được được ban phước, vì Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với chính Người.” Đối với các linh hồn trong luyện ngục – một phần vô danh trong số 100 tỷ người chúng ta đã từng ở đó – thời gian để ăn năn và tha thứ đã qua. Cũng như nỗi sợ hãi địa ngục. Những đau khổ đó đã qua. Những gì còn lại ở bên này Thiên đường, phải là hy vọng mãnh liệt nhất, gần như không thể chịu đựng được: một hy vọng “tràn đầy sự bất tử.”

Xin ban cho họ sự an nghỉ đời đời, lạy Chúa.
Và xin ánh sáng nghìn thu chiếu rọi trên họ.
Xin cho linh hồn của tất cả những người trung thành đã khuất,
nhờ lòng thương xót của Chúa, được an nghỉ trong bình an. Amen.

Mikali Nguyễn

unread,
Dec 6, 2024, 8:10:47 PM12/6/24
to alphonsefamily

Đức Thánh Cha và thành phố Roma sẽ tôn kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội vào ngày 8/12

Theo truyền thống, vào Chúa Nhật ngày 8/12/2024, Đức Thánh Cha và các công dân Roma cũng như các tổ chức sẽ đến tôn kính tượng Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội tại Quảng trường Mignanelli, gần với Quảng trường Tây Ban Nha ở Roma.

Tượng Đức Mẹ bằng đồng do điêu khắc gia Giuseppe Obici thực hiện được đặt trên đỉnh cây cột cao 12 mét do kiến trúc sư Luigi Poletti thiết kế.

Vào lúc 4 giờ chiều, Đức Thánh Cha sẽ đến Quảng trường Tây Ban Nha để tôn kính Đức Mẹ. Ngài sẽ được chào đón bởi Đức Hồng Y Giám quản Roma Baldassare Reina và thị trưởng Roma Roberto Gualtieri. Ngài sẽ cầu nguyện trước tượng đài dâng kính Đức Mẹ và đặt hoa dưới chân tượng đài.

Nhưng những người đầu tiên tôn kính Đức Mẹ tại Quảng trường Tây Ban Nha sẽ là những lính cứu hỏa, để vinh danh 220 đồng nghiệp đã khánh thành tượng đài vào ngày 8/12/1857. Vào lúc 7 giờ sáng, họ sẽ leo lên đỉnh để đặt vòng hoa lên cánh tay Đức Mẹ.

Trong ngày 8/12, nhiều nhóm và cá nhân sẽ đến cầu nguyện và đặt vòng hòa dưới chân tượng đài, trong đó sẽ có giáo xứ Thánh Anrê trong khu vực, Hội Hiệp sĩ Malta, Hội Đạo binh Đức Mẹ, Hội Thánh Phêrô, và nhiều tổ chức khác. Lực lượng Hiến binh Vatican, với ban nhạc cử hành một bài thánh ca kính Đức Mẹ. Ngoài ra còn có đoàn rước đông đảo các công nhân của các công ty quan trọng nhất của Roma, bao gồm các công ty của các thị trấn và thành phố, đại sứ Tây Ban Nha cạnh Tòa Thánh cùng với các nhóm Tây Ban Nha, Unitalsi.

Từ 5 giờ sáng và suốt cả ngày, các Tu sĩ Phanxicô Viện tu của Đền thờ Mười hai Tông đồ sẽ có mặt tại quảng trường để chào đón các nhóm và các tín hữu, hướng dẫn việc tôn kính Đức Mẹ với các bài thánh ca và lời cầu nguyện.


Giới thiệu App “Giáo hội Công giáo”

Để hỗ trợ các tín hữu nói tiếng Việt đào sâu đời sống đức tin và kết nối với Giáo hội hoàn vũ qua các sản phẩm truyền thông cả bài viết, audio và video, Vatican News Tiếng Việt cho ra mắt ứng dụng mới với tên gọi “Giáo hội Công giáo”, đồng thời App cũng tích hợp bản đồ giờ lễ tại các nhà thờ Công giáo tại Việt Nam và các nơi khác trên thế giới.

image.png

Với App “Giáo hội Công giáo”, người dùng có thể đọc tin tức, nghe radio hằng ngày và xem các video của Vatican News Tiếng Việt trên App.

Các thư viện audio phong phú về truyện ngắn Công giáo, Giáo huấn vui, Ciao bạn trẻ,… dễ dàng được tìm thấy và nghe ngay cả ở chế độ tắt màn hình.

Ở phần audio, người dùng có thể nghe radio online của Vatican News Tiếng Việt 24/24, trong đó ngoài chương trình hằng ngày, các chương trình trực tiếp của Đức Thánh Cha, còn có các giờ kinh bằng tiếng Latinh và nhạc không lời.

App cho Android và App cho iOS

Đặc biệt, để đào sâu đời sống thiêng liêng, người dùng có thể đọc và nghe Lời Chúa và suy niệm Lời Chúa hằng ngày. Hơn nữa, những ai muốn giữ nhịp cầu nguyện có thể đặt lịch hẹn và app sẽ nhắc Lời Chúa khi đến giờ.

Để thuận tiện cho việc tìm giờ Lễ tại các nhà thờ, App cũng tích hợp bản đồ các nhà thờ và giờ lễ tương ứng. Với chức năng này, Vatican News Tiếng Việt mời gọi người dùng trở thành những tình nguyện viên cập nhật giờ lễ của các nhà thờ mình biết, đặc biệt cho những lễ riêng khác với giờ lễ bình thường, giúp tín hữu từ nơi khác đến có thể tìm thấy giờ lễ dễ dàng và chính xác.


                                    Bản đồ giờ lễ được tích hợp


Điều thú vị là App “Giáo hội Công giáo” được thiết kế bởi một bạn nữ trẻ tân tòng thao thức về đời sống đạo và với lòng nhiệt huyết muốn đóng góp phần của mình cho việc đào sâu đức tin của tín hữu, đặc biệt là phần đọc và nghe Lời Chúa. Ngoài việc được thiết kế bởi một người trẻ, App cũng được thực hiện bởi một nhóm bạn trẻ của công ty Vân Tay Media. Các bạn trẻ đã nhiệt tình và cũng rất kiên nhẫn qua nhiều lần chỉnh sửa trong thời gian dài để App “Giáo hội Công giáo” có thể được chính thức ra mắt. Một bạn trẻ Công giáo trong nhóm phát triển App đã bày tỏ: “Đây là một công cụ ý nghĩa để đem Tin Mừng đến với nhiều người hơn, theo tinh thần xây dựng Giáo hội hiệp hành của Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.

App cho Android và App cho iOS

App được phát hành trên nền tảng Android và iOS, người dùng có thể tìm thấy App với tên: “Giáo hội Công giáo” với logo nền màu đỏ đậm và biểu tượng định vị bản đồ bao bên ngoài một micro và biểu tượng Giáo hoàng.


Tổng thống Macron thăm nhà thờ Đức Bà Paris một tuần trước ngày mở cửa lại

Một tuần trước ngày mở cửa lại, ngày 7/12/2024, và ngày thánh hiến bàn thờ mới của nhà thờ Đức Bà Paris, ngày 8/12/2024, Tổng thống Emmanuel Macron của Pháp đã thăm nhà thờ và bày tỏ lòng cám ơn đến tất cả những người đã cộng tác trong mọi lĩnh vực để nhà thờ có thể mở cửa trở lại 5 năm sau trận hỏa hoạn kinh hoàng vào chiều tối ngày 15/4/2019.

image.png

Cảm ơn mọi người

Phát biểu trước 1.200 người, bao gồm công nhân, doanh nhân, kiến trúc sư, thành viên của tổ chức "Tái Xây dựng Nhà thờ Đức Bà" và những người quy tụ tại nhà thờ Đức Bà Paris, ông Macron cảm ơn họ và nói: “Các bạn đã biến than thành nghệ thuật”.

Tổng thống Pháp nói với các công nhân quy tụ tại Nhà thờ Đức Bà: “Các bạn đã giữ lời hứa xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà trong 5 năm, các bạn đã làm được và đó là niềm tự hào to lớn cho toàn thể đất nước. Tôi vô cùng biết ơn các bạn, nước Pháp vô cùng biết ơn các bạn”.

Ông Macron nhắc đến mọi nghành nghề tham gia xây dựng nhà thờ: kỹ sư, nghệ sĩ, thợ điện, nhân viên an ninh, thợ trùng tu... Ông nói: "Ở đây chúng ta đã xây dựng công trường lớn nhất Châu Âu”. “Chúng ta chưa bao giờ thấy dự án nào như thế này, tất cả các bạn đều tham gia vào dự án thế kỷ”.

Tổng thống Pháp nhắc đến 340 ngàn người ủng hộ và tài trợ thuộc 150 quốc gia. Ông nói: “Chính sự quảng đại của các bạn đã giúp việc xây dựng lại Nhà thờ Đức Bà có thể thực hiện được”, với số tiền quyên góp vài euro và số tiền quyên góp “hàng trăm triệu euro”. “Các bạn đã huy động (…) để bày tỏ tình yêu đối với Notre-Dame, nhà thờ đại diện cho đất nước, ... và tôi muốn chân thành cảm ơn các bạn vì điều này”.

Nghi thức mở cửa nhà thờ và Thánh lễ thánh hiến bàn thờ

Giáo phận Paris đã thông báo rằng sự kiện mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà Paris trong thực tế sẽ kéo dài trong cả năm, từ ngày 7/12 năm nay (2024) đến ngày 8/6 năm tới (2025), lễ Ngũ Tuần.

Tổng Giám mục Laurent Ulrich của Paris sẽ chủ trì nghi lễ mở cửa Nhà thờ vào chiều tối ngày 7/12/2024 trước sự hiện diện của Tổng thống Pháp. Thánh lễ khai mạc, với việc thánh hiến bàn thờ chính, sẽ diễn ra vào lúc 10 giờ 30 sáng Chúa Nhật ngày 8/12, do Đức Tổng Giám mục Paris chủ sự và cũng có sự hiện diện của Tổng thống Macron.

Theo lời mời của Đức Cha Ulrich, gần 170 giám mục từ Pháp và trên toàn thế giới, cũng như một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số 106 giáo xứ của Giáo phận Paris, và một linh mục từ mỗi giáo xứ trong số bảy nhà thờ Công giáo Nghi lễ Đông phương, và các tín hữu từ mỗi cộng đoàn của giáo phận sẽ hiện diện tham dự.

Đức Cha nói trong thông cáo báo chí: “Hãy vui mừng vì chúng ta sẽ tái khám phá được tâm điểm của đời sống giáo phận của chúng ta, ngôi nhà chung nơi mọi người, và trên hết là những người nhỏ bé nhất và nghèo nhất, có chỗ đứng của mình”.

Đài truyền hình France Télévisions sẽ đảm bảo ghi lại và phát sóng trực tiếp tất cả những điểm nổi bật của các nghi lễ. 



Nhà thờ Đức Bà lộng lẫy trở lại sau 5 năm trùng tu          

Nhà thờ Đức Bà Paris  được  xây dựng trong thời trung cổ, việc xây dựng nhà thờ bắt đầu vào năm 1163 dưới thời Giám mục Maurice de Sully và phần lớn được hoàn thành vào năm 1260, mặc dù nó đã được sửa đổi trong những thế kỷ sau

Cho đến khi Cách mạng Pháp, Nhà thờ Đức Bà thuộc sở hữu của Tổng giáo phận Paris. Vào ngày 2 tháng 11 năm 1789, tòa nhà và tài sản của giáo sĩ đã được chuyển giao cho quốc gia. Kể từ Cách mạng Pháp, tòa nhà là tài sản của Nhà nước Pháp.

Sau Cách mạng Pháp năm 1789, Notre-Dame và phần còn lại của tài sản nhà thờ ở Pháp đã bị tịch thu và trở thành tài sản công cộng

Notre Dame thuộc sở hữu của Cộng hòa Pháp và đã như vậy kể từ năm 1789. Đây không chỉ là nhà thờ quốc gia của Pháp mà còn là di tích quốc gia, có tầm quan trọng đáng kể về mặt văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật và là biểu tượng của nước Pháp.

Key dates

  • 4th century – Cathedral of Saint Étienne, dedicated to Saint Stephen, built just west of present cathedral
  • 1163 – Bishop Maurice de Sully begins construction of new cathedral.
  • 1182 or 1185 – Choir completed, clerestory with two levels: upper level of upright windows with pointed arches, still without tracery, lower level of small rose windows.
  • c. 1200 – Construction of nave, with flying buttresses, completed.
  • c. 1210–1220 – Construction of towers begins.
  • c. 1210–1220 – Two new traverses join towers with nave. West rose window was completed in 1220.
  • After 1220 – New flying buttresses added to choir walls, remodeling of the clerestories: pointed arched windows are enlarged downward, replacing the triforia, and get tracery.
  • 1235–1245 – Chapels constructed between buttresses of nave and choir.
  • 1250–1260 – North transept lengthened by Jean de Chelles to provide more light. North rose window constructed.
  • 1270 – South transept and rose window completed by Pierre de Montreuil.
  • 1699 – Beginning of major redecoration of interior in Louis XIV style by Hardouin Mansart and Robert de Cotte.
  • 1725–1727 – South rose window, poorly built, is reconstructed. Later entirely rebuilt in 1854.
  • 1790 – In the French Revolution the Revolutionary Paris Commune removed all bronze, lead, and precious metals from the cathedral to be melted down.
  • 1793 – The cathedral was converted into a Temple of Reason and then Temple of the Supreme Being.
  • 1801–1802 – With the Concordat of 1801Napoleon restored the use of the cathedral (though not ownership) to the Catholic Church.
  • 1804 – On 2 December, Napoleon crowns himself Emperor at Notre-Dame.
  • 1805 – The cathedral is conceded the honor of minor basilica by Pope Pius VII, making it the first minor basilica outside of Italy.
  • 1844–1864 – Major restoration by Jean-Baptiste Lassus and Eugène Viollet-le-Duc with additions in the spirit of the original Gothic style.
  • 1871 – In the final days of the Paris Commune, the Communards prepared to burn the cathedral, but abandoned their plan since it would necessarily also burn the crowded neighboring hospital for the elderly.
  • 1944 – On 26 August, General Charles de Gaulle celebrates the Liberation of Paris with a special Mass at Notre-Dame.
  • 1949 – On 26 April, the Archbishop of Paris, Emmanuel Célestin Suhard, crowns the venerated image of Our Lady of Guadalupe in the name of Pope Pius XII.
  • 1963 – Culture Minister André Malraux orders the cleaning of the cathedral façade of centuries of grime and soot.
  • 2019 – On 15 April, a fire destroys a large part of the roof and the flèche.
  • 2021 – Reconstruction begins two years after the fire that destroyed a large part of the roof and the flèche.
  • 2024 - Reopening of the Cathedral to occur on 7-8 December 2024





Khánh thành Nhà thờ Đức Bà Paris và TT Trump sẽ tham dự Thứ Bảy tuần này


Đây là chuyến công du đầu tiên của TT Trump từ khi đắc cử. Và Nhà thờ Đức Bà  "Notre-Dame de Paris cathedral"  sẽ mở cửa trở lại Thứ Bảy  (7-8/12/24), tái sinh từ khối tro tàn của hỏa hoạn đã đe dọa phá hủy một trong những kiến trúc lịch sử tiêu biểu nhất cho tôn giáo trên thế giới, năm 2019.

The restored interiors of the cathedral, Nov. 29, 2024, in Paris. 


Các buổi lễ và hòa nhạc được tổ chức vào Thứ Bảy và Chúa Nhật, gồm có các nguyên thủ quốc gia, các vị giám mục và linh mục từ Pháp và các quốc gia khác sẽ tham gia lễ kỷ niệm. TT Macron sẽ phát biểu trước quan khách. Và Tổng Giám Mục Paris chủ trì Thánh lễ và làm nghi thức đập vào cánh cửa đóng kín của Nhà thờ Đức Bà để mở cửa trở lại.


Trên Truth Social, TT Trump viết là điều vinh dự được đến tham dự lễ khánh thành Thứ Bảy:


"It is an honor to announce that I will be traveling to Paris, France, on Saturday to attend the re-opening of the Magnificent and Historic Notre Dame Cathedral, which has been fully restored after a devastating fire five years ago," 

"President Emmanuel Macron has done a wonderful job ensuring that Notre Dame has been restored to its full level of glory, and even more so. It will be a very special day for all!"



Công giáo Mỹ liên đới với Giáo hội tại Pháp, nhân Nhà thờ Chính tòa Paris tái mở cửa trở lại



Các giám mục Mỹ kêu gọi các thánh đường Công giáo tại Mỹ đánh chuông vui mừng để bày tỏ tình liên đới với Giáo hội Công giáo tại Pháp, nhân dịp lễ tái khánh thành Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Paris, trong hai ngày 07 và 08 tháng Mười Hai này, sau 5 năm trùng tu vì bị hỏa hoạn hồi tháng Tư năm 2019.


image.png


Tiến trình trùng tu bắt đầu với hai năm thanh tẩy, rồi củng cố các cơ cấu của thánh đường, với kinh phí 760 triệu Mỹ kim.

Qua mạng xã hội, Hội đồng Giám mục Mỹ viết: “khi Nhà thờ Chính tòa Paris được mở lại, các Giáo hội địa phương ở Mỹ được mời gọi đánh chuông để bày tỏ tình liên đới”.

Mặt khác, Tổng thống tân cử Donald Trump cho biết thứ Bảy này, ông sang Pháp để tham dự lễ mở cửa lại Nhà thờ Chính tòa Paris. Ông cũng ca ngợi Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã thực hiện một công việc tuyệt vời để Nhà thờ Chính tòa Paris được tái lập trọn vẹn vẻ huy hoàng và còn hơn thế nữa! Đó sẽ là một ngày rất đặc biệt cho mọi người”.

Tổng thống Macron là một trong các lãnh tụ nước ngoài đầu tiên chúc mừng Tổng thống Donald Trump, sau khi đắc cử hồi tháng Mười Một vừa qua.

Tham dự lễ khánh thành Nhà thờ Chính tòa Paris, có khoảng 50 vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ. Khoảng 6.000 nhân viên an ninh được điều động để giữ an ninh, trong hai ngày 07 và 08 tháng Mười Hai này. Khu vực trung tâm Paris, quanh Nhà thờ Chính tòa chỉ có thể lui tới nếu có giấy mời. Sẽ có khoảng 40.000 tham dự dọc theo bờ sông Seine.

Lễ tái thánh hiến sẽ do Đức Tổng giám mục Laurent Ulrich của giáo phận sở tại chủ sự, với sự tham dự của Tổng thống Pháp-Macron, hàng giáo sĩ, các chức sắc khác và các ân nhân.

Thánh lễ khai mạc sẽ được cử hành vào Chúa nhật, ngày 08 tháng Mười Hai, với khoảng 170 giám mục và linh mục, 106 giáo xứ ở Paris, mỗi xứ được cử một linh mục tham dự.


Các Giáo hội ở Giêrusalem mời gọi các Kitô hữu cử hành Giáng sinh trong bối cảnh chiến tranh

Sau quyết định năm ngoái không trưng bày đèn và đồ trang trí Giáng sinh, để liên đới với những người đang đau khổ vì cuộc chiến ở Gaza, các Thượng phụ và các vị lãnh đạo Giáo hội Kitô ở Giêrusalem đang mời gọi các cộng đoàn cử hành ngày sinh nhật của Chúa Kitô “bằng cách thể hiện công khai niềm hy vọng Giáng sinh” trong bối cảnh chiến tranh.

Vào năm 2023, các vị lãnh đạo Giáo hội đã cùng nhau quyết định, yêu cầu các Kitô hữu ở Thánh Địa không trưng bày đồ trang trí và đèn Giáng sinh ở các nơi công cộng, như một cách thể hiện tình liên đới với nhiều người đang phải chịu đựng cuộc chiến giữa Hamas và Israel.

Tuy nhiên, trong một tuyên bố gần đây, các Giáo hội cho rằng yêu cầu này làm cho nhiều người nghĩ rằng cử hành Giáng sinh ở Thánh Địa bị huỷ bỏ, với kết quả là “chứng tá duy nhất về sứ điệp Giáng sinh đã bị giảm bớt”, không chỉ trên toàn thế giới, nhưng cũng ở trong các Giáo hội địa phương.

Vì thế, các lãnh đạo Giáo hội Kitô ở Giêrusalem đang khuyến khích các tín hữu “cử hành trọn vẹn” sinh nhật của Đức Kitô “bằng cách bày tỏ công khai các dấu hiệu hy vọng của Kitô hữu”. Đồng thời, các vị mục tử kêu gọi các tín hữu cử hành theo những cách quan tâm đến những khó khăn nghiêm trọng mà hàng triệu người trong khu vực vẫn đang phải chịu đựng.

Tuyên bố của của các vị lãnh đạo viết: “Chắc chắn các cử hành phải bao gồm cầu nguyện không ngừng, giúp đỡ bằng những cử chỉ bác ái và tử tế, và chào đón những ai đang bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột như chính Chúa Kitô đã chào đón chúng ta”. Bằng cách này, chúng ta lặp lại chính câu chuyện Giáng sinh, nơi các thiên thần loan báo cho những người chăn chiên tin vui Chúa Kitô Giáng sinh giữa thời điểm đen tối tương tự trong khu vực của chúng ta, mang đến cho họ và toàn thế giới sứ điệp về hy vọng và bình an của Chúa”.

Trong buổi họp gần đây với cha Francesco Patton, bề trên dòng Phanxicô ở Thánh Địa cùng với cha Ibrahim Falta, phó bề trên, Tổng thống Palestine, ông Mahmoud Abbas cũng kêu gọi hạn chế các cử hành Giáng sinh ở Thánh Địa, do những khó khăn của người dân. Tại buổi gặp gỡ, theo thông lệ đại diện Giáo hội Công giáo đã mời tổng thống tham dự lễ Giáng sinh. Đại diện chính phủ, tổng thống đã gửi lời chúc mừng Giáng sinh tới các Kitô hữu Palestine và nhắc lại hy vọng về hoà bình của ông.


Cử hành nghi thức xác nhận sự toàn vẹn của Cửa Năm Thánh


Chiều thứ Hai, ngày 02 tháng Mười Hai vừa qua, đã có nghi thức xác nhận sự toàn vẹn của Cửa Năm Thánh, tại Đền thờ thánh Phêrô, để chuẩn bị được Đức Thánh cha mở ra vào lúc 19 giờ, thứ Ba, 24 tháng Mười Hai sắp tới.

Chủ sự nghi thức này là Đức Hồng y Mauro Gambetti, Dòng Phanxicô Viện Tu, Giám quản Đền thờ thánh Phêrô. Bắt đầu là một lời nguyện, rồi các nhân viên Đền thờ mở bức tường phía sau Cửa Năm Thánh, được niêm phong và lấy ra một hộp bằng kim loại đã được gắn vào ngày 20 tháng Mười Một năm 2016, khi kết thúc Năm Thánh Lòng Thương Xót. Rồi Đức Hồng y hướng dẫn đoàn rước của các Kinh sĩ Đền thờ, vừa đi vừa hát Kinh Cầu các thánh, cho đến bàn thờ chính, bàn thờ Tuyên xưng đức tin, trên mộ thánh Phêrô. Các vị dừng lại để cầu nguyện một chút, rồi đến Phòng hội của Kinh sĩ đoàn. Tại đây, hộp kim loại được mở ra.

Bên trong hộp, có giấy da (pergamena) chứng thực việc đóng cửa Năm Thánh, bốn viên gạch mạ vàng và một số chiếc mề-đay, trong đó có các mề-đay của các triều đại Giáo hoàng Phanxicô, Biển Đức XVI và Gioan Phaolô II.

Tham dự các nghi thức này cũng có Đức Tổng giám mục Rino Fisichella, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng và cũng là vị Đặc trách Năm Thánh, Đức Tổng giám mục Diego Ravelli, Trưởng ban Nghi lễ Phụng vụ của Đức Thánh cha. Đức Tổng giám mục lấy các văn kiện và đồ vật xác nhận trên đây để trình Đức Thánh cha Phanxicô.

Nghi thức nhìn nhận tương tự cũng được cử hành tại Đền thờ thánh Gioan Laterano, chiều ngày 03 tháng Mười Hai, và tại Đền thờ thánh Phaolô Ngoại thành, ngày 05 tháng Mười Hai, sau cùng là ngày 06 tháng Mười Hai, tại Đền thờ Đức Bà Cả.

Kiệt tác Đức Mẹ Pietà của Michelangelo được bảo vệ bởi lớp kính chống đạn mới

Cơ quan bảo trì và quản trị Đền thờ Thánh Phêrô đã hoàn thành việc thay thế các tấm kính lớn bảo vệ pho tượng Đức Mẹ Pietà, một kiệt tác bằng đá cẩm thạch của họa sĩ và điêu khắc gia thiên tài Michelangelo, bằng 9 tấm kính chống va đập và chống đạn có chất lượng cao, để bảo vệ an toàn hơn và có độ trong suốt cao hơn.


image.png

Tượng Đức Mẹ Pietà được thực hiện từ năm 1497 đến 1499, là kiệt tác đầu tiên của nghệ sĩ Michelangelo khi ở độ tuổi đôi mươi, đồng thời là một trong những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhất mà phương Tây từng tạo ra. Đây cũng là tác phẩm duy nhất có chữ ký của tác giả. Tác phẩm được trưng bày tại Đền thờ Thánh Phêrô.

Vào ngày 21/5/1972, một người đàn ông đã dùng búa đập khiến cho pho tượng bị thiệt hại rất nghiêm trọng, vỡ thành khoảng 50 mảnh, làm gãy cánh tay trái và gãy khuỷu tay; gương mặt của tượng cũng bị hư hại.

Sau quá trình phục chế kéo dài từ tháng 5 cho đến tháng 12/1972, tượng Pietà được bảo vệ bởi một lớp kính chống đạn đặc biệt vào năm 1973.

An toàn và thẩm mỹ hơn

Là một phần của công trình chuẩn bị cho Năm Thánh 2025, Cơ quan bảo trì và quản trị Đền thờ Thánh Phêrô đã thay thế các tấm kính đã được lắp đặt vào năm 1973 này bằng lớp kính bảo vệ mới gồm 9 tấm kính chống vỡ và chống đạn. Các tấm kính có chất lượng cao nhất và độ trong suốt tối đa, được thiết kế bởi đội ngũ chuyên gia Ý sau khi nghiên cứu chuyên sâu.

Công việc thay thế kéo dài chưa đầy sáu tháng và nhằm mục đích giúp các tín hữu hành hương và du khách có thể nhìn thấy tượng Đức Mẹ rõ nhất, cũng như bảo đảm an toàn cho tác phẩm.

Kỹ sư Alberto Capitanucci, người chịu trách nhiệm về lĩnh vực kỹ thuật của Cơ quan bảo trì và quản trị Đền thờ Thánh Phêrô, giải thích: “Dự án không chỉ liên quan đến việc sử dụng các tấm kính trong suốt hơn mà còn liên quan đến việc sử dụng các tấm có hiệu suất cơ học cao hơn. Độ dày được áp dụng là 24,5 mm so với 19mm của hệ thống ban đầu. Các tấm kính không chỉ được xếp lớp mà còn được làm cứng bằng nhiệt. Chúng có khả năng chống được các cuộc tấn công bằng tay, có thể chịu được 26 nhát búa/rìu (gần bằng mức bảo vệ cao P6B theo tiêu chuẩn EN 356) và khả năng chống đạn vượt quá mức BR2/S (theo tiêu chuẩn EN 1063), tức là nó có thể chịu được đạn của súng ngắn cỡ nòng 9mm.

Dự án được hình thành, triển khai và hỗ trợ nhờ sự đóng góp của một nhóm doanh nhân ở miền Piemonte của Ý và chuyên gia trong lĩnh vực này.


Đức Thánh Cha và các Hồng y cố vấn thảo luận về vai trò nữ giới, các cuộc khủng hoảng trên thế giới

Trong khóa họp kéo dài trong hai ngày 2 và 3/12/2024 tại Nhà Thánh Marta ở Vatican, với sự tham dự của Đức Thánh Cha, Hội đồng Hồng y cố vấn đã thảo luận về nhiều vấn đề của Giáo hội và thế giới như đoàn thể tính, vai trò nữ giới, các Sứ thần Tòa Thánh, các cuộc khủng hoảng trên thế giới, vv.


Khóa họp lần này là khóa họp thứ tư của Hội đồng Hồng y cố vấn trong năm 2024, sau các khóa họp vào tháng 2, tháng 4 và tháng 6.

Tính đoàn thể của Giáo hội

Thông cáo của Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết, “nhiều vấn đề khác nhau đã được thảo luận trong các phiên họp”. Trước hết, Đức Hồng Y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh đã trình bày “về tính đoàn thể trong Giáo hội”, trong đó nói về mối quan hệ giữa Giáo hội địa phương và các Đại hội đồng của Giáo hội, và sau đó là cuộc thảo luận chung về Thượng Hội đồng vừa kết thúc.

Vai trò của nữ giới

Trong các phiên họp, “chủ đề về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội đã được đào sâu, tìm cách tổng hợp các vấn đề được nêu lên trong bốn phiên họp gần đây nhất của Hội đồng Hồng y”.

Vai trò của các Sứ thần

Thông cáo báo chí cho biết thêm rằng khóa họp cũng dành thời gian cho việc nghiên cứu và thực hiện các nguyên tắc và tiêu chí của Tông Hiến “Praedicate evangelium” (Anh em hãy rao giảng Tin Mừng) trong các ban lãnh đạo giáo phận. Khoá họp cũng thảo luận về chủ đề “Vai trò của các Đại diện của Giáo hoàng theo cái nhìn của hiệp hành truyền giáo”, với cuộc thảo luận của Đức Hồng Y Oswald Gracias, Tổng Giám mục Bombay, Chủ tịch nhóm được Đức Thánh Cha thiết lập để nghiên cứu về vai trò của các Sứ thần Tòa Thánh.

Thông cáo báo chí nhắc lại, cuộc họp của Hội đồng Hồng y cố vấn “luôn là cơ hội để suy tư tổng thể về tình hình của Giáo hội và thế giới tại các khu vực khác nhau, những nơi xuất thân của các Hồng y, để chia sẻ những mối quan tâm và hy vọng về tình trạng xung đột và khủng hoảng đang diễn ra”.


Đức Phanxicô: “Bài giảng phải tập trung và không nên dài quá 10 phút”

Tiếp tục bài giáo lý hàng tuần về Chúa Thánh Thần, Đức Phanxicô khuyến khích các linh mục dựa vào Phúc âm và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để giảng, bài giảng không nên dài quá 10 phút.

Ngài suy gẫm Thư thứ nhất của Thánh Phêrô về việc xác định tiêu chuẩn đầu tiên của người tông đồ: “Tông đồ là người rao giảng Tin Mừng qua Chúa Thánh Thần. Hai yếu tố cấu thành việc rao giảng là nội dung bài giảng: Phúc âm và phương tiện rao giảng: Chúa Thánh Thần.” 

Nội dung rao giảng

Trước tiên Đức Phanxicô nhắc lại từ “Phúc âm” trong Tân Ước. Từ này có hai nghĩa chính: bốn Phúc âm nhất lãm của Thánh Máttêô, Máccô, Luca và Gioan là Tin Mừng của Chúa Giêsu trong cuộc sống trần thế của Ngài.

Sau Phục sinh đầu tiên, từ “Phúc âm” có một ý nghĩa mới, đó là “mầu nhiệm Vượt qua về cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô”.

Thánh Phêrô viết: “Tôi không hổ thẹn về Phúc Âm. Đó là quyền năng của Thiên Chúa để cứu rỗi mọi người”.

Đức Phanxicô lưu ý: “Lời rao giảng của Chúa Giêsu và sau đó là của các Tông đồ bao gồm tất cả bổn phận đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm, từ Mười Điều răn cho đến Điều răn ‘mới’ về Tình yêu. Chúng ta không nên tái phạm vào sai lầm mà Thánh Phaolô đã lên án là đặt luật pháp lên trên ân sủng và việc làm lên trên đức tin, chúng ta công bố những gì Chúa Kitô đã làm cho chúng ta.” Chính vì lý do này nên Đức Phanxicô viết trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, Evangelii Gaudium về kerygma, ‘lời công bố’ mà mọi việc làm đạo đức đều phụ thuộc vào đó. 

Phương tiện rao giảng

Về phương tiện rao giảng, Phúc Âm phải được rao giảng qua Chúa Thánh Thần, rao giảng với dầu của Chúa Thánh Thần có nghĩa là truyền tải, cùng với các ý tưởng và giáo lý, cuộc sống và niềm tin sâu sắc, vì thế không phải là lời lẽ khôn ngoan thuyết phục nhưng phải được thể hiện qua tinh thần và sức mạnh. Đức Phanxicô xin các linh mục giảng tối đa 10 phút: “Sau 8 phút, bài giảng bị phân tán, giáo dân không còn tập trung để nghe.Xin anh em đừng bao giờ giảng quá 10 phút, không bao giờ! Điều này rất quan trọng. Quá 10 phút nhiều người ra ngoài hút thuốc lá!”

Ngài lưu ý, các linh mục phải cầu nguyện để Chúa Thánh Thần ban ơn khi giảng. Một điểm quan trọng khác, người rao giảng không được nói về mình, nhưng về Chúa Giêsu: “Không nói về mình có nghĩa không phải lúc nào cũng nhấn mạnh đến các sáng kiến mục vụ của mình, gắn tên tuổi của mình vào các công việc này nhưng hợp tác vào các sáng kiến của cộng đồng. Anh em cầu nguyện để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta giảng Tin Mừng hiệu quả cho giáo dân ngày nay.”

Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi Tổ chức An ninh châu Âu hợp tác giải quyết thách đố toàn cầu

Phát biểu tại cuộc họp thường niên lần thứ 31 Hội đồng Bộ trưởng của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE), ngày 05/12, Đức Tổng Giám Mục Paul Richard Gallagher, Ngoại trưởng Toà Thánh kêu gọi các quốc gia thành viên vượt lên trên sự chia rẽ và hợp tác để giải quyết các thách đố toàn cầu theo “Tinh thần Helsinki”.

Trong hai ngày, đại diện của 40 trong số 57 quốc gia thành viên của Tổ chức, cùng với các đối tác hợp tác từ châu Á và khu vực Địa Trung Hải tham gia vào các cuộc thảo luận, tập trung vào việc đánh giá bối cảnh an ninh hiện tại trên khắp các khu vực, giải quyết các thách đố đang diễn ra, xem xét các hoạt động của Tổ chức cũng như bổ nhiệm bốn vị trí hàng đầu của tổ chức.

Hướng tới việc Tổ chức đang chuẩn bị kỷ niệm 50 năm thành lập vào năm 2025, Đức Tổng Giám Mục phát biểu bày tỏ “mối quan ngại lớn” của Tòa Thánh về sự chia rẽ ngày càng gia tăng giữa các thành viên. Theo ngài, điều quan trọng là phải duy trì Tổ chức, đặc biệt vào thời điểm mà đối thoại và hòa hoãn là điều rất cần thiết.

Đức Tổng Giám Mục nhấn mạnh đến tầm quan trọng cốt yếu của việc duy trì các nguyên tắc của Tổ chức được ghi trong Đạo luật Helsinki năm 1975, văn kiện sáng lập của tổ chức, để giải quyết những thách đố mới mà thế giới đang phải đối diện ngày nay.

Ngài nhắc lại rằng thỏa thuận mang tính bước ngoặt được thiết kế để giảm căng thẳng chiến tranh lạnh dựa trên sự hiểu biết rằng “hòa bình không chỉ đơn thuần là không có chiến tranh hay duy trì sự cân bằng quyền lực, mà đúng ra là thành quả của quan hệ hữu nghị, đối thoại mang tính xây dựng và hợp tác giữa các quốc gia trong việc duy trì các nghĩa vụ theo luật pháp quốc tế và tôn trọng mọi quyền con người phổ quát”.

Tuy nhiên, Ngoại trưởng Toà Thánh lưu ý rằng tầm nhìn đó hiện đang bị tổn thương, vì thiếu sự đồng thuận về thủ tục trong Tổ chức nhưng “trên hết là do sự đổ vỡ ngày càng lớn của lòng tin vào nhau giữa một số quốc gia tham gia, sự gia tăng xâm lược về mặt ý thức hệ và sự coi thường rõ ràng” các nguyên tắc. Ngài nói: “Tòa Thánh quan sát với sự lo ngại về sự chia rẽ và phân mảnh ngày càng tăng đang che khuất những nguyên tắc của Tổ chức, làm ảnh hưởng đến công việc hàng ngày của tổ chức này”.

Đức Tổng Giám Mục đặc biệt đề cập đến cuộc chiến đang diễn ra ở Ucraina, cùng với các căng thẳng chính trị trải rộng gây ra sự chia rẽ trong Tổ chức, cũng như sự chậm trễ kéo dài trong việc bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo và thiếu tiến triển trong các quyết định, như vị trí Chủ tịch vào năm 2026.

Nhắc lại rằng “sức mạnh và tính duy nhất của tổ chức nằm ở sự đa dạng về quan điểm làm phong phú thêm quá trình đối thoại và đưa ra quyết định”, Ngoại trưởng Toà Thánh cảnh báo về việc biến tổ chức này thành một diễn đàn “chỉ dành cho các quốc gia có cùng chí hướng” và cảnh báo rằng việc từ bỏ theo đuổi sự đồng thuận có thể dẫn đến “sự tự hủy diệt” hoặc bóp méo “Tinh thần Helsinki”.

Đức Tổng Giám Mục Gallagher kết luận với việc tái khẳng định vai trò không thể thiếu của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu như một diễn đàn đối thoại và đàm phán, kêu gọi các quốc gia thành viên duy trì sứ mệnh đặc biệt của mình và kêu gọi những nỗ lực mới để thúc đẩy đối thoại, giảm leo thang và xây dựng sự đồng thuận, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng toàn cầu hiện nay.


Đức Phanxicô đến đảo Corse, vùng đất của lòng mộ đạo bình dân

Dự kiến Đức Phanxicô sẽ đi đảo Corse ngày 15 tháng 12 để dự Hội nghị về lòng mộ đạo bình dân, chủ đề thiết thân của ngài.

Ngày 30 tháng 9 năm 2023, Tổng giám mục François Bustillo, giáo phận Ajaccio được Đức Phanxicô phong hồng y tại Rôma. 870 giáo dân đảo Corse có mặt ở Quảng trường Thánh Phêrô để mừng tân hồng y của họ. Ngạc nhiên và ngưỡng mộ, Đức Phanxicô quay sang tân hồng y, hồng y nói nhỏ với ngài: “Người dân đảo Corse chúng tôi rất tích cực.” Phải chăng đây là giây phút đã thuyết phục Đức Phanxicô tham dự Hội nghị về Lòng mộ đạo bình dân được tổ chức tại Ajaccio ngày 14 và 15 tháng 12? Dù sao câu chuyện được Hồng y kể lại cho bà Stéphane Paganelli, ca sĩ của dàn hợp xướng Sartène, đã làm cho giáo sư đa âm của đảo Corse này vô cùng thích thú. Ai dám mong dàn nhạc của mình được mời đến dự các buổi lễ vào giữa tháng 12: “Chúng tôi mơ được hát trước Đức Giáo hoàng. Chúng tôi cố gắng nhiều lần nhưng cho đến nay vẫn chưa được!” Ông François-Dominique de Peretti của Hội anh em Sartène, được thành lập vào thế kỷ 16 cũng rất hào hứng, ông nói đùa: “Chúng tôi sẽ khóc với cha tổng đại diện trong sự kiện này.”


Việc Đức Phanxicô sẵn sàng đến những nơi mà lòng mộ đạo bình dân được thể hiện một cách mạnh mẽ như ở đảo Corse không phải là chuyện ngẫu nhiên. Ngài luôn nhạy cảm với những nghi thức và việc sùng kính bên lề giáo điều này. Ngài luôn chạm và hôn các bức tượng. Nước Argentina không xa lạ gì với lòng mộ đạo này. Linh mục  Maximilien de La Martinière đã sống lâu năm ở Brazil phân tích: “Giáo hoàng đến từ một lục địa nơi đức tin bình dân được củng cố vững chắc. Nam Mỹ không bị chủ nghĩa thế tục hóa hoặc bị tục hóa. Ở đó chúng ta thấy biểu hiện của lòng đạo đức bình dân tương tự như ở Pháp vào thế kỷ 19.”

Tình yêu dành cho người nghèo

Trong chuyến đi Sicily năm 2018, Đức Phanxicô xác định lòng đạo đức bình dân là “hệ thống miễn dịch của Giáo hội”. Ngài viết trong quyển tiểu sử, lòng mộ đạo bình dân truyền tải đức tin một cách đơn giản và chân thực. Theo ngài, đó là một trong những quá trình thiết yếu nhất mà qua đó Thiên Chúa thể hiện chính mình. Ngài đã phát triển chủ đề này trong Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta Dilexit nos, công bố ngày 24 tháng 10, dành riêng cho một trong những kho tàng của lòng nhiệt thành đơn giản và trực tiếp này: lòng sùng kính Thánh Tâm.

Linh mục De La Martinière đánh giá: “Đức Phanxicô biến lòng đạo đức bình dân thành thần học, nơi Thiên Chúa mạc khải chính mình, đó là cuộc cách mạng gần như ít ai chú ý. Ngài mời gọi các thần học gia quan tâm đến sự việc này, vì họ sẽ khám phá ra điều gì đó của Thiên Chúa mà chúng ta không hiểu được. Sự nhạy cảm đặc biệt này xuất phát từ tình yêu ngài dành cho người nghèo: Đức Phanxicô không mấy thoải mái với chính quyền và giới thượng lưu, khi gặp họ, đôi khi ngài từ chối, như ở Đại học Louvain ở Bỉ. Điều này giải thích vì sao ngài không muốn dự lễ khánh thành Nhà thờ Đức Bà Paris. Ngài thích ở bên cạnh những người thiếu thốn nhất.”

Như chúng ta biết, Đức Phanxicô đặc biệt tôn kính Đức Mẹ. Trước và sau mỗi chuyến tông du, ngài đều mang hoa đến đền thờ Đức Bà Cả dâng chuyến đi cho Đức Mẹ và tạ ơn khi về, ngài đặt bó hoa trước ảnh Đức Trinh Nữ. Việc tôn kính xuất phát từ Argentina, nhưng cụ thể bắt đầu từ năm 1985. Lúc đó ngài dự buổi lần hạt do Đức Gioan Phaolô II đọc. Lòng mộ đạo của Giáo hoàng Ba Lan đã làm Đức Phanxicô xúc động: “Kể từ đó, mỗi ngày tôi đọc mười lăm mầu nhiệm Mân Côi.”

Lòng kính mến Đức Mẹ

Sự gắn kết với Đức Mẹ phát triển vào năm sau khi ngài đi học ở Đức: ngài nhìn tượng Đức Mẹ tháo gỡ nút thắt ở Bavaria có từ thế kỷ 18. Ngài viết trong quyển tiểu sử: “Mẹ Maria đã đến cánh cửa trái tim tôi, kiên nhẫn lắng nghe tôi phàn nàn, chỉ có lòng kiên nhẫn của một bà mẹ mới có thể kiên nhẫn nghe. Tôi có cảm tưởng như Mẹ đang giúp tôi tháo gỡ nút thắt. Việc tôn kính Đức Mẹ phải trong trẻo, đẹp đẽ, trong sạch, đơn giản.” Từ Đức, ngài mang về nhiều ảnh tượng Đức Mẹ tháo gỡ nút thắt: “Tôi đã tặng cho những người chung quanh tôi, giáo dân và các bạn của tôi.”

Đức Phanxicô đến đảo Corse: 2.000 quân nhân tăng cường để bảo đảm an ninh cho chuyến đi


Ngày thứ năm 28 tháng 11, Ban tổ chức chuyến đi của Đức Phanxicô cho biết, gần 2.000 quân nhân tiếp viện sẽ được triển khai tại Ajaccio để đảm bảo chuyến đi của ngài và an ninh của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron trong sự kiện này. 

Một tuần sau khi Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa lại, Đức Phanxicô không đi dự thánh lễ này nhưng ngày 15 tháng 12 ngài sẽ đi đảo Corse để dự Hội nghị về lòng mộ đạo bình dân ở Địa Trung Hải.

Ngày thứ năm 28 tháng 11, ông Jérôme Filippini, thị trưởng đảo Corse cho biết, khoảng 2.000 sĩ quan cảnh sát, hiến binh và nhân viên an ninh dân sự sẽ được trưng dụng để bảo đảm an ninh cho chuyến đi của Đức Phanxicô đến Ajaccio ngày 15 tháng 12. Chi phí chuyến đi này tốn khoảng “vài triệu âu kim”.

Thị trưởng Filippini ước tính có 35.000 người tham dự trực tiếp các giai đoạn khác nhau của chuyến đi một ngày, dự trù có 15.000 tín hữu dự thánh lễ tại Nhà hát xanh Casone và tại Place Miot, có khoảng 20.000 người đứng chào Đức Phanxicô trên tuyến đi của ngài. Thị trấn có 75.000 dân.

Hồng y François Bustillo, giám mục giáo phận Ajaccio cho biết giáo dân mong chờ để đón Đức Phanxicô, nghe thông điệp của ngài gởi nước Pháp, Châu Âu và thế giới, một thông điệp “chúng ta có khả năng cùng làm việc với nhau”.

Với tình trạng sức khỏe giới hạn, với tuổi đã cao của Đức Phanxicô, theo Hồng y Bustillo: “Việc Đức Phanxicô đi đảo Corse đánh dấu lịch sử của đảo. Vì số chỗ hạn chế nên không phải ai cũng dự thánh lễ trong nhà thờ được. Chúng tôi sẽ có hệ thống màn hình khổng lồ bên ngoài để giáo dân tham dự thánh lễ.”

Vài triệu âu kim

Ông thị trưởng cho biết, ngày chúa nhật 15 tháng 12, giao thông sẽ bị hạn chế ở trung tâm thành phố Ajaccio. Chỉ một số chuyến bay được duy trì và ông khuyên người dân nên hoãn việc mua sắm Giáng sinh vào cuối tuần này.

Trong những ngày trước chuyến đi, hãng Hàng không Air Corsica sẽ thêm 6.000 chỗ trong các chuyến đi từ Paris, Nice, Marseille đến đảo. Các công ty đường biển Corsica Linea và Corsica Ferries đã lên lịch các chuyến tàu đi từ Marseille và Bastia đến đây.

Nhà thờ của thành phố sẽ được sơn lại, các ghế dài sẽ được thay đổi. Ông Filippini nhấn mạnh: “Nhà nước, các cộng đồng dân tộc sẽ là người đóng góp chính cho chuyến đi này, ước tính chuyến đi tốn khoảng vài triệu âu kim.”







Chuyến đi đảo Corse của Đức Phanxicô tạo nhiều đụng chạm

Dự kiến Đức Phanxicô sẽ đến đảo Corse ngày 14 và 15 tháng 12, nhưng ngài không đến Paris để dự lễ khai trương Nhà thờ Đức Bà một tuần trước đó. Đủ để người đứng đầu nước Pháp buồn lòng. Trong khi chờ thông báo chính thức về chuyến đi, thành phố Ajaccio đang chuẩn bị đón ngài, chủ đề được bàn tán ở cuộc họp khoáng đại của Hội đồng Giám mục Pháp ở Lộ Đức (từ 5 đến 10 tháng 11) và ở các hành lang của Điện Elysée. Điều chắc chắn, Đức Phanxicô sẽ đến Ajaccio, đảo Corse ngày 14 và 15 tháng 12. Ngài dự hội nghị “Lòng mộ đạo bình dân ở Địa Trung Hải”. Đây là chuyến đi thứ ba của ngài đến Pháp, năm 2014 ngài đi Strasbourg, năm 2023 ngài đi Marseille và năm nay ngài đi đảo Corse, nơi chưa có giáo hoàng nào đến thăm. Đủ để mọi người hào hứng? Chưa chắc.

Đã có một chút nghi ngờ về chuyến đi này, một nguồn tin thân cận Vatican cho biết: “Chúng tôi chờ thông báo chính thức, nhất là chương trình, vì kinh nghiệm cho biết, cho đến khi có thông báo chính thức, mọi thứ đều có thể xảy ra và không có gì được cho là chắc chắn”. Tình trạng sức khỏe của Đức Phanxicô, 87 tuổi vẫn là một yếu tố quan trọng. Thành phố Ajaccio, giáo phận không chính thức xác nhận tin Đức Phanxicô đến đây, nhưng tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng. Một người thân cận với Hồng y François-Xavier Bustillo, giám mục giáo phận Ajaccio từ năm 2021 cho biết: “Nếu tôi là bạn, tôi sẽ mua vé máy bay ngay!”

Hồng y Bustillo là người chủ chốt của chuyến đi này, ngài có một quan hệ đặc biệt với Đức Phanxicô. Trong công nghị phong hồng y ngày 30 tháng 9 năm 2023, ngài đi Rôma với 800 giáo dân trên ba máy bay thuê đặc biệt cho dịp này. Hai người đi trong đoàn cho biết: “Đức Phanxicô rất ấn tượng khi có một phái đoàn đông đi theo Hồng y như vậy. Ngài nói với hồng y Bustillo: ‘Anh đi với cả giáo dân của anh sao?’”

Đức Phanxicô và Hồng y François-Xavier Bustillo

Kể từ đó, ý tưởng tổ chức chuyến đi của Đức Phanxicô đến đảo Corse ra đời. Mùa hè vừa qua, nhân viên an ninh Vatican đã đến đảo, tạo sợi dây liên lạc đầu tiên. Theo một số nguồn tin, các nhóm từ Vatican và Điện Elysée sẽ đến đảo tuần lễ 11 tháng 11 để kiểm tra an ninh trước khi có thông báo chính thức của Hồng y Bustillo ngày 16 tháng 11.

“Chỉ một ngày thôi”

Ông Alexandre Farina, phụ tá thị trưởng xác nhận: “Chúng tôi nghiêm túc nghiên cứu và nếu được xác nhận, chúng tôi sẽ họp hàng ngày để suy nghĩ về cách tổ chức. Vì sẽ chỉ còn một tháng nữa thôi.” Một nhân viên ẩn danh cho biết: “Hiện tại, ngài dự kiến chỉ đến ngày 15 tháng 12 tại Ajaccio”. Ngài sẽ dự ngày thứ hai hội nghị và đến thành phố cổ Genoa để dâng thánh lễ ở Casone vào buổi chiều.

Dù chuyến đi này được người dân đảo Corse hân hoan nhưng việc ngài không đi Paris để tham dự ngày mở cửa Nhà thờ Đức Bà sau vụ cháy Nhà thờ năm 2019 đã làm cho Tổng thống Emmanuel Macron buồn lòng. Trên chuyến bay từ Á Châu về Rôma tháng 9 vừa qua, ngài xác nhận: “Tôi sẽ không đi Paris.”

Câu hỏi được đặt ra: “Trong suy nghĩ của Đức Phanxicô, đảo Corse có thực sự là nước Pháp không?” Một nguồn tin Vatican phân tích: “Chuyến đi này phù với tinh thần các chuyến tông du của ngài ở Châu Âu, ngài luôn ưu tiên các quốc gia nhỏ và những nơi giáp ranh, ngài cho rằng như thế sẽ hữu ích hơn. Đảo Corse là một phần của nước Pháp, nhưng nó cũng là hòn đảo ở Địa Trung Hải, nơi các Giáo hội trong lưu vực rộng lớn này có một vai trò quan trọng và không may nơi này lại là ngôi mộ của nhiều người di cư”, người di cư là mối quan tâm lớn của Đức Phanxicô.  Logic này đã làm cho Đức Phanxicô lên tiếng vào tháng 8 năm 2023: “Tôi sẽ đến Marseille, nhưng không đến Pháp.”

“Một điều rất tích cực cho đảo Corse”

Không có gì đáng ngạc nhiên khi Đức Phanxicô ưu tiên cho hội nghị về tôn giáo đại chúng hơn là việc mở cửa Nhà thờ Đức Bà huy hoàng. Ông François Mabille, nhà nghiên cứu tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược, chuyên gia về ngoại giao giáo hoàng nhận định: “Điều này tương ứng với một trong những ưu tiên triều của ngài, nói lên sự quan tâm đặc biệt của ngài với lòng mộ đạo bình dân. Với Marseille, ngài đã mong muốn thể hiện quyền tối thượng của tôn giáo đối với chính trị. Đó là cách để nói quân bài tôn giáo của ngài thay thế quân bài chính trị.”

Ở Lộ Đức, Hồng y Bustillo trình bày chi tiết về sáng kiến này với các giám mục ngày thứ năm 7 tháng 11 vì hầu hết các giám mục sẽ có mặt tại Nhà thờ Đức Bà Paris, nhiều giám mục sẽ không đến đảo Corse vì lịch trình quá chặt chẽ. Thông báo có thể làm bất bình, nhưng bây giờ là lúc xoa dịu. Một Giám mục địa phương ẩn danh cho biết: “Thật đáng tiếc khi mọi thứ bị mắc kẹt vì ngày tháng, nhưng đó là một điều rất tốt cho đảo Corse. Nếu chúng tôi là Giám mục của Ajaccio và có thể mời giáo hoàng đến nhà thì tất cả chúng tôi sẽ làm điều tương tự.”

Chuyến đi của Đức Phanxicô đến đảo Corse tạo căng thẳng trong Giáo hội Pháp


Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa trở lại, Đức Phanxicô từ chối không tham dự lễ mở cửa lại, nhưng ngài sẽ có chuyến đi mục vụ đến thành phố Ajaccio.

Thông báo chính thức về chuyến tông du của Đức Phanxicô đến đảo Corse ngày chúa nhật 15 tháng 12 dự kiến sẽ được Vatican thông báo trong những ngày sắp tới. Đội ngũ kỹ thuật của Tòa thánh vốn chuẩn bị tỉ mỉ cho mỗi chuyến đi sẽ có mặt tại đảo Corse vào tuần tới. Chuyến đi ngắn ngủi chỉ giới hạn ở thành phố Ajaccio ngày 14 tháng 12, lý do: ngài muốn dự hội nghị do giáo phận tổ chức về “lòng mộ đạo bình dân ở Địa Trung Hải” với một số giám mục Tây Ban Nha, Sicilia và Sardinia.

Nhiều chuyện khó hiểu

Vatican cho biết Đức Phanxicô sẽ đến sớm, dự thánh lễ, gặp các nhân vật và về Rôma vào buổi trưa. Có thể ngài sẽ mừng sinh nhật thứ 88 của ngài ngày 17 tháng 12 tại đảo Corse nhưng ngài muốn tránh tình trạng quá bận rộn của chương trình, thành phố Ajaccio chỉ cách Rôma 40 phút bay nên ngài không cần ở lại đó.

Theo thông báo chính thức, chương trình dự trù sẽ có bài phát biểu bế mạc hội nghị, thánh lễ tại nhà thờ chính tòa, gặp các nhà cầm quyền đảo Corse và sẽ không diễn ra trước khi phái đoàn Vatican về Rôma. Thông báo sẽ được loan ngày thứ sáu 14 hoặc thứ bảy 15 tháng 11, một tháng trước sự kiện.

Nếu quyết định này của Đức Phanxicô là để tôn vinh người dân đảo Corse, nhưng quyết định này làm khó hiểu về ngày được chọn: ngày 15 tháng 12, chỉ một tuần sau các lễ hội xung quanh việc mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris ngày 7 và 8 tháng 12, Đức Phanxicô được mời tham dự nhưng ngài từ chối. Ngày 13 tháng 9 năm 2024 trên chuyến bay từ châu Á về Rôma, ngài cho biết ngài sẽ không đi Paris.

Ngày 6 tháng 10, Đức Phanxicô cho biết lý do chính của việc từ chối này là vì ngài sẽ triệu tập công nghị phong 21 tân hồng y ngày 8 tháng 12, cùng ngày ngài dự lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội ở Quảng trường Piazza di Spagna truyền thống hàng năm.

Lý do không chính thức cho việc từ chối này sẽ không bao giờ được biết. Từ nhiều tháng nay ngài cho biết ngài sẽ không đến Paris dù có lời mời khẩn cấp của Điện Élysée và Giáo hội Pháp, việc mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà có sự tham dự của hàng trăm nguyên thủ quốc gia. Một Hồng y cho biết, công nghị đã chuẩn bị ít nhất trước sáu tháng, thêm nữa, Đức Phanxicô rất độc lập, ngài không cho mình là “khách mời hàng đầu” của Tổng thống Macron, theo ngài, việc mở cửa Nhà thờ Đức Bà là hành động chính trị quốc tế, nhằm tôn vinh nước Pháp nhưng cũng là vinh danh cá nhân Tổng thống Macron. Đức Phanxicô là giáo hoàng chống thế tục nên ngài không thích khía cạnh chính trị này dù ngài có thể chọn một ngày khác cho công nghị.

Các giám mục Pháp choáng váng

Chìa khóa chuyến đi đảo Corse chủ yếu ở Hồng y Pháp François-Xavier Bustillo 55 tuổi, sinh ra ở Navarre, ngài là tu sĩ dòng Phanxicô được đào tạo ở Ý, được Đức Phanxicô chú ý năm 2021 sau quyển sách của ngài về cuộc khủng hoảng chức linh mục. Hồng y được Tổng giám mục Venezuela Edgar Peña Parra, nhân vật thứ ba của Tòa Thánh hỗ trợ, ngài đã đến thăm đảo Corse ngày 18 tháng 3 năm 2024.

Ngày thứ năm 7 tháng 11, Hồng y Bustillo giải thích các chi tiết của chuyến đi bất ngờ này với các giám mục đang họp sau cánh cửa đóng kín trong phiên họp khoáng đại ở Lộ Đức. Các vị giám mục sửng sốt, có phần thất vọng khi nghe tin này, họ thấy Đức Phanxicô lạnh nhạt với nước Pháp. Trong nhiều tuần, các giám mục Pháp đã cố gắng xin Đức Phanxicô ra khỏi viễn cảnh về một sai lầm do sự kiện đặt cạnh nhau này tạo ra.

Hồng y Bustillo: tại đảo Corse, Đức Phanxicô sẽ cổ động một chủ nghĩa thế tục tích cực


Hồng y François Bustillo, Tổng Giám mục Ajaccio, đảo Corse trả lời phỏng vấn về chuyến tông du của Đức Phanxicô ngày 15 tháng 12 đến đảo.

Đảo Corse viết trang lịch sử chưa từng có trong lịch sử của mình: Giáo hoàng Phanxicô đến thăm đảo ngày 15 tháng 12. Giữa những cuộc vận động quần chúng và những vấn đề tâm linh quan trọng, Hồng y Bustillo đưa độc giả vào hậu trường của cuộc gặp lịch sử giữa lòng mộ đạo bình dân, ký ức tập thể và các thách thức của Giáo hội hoàn vũ. Ngài nói đến lòng mộ đạo bình dân đã có một vị trí quan trọng, một động lực chính cho chủ nghĩa thế tục trong thời buổi này.

Chúng ta đang chứng kiến tinh thần năng động của người dân đảo Corse, họ nhiệt tình vui vẻ đón Đức Phanxicô. Mọi người muốn giúp nhau, muốn dự những khoảnh khắc hạnh phúc, muốn quảng đại, muốn dành thì giờ cho sự kiện. Xã hội không xấu, xã hội luôn có những người tốt.

Chuyến đi của Giáo hoàng là cuộc đối thoại giữa ngài và người dân, ngài sẽ có thông điệp nào và Hồng y muốn ngài để lại dấu ấn gì sau khi ngài ra về?

Hồng y François Bustillo: Đó là cuộc gặp giữa mục tử của Giáo hội và người dân địa phương với những đặc thù của mình. Qua Hội nghị về Lòng mộ đạo bình dân, điểm nổi bật là thúc đẩy tinh thần đơn giản, vị trí của thiêng liêng trên đường phố, nơi công cộng… Ngài sẽ thấy những gì chúng tôi làm và kinh nghiệm của chúng tôi. Ngài sẽ thấy vùng ngoại vi này với những điểm mạnh, điểm yếu và những ước mơ của chúng tôi. Chúng tôi mong chờ được chào đón nhiều người, nên sẽ có tác động mạnh trên ngài, trước hết là ngài sẽ thấy sự gắn bó của người dân với Giám mục Rôma. Người dân đảo Corse là người của ký ức, họ muốn bằng mọi giá họ và con cái họ có mặt để trong tương lai họ sẽ nói: “Khi Giáo hoàng đến đảo Corse, tôi và gia đình tôi đã ở đó. Người dân ở đây muốn giữ ký ức của sự kiện lịch sử này.”

Hồng y François Bustillo và Đức Phanxicô tại Vatican ngày 22 tháng 11 năm 2023. 

Chúng ta có nên chờ ngài có một thông điệp chính trị hoặc thiêng liêng mạnh mẽ nào không?

Đó sẽ là logic của lòng đạo đức bình dân, sự hiện diện của Giáo hội, sự biểu hiện của Giáo hội nơi công cộng. Ở đảo Corse cũng như ở tất cả các đảo Địa Trung Hải, những biểu hiện công khai về tôn giáo và đức tin không tạo một trở ngại nào cho các cơ quan công quyền, vì thế khía cạnh này sẽ nổi bật và khuyến khích các nhà lãnh đạo dân sự, thị trưởng và giới chính trị cũng làm như vậy. Ở đảo Corse, chúng tôi có các nhà trẻ trong các công ty, ở mọi nơi… Đó sẽ là lý do để Đức Phanxicô khuyến khích mối liên kết bình dị, có trách nhiệm, hòa bình giữa chính quyền dân sự và chính quyền tôn giáo, không loại trừ ai nhân danh chủ nghĩa thế tục. Chủ nghĩa thế tục là cần thiết, nhưng ngài sẽ biện hộ cho một tính thế tục năng động, không cố định.

Trong Thông điệp Người đã yêu thương chúng ta Dilexit Nos, Đức Phanxicô nêu lên một hình thức mộ đạo bình dân liên quan đến việc tôn kính Trái tim Thiên Chúa và việc dùng hình ảnh này. Trong triều của ngài, ngài ít nói đến lòng mộ đạo bình dân của người dân đảo Corse. Có phải đây là một chủ đề mới của ngài không?

Ngài cho rằng trên hết chúng ta cần đơn giản, cử chỉ và hành vi của chúng ta phải được thể hiện và mang tinh thần của một đời sống thiêng liêng và nội tâm. Khi chúng ta đi kiệu, chỉ đi bộ thôi thì chưa đủ, ngoài đôi chân, chúng ta phải có quả tim biết biết chuyển động. Chỉ bằng cách này chúng ta mới có thể có được kinh nghiệm tâm linh tràn đầy sức mạnh và niềm vui. Ngài rao giảng tính xác thực để không rơi vào kiểu hài kịch tâm linh.

Nhiều quan sát viên thấy ngài đến gặp hồng y, như thể ngài muốn giới thiệu hồng y sẽ là ứng viên tương lai của mật nghị. Hồng y nghĩ gì về việc này?

Tôi là tân hồng y. Tôi còn rất nhiều điều để học hỏi và trưởng thành ở chức vụ này. Nhiều hồng y có nhiều kinh nghiệm hơn tôi về mặt trí tuệ và mục vụ. Tôi mới được bổ nhiệm làm giám mục ba năm. Điều quan trọng là chúng ta cần mục tử cao cả, người có kinh nghiệm. Không có chuyện chúng ta tìm người được mến chuộng ở phe này phe kia, phe phái này thắng phe phái kia, ở hiện đại thắng truyền thống, ở người Mỹ thắng người Âu châu hay châu Phi. Chúng ta chỉ nhắm đến lợi ích của Giáo hội. Đó là một trách nhiệm nặng nề.

Thông điệp nào khi Đức Phanxicô không đi dự lễ khánh thành Nhà thờ Đức Bà Paris nhưng vài ngày sau ngài lại đi đảo Corse?

Một số người xem đây là xung đột giữa Tổng thống Pháp và Giáo hoàng, nhưng khai trương Nhà thờ Đức Bà là sự kiện có tác động lớn của thủ đô Paris, của người dân Paris, của nước Pháp và của thế giới. Còn theo Giáo hoàng, đảo Corse là vùng ngoại vi. Vì thế có hai sự kiện. Tình hình chính trị và xã hội Pháp có nhiều căng thẳng, chia rẽ và bất ổn, tôi vui mừng vì tuy đảo Corse nghèo nàn và mong manh nhưng hai sự kiện này ở gần nhau đã làm xoa dịu tâm hồn. Chúng ta thiếu tự do và đơn giản để vui mừng với những gì đơn giản. Chúng ta không ở thiên đàng và chắc chắn chúng ta phải đương đầu với những khó khăn, nhưng thống khổ là chuyện không nên.

Gần đây Đức Phanxicô gởi đến chính quyền Pháp một thông điệp nói họ có nguy cơ mất quyền lực nếu không để ý đến số phận của những người dễ bị tổn thương nhất. Hồng y suy nghĩ gì về việc này?

Quyền lực gắn liền với sự gần gũi. Không có gần gũi sẽ không có quyền lực. Và khi gần gũi, mọi người chú ý đến nhau, đến sự tồn tại của người kia. Nếu có người dễ bị tổn thương, thì người có thẩm quyền không thể thờ ơ, vô cảm trước thực tế này. Đó là chuyển từ quan sát sang hành động. Có sự nghèo đói trong xã hội chúng ta, cả về kinh tế, tình cảm và tinh thần, và theo tôi, Giáo hội phải chú ý đến loại nghèo này để có thể lên tiếng khi cần. Chúng ta cần thái độ Phục Sinh theo nghĩa từ nguyên, nâng chúng ta lên, giúp chúng ta đứng vững trở lại. Đó là sứ mệnh của chúng tôi.

ĐTC Phanxicô gửi sứ điệp đến Đức Thượng phụ Chính Thống Constantinople nhân lễ thánh Anrê

Ngày 30/11, lễ thánh Anrê Tông đồ, bổn mạng Giáo hội Chính Thống Constantinople và Toà Thượng phụ, Đức Thánh Cha gửi sứ điệp chúc mừng đến Đức Thượng phụ Bartolomeo, Thượng phụ Chính Thống Constantinople, ngài nhấn mạnh, tình huynh đệ và chứng tá của các Kitô hữu là một thông điệp cho thế giới đang bị chiến tranh và bạo lực tàn phá.

Như truyền thống lâu đời, ngày 29/6, Toà Thượng phụ Constantinople thường gửi phái đoàn đến Roma để mừng lễ thánh Phêrô, bổn mạng Giáo hội Công giáo; và vào ngày 30/11, Toà Thánh cũng gửi một phái đoàn đến Thổ Nhĩ Kỳ để mừng lễ thánh Anrê, bổn mạng của Giáo hội Chính Thống Constantinople.

Đức Hồng Y Kurt Koch, Tổng trưởng Bộ Cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, đã dẫn đầu phái đoàn của Toà Thánh đến Thổ Nhĩ Kỳ tham dự Thánh lễ kính thánh Anrê tại nhà thờ thánh George, và gặp gỡ Đức Thượng phụ và Uỷ ban Thánh hội đồng về quan hệ với Giáo hội Công giáo. Đức Hồng Y đã trao Sứ điệp của Đức Thánh Cha cho Đức Thượng phụ và ngài đã đọc trước khi buổi cử hành phụng vụ kết thúc.  

Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha đề cập đến Sắc lệnh Unitatis Redintegratio về Đại kết của Công đồng Vatican II, vừa kỷ niệm 60 năm ban hành vào ngày 21/11. Văn kiện đã mở đường cho đối thoại với các Giáo hội Kitô khác, và cuộc đối thoại của Giáo hội Công giáo với Chính thống đã và tiếp tục đạt được hiệu quả, với mong muốn sự hiệp thông trọn vẹn, cùng chia sẻ một chén Thánh Thể.

Mặc dù mong ước hiệp nhất trọn vẹn vẫn chưa đạt được, nhưng Đức Thánh Cha cho rằng những chia rẽ từ hơn một thiên niên kỷ trước không thể giải quyết trong vòng vài thập kỷ, và mục tiêu tái lập sự hiệp thông trọn vẹn có chiều kích cánh chung, vì con đường dẫn đến hiệp nhất trùng với con đường cứu rỗi đã được ban trong Chúa Giêsu Kitô, và Giáo hội chỉ tham gia trọn vẹn vào cuối thời gian. Điều này không có nghĩa là quên đi mục tiêu cuối cùng mà ai cũng khao khát, cũng không mất hy vọng rằng sự hiệp nhất có thể đạt được trong tiến trình lịch sử.

Đức Thánh Cha tiếp tục, nhắc đến kỷ niệm 1.700 Công đồng Nicea vào năm tới, cho rằng đây là cơ hội để làm chứng cho sự hiệp thông đang phát triển. Ngài mong muốn có thể được cử hành sự kiện trọng đại này với Đức Thượng phụ, và cám ơn tất cả những ai đang nỗ lực làm việc để biến điều này có thể. Theo ngài, cử hành sự kiện này chắc chắn sẽ củng cố môi liên kết đã có và khuyến khích tất cả các Giáo hội làm chứng trong thế giới ngày nay. Tình huynh đệ đã sống và chứng tá của các Kitô hữu cũng sẽ là một thông điệp cho thế giới đang bị chiến tranh và bạo lực tàn phá.

Kết thúc sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi Giáo hội Chính thống Constantinople hiệp nhất cầu nguyện cho hoà bình ở Ucraina, Palestine, Israel, Libăng và tất cả những khu vực đang có những cuộc chiến. Ngài phó thác tất cả cho sự chuyển cầu của hai thánh Phêrô và Anrê.


Đức Giáo Hoàng Phanxicô xác nhận kế hoạch thăm Thổ Nhĩ Kỳ để kỷ niệm công đồng Nicaea lịch sử

Brockhaus của CNA, ngày 28 tháng 11 năm, loan tin: Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói với một nhóm các nhà thần học vào thứ năm rằng ngài có kế hoạch thăm Thổ Nhĩ Kỳ để kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Ni-xê-a vào năm 2025.

Bartholomew I, Thượng phụ Chính thống giáo Đông phương của Constantinople, đã dự đoán rằng Đức Phanxicô sẽ thực hiện chuyến đi trong các bình luận với các phóng viên vào tháng 5. Vào tháng 9, ngài xác nhận rằng chuyến đi chung dự kiến sẽ diễn ra vào cuối tháng 5 năm 2025.

Công đồng Ni-xê-a diễn ra tại thành phố cổ Ni-xê-a vào năm 325 sau Công nguyên thuộc Đế quốc La Mã cũ, hiện là thành phố İznik ngày nay, ở phía tây bắc Thổ Nhĩ Kỳ, cách Istanbul khoảng 70 dặm.

“Tôi dự định sẽ đến đó”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với các thành viên của Ủy ban Thần học Quốc tế vào ngày 28 tháng 11.

Ngài nói rằng Công đồng Ni-xê-a “là một cột mốc trong hành trình của Giáo hội và của toàn thể nhân loại, bởi vì đức tin vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã nhập thể vì chúng ta và vì sự cứu rỗi của chúng ta, đã được hình thành và tuyên xưng như một ngọn đèn soi sáng ý nghĩa của thực tại và vận mệnh của toàn bộ lịch sử”.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gặp Ủy ban Thần học Quốc tế trong cuộc họp toàn thể của họ tại Vatican. Ngài lưu ý rằng điều quan trọng là cuộc họp của ủy ban bao gồm việc soạn thảo một tài liệu về “ý nghĩa hiện tại của đức tin được tuyên xưng tại Ni-xê-a”.

“Một tài liệu như vậy có thể có giá trị, trong suốt năm Thánh, để nuôi dưỡng và đào sâu đức tin của các tín hữu và, bắt đầu từ hình ảnh Chúa Giêsu, cũng cung cấp những hiểu biết sâu sắc và suy gẫm hữu ích cho một mô hình văn hóa và xã hội mới, được truyền cảm hứng chính xác từ nhân tính của Chúa Kitô,” Đức Giáo Hoàng nói.

Công đồng Ni-xê-a là công đồng đại kết đầu tiên trong Giáo hội. Công đồng này được Giáo Hội Công Giáo, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương, và các cộng đồng Kitô giáo khác chấp nhận tính hợp lệ của các công đồng của giáo hội sơ khai.

Nó có trước Ly giáo Can-xê-đoan — đã tách hiệp thông Chính thống giáo Đông phương khỏi Rome — hơn 100 năm và trước Đại ly giáo — đã tách Giáo hội Chính thống giáo Đông phương khỏi Rome — hơn 700 năm.

Trong công đồng, các giám mục đã lên án tà giáo Ariô, là tà giáo cho rằng Chúa Con được Chúa Cha tạo ra. Ariô, một linh mục sẽ bị vạ tuyệt thông vì truyền bá tà giáo, đã không chấp nhận rằng Chúa Con đồng hằng hữu với Chúa Cha.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói trong một cuộc họp với phái đoàn của Tòa Thượng phụ Đại kết Constantinople vào tháng 6 rằng ngài "hết lòng" muốn thực hiện chuyến đi đến Ni-xê-a để kỷ niệm ngày kỷ niệm quan trọng với Đức Bartholomew I.

Nếu ngài đến Thổ Nhĩ Kỳ, một chuyến đi vẫn chưa được Vatican xác nhận, thì chuyến đi sẽ diễn ra trong bối cảnh Năm Thánh bận rộn của Đức Giáo Hoàng.

“Công đồng Ni-xê-a, khi khẳng định rằng Chúa Con có cùng bản chất với Chúa Cha, đã nhấn mạnh một điều cốt yếu: trong Chúa Giêsu, chúng ta có thể biết được khuôn mặt của Thiên Chúa và đồng thời, cũng biết được khuôn mặt của con người, khám phá ra chính mình là con cái trong Chúa Con và là anh em giữa chúng ta,” Đức Phanxicô phát biểu vào thứ năm. “Một tình huynh đệ, một tình huynh đệ bắt nguồn từ Chúa Kitô, trở thành một nhiệm vụ đạo đức cơ bản đối với chúng ta.”

“Thực thế, ngày nay, trong một thế giới phức tạp và thường xuyên phân cực, bị đánh dấu một cách bi thảm bởi xung đột và bạo lực, tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải trong Chúa Kitô và được ban cho chúng ta trong Chúa Thánh Thần trở thành lời kêu gọi mọi người học cách bước đi trong tình huynh đệ và trở thành những người xây dựng công lý và hòa bình,” ngài nói thêm.

Trong bài phát biểu trước các nhà thần học của ủy ban thần học quốc tế, Đức Giáo Hoàng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tính đồng nghị.

“Tôi muốn nói rằng đã đến lúc phải thực hiện một bước đi dũng cảm: phát triển một nền thần học về tính đồng nghị, một sự suy tư thần học giúp đỡ, khuyến khích và đồng hành với tiến trình thượng hội đồng, hướng đến một giai đoạn truyền giáo mới, sáng tạo hơn và táo bạo hơn, lấy cảm hứng từ kerygma [giáo lý sơ truyền] và liên quan đến mọi thành phần của Giáo hội,” ngài nói.

Chiếc xe chạy điện mới của Đức Phanxicô

image.png

Đức Phanxicô nhận chìa khóa chiếc xe giáo hoàng mới của ngài!

Ngày thứ tư 4 tháng 12, Đức Phanxicô nhận chìa khóa chiếc xe giáo hoàng mới của ngài. Đây là chiếc xe điện của hãng Mercedes-Benz. Nhà sản xuất cho biết chiếc SUV này “được điều chỉnh để phù hợp với tốc độ thấp để đi trong các buổi tiếp kiến ở Quảng trường Thánh Phêrô. Chiếc xe “không phát thải”, mẫu xe độc đáo này được hãng Mercedes-Benz sản xuất để phù hợp với tinh thần Thông điệp Laudato si’. Xe mang bảng số Vatican SCV 1 (Stato della Città del Vaticano).

Năm 1930, hãng xe Mercedes-Benz cung cấp chiếc xe đầu tiên cho giáo hoàng. Ông Marc Langenbrinck, giám đốc điều hành hãng xe giải thích: “Đó là niềm tự hào và niềm vui của các đội chúng tôi. Kể từ khi bắt đầu dự án năm 2023, tổng cộng có 100 người đã làm việc trong quá trình sản xuất, nối tiếp một truyền thống lâu đời gần cả thế kỷ, chiếc xe đầu tiên chúng tôi làm các giáo hoàng là năm 1930.”

Xe được các chuyên gia làm tại ba nơi: Rôma, Graz ở Áo và Sindelfingen ở Đức. Dự án được quản lý ở Rôma, hệ thống điện được làm ở Graz, thân xe và bên trong xe được làm ở xưởng Sindelfingen. Các công nhân và chuyên gia của ba nhóm có mặt khi giao chìa khóa xe cho Đức Phanxicô.

Bốn động cơ điện được lắp đặt để xe có thể di chuyển chậm nơi công cộng. Pin có thể dùng trong phạm vi 400 cây số, ghế ngồi và tay vịn được sưởi ấm để phù hợp với thời tiết mùa đông. Mái bằng mica có hệ thống chiếu sáng để giáo dân nhìn thấy Giáo hoàng rõ hơn. Lối vào xe được làm thuận tiện để Đức Phanxicô dễ lên xuống, ghế xoay và có thể điều chỉnh độ cao. Vì lý do bảo mật nên các chuyên gia không nói về các thiết bị an toàn. Sau vụ mưu sát Đức Gioan-Phaolô II ngày 13 tháng 5 năm 1981, khi đó ngài đi chiếc Fiat, từ đó các hình thức bảo mật quan trọng cho xe giáo hoàng đã được thiết lập.

Chiếc xe mới này không phải là chiếc xe điện đầu tiên của giáo hoàng, năm 2012, Đức Bênêđíctô XVI nhận chiếc xe hiệu Renault.

Tháng 11 năm 2023, hãng xe Volkswagen đã cung cấp 30 chiếc xe điện cho Vatican, nhằm khuyến khích quá trình chuyển đổi sinh thái.


Người dân Iran đang ngày càng mất niềm tin vào các lãnh tụ Ayatollah và chế độ thần quyền Hồi giáo với những lời hứa rỗng tuếch.

Theo một cuộc thăm dò nội bộ ẩn danh, 80% người dân Iran giờ đây muốn một chính phủ dân chủ, và nhiều người đang rời bỏ Hồi giáo.

Đây cũng là một quốc gia có tỷ lệ nghiện ma túy cao nhất thế giới.

Một quốc gia mà tham nhũng hoành hành.

Một quốc gia mà hơn một nửa dân số sống dưới mức nghèo khổ.

Người dân Iran nhìn vào thực trạng này và tự hỏi:  "Nếu đây là những gì Hồi giáo mang lại trong 45 năm qua, chúng tôi không hứng thú nữa, chúng tôi muốn tìm hiểu những lựa chọn khác."

Theo Todd Nettleton của tổ chức "The Voice of the Martyrs", một trong những lựa chọn mà nhiều người đang hướng đến là Chúa Giê-su, với ít nhất 1 triệu người Hồi giáo được cho là đã rời bỏ Hồi giáo để cải đạo sang Cơ đốc giáo.

 Chính quyền phản ứng ra sao?

Chúng tôi nghe rằng 50.000 trong số 75.000 nhà thờ Hồi giáo đã đóng cửa, và chắc chắn chính quyền không dễ dàng chấp nhận điều này.

Đây không phải là điều khiến chính quyền vui vẻ, và trên thực tế, họ đang tìm cách củng cố quyền lực của mình, đồng thời đàn áp bất kỳ sự bất đồng nào. Họ chắc chắn coi sự phát triển của nhà thờ và hoạt động truyền giáo Cơ đốc như một hình thức phản kháng.

Chúng tôi đã nghe nhiều câu chuyện trong năm nay về việc các nhóm học Kinh Thánh tại nhà bị đột kích. Tất cả những người tham dự đều bị chụp ảnh, thẩm vấn, những người lãnh đạo buổi họp thường bị bắt giữ, bị giam và bỏ tù.

 

Sự dung thứ từ gia đình và bạn bè

Nettleton cho rằng gia đình và bạn bè thường khoan dung hơn chính quyền đối với việc rời bỏ Hồi giáo.

Họ có thái độ như: "Nếu bạn đã tìm thấy thứ gì đó phù hợp với bạn, dù là Chúa Giê-su, thuyết vô thần, hay bất cứ điều gì khác, miễn là nó có tác dụng với bạn, thì tôi vui mừng cho bạn. Tôi biết Hồi giáo không hiệu quả, nên tôi mừng là bạn đã tìm thấy điều gì đó tốt hơn."

 

Xu hướng trong thế giới Hồi giáo

Tôi nghĩ những gì đang diễn ra ở đó thực sự phản ánh điều đang xảy ra trên toàn thế giới Hồi giáo.

Don Shank, giám đốc điều hành của một tổ chức truyền giáo, giải thích rằng nhiều người Hồi giáo đang trải qua những giấc mơ và khải tượng, giúp họ tìm thấy mục đích và sự hiểu biết khác biệt về Chúa.

Chúng tôi nhận được phản hồi từ các thính giả, họ nói rằng: "Giờ tôi hiểu rằng Chúa yêu thương tôi. Trước đây tôi luôn nghĩ rằng Chúa muốn trừng phạt tôi". Tôi nghĩ có một sự thức tỉnh đang diễn ra, như tôi đã nói, trên khắp thế giới Hồi giáo.

Shank cho biết các chương trình phát thanh của tổ chức Tide Ministry đang nhận được phản hồi tích cực từ Afghanistan, nơi Taliban đặt ra mối đe dọa lớn đối với những người tìm kiếm thông tin từ các tín đồ Cơ đốc giáo bí mật trong nước.

Có rất nhiều sự nghi ngờ. "Nếu tôi gặp những người này và chia sẻ rằng giờ tôi đã trở thành tín đồ, liệu họ có thực sự là tín đồ hay chỉ đang cố gắng xác định tôi là ai?"

Đây không chỉ đơn thuần là việc bị xa lánh hay bị gia đình từ bỏ; đó thực sự là mối đe dọa đến tính mạng. Chấp nhận cuộc sống mới trong Đấng Christ đồng nghĩa với việc chấp nhận khả năng mất mạng trong thế giới này.

Cơ đốc giáo cũng đang lan rộng tại Yemen, nơi Joshua Project báo cáo rằng tốc độ tăng trưởng của các tín đồ Cơ đốc gần gấp đôi mức trung bình toàn cầu.

Ngay bên cạnh, Nettleton nhận thấy chế độ quân chủ Ả Rập Saudi đang trở nên khoan dung hơn đôi chút với Cơ đốc giáo và các nhà thờ của họ.

Tất nhiên, không phải là họ đón nhận một cách cởi mở, nhưng chỉ đơn giản là sự thừa nhận rằng điều này có thể xảy ra, rằng có thể có các tín đồ Cơ đốc ở đây, và có lẽ điều đó không phải là tệ nhất trên thế giới.

Đây là một sự thay đổi lớn so với những gì chúng ta đã thấy cách đây 10, 15 hoặc 20 năm.

Một làn sóng từ Thánh Linh của Chúa đang mang đến sự thay đổi, có thể cuối cùng sẽ không chỉ biến đổi Iran mà cả toàn bộ Trung Đông.

Gary Lane, CBN News


Chúng tôi đang gặp rắc rối: Các linh mục Công Giáo than thở về một nhóm thánh chiến khác đang xâm nhập vào Nigeria

Hai linh mục Công Giáo đến từ Nigeria đã bày tỏ mối quan ngại sâu sắc về tình hình an ninh ngày càng xấu đi ở quốc gia Tây Phi này, lưu ý rằng hoạt động gần đây của nhóm thánh chiến Lakurawa ít được biết đến ở phía tây bắc đất nước này gây ra rắc rối cho khu vực vẫn đang phải chiến đấu với cuộc nổi loạn của Boko Haram.

Nhóm thánh chiến Lakurawa được cho là lần đầu tiên xuất hiện ở Tây Bắc Nigeria vào năm 2018 khi nhóm này bắt đầu giúp người dân địa phương chống lại các băng đảng vũ trang được gọi là bọn cướp.

Nhóm này, được cho là một nhánh của Nhà nước Hồi giáo Tây Phi, gọi tắt là ISWAP, đã xuất hiện trở lại sau cuộc đảo chính tháng 7 năm 2023 tại Niger trong các cộng đồng chăn nuôi dọc biên giới Nigeria-Niger, và dần dần trở nên hiếu chiến.

Người dân địa phương biết rằng họ đang phải đối phó với một nhóm thánh chiến chết người khác khi vào ngày 8 tháng 11, nhóm này tấn công một cộng đồng nông thôn ở bang Kebbi, Tây Bắc Nigeria và chém chết 15 người. Nhóm này cũng làm bị thương một số dân làng và lấy trộm gia súc.

Trong một cuộc phỏng vấn với ACI Africa vào ngày 20 tháng 11, Cha George Ehusani, người sáng lập Viện Tâm linh - Tâm lý, gọi tắt là PSI và Giám đốc điều hành của Quỹ Lãnh đạo Lux Terra, đã bày tỏ lo ngại rằng nhóm thánh chiến mới có thể đang dần biến khu vực Tây Bắc Nigeria thành thành trì của mình, một tình huống mà vị linh mục cho biết sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng bất ổn của khu vực.

“Chúng tôi có sự bất an đến từ nhiều hướng khác nhau,” Ehusani nói khi ACI Africa hỏi ông về những gì đang làm Nigeria đau khổ. “Chúng tôi có một nhóm khủng bố mới nổi lên khoảng hai tuần trước ở phía Tây Bắc Nigeria. Nhóm này có liên hệ với Nhà nước Hồi giáo, và chúng tôi nghe nói các thành viên đến từ Niger,” ông nói.

Cha Ehusani giải thích rằng các thành viên Lakurawa đã bị buộc tội bắt cóc, giết người và áp đặt luật sharia nghiêm ngặt đối với người dân địa phương.

“Lakurawa xâm chiếm toàn bộ một thị trấn, đánh thuế người dân và bắt đầu điều hành xã hội như một chính phủ”, ngài nói với ACI Africa, đồng thời nói thêm, “Chúng tôi đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Lakurawa thậm chí còn ngăn cản người dân địa phương đến trang trại của họ, buộc họ phải làm việc tại các trang trại của những kẻ thánh chiến”.

Nhóm thánh chiến mới này hứa sẽ bảo vệ người dân địa phương khỏi những kẻ tấn công có vũ trang, Cha Ehusani nói. “Người dân không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải nộp thuế để đổi lấy sự bảo vệ. Họ là một nhóm khủng bố được trả tiền để bảo vệ dân làng khỏi các nhóm khủng bố đối thủ của họ.”

Cha Ehusani đang điều hành PSI, một sáng kiến giúp đào tạo và hỗ trợ các chuyên gia chữa lành chấn thương tâm lý - tinh thần ở một quốc gia đang chứng kiến số nạn nhân chấn thương gia tăng do chủ nghĩa thánh chiến lan rộng và các hình thức bạo lực khác.

Cha Ehusani, người cung cấp liệu pháp cho các linh mục từng bị bắt cóc ở Nigeria, đã chia sẻ thêm với ACI Africa về sự tồn tại của các nhóm khủng bố đối thủ ở Nigeria.

“ Có lần, một linh mục bị bắt cóc và được thả ra đã nói với tôi rằng giữa những tên cướp và chiến binh thánh chiến, có nhiều nhóm đối địch khác nhau. Cha ấy nói rằng việc một nhóm cướp giải thoát con tin không có nghĩa là con tin được tự do. Một người có thể được giải thoát và ngay lập tức bị bắt cóc bởi một nhóm cướp đối thủ khác đang chờ sẵn”.

Cha Ehusani đã phát biểu với ACI Africa trong chuyến thăm khuôn viên trường PSI tại Kenya. Cha đi cùng với Cha Hyacinth Ichoku, Phó hiệu trưởng trường Đại học Veritas Abuja, trường Đại học Công Giáo tại Nigeria đã chấp nhận liên kết với PSI.

Làm sáng tỏ thêm về nguồn gốc của nhóm Lakurawa, Cha Ichoku nói với ACI Africa, “Vài tuần trước, một số binh lính đã bị giết ở Chad. Tổng thống Chad muốn loại bỏ tất cả những người có liên quan đến vụ giết hại binh lính. Đây là lý do dẫn đến sự ra đời của nhóm này.”

Người đã ly dị và tái hôn có được rước lễ không?


Giáo hội chính xác nói gì về những người ly dị và tái hôn: tìm hiểu để hiểu rõ hơn về cách thức một quy tắc được phát triển dưới triều Đức Phanxicô.

Họ vẫn bị cấm xưng tội rước lễ phải không? Mười năm trước chủ đề này được tranh luận nhiều trong Thượng Hội đồng Gia đình, bây giờ ít được nói đến và gần như bị lu mờ. Tuy nhiên, đây là một trong những chủ đề giúp chúng ta hiểu một tiêu chuẩn mới đang được phát triển dưới triều Đức Phanxicô. Trong ba bước.

Trong bài phát biểu trước cộng đồng học thuật của Viện Thần học Giáo hoàng Gioan Phaolô II, ngày thứ hai 25 tháng 11, Đức Phanxicô nhắc lại: “Logic hội nhập là chìa khóa chăm sóc mục vụ cho những người ly dị và tái hôn. Sự hiện diện của họ trong Giáo hội chứng tỏ họ mong muốn duy trì đức tin dù họ đã có những kinh nghiệm đau thương.”

Bước 1: Phân định

Trong chương VIII, điểm 300 của tông huấn Niềm vui Tình yêu, Amoris Laetitia, ngài không đưa ra “luật chung mới áp dụng cho mọi trường hợp”, ngài viết: “Các linh mục có sứ mệnh đồng hành với các đương sự, trên con đường biện phân theo giáo huấn của Giáo Hội và dưới sự hướng dẫn của Giám mục.”

Bước 2: Phiên dịch địa phương

Ngày 5 tháng 9 năm 2016, các giám mục vùng Buenos Aires, giáo phận cũ của ngài đã đưa ra cách giải thích của họ về đoạn này, đồng thời công bố “các tiêu chuẩn cơ bản để áp dụng chương VIII của Tông huấn Amoris laetitia”.

Trong tài liệu này, các giám mục Argentina tạo điều kiện cho những người ly dị và tái hôn có thể được xưng tội rước lễ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “đồng hành với giáo xứ để cộng đồng phát triển trong tinh thần hiểu biết và đón nhận, không tạo sự nhầm lẫn trong giáo huấn hôn nhân bất khả phân ly của Giáo hội”.

Bước 3: Xác nhận của Giáo hoàng

Giám mục Sergio Alfredo Fenoy, đại biểu của vùng mục vụ Buenos Aires đã viết thư cho Đức Phanxicô để trình bày những tiêu chuẩn mới này. Trong câu trả lời, Đức Phanxicô đánh giá: “Tài liệu rất hay và giải thích đầy đủ ý nghĩa chương VIII của Tông huấn Amoris Laetitia. Không có cách giải thích nào khác. Và tôi chắc chắn nó sẽ mang lại nhiều điều tốt đẹp.”

Một sắc lệnh được Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin ký ngày 5 tháng 6 năm 2017 ghi nhận: “Giáo hoàng ra sắc lệnh hai tài liệu trước đó (của các giám mục Argentina và thư của Đức Phanxicô) sẽ được đăng trên trang web của Vatican và trên Acta Apostolicae Sedis (tạp chí chính thức của Tòa thánh) như huấn quyền đích thực. Một tiêu chuẩn mới ra đời. Không cần phải thêm gì.

 Năm 2023, vấn đề ly hôn và tái hôn được xóa khỏi tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng về tính đồng nghị. Tài liệu ghi rõ: “Một số câu hỏi nảy sinh từ cuộc tham khảo ý kiến của giáo dân liên quan đến các chủ đề như chủ đề người ly dị và tái hôn đã được phát triển trong giáo quyền và thần học, trong ‘Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Amoris laetitia’.”

Bước quan trọng nhất vẫn là có bản dịch cụ thể. Vào cuối buổi tiếp kiến ngày thứ hai 25 tháng 11 tại phòng Clémentine của Dinh Tông Tòa, một nhóm nhỏ người Pháp tham gia hỗ trợ những người ly hôn – trong các hiệp hội Chrétiens Divoués, Chemins d’Espère, Sedire Lyon và mạng lưới Sedire của Phái bộ Truyền giáo Pháp – đã tặng Đức Phanxicô quyển sổ vàng của các người tham dự trong đó có khoảng 50 lời chứng. Bà Nathalie Mignonat, của Sedire Lyon cho biết: “Các tiêu chuẩn của Vatican đã rõ. Chủ đề hiện nay nằm trên địa bàn “cảm thức đức tin, sensus fidei” của người được rửa tội.

Mikali Nguyễn

unread,
Dec 13, 2024, 9:44:10 PM12/13/24
to alphonsefamily

Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng”.

Con đường tôi đi dù còn quanh co, chưa bằng phẳng nhưng tâm hồn tôi được lắp đầy với Lời Chúa. Lời Người là ánh sáng rọi chiếu con đường gồ ghề tôi đi, giúp tôi nhận ra những gì mình phải san bằng. Lời Chúa là niềm vui, niềm hy vọng, niềm cậy trông, là sức mạnh giúp tôi không nản lòng vượt lên trên những yếu đuối và thử thách, tiếp tục đứng dậy mỗi khi tôi vấp ngã.

Như Thánh Phanxicô thành Sales đã nói: Con muốn bắt đầu cuộc sống thánh đức, không những con phải từ bỏ tội, song còn phải cắt tỉa khỏi lòng con mọi vương vấn tội” Xin Thần Khí Chúa ban cho con ơn khôn ngoan và bền đỗ để con luôn biết lắng nghe và sống dưới sự hướng dẫn của Thần Khí trên con đường về nhà Chúa.


Lý do giáo hoàng Phanxicô vắng mặt tại lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris

Nhà thờ Đức Bà Paris luôn có mối liên hệ bền chặt với các đời giáo hoàng. Nhưng trong buổi lễ khánh thành trùng tu nhà thờ hôm nay, 07/12/2024, đức giáo hoàng Phanxicô, nay đã 88 tuổi đã vắng mặt. Một quyết định đã làm dấy lên nhiều thắc mắc.

Chính điện Nhà thờ Đức Bà Paris sau khi được trùng tu. Hình chụp ngày 29/11/2024

Thông tín viên đài RFI, Eric Sénanque, từ Roma giải thích :

Sự vắng mặt của Ngài đã được bình luận rộng rãi, nhất là một tuần trước chuyến thăm đến đảo Corse, nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ không đến Paris để dự lễ mở cửa trở lại nhà thờ chính tòa. Tuy nhiên, một thông điệp được viết bằng tay của ngài sẽ được Đức ông Migliore, sứ thần tòa thánh tại Paris, đọc vào tối nay. Vị giám chức người Ý nói với truyền thông của Vatican rằng, « nếu Đức Thánh Cha đến Paris để dự lễ khánh thành, ngài sẽ là ngôi sao của ngày hôm đó, nhưng ngài muốn rằng ngôi sao đó phải là Nhà thờ Đức Bà ».

Tại Roma, người ta không ngừng nhắc lại rằng vị giáo hoàng người Argentina ưu tiên đến thăm các vùng ngoại vi, nghĩa là những nước nghèo, còn số khác thì giải thích đó là vì mong muốn không bị công cụ hóa tại một buổi lễ cũng sẽ mang tính chính trị, như Emmanuel Macron mong muốn.

Tuy nhiên, mối liên hệ giữa Nhà thờ Đức Bà Paris với các đời giáo hoàng gần đây nhất vẫn bền chặt mà bằng chứng là quảng trường phía sau nhà thờ mang tên Giáo hoàng Gioan XXIII hay các chuyến thăm của Gioan Phaolô II năm 1980 hoặc Benedicto XVI vào năm 2008.

Thêm một giai thoại, đó là dưới chân Nhà thờ Đức Bà, một bức tượng bằng sáp giáo hoàng Phanxicô đã được khánh thành vào tháng 4/2015 trước khi được chuyển đến bảo tàng tượng sáp Grévin. Lễ khánh thành hôm nay sẽ được theo dõi từ Roma, tại  giáo xứ Saint-Louis của kiều dân Pháp cùng sự có mặt của bà đại sứ Pháp bên cạnh Tòa Thánh.

Lãnh đạo hơn 30 nước tham dự lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris

Ngày 07/12/2024, Nhà thờ Đức Bà Paris đã mở cửa trở lại sau 5 năm trùng tu kể từ vụ hỏa hoạn 2019. Tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump, tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky, thái tử Anh William, cùng hơn 30 nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ tham dự lễ mở cửa trở lại công trình kiến trúc lịch sử này.

image.png
Nhà thờ Đức Bà Paris ngày 06/12/2024, một hôm trước lễ mở cửa trở lại sau 5 năm trùng tu kể từ vụ hỏa hoạn hôm 15/04/2019. 

Vào lúc 18 giờ 20, tại quảng trường Nhà thờ Đức Bà, tổng thống Pháp Emmanuel Macron cùng phu nhân sẽ đón tiếp lãnh đạo các nước tham dự buổi lễ. Vì dự báo có gió mạnh tại vùng Paris, toàn bộ nghi thức dự kiến phải diễn ra bên trong nhà thờ, bao gồm bài diễn văn của tổng thống Pháp Emmanuel Macron, mà về nguyên tắc phải được đọc tại quảng trường trước cửa nhà thờ, để bảo đảm nguyên tắc tách biệt Nhà nước và Giáo hội.

Vào lúc 19 giờ, tổng giám mục Paris Laurent Ulrich sẽ chính thức mở cửa nhà thờ. Trên đài France Info, tổng công trình sư trùng tu, ông Philippe Jost, tin tưởng các vị khách mời đầu tiên chắc chắn sẽ bất ngờ, và ông « rất hạnh phúc » khi « toàn thế giới » có cơ hội chứng kiến « thành tựu của nỗ lực tập thể và niềm tự hào của toàn nước Pháp ». 

Nghi lễ chính thức gồm hai phần. Phần đầu tiên, mang tính thế tục, dành cho một bộ phim về công trình trùng tu nhà thờ, cuộc diễu hành của 160 lính cứu hỏa và những nghệ nhân ngành xây dựng, vũ khúc mang âm hưởng Địa Trung Hải « La passacaille » của Haendel do hai anh em nhạc sĩ cổ điển Renaud và Gautier Capuçon trình diễn, và kết thúc với bài diễn văn của tổng thống Macron.

Một tiêu điểm của buổi lễ « mở cửa trở lại » Nhà thờ Đức Bà là nghi thức « đánh thức cây đàn đại phong cầm » lớn nhất nước Pháp. Đàn không bị hỏng do hỏa hoạn, nhưng được tháo dỡ toàn bộ trước khi được lắp lại. Theo tổng giám mục Paris, đại phong cầm « sẽ được đánh thức bởi một nghi thức tuyệt đẹp, khép lại với bài thánh ca Ngợi Khen (Magnificat) ». Phần nghi lễ tôn giáo dự kiến kết thúc vào lúc 20 giờ 40.

An ninh được siết chặt tương tự với kỳ Thế Vận Hội. Theo sở cảnh sát, Paris được đặt trong tình trạng « báo động nguy cơ khủng bố rất cao ».  Khoảng 6.000 cảnh sát và hiến binh được huy động.

Ngày 08/12/2024, Nhà thờ Đức Bà đã mở cửa cho công chúng tham dự buổi thánh lễ đầu tiên vào lúc 18 giờ 30. Giấy vào cửa đã hết ngay sau khi mở đăng ký trên mạng, kể cả trong tuần lễ mở cửa đầu tiên tiếp theo. Theo tổng giám mục Paris, Laurent Ulrich, giai đoạn « mở cửa trở lại » Nhà thờ Đức Bà Paris sẽ kéo dài sáu tháng, cho đến lễ Ngũ tuần, 08/06/2025.

Thánh lễ đầu tiên tại Nhà thờ Đức Bà Paris


Chúa nhật ngày 08 tháng Mười Hai vừa qua, Đức cha Laurent Ulrich, Tổng giám mục Tổng Giáo phận Paris, đã chủ sự thánh lễ đầu tiên, tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà ở thủ đô Pháp, 5 năm sau khi thánh đường này bị hỏa hoạn và được tái thiết suốt trong những năm qua.


image.png      image.png

Việc khánh thành nhà thờ này đã được cử hành chiều ngày thứ Bảy trước đó, với sự hiện diện của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron cùng với gần 40 vị Quốc trưởng và Thủ tướng chính phủ các nước, trong đó có Tổng thống tân cử Donald Trump của Mỹ, Tổng thống Zelensky của Ucraina.

Thánh lễ đồng tế hôm Chúa nhật do Đức Tổng giám mục Ulrich chủ tế cùng với gần 100 Hồng y và Giám mục từ Pháp và nhiều nước trên thế giới, trong đó có Đức Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục New York, Đức Hồng y Dominik Duka, Dòng Đa Minh, nguyên Tổng giám mục Giáo phận Praha, thủ đô cộng hòa Tiệp, Đức Hồng y Béchara Rai, Giáo chủ Công giáo Maronite bên Liban. Ngoài ra, có 106 linh mục đại diện cho 106 giáo xứ ở Paris, và mỗi Giáo hội Công giáo nghi lễ Đông phương được một linh mục đại diện đồng tế.

Trong số các nhân vật hiện diện cũng có ông bà Tổng thống Pháp, và đại Quận công Luxemburg cùng với phu nhân.

Đức Tổng giám mục Ulrich đã làm phép nước và rảy trên mọi người cũng như trên bục giảng và bàn thờ để làm phép.

Trong bài giảng, ngài nhận xét rằng từ thế hệ này sang thế hệ khác, các tín hữu đã cảm nghiệm Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài. “Và mặc dù tai ương bất hạnh và bạo lực không ngừng xảy ra trong lịch sử nhân loại, sự sống con người là điều quý giá đối với Chúa đến độ luôn luôn và ở mọi nơi Ngài nâng các môn đệ lên để chỉ con đường dẫn đến chiến thắng của sự sống, để cùng nhau xây dựng tình huynh đệ đại đồng”. Đó cũng là điều đã xảy ra với việc tái thiết Nhà thờ Chính tòa Đức Bà này. Và ngày nay, nỗi đau do trận hỏa hoạn Nhà thờ Chính tòa, ngày 15 tháng Tư năm 2019 đã được xóa bỏ, mặc dù nó đã được vượt thắng khi kinh nguyện được dâng lên từ những bờ sông Seine và từ hàng trăm triệu tâm hồn trên thế giới trong trận hỏa hoạn.

Đức Tổng giám mục Giáo phận Paris cũng xin những người hiện diện đừng chỉ hài lòng ở trong Nhà thờ Chính tòa, trong ngày thánh đường này phục hồi vẻ huy hoàng của mình. Ngài nói: “Dù là tín hữu hay không tín hữu, anh chị em đều được mời chia sẻ niềm vui của các tín hữu đang chúc tụng Thiên Chúa và đã phục hồi được thánh đường mẹ của họ.”

Trước khi cử hành thánh lễ, sau khi hát kinh Cầu Các Thánh, Đức Tổng giám mục Ulrich đã thánh hiến bàn thờ mới bằng đồng, do nghệ nhân Guillaume Bardet thực hiện. Ngài đặt trong bàn thờ này thánh tích của năm vị thánh, gồm ba nữ và hai nam.

Nguyên thủ Pháp tiếp Donald Trump và Zelensky trước lễ khánh thành trùng tu Nhà thờ Đức Bà Paris

Phủ tổng thống Pháp, ngày 06/12/2024, thông báo, tổng thống Mỹ đắc cử Donald Trump và đồng nhiệm Ukraina Volodymyr Zelensky sẽ được nguyên thủ quốc gia Pháp lần lượt tiếp đón tại đ
iện Elysée trước khi dự lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris  tối hôm nay, 07/12/2024.




Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đón Tổng thống đấc cử Donald Trump và Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky tại điện Elysée, Paris. 

Điện Elysée không nêu rõ là có cuộc họp giữa ba bên hay không nhưng theo một quan chức cao cấp Ukraina một cuộc gặp song phương Trump – Zelensky là « có thể » cũng như là nhiều cuộc họp khác giữa tổng thống Ukraina với một số nguyên thủ quốc gia hay lãnh đạo chính phủ bên lề sự kiện.

Ngoài ra, đối với Donald Trump, tuy chưa chính thức bước vào Nhà Trắng, nhưng việc đến Paris dự lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà, chuyến xuất ngoại đầu tiên kể từ khi đắc cử tổng thống, đánh dấu sự trở lại ngoạn mục của ông trên trường quốc tế.

Thông tín viên Guillaume Naudin từ Washington cho biết thêm những mục tiêu của Donald Trump trong chuyến công du này :

« Donald Trump thích sự chú ý. Cho chuyến công du nước ngoài đầu tiên kể từ khi đắc cử, chắc chắn không có cách nào tốt hơn  để gây chú ý bằng cách tham gia một sự kiện được cả thế giới theo dõi, dự kiến khoảng 40 nguyên thủ quốc gia sẽ có mặt.

Chỉ riêng sự hiện diện của ông đã biến lễ mở cửa trở lại Nhà thờ Đức Bà Paris thành một sự kiện ngoại giao. Các đồng nhiệm tương lai sẽ phải hối hả vây quanh ông. Theo kế hoạch, tổng thống Pháp Emmanuel Macron sẽ có cuộc gặp song phương với Donald Trump tại điện Elysée trước khi tiếp đồng nhiệm Ukraina Volodymyr Zelensky.

Sẽ là ngạc nhiên nếu hai lãnh đạo Mỹ và Ukraina không gặp nhau kể từ sau cuộc nói chuyện hồi tháng 9/2024 tại tòa tháp Trump ở New York, khi đó tương lai cho Ukraina đã được nêu ra. Donald Trump từng tuyên bố là ông muốn chấm dứt chiến tranh. Như trong suốt phần còn lại của chiến dịch tranh cử, ông đã giải thích rằng ông sẽ giải quyết vấn đề này ngay cả trước khi trở lại Nhà Trắng mà không nêu rõ bằng cách nào.

Vì vậy, đây là dịp để chứng tỏ rằng ông bắt đầu thực hiện điều đó, rằng ông giữ lời hứa và ông giữ vị trí trung tâm, mang tính quyết định trong các quan hệ quốc tế. Thông điệp đưa ra cho cả mục đích đối ngoại lẫn đối nội. Chuyến thăm Nhà thờ Đức Bà sẽ làm hài lòng bộ phận cử tri theo Cơ đốc giáo của ông. Và chuyến đi này cũng sẽ giúp nhắc nhở vai trò của nhiều tổ chức và cá nhân Mỹ trong việc tài trợ tái thiết nhà thờ. »


Những bí mật được khai quật: Những kỳ quan thời trung cổ bên dưới Nhà thờ Notre Dame de Paris

Daniel Esparza, trên Aleteia ngày 10/12/24, tường trình rằng Nhiều hiện vật được phục hồi hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Cluny ở Paris, trong một cuộc triển lãm có tên 'Making the Stones Speak: Medieval Sculptures of Notre Dame.'
Thực vậy, vụ hỏa hoạn năm 2019 tàn phá Nhà thờ Đức Bà là khoảnh khắc đau lòng đối với thế giới. Nhưng giữa sự tàn phá đó đã xuất hiện một món quà bất ngờ: cơ hội khám phá lại những kho báu ẩn giấu bên dưới địa điểm lịch sử này.

Vào năm 2022, khi các đội phục chế chuẩn bị xây dựng lại đỉnh tháp của nhà thờ, các nhà khảo cổ học đã được gọi đến để kiểm tra mặt đất bên dưới công trình. Christophe Besnier và nhóm của ông từ Viện Nghiên cứu Khảo cổ học Phòng ngừa Quốc gia (INRAP) được giao một thời hạn gấp rút — chỉ năm tuần — để điều tra. Mặc dù kỳ vọng hạn chế, nhưng những khám phá của họ đã chứng minh được sự đáng kinh ngạc.

Kho báu bên dưới nhà thờ

Một bài báo được National Geographic công bố giải thích rằng, ngay bên dưới bề mặt, nhóm đã phát hiện ra một chiếc quan tài bằng chì và những tàn tích tuyệt đẹp của tác phẩm điêu khắc thời trung cổ. Những hiện vật này, đã thất lạc trong nhiều thế kỷ, từng được trang trí trên bức bình phong hợp xướng thế kỷ 13 của Nhà thờ Đức Bà. Cấu trúc cao chót vót này vừa là đồ trang trí chính cho thị giác vừa là vật phân chia mang tính biểu tượng, ngăn cách cung thánh với giáo đoàn.

Bức bình phong hợp xướng, bị tháo dỡ vào thế kỷ 18 để hiện đại hóa nhà thờ, đã được chôn tại chỗ. Việc phát hiện lại bức bình phong này đã tiết lộ rất nhiều mảnh đá vôi chạm khắc, bao gồm các hình ảnh mô tả giống như thật về Chúa Kitô và các vị thánh, nhiều bức vẫn còn dấu vết của lớp sơn rực rỡ.

Trong số những phát hiện ấn tượng nhất là bức tượng Chúa Kitô với đôi mắt nhắm nghiền, máu chảy ra từ vết thương do ngọn giáo đâm.

Besnier mô tả chi tiết của tác phẩm điêu khắc là "phi thường", nắm bắt được các nét tinh tế của mí mắt, tai và bàn tay với độ chính xác đáng kinh ngạc.

Một trải nghiệm thời trung cổ được tái tưởng tượng

Vào thời đó, bức bình phong của dàn hợp xướng có hai mục đích. Về mặt chức năng, nó nâng cao hàng giáo sĩ lên trên giáo đoàn để họ có thể công bố Kinh thánh. Về mặt biểu tượng, nó che chắn những phần thiêng liêng nhất của phụng vụ khỏi tầm nhìn của công chúng, tăng cường cảm thức mầu nhiệm.

Vào thế kỷ 13, những người sùng đạo tại Nhà thờ Đức Bà sẽ không nhìn thấy bàn thờ hoặc nghe thấy lời của linh mục trong truyền phép Thánh Thể. Thay vào đó, những tác phẩm điêu khắc sống động trên bức bình phong — minh họa cho Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, từ Bữa Tiệc Ly đến Sự phục sinh — đã làm sống lại các mầu nhiệm đức tin.

Những màu sắc bị lãng quên của Nhà thờ Đức Bà

National Geographic giải thích rằng một tiết lộ đáng ngạc nhiên là những sắc tố sống động từng tô điểm cho các tác phẩm điêu khắc. Khác xa với những khối đá trầm lặng mà chúng ta thấy ngày nay, các tác phẩm chạm khắc của Nhà thờ Đức Bà ban đầu được sơn bằng những tông màu tươi sáng, nổi bật. Phát hiện này gợi ý về sự sống động thời trung cổ của nhà thờ, làm sáng tỏ vai trò của nó như một kiệt tác về mặt thị giác cũng như thiêng liêng.

Các nhà khảo cổ học đã khai quật được khoảng 1,000 mảnh vỡ của bức bình phong ca đoàn, trong đó có khoảng 700 mảnh vẫn còn dấu vết của lớp sơn gốc. Tuy nhiên, phần lớn kho báu này vẫn bị chôn vùi bên dưới sàn nhà thờ. Mặc dù các chuyên gia muốn khai quật thêm, nhưng những nỗ lực phục hồi và bảo tồn khiến điều đó khó có thể xảy ra trong tương lai gần.

Một nhà thờ được đổi mới

Nhiều hiện vật được phục hồi hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Cluny ở Paris, trong một cuộc triển lãm có tên Making the Stones Speak: Medieval Sculptures of Notre Dame. Mở cửa đến ngày 16 tháng 3 năm 2025, triển lãm mang đến cho du khách cái nhìn hiếm hoi về di sản nghệ thuật và tinh thần của nhà thờ.

Nhà thờ Đức Bà hiện được đổi mới — không chỉ về mặt cấu trúc mà còn về khả năng truyền cảm hứng cho sự ngạc nhiên. Những kho báu được phát hiện bên dưới sàn nhà gợi cho chúng ta nhớ về những tầng lớp lịch sử, đức tin và nghệ thuật khiến cho nhà thờ mang tính biểu tượng này trở thành minh chứng sống cho sự sáng tạo và lòng sùng kính của con người.



Đức Thánh Cha chủ sự Thánh lễ kính nhớ Đức Mẹ Guadalupe

Chiều ngày 12/12/2024, Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh lễ tại đền thờ Thánh Phêrô để kính nhớ Đức Mẹ Guadalupe. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói rằng “Trong những giây phút khó khăn của cuộc sống, trong những giây phút hạnh phúc, trong những giây phút thường ngày, chúng ta hãy nhớ những lời của Mẹ: đừng sợ hãi... Lẽ nào Mẹ là Mẹ của con, không ở đây sao? Đây là toàn bộ thông điệp của Guadalupe. Còn điều gì khác thì đó là ý thức hệ”.


Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến sự dịu dàng khi Mẹ nói với Thánh Juan Diego khi hiện ra vào năm 1531 ở Mexico. “Lẽ nào Mẹ là Mẹ của con, không ở đây sao?”. Theo ngài, những lời này cho thấy tình mẫu tử của Mẹ Maria.

Đừng sợ

“Đừng sợ… Mẹ con không có ở đây sao?” Những lời Đức Mẹ nói với Thánh San Diego được Đức Thánh Cha lặp lại nhiều lần trong bài giảng. Ngài cũng lưu ý đến những ý thức hệ muốn lợi dụng mầu nhiệm Guadalupe, muốn lợi dụng thông điệp của Đức Mẹ. Và ngài nêu lên ba điều, “đơn giản” nhưng “tạo nên thông điệp” của Guadalupe. Đó là: “Áo choàng, Mẹ và hoa hồng”.

Tình mẫu tử

Tình mẫu tử của Đức Maria được in dấu trên chiếc áo choàng đó, trên chiếc áo choàng đơn giản đó. Đức Thánh Cha miêu tả tình mẫu tử của Mẹ được thể hiện qua vẻ đẹp của những bông hồng mà người thổ dân tìm thấy và mang trong chiếc áo choàng. Tình mẫu tử của Mẹ đã làm nên phép lạ mang niềm tin vào những tâm hồn có phần hoài nghi của các vị giám chức.

Ý thức hệ

Áo choàng, hoa hồng và Thánh Diego. Đức Thánh Cha nhận xét: “Tất cả những gì được nói về mầu nhiệm Guadalupe nhưng khác với điều này đều là dối trá, và muốn sử dụng mầu nhiệm này cho các ý thức hệ. Ngài nhắc lại rằng ý nghĩa của việc Đức Mẹ Guadalupe hiện ra là để “tôn kính Mẹ” và thực sự nghe Mẹ nói với chúng ta như một người mẹ.

Ghi nhớ thông điệp Guadalupe

Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng thông điệp của Đức Mẹ Guadalupe có thể được tóm gọn trong dòng chữ: “Đừng sợ. Mẹ, là Mẹ của con, không ở đây sao?”. Ngài khuyến khích các tín hữu ghi nhớ những lời này, lắng nghe, thấm nhập vào tâm hồn con người “trong những khoảnh khắc của cuộc sống, trong những khoảnh khắc khó khăn khác nhau của cuộc sống, trong những khoảnh khắc hạnh phúc của cuộc sống, trong những khoảnh khắc hàng ngày của cuộc sống”.

Đây là thông điệp mà Đức Thánh Cha khuyến khích mọi người hiện diện mang theo bên mình: hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe trên tấm áo choàng tilma và lời của Mẹ nói với Thánh Juan Diego.

Lịch sử Đức Mẹ Guadalupe

Vào ngày 9/12/1531, Đức Mẹ đã hiện ra với một người nông dân tên là Juan Diego, trên ngọn đồi Tepeyac ở một ngôi làng gần Thành phố Mexico. Đức Mẹ đã xuất hiện trong trang phục của một công chúa Aztec và nói chuyện với Juan Diego bằng tiếng mẹ đẻ của anh.

Vào ngày 12/12/1531, giữa mùa đông, Juan Diego đã tìm thấy nhiều hoa hồng Castilian - không tìm thấy ở Mexico - và đã thu gom các bông hoa trong tấm áo choàng tilma của anh, và tin rằng đây là phép lạ. Khi anh mở tấm áo choàng của mình để cho một giám mục xem, một hình ảnh đầy màu sắc của Mẹ Maria đã xuất hiện một cách kỳ diệu trên đó.

Tấm áo choàng tilma vẫn được lưu giữ tại Đền thờ Đức Mẹ Guadalupe ở Thành phố Mexico và hàng năm có hơn 12 triệu người đến viếng nơi này.



Tóm tắt Thông điệp Ngày Thế giới Hòa bình của Đức Giáo Hoàng: ‘Chúng ta đều mắc nợ Chúa’

Trong Sứ điệp cho Ngày Thế giới Hòa bình thứ 58 sẽ được cử hành ngày 1/1/2025, có tựa đề  “Xin tha nợ cho chúng con, xin ban bình an của Ngài cho chúng con", Đức Thánh Cha mời gọi cộng đồng quốc tế xóa nợ cho các nước nghèo, tôn trọng sự sống bằng hành động cụ thể là xóa bỏ án tử hình, và dùng một phần số tiền đầu tư cho vũ khí để thành lập quỹ thế giới xóa đói, phát triển giáo dục và chống biến đổi khí hậu



Đức Thánh Cha cầu nguyện cho hòa bình

Sứ điệp gồm 15 số, được chia thành 4 phần: Lắng nghe tiếng kêu của nhân loại đang bị đe dọa; Một sự thay đổi về văn hóa: tất cả chúng ta đều là những người mắc nợ; Hành trình hy vọng với ba đề xuất; và Mục tiêu hòa bình.

Lời cầu chúc hy vọng và bình an

Mở đầu Sứ điệp, Đức Thánh Cha "gửi những lời chúc hòa bình chân thành nhất đến với mọi người nam nữ, đặc biệt là những người cảm thấy chán nản bởi hoàn cảnh sống của mình, bị lên án bởi những lỗi lầm của mình, bị hủy diệt bởi xét đoán của người khác và không thể nhìn thấy một tia hy vọng nào cho cuộc sống của chính mình". Ngài gửi đến mọi người "niềm hy vọng và bình an, bởi vì đây là Năm Ân Sủng nảy sinh từ Trái Tim của Đấng Cứu Chuộc!".

Lắng nghe tiếng kêu của nhân loại đang bị đe dọa

Đức Thánh Cha nhắc lại ý nghĩa truyền thống của Năm Thánh trong Cựu Ước, là năm tha thứ và tự do cho toàn thể dân tộc. Ngài nói rằng Năm Thánh ngày nay mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng kêu của nhân loại trước nhiều tình huống bóc lột đất đai và đàn áp người khác. Mỗi người phải cảm thấy có trách nhiệm về sự tàn phá ngôi nhà chung, cách đối xử vô nhân đạo đối với người di cư, sự suy thoái môi trường, sự nhầm lẫn cố ý được tạo ra bởi thông tin sai lệch, việc từ chối bất kỳ hình thức đối thoại nào và nguồn lực to lớn được dành cho ngành công nghiệp chiến tranh. Chúng ta được mời gọi “phá vỡ xiềng xích bất công để công bố công lý của Thiên Chúa”.

Cần có những thay đổi về văn hóa và cấu trúc

Còn cần có những thay đổi về văn hóa và cấu trúc. Việc cử hành Năm Thánh, theo Đức Thánh Cha, cũng nhắc nhở chúng ta rằng “của cải trên trái đất không chỉ dành cho một số người có đặc quyền, nhưng dành cho tất cả mọi người”. Nếu chúng ta không nhận ra của cải là do Thiên Chúa ban, chúng ta sẽ không thể nhận ra những hồng ân của Người. “Khi chúng ta phớt lờ tương quan với Chúa Cha, chúng ta bắt đầu suy nghĩ theo logic của sự bóc lột, kẻ mạnh có quyền bắt nạt người yếu”.

Cuộc khủng hoảng nợ

Ngài đặc biệt nhấn mạnh đến cuộc “khủng hoảng nợ” đang đè nặng một số quốc gia, và qua đó các nước giàu khai thác bóc lột vô độ tài nguyên của nước nghèo. Ngài còn nói đến nợ sinh thái, khi các nước nghèo phải chịu hậu quả của biến đổi khí hậu do các nước giàu tạo nên. Từ đó ngài đưa ra lời kêu gọi theo tinh thần của Năm Thánh: “thực hiện các hành động để xóa nợ nước ngoài, thừa nhận sự tồn tại của món nợ sinh thái giữa miền Bắc và miền Nam thế giới”. Thay đổi về văn hóa sẽ diễn ra khi chúng ta nhận ra mình là con Chúa và tất cả chúng ta đều nợ Người và chúng ta cũng cần nhau.

Ba đề xuất

Đức Thánh Cha đưa ra 3 đề xuất để khôi phục phẩm giá cho cuộc sống của toàn thể các dân tộc và đưa họ trở lại hành trình hy vọng. Trước hết, “giảm thiểu cách đáng kể, nếu không muốn nói là xóa bỏ hoàn toàn, khoản nợ quốc tế đang đè nặng lên vận mệnh” của nhiều Dân tộc. Thứ hai, “tôn trọng phẩm giá sự sống con người, từ lúc thụ thai cho đến cái chết tự nhiên”, cụ thể là xóa bỏ án tử hình. Thứ ba, “sử dụng một phần số tiền đầu tư cho vũ khí để thành lập một quỹ thế giới giải quyết dứt điểm nạn đói và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giáo dục ở các nước nghèo nhất nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu”.

“Giải trừ vũ khí cho tâm hồn”

Cuối sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi “giải trừ vũ khí cho tâm hồn”: không tính toán cái gì là của tôi, sẵn sàng đi đến với người khác, thừa nhận mình nợ Thiên Chúa và sẵn sàng tha nợ cho người khác, vượt qua sự chán nản về tương lai. Và với một cử chỉ đơn giản như nụ cười, tình bạn, cái nhìn huynh đệ, sự lắng nghe, sự phục vụ vô vị lợi, chúng ta đang tiến gần đến mục tiêu hòa bình.

Xin ban bình an của Ngài cho chúng con

Đức Thánh Cha kết thúc Sứ điệp với lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin tha nợ chúng con,
như chúng con tha thứ cho những kẻ mắc nợ chúng con,
và trong vòng tròn tha thứ này, xin ban cho chúng con bình an của Ngài,
bình an mà chỉ Ngài mới có thể ban
cho những người để tâm hồn của họ được cởi bỏ vũ khí,
cho những ai có hy vọng muốn tha nợ cho anh chị em mình,
cho những người không sợ hãi thú nhận rằng họ mắc nợ Ngài,
cho những người không bịt tai trước tiếng kêu của những người nghèo nhất. 



Đức Phanxicô xuất hiện với vết bầm ở cằm trong công nghị phong Hồng y ngày 7 tháng 12-2024

Ngày 7 tháng 12, trong công nghị phong 21 hồng y, Đức Phanxicô xuất hiện với chiếc cằm bị bầm. Các hồng y này một ngày nào đó sẽ bầu người kế vị, phản ánh một Giáo hội toàn cầu hóa luôn hướng về miền Nam hơn bao giờ hết



Với giọng nói khó thở, ngài xuất hiện với một khối máu tụ lớn ở dưới cằm được quấn băng. Theo các nguồn tin của Vatican, ngày thứ sáu 6 tháng 12, ngài bị té khi ra khỏi giường nhưng tin này chưa được Vatican thông báo chính thức.

Với “công nghị bình thường” lần thứ 10 kể từ đầu triều, trong vài ngày sắp tới Đức Phanxicô sẽ 88 tuổi, ngài tiếp tục củng cố di sản và định hình Hồng y đoàn theo hình ảnh của ngài. Cho đến nay ngài đã chọn hơn 78% trong số 140 “hồng y cử tri”, các hồng y dưới 80 tuổi sẽ dự mật nghị tiếp theo, mật nghị phải có đa số 2/3 để bầu giáo hoàng.

Công nghị bắt đầu chiều thứ bảy 7 tháng 12 tại Đền thờ Thánh Phêrô huy hoàng, cùng ngày Nhà thờ Đức Bà Paris mở cửa lại và Đức Phanxicô đã từ chối lời mời tham dự.

Như thường lệ, các “Giám mục hoàng tử Giáo hội” lần lượt quỳ xuống trước mặt ngài để nhận chiếc mũ đỏ tứ giác và nhẫn hồng y. Đức Phanxicô nói lời khuyến khích: “Tiến lên!”


Kể từ đầu triều, Đức Phanxicô luôn nhấn mạnh đến các giáo phận xa xôi, nơi ngài thường gọi là “vùng ngoại vi”, những nơi người công giáo là thiểu số, ngài muốn xóa thói quen phân biệt hệ thống các giám mục ở các giáo phận nhỏ với các giám mục ở các giáo phận lớn như Milan hay Paris.

Trong số các tân hồng y có 5 giám mục đến từ Châu Mỹ Latinh (Ecuador, Chi-lê, Brazil, Peru, Argentina), nhưng chỉ có 2 giám mục đến từ Châu Phi (Abidjan, Bờ Biển Ngà và Algers ở Algeria). Tổng giám mục Dominique Joseph Mathieu người Bỉ, giáo phận Tehran-Isfahan Châu Á-Thái Bình Dương, vùng được mở rộng nhiều nhất trong thập kỷ qua, Tổng giám mục Tokyo, Tổng giám mục cộng đồng Ukraine của Melbourne (Úc) Châu Á-Thái Bình Dương đại diện đến dự.

Trong bài phát biểu, ngài nói: “Anh em có lịch sử khác nhau, đến từ các nền văn hóa đa dạng và đại diện cho tính công giáo của Giáo hội, Chúa mời gọi anh em làm chứng cho tình huynh đệ, là nghệ nhân hiệp thông và người xây dựng sự hiệp nhất.”

Tổng giám mục Jean-Paul Vesco 62 tuổi cho biết: “Hồng y đoàn thể hiện sự đa dạng phong phú, về mặt địa lý và xã hội học, một dấu hiệu tích cực nhưng với điều kiện phải củng cố tính hợp đoàn.”

Đức Phanxicô thường lên án “tính thời thượng tâm linh”, ngài cố gắng loại bỏ thói sùng bái bề ngoài giới thượng lưu Giáo hội, cảnh báo các hồng y về nguy cơ để “bị lóa mắt bởi sự thu hút của uy quyền, của quyến rũ quyền lực”.

Việc lựa chọn hồng y hoàn toàn thuộc quyền người đứng đầu Giáo hội Công giáo, người lựa chọn họ theo tiêu chuẩn lựa chọn và ưu tiên của mình.

Nhiệm vụ của các Hồng y là hỗ trợ Giáo hoàng trong chính quyền trung ương của Giáo hội. Một số sống ở Rôma và có các chức vụ trong Giáo triều (cơ quan điều hành Vatican) nhưng hầu hết đều phục vụ trong giáo phận quê hương của họ.

Việc bổ nhiệm các hồng y được các nhà quan sát xem xét kỹ lưỡng, họ xem đây là dấu hiệu để thấy nhà lãnh đạo tương lai của Giáo hội Công giáo và của 1,4 tỷ tín hữu là người như thế nào.

Đặc biệt là kể từ khi ngài để “cánh cửa mở” cho việc từ nhiệm như Đức Bênêđíctô XVI đã làm nếu sức khỏe suy giảm biện minh cho việc từ nhiệm.

Nhạy cảm với một Giáo hội tại chỗ và tách rời khỏi chính mình, Đức Phanxicô tìm cách thăng tiến hàng giáo sĩ của các nước đang phát triển lên hàng ngũ cao nhất của Giáo hội.


Nhưng việc bầu chọn một giáo hoàng luôn không thể đoán trước được và một số hồng y do Đức Phanxicô bổ nhiệm không phải lúc nào cũng chia sẻ ý tưởng của ngài, hoặc công khai có quan điểm chống lại ngài.

Cũng có các quan sát viên nghĩ rằng, tính đa dạng lớn lao của  các hồng y, những người không biết rõ nhau, ít gặp nhau sẽ làm cho mật nghị phải tìm thỏa hiệp với một nhân vật mạnh mẽ và cân đối, tạo uy tín cho niềm tin tập thể.



Một số tân Hồng y không mặc phẩm phục màu đỏ


Trong Công nghị tấn phong hai mươi mốt Hồng y mới, chiều ngày 07 tháng Mười Hai vừa qua, có một số hồng y không mang phẩm phục màu đỏ, và chỉ nhận chiếc mũ đỏ Hồng y từ Đức Thánh cha trao cho.


image.png


Trong số các vị đó, nổi bật là hai Hồng y Dòng Đa Minh, mang áo dòng màu trắng. Đó là cha Timothy Radcliffe, 79 tuổi, người Anh, nguyên là Bề trên Tổng quyền của dòng, và Đức Tổng giám mục Jean-Paul Vesco, 62 tuổi người Pháp, Tổng giám mục Giáo phận Alger, thủ đô Algéri. Hai vị đều được phép của Đức Thánh cha không mang phẩm phục màu đỏ của tước vị Hồng y. Tiếp đến là cha Georg Jacob Koovakad, 51 tuổi, thuộc Giáo hội Syro Malabar nghi lễ Đông phương, bên Ấn Độ. Ngài mặc áo chùng thâm màu đen có viền đỏ, và mũ Hồng y được Đức Thánh cha trao cũng có hình dạng khác, phần chỏm màu đỏ và bên dưới màu đen, đúng theo thói quen của Giáo hội này. Cha Koovakad đã không xin chuẩn chước và đã chịu chức Giám mục, trước khi nhận tước vị Hồng y, chiếu theo giáo luật. Sau cùng là Đức Hồng y Mykola Bychok, 44 tuổi, vị trẻ nhất, Giám mục Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương. Ngài mặc áo đen theo cách thức của các Hồng y thuộc Giáo hội này.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo Áo, hôm mùng 07 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Hồng y Radcliffe nói: “Thế giới đang có những thay đổi nền tảng. Năm 1989, bức tường Berlin sụp đổ và chúng ta đã nghĩ toàn thế giới đang trên đường tiến tới một nền dân chủ Tây phương - nhưng thực tế hoàn toàn không phải như vậy. “Ngày nay, những nước như Trung Quốc, Nga và Ấn Độ đang tiến bước. Thách đố lớn nhất đối với toàn thế giới hiện nay là viễn tượng nào chúng ta đang chọn cho nhân loại - chắc chắn nó không còn là một thế giới tây phương”. Trong một thế giới đầy chiến tranh, bạo lực và bất công xã hội, Giáo hội, như một tổ chức hoàn vũ, được kêu gọi trở thành một dấu chỉ hy vọng”.

Đức Hồng y Radcliffe cho biết ngài vẫn còn ngỡ ngàng về việc Đức Thánh cha chọn ngài làm Hồng y: “Cách đây ba năm rưỡi, tôi bị ung thư nặng, và không hề nghĩ mình sẽ sống sót sau cuộc phẫu thuật. Sau khi được giải phẫu, tôi nghĩ mình có thể được hưu dưỡng yên hàn. Nhưng bất thình lình tôi trở lại tràn ngập công việc. Điều này có ý nghĩa gì đối với tương lai, tôi không biết. Tôi sẽ phục vụ Đức Giáo hoàng dưới bất kỳ hình thức nào ngài muốn”.

Sau cùng, Đức Hồng y tâm sự rằng: “Trong chiếc áo dòng màu trắng này, tôi cảm thấy tôi thực là tôi!”


Cái nhìn tổng quát về Hồng y đoàn từ sau Công nghị ngày 7/12/2024

Từ chiều ngày 7/12/2024, Giáo hội có tất cả 253 Hồng y đến từ hơn 90 quốc gia, trong đó có 140 Hồng y dưới 80 tuổi có quyền tham dự mật nghị bầu Giáo hoàng và 113 vị trên 80 tuổi không còn quyền này. Ý là quốc gia có đồng Hồng y nhất. Trong Hồng y đoàn có gần 1/4 là tu sĩ các dòng.

Số Hồng y cử tri do Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăng hiện còn 6 vị, do Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI thăng hiện còn 24 vị, và số vị được Đức Thánh Cha Phanxicô thăng hiện có 110 vị.

Nhưng đến ngày 24/12/2024, khi Đức Hồng y Oswald Gracias, Tổng Giám mục của Bombay, Ấn Độ, sẽ tròn 80 tuổi, Hồng y đoàn sẽ còn 139 Hồng y cử tri. Và sang đầu năm 2025, vào ngày 22/1, Đức Hồng y Christoph Schonborn, Tổng Giám mục của Vienna, Áo, sẽ tròn 80 tuổi, số Hồng y cử tri tiếp tục giảm xuống còn 138 vị.

10 Công nghị Hồng y dưới thời Đức Thánh Cha Phanxicô

Với Công nghị ngày 7/12/2024, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự 10 Công nghị trong hơn 11 năm ngài giữ vai trò kế vị Thánh Phêrô lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, vượt qua Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô, đã chủ sự 9 Công nghị trong 27 năm Giáo hoàng. Tuy nhiên, số Hồng y được Đức Gioan Phaolô II thăng lên Hồng y vẫn nhiều hơn Đức Thánh Cha Phanxicô, 231 vị so với 163.

Đức Thánh Cha Phanxicô được bầu làm Giáo hoàng trong mật nghị Hồng y vào ngày 13/3/2013, sau khi Đức Biển Đức XVI chính thức từ nhiệm vào ngày 28/2/2013. Vào ngày 22/2/2014, Đức Thánh Cha đã chủ sự Công nghị Hồng y đầu tiên thăng 19 Giám mục làm Hồng y; trong số này có Đức Hồng y Pietro Parolin, hiện là Quốc vụ khanh Tòa Thánh, nhân vật thứ hai của Giáo hội, sau Đức Thánh Cha. Trong 10 Công nghị Hồng y này, Đức Thánh Cha đã thăng tất cả 163 Hồng y.

Các Hồng y đại diện cho Giáo hội ở khắp nơi

Một điểm đặc biệt trong việc chọn Hồng y của Đức Thánh Cha Phanxicô đó là tính phổ quát của Giáo hội. Ngài muốn các Hồng y là những vị đại diện của Giáo hội ở mọi nơi, chứ không chỉ của những giáo phận hay quốc gia quan trọng. Trong 9 Công nghị trước đây, với việc thăng 142 Hồng y, Đức Thánh Cha đã chọn các vị đến từ 70 quốc gia, trong đó có 22 nước trước đó chưa có Hồng y nào. Đó là các nước: Haiti, Cộng hòa Dominica, Myanmar, Panama (dù rằng Đức Hồng y Lacunza Maestrojuan sinh tại Tây Ban Nha), Capo Verde, Tonga, Cộng hòa Trung Phi, Bangladesh, Papua New Guinea, Malaysia, Lesotho, Mali, Thụy Điển, Lào, El Salvador, Luxembourg Rwanda, Brunei, Đông Timor, Singapore, Paraguay và Nam Suđan. Sau Công nghị ngày 7/12, danh sách các quốc gia có Hồng y đầu tiên đã tăng lên 23 khi Đức Thánh Cha chọn 1 Hồng y từ Serbia.

Sự hiện diện đông đảo của các tu sĩ trong Hồng y đoàn

Trong Công nghị ngày 7/12 vừa qua, gần một nửa số tân Hồng y được thăng là các tu sĩ thuộc các dòng: gồm 3 vị Dòng Phanxicô, 2 Dòng Đaminh, 2 Dòng Ngôi Lời, và các Dòng Chúa Cứu Thế, Scalabrini và Vinh Sơn, mỗi dòng có 1 vị.

Nhìn lại 9 Công nghị trước đây, trong số 142 Hồng y được Đức Thánh Cha Phanxicô chọn, có 44 vị thuộc 23 dòng tu khác nhau. Công nghị năm 2014 có 4 Hồng y thuộc các dòng tu trong tổng số 19 Hồng y; năm 2015 có 4 tu sĩ trên tổng số 20; năm 2016 có 6 tu sĩ trên tổng số 17; năm 2017 có 1 tu sĩ trong tổng số 5 Hồng y; năm 2018 có 3 tu sĩ trong tổng số 14; năm 2019 có 8 tu sĩ trên 13; năm 2020 có 4 trên 13; năm 2022 có 7 trên 20; và trong năm 2023, có 7 tu sĩ trên tổng số 21 Hồng y.

Hai thỉnh cầu không là thành viên của Hồng y đoàn

Trong những năm qua, Đức Thánh Cha Phanxicô đã hai lần chấp thuận thỉnh cầu của hai Giám mục không trở thành thành viên Hồng y đoàn. Đầu tiên là trường hợp của Đức Cha Lucas Van Looy, 80 tuổi người Bỉ, nguyên Giám mục của Ghent, và trường hợp mới nhất là thỉnh cầu của Đức Cha Paskalis Bruno Syukur, Giám mục của Bogor, người Indonesia.

Những Hồng y trẻ 

Vào năm 2016 Đức Thánh Cha đã thăng vị Hồng y đầu tiên chào đời sau khi Công đồng Vatican II kết thúc vào ngày 8/12/1965. Đó là Đức Hồng y Dieudonnè Nzapalainga, Tổng Giám mục của Bangui, sinh năm 1967.

Sau vị Hồng y người Trung Phi này, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm nhiều Hồng y khác chào đời sau Công đồng Vatican II, như Đức Hồng y Giorgio Marengo, Phủ doãn Tổng tòa Ulan Bator, sinh năm 1974. Cho đến trước Công nghị Hồng y ngày 7/12/2024, ngài là Hồng y trẻ nhất Hồng y đoàn.

Trong Công nghị ngày 7/12/2024 Đức Thánh Cha đã thăng nhiều Giám mục trẻ làm Hồng y như Hồng y Giám quản Roma, Baldassare Reina, 54 tuổi; Hồng y Phó Giám quản Đền thờ Đức Bà Cả, Rolandas Makrickas, 52 tuổi; Hồng y George Jacob Koovakad, người tổ chức các chuyến tông du nước ngoài của Đức Thánh Cha, 51 tuổi; và Hồng y trẻ nhất của Hồng y đoàn, Mykola Byčok, người Ucraina, chỉ mới 44 tuổi.

Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha cũng đã thăng một Hồng y cao niên nhất trong Hồng y đoàn trong Công nghị ngày 7/12 vừa qua, đó là Đức Hồng y Angelo Acerbi, 99 tuổi 79 ngày. Ngài đã phục vụ Giáo hội với tư cách là giám mục trong 50 năm, và cũng có 40 năm kinh nghiệm làm việc trong ngành ngoại giao của Tòa Thánh.

Cái nhìn tổng quan về Hồng y đoàn

Theo Giáo luật điều 349, các Hồng y có nhiệm vụ hành động cách đoàn thể trong việc chọn người kế nhiệm Đức Giáo hoàng nếu mật nghị được triệu tập. Tuy nhiên, không phải tất cả các Hồng y đều có quyền bỏ phiếu trong mật nghị.

Hơn một nửa Hồng y đoàn là Hồng y cử tri

Hơn một nửa số Hồng y đoàn hiện nay sẽ là “các Hồng y cử tri”. Những Hồng y này dưới 80 tuổi và do đó đủ điều kiện để bỏ phiếu bầu Giáo hoàng mới.

Trong số 140 Hồng y cử tri, quốc gia có số đại diện đông nhất là Ý với 17 Hồng y cử tri, tiếp theo là Hoa Kỳ với 10 Hồng y cử tri, và sau đó là Tây Ban Nha với sáu Hồng y cử tri.

113 “Hồng y không phải là cử tri” là những vị đã trên 80 tuổi. Mặc dù có đủ điều kiện tham gia các cuộc họp trước khi bắt đầu mật nghị bầu Giáo hoàng, nhưng các ngài không có quyền bỏ phiếu và do đó sẽ không tham gia vào chính mật nghị.

Con số Hồng y tính theo châu lục

Số Hồng y hiện tại có mặt tại khắp các châu lục. Châu Phi có 29 Hồng y, thuộc 23 quốc gia, trong đó có 18 Hồng y cử tri; Bắc Mỹ có 28 Hồng y thuộc 3 quốc gia, với 16 Hồng y cử tri; Trung Mỹ có 8 Hồng y đến từ 8 quốc gia, 4 Hồng y cử tri; Nam Mỹ có 31 Hồng y thuộc 10 quốc gia, 18 Hồng y cử tri; Á Châu có 37 Hồng y thuộc 21 quốc gia, 25 Hồng y cử tri; Châu Âu có 115 Hồng y thuộc 25 quốc gia, 55 Hồng y cử tri; Châu Đại dương có 4 Hồng y đến từ 4 quốc gia, và tất cả đều là Hồng y cử tri.

Con số Hồng y tính theo quốc gia

Nếu xét theo quốc gia, Ý hiện tại là nước có nhiều Hồng y nhất, với 52 vị, trong đó có 17 Hồng y cử tri. Quốc gia đứng thứ hai về số Hồng y là Hoa Kỳ, với 17 vị, trong đó có 10 Hồng y cử tri. Và đứng thứ ba là Tây Ban Nha, với 13 Hồng y, trong đó có 6 Hồng y cử tri.

Hồng y tu sĩ

Hiện nay, trong Hồng y đoàn có 66 Hồng y tu sĩ, thuộc 28 hội dòng, trong đó có 36 Hồng y cử tri và 30 vị trên 80 tuổi.

Dòng có nhiều Hồng y nhất là gia đình Dòng Phanxicô, có 13 vị, trong đó có 9 Hồng y cử tri. Nhánh Phanxicô Hèn Mọn có 5 Hồng y, Phanxicô Capuchinô cũng có 5 và Phanxicô Viện tu có 3 vị. Dòng đứng thứ hai về số Hồng y là Dòng Don Bosco, với 11 vị, trong đó có 5 vị dưới 80 tuổi có quyền tham dự mật nghị bầu Giáo hoàng. Và đứng thứ ba về số Hồng y là Dòng Tên, với 9 vị, trong đó có 4 Hồng y cử tri.

Các chức vụ quan trọng trong Hồng y đoàn

Niên trưởng Hồng y đoàn

Niên trưởng Hồng y đoàn hiện nay là Đức Hồng y Giovanni Battista Re, 90 tuổi, người Ý, được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăng làm Hồng y ngày 21/2/2001. Ngày 18/1/2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn việc chọn ngài làm niên trưởng Hồng y đoàn. Phó Niên trưởng Hồng y đoàn là Đức Hồng y Leonardo Sandri, người Argentina, 81 tuổi. Ngài được Đức Giáo hoàng Biển Đức thăng lên Hồng y ngày 24/11/2007.

Niên trưởng Hồng y đoàn là Hồng y thuộc đẳng Giám mục, được các Hồng y thuộc đẳng Giám mục bầu chọn và được Đức Thánh Cha phê chuẩn.

Cho đến ngày 21/12/2019, không có luật buộc Niên trưởng Hồng y đoàn mãn nhiệm vì lý do tuổi tác. Nhưng với Tông thư dưới dạng Tự sắc về “Chức vị Niên trưởng Hồng y đoàn”, Đức Thánh Cha Phanxicô xác định nhiệm kỳ của Niên trưởng Hồng y đoàn kéo dài 5 năm và sau đó có thể tái nhiệm.

Niên trưởng Hồng y đoàn có trách nhiệm triệu tập mật nghị để bầu Giáo hoàng mới khi Giáo hoàng qua đời hay từ chức. Ngài có nhiệm vụ thông báo cho ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh và các nguyên thủ các quốc gia có quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh về sự qua đời của Đức Giáo hoàng.

Trong những năm gần đây, khi Đức Thánh Cha Phanxicô, vì bị đau đầu gối, chỉ chủ sự các Thánh lễ, Đức Hồng y Re thường là vị thay thế Đức Thánh Cha chủ tế Thánh lễ tại bàn thờ.

Hồng y trưởng đẳng phó tế 

Hồng y trưởng đẳng phó tế hiện nay là Đức Hồng y Dominique Mamberti, người Pháp, 74 tuổi, được Đức Thánh Cha Phanxicô thăng lên Hồng y vào ngày 14/2/2015. Ngày 28/2 năm nay, sau khi Đức Hồng y Renato Raffaele Martino qua đời, Đức Hồng y Mamberti đảm nhiệm chức vị Hồng y trưởng đẳng phó tế.

Đây là vị sẽ công bố kết quả bầu Giáo hoàng với công thức nổi tiếng bằng tiếng Latinh: “Habemus Papam” (Chúng ta đã có Đức Giáo hoàng). Ngoài ra, ngài cũng là vị đặt dây pallium trên vai Đức tân Giáo hoàng trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ Phêrô, hay giới thiệu với Đức Thánh Cha các tân Tổng Giám mục sẽ lãnh nhận dậy Pallium trong Thánh lễ trọng kính hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, hoặc sẽ công bố việc Đức Thánh Cha ban ơn toàn xá trong dịp Đức Thánh Cha ban phép lành “Urbi et Orbi” (cho Roma và toàn thế giới) vào lễ Phục Sinh và Giáng Sinh.

Hồng y nhiếp chính

Một Hồng y khác cũng giữ vai trò quan trọng chính là vị được gọi là Hồng y nhiếp chính (Carmerlengo), hiện nay là Đức Hồng y Kevin Joseph Farrell, người Mỹ. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Hồng y nhiếp chính sẽ là điều hành Giáo hội trong thời gian trống tòa, khi Đức Giáo hoàng qua đời hay từ nhiệm, với sự trợ giúp của các Hồng y được chọn.


Hồng y Jean-Paul Vesco: “Có một trước và một sau Giáo hoàng Phanxicô”


          Hồng y Jean-Paul Vesco khi còn là Giám mục giáo phận Oran trước chân dung của Chân phước Pierre Claverie 

Tổng giám mục Pháp Jean-Paul Vesco, 62 tuổi, người theo đường lối của Giáo hoàng Phanxicô, được phong hồng y trong Công nghị ngày 8 tháng 12 năm 2024. Là cựu luật sư, ngài vào Dòng Đa Minh khi 33 tuổi. Ngài giải thích ngài nhận chức hồng y “với tư cách là người công dân Algeria”.

Trả lời phỏng vấn của Hãng tin I.Media, ngài cho biết ngài bị sốc khi nghe tin vì như thế ngài có trách nhiệm bầu chọn giáo hoàng tương lai. Ngài phân tích các lý do có thể thúc đẩy Đức Phanxicô chọn ngài, một mục tử đứng đầu một Giáo hội nhỏ ở vùng đất hồi giáo. Trong thâm tâm, ngài không giấu sự ngưỡng mộ của mình với giáo hoàng Argentina, người mong muốn cải cách quản lý Giáo hội bằng cách thúc đẩy vai trò của giáo dân và phụ nữ.

Cha phản ứng như thế nào khi biết quyết định của Đức Phanxicô phong cha làm hồng y?

Hồng y Jean-Paul Vesco: Tôi sẽ không độc đáo cho lắm khi tôi nói tôi hoàn toàn bất ngờ, nhưng đó là cú sốc của tôi. Tôi nghe tin khi tôi đang lái xe đi làm lễ. Một nhà báo Vatican News gọi điện thoại hỏi phản ứng của tôi… Ông nói Giáo hoàng vừa đọc tên tôi trong giờ Kinh Truyền Tin ngày chúa nhật 8 tháng 12.

Tôi có cảm giác có điều gì đó rất sâu đậm đang nhói lên trong lòng, một đổi mới, một cảm giác mình là một sáng tạo mới. Khi tôi gọi điện thoại báo tin cho người mẹ thân yêu của tôi, bà nói: “Mẹ cũng có cảm xúc giống như khi con vào chủng viện”. Khi đó tôi hiểu từ ngữ “phong hồng y” có vẻ đã lỗi thời, thực ra không phải vậy. Tôi có cơ hội để làm điều gì đó mới mẻ. Tôi không muốn bỏ lỡ.

Cha đã được Chính quyền Algeria chúc mừng?

Tôi đã được Tổng thống Cộng hòa tiếp, đó là dấu chỉ của một sự công nhận lớn lao. Dĩ nhiên phải mất thời gian để mọi người nhận thức được ý nghĩa của việc đề cử này và đó là điều bình thường: Rôma không phải là trung tâm của thế giới. Đây cũng chính là ý nghĩa việc tôi được đề cử! Có một nhận thức sâu sắc nơi Đức Phanxicô rằng Rôma không được là cái rốn của vũ trụ.

Nhưng bây giờ mọi thứ đã trở nên lớn hơn. Hồng y đoàn Algeria muốn nhắc đến hình ảnh của Hồng y Léon-Etienne Duval (1903-1996). Điều này đánh thức điều gì đó trong ký ức tập thể của người dân Algeria.

Tổng thống Cộng hòa Abdelmadjid Tebboune đã lên kế hoạch đi thăm Đức Phanxicô tháng 11 năm 2023. Cuộc tấn công ngày 7 tháng 10 đã làm gián đoạn mọi việc và kế hoạch đã bị hủy bỏ. Tôi hy vọng sẽ có cơ hội lại.

Cha cảm thấy cha là Tổng giám mục Algeria, là người Pháp hay người Địa Trung Hải?

Algeria! Tôi sinh ra là người Pháp nhưng với tư cách là người Algeria, tôi nhận chức hồng y này. Tôi được biết Đức Phanxicô đã nói: “Bây giờ chúng ta phải có một Hồng y người Algeria.” Đó là cách nên được giải thích, không chỉ là lời nói: Tôi có quốc tịch Algeria. Điều này rất quan trọng vì chức hồng y này là một vinh dự cho nhiều người dân Algeria.

“Người ta kể cho tôi nghe Đức Phanxicô đã nói: ‘Bây giờ chúng ta có một hồng y người Algeria’.”

Cha nghĩ gì khi một ngày nào đó cha dự mật nghị?

Tin này tạo một phản ứng tê điếng trong lòng tôi. Tất cả chúng ta đều mang hình ảnh các hồng y bước vào Nhà nguyện Sixtine… Có điều gì đó hơi điên rồ khi tôi nghĩ tôi sẽ ở trong nghi thức này.

Nhưng sau cú sốc to lớn – và tích cực – của tin này là câu hỏi “để làm gì” xuất hiện. Câu hỏi này tôi đặt ra vì tôi không biết gì: ngài mong chờ gì ở tôi? Câu hỏi này làm tôi băn khoăn và tôi cũng hỏi Chúa. Tôi còn lâu mới là người giỏi nhất và tôi không thể xem đề cử này như một phần thưởng, đây không phải lúc! Tôi đã bỏ nghề luật sư để vào Dòng Đa Minh như một tập sinh, tôi từ bỏ mọi kế hoạch nghề nghiệp. Và bây giờ tôi gần như bất ngờ thấy mình là bề trên Tỉnh Dòng. Tôi cũng có cảm giác ngạc nhiên như khi tôi được bổ nhiệm làm giám mục Oran, rồi tổng giám mục Alger…

Hôm nay, tôi được tấn phong hồng y trong khi Hội đồng Giám mục chúng tôi chỉ có 10 giám mục và đã có một hồng y… Có phải Đức Phanxicô nghĩ rằng nên có một hồng y thứ hai cho khu vực của chúng tôi không! Chúa mong chờ gì ở tôi trong tất cả những chuyện này?


image.png

Trong thánh lễ Tạ ơn, Linh mục Jean-Jacques Pérennès (phải) dâng áo của Chân phước Pierre Claverie cho Giám mục Jean-Paul Vesco

Mối quan hệ của cha với Đức Phanxicô như thế nào?

Nếu ông nói mối quan hệ cá nhân thì gần như không có! Trước khi có thông báo, tôi chưa bao giờ gặp trực tiếp ngài. Mối quan hệ của tôi với ngài tóm tắt qua vài cuộc gặp thoáng qua: tôi tham gia Thượng Hội đồng về Gia đình ở Rôma năm 2015; trong buổi tiếp kiến của ngài với Tổng giám mục Alger năm 2017 khi tôi còn làm Giám mục Oran và chúng tôi chuẩn bị phong 19 chân phước Algeria; buổi nhận dây Pallium của tôi – một buổi lễ chúng tôi gần như không nói gì với nhau; một hội nghị Caritas có 300 người tham dự và ở Marseille năm 2023, nơi tôi bắt tay ngài như tất cả các giám mục khác. Và đó là tất cả…!

Vì thế mối quan hệ của tôi với ngài trên hết là thiêng liêng. Tôi chia sẻ dự án ngài làm cho Giáo hội. Đức Gioan-Phaolô II là giáo hoàng thời tuổi trẻ của tôi, Đức Bênêđíctô là người phong tôi làm giám mục và Đức Phanxicô là người ở giai đoạn trưởng thành của tôi.

“Vì vậy, mối quan hệ của tôi với Đức Phanxicô trên hết là thiêng liêng.”

Hướng dẫn mục vụ chính của cha cho giáo phận là gì?

Khi tôi là Giám mục giáo phận Oran, tôi chọn phương châm mà hai nữ tu da trắng đã tự đặt ra trong những năm tháng khó khăn: “Tôi muốn sống và làm cho mọi người cũng muốn sống”. Tôi mong muốn Giáo hội Oran nhỏ bé này “sống và làm cho mọi người cũng muốn sống.”

Khi đến Alger, lòng tôi tràn ngập lời Thánh Gioan: “Lạy Cha, những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai”. Nhiệm vụ của tôi ở đây là chăm sóc mọi người. Đó là dự án mục vụ to lớn để chăm sóc từng người đã được rửa tội, từng người tôi gặp, dù họ là tín hữu kitô hay không. Để áp dụng con đường này, tôi muốn sống một Giáo hội có tính đồng nghị hơn, như thế có sự tham gia của giáo dân nhiều hơn, dù trên thực tế giáo dân là trụ cột của Giáo hội nhưng các linh mục, tu sĩ nam nữ là thành phần chủ yếu của Giáo hội.

Cha có hai phương châm, huy hiệu của cha là gì?

Giống như Chân phước Pierre Claverie, hay Tổng giám mục Henri Teissier, cựu tổng giám mục Alger, tôi không chọn quốc huy vì với tôi nó tượng trưng cho dấu hiệu của sự cao quý. Là giám mục không phải là để bước vào chức vụ cao hơn. Danh hiệu cao quý của tôi là trở thành người anh em và xứng đáng như người anh em. Mặt khác, tôi thích phương châm vì phương châm được chia sẻ và mang lại sự sống.

Cha đề cập đến tính đồng nghị. Cha có đồng ý với những chỉ dẫn của Thượng Hội đồng không?

Tôi đồng ý, Thượng Hội đồng này đã ở với tôi từ lâu rồi. Chúng tôi thấy đã có sự đồng thuận rộng rãi và điều này xác nhận phương pháp cũng như lộ trình đã thực hiện. Chúng tôi đang hướng tới trách nhiệm giải trình cao hơn với giáo dân và tìm sự đồng thuận thay vì có các quyết định độc đoán. Theo tôi, một trong những bài học lớn của Thượng Hội đồng là lên án bất kỳ một khả năng nào để có một công đồng mới theo mô hình Vatican II. Ngày nay, một Thượng Hội đồng chỉ gồm các giám mục sẽ không còn tồn tại nữa.

Câu hỏi về vị trí và vai trò của phụ nữ trong Giáo hội là một trong những chủ đề tranh luận chính. Cha có mong chờ một cái gì mạnh mẽ hơn không?

Tôi không phải là một trong những người mong chờ Thượng Hội đồng đưa ra quyết định quan trọng về một chủ đề cụ thể. Nhưng có một thay đổi văn hóa đã diễn ra, một đột biến, giống như một Công đồng Vatican III.

Tôi ở Rôma để thăm các cơ quan trong chuyến đi ad limina với các giám mục trong vùng của tôi, tôi rất xúc động trước sự hiện diện của phụ nữ ở các chức vụ có trách nhiệm cao (thư ký dưới quyền, thứ trưởng…). Giáo hội sẽ không thể hoạt động được nếu không có sự bổ sung cho nhau giữa nam và nữ.

Cha đã có tiếng nói mạnh trong Thượng Hội đồng về Gia đình năm 2015, đặc biệt trong việc hỗ trợ những người ly dị và tái hôn. Cách giải quyết các chủ đề nhạy cảm trong Giáo hội có thay đổi sau 10 năm triều Đức Phanxicô không?

Tôi nghĩ văn hóa đồng nghị đang lan rộng và Thượng Hội đồng về Gia đình đã đánh dấu một bước ngoặt. Đây là lần đầu tiên các câu hỏi được đặt ra cho các giáo dân đã được rửa tội. Từ đó mọi việc được tiến triển nhanh: bây giờ giáo dân nam cũng như nữ có quyền bỏ phiếu trong Thượng Hội đồng. Chúng ta nhận ra, trong Giáo hội cũng như trên thế giới, chúng ta càng chia sẻ trách nhiệm bao nhiêu thì chúng ta càng thấy có nhiều điều để chia sẻ bấy nhiêu. Theo tôi, rõ ràng là có một trước và một sau “Giáo hoàng Phanxicô”. Chúng ta sẽ không quay trở lại như trước bất kể ai là người kế nhiệm ngài.

Mười chín vị chân phước và tử đạo của Algeria đã được phong chân phước cách đây sáu năm và Đức Phanxicô có thể sớm phong thánh cho họ không?

Đức Phanxicô đã công nhận sự tử đạo của 19 chân phước này. Điều này không hiển nhiên, chẳng hạn Chân phước Charles de Foucauld không được công nhận là tử đạo dù ngài bị giết một cách dã man… Hơn nữa, 19 chân phước bị ám sát trong bối cảnh nội chiến làm cho  200.000 người chết – trong đó có khoảng một trăm giáo sĩ hồi giáo. Họ có chết trong sự căm ghét đức tin không? Điều này không hoàn toàn rõ ràng. Nhưng việc công nhận tử đạo miễn cho họ khỏi cần phép lạ để được phong chân phước.

Để phong thánh, giáo hoàng có thể làm bất cứ điều gì, kể cả việc miễn cho họ một lần nữa khỏi nhu cầu về một phép lạ được công nhận. Nhưng cá nhân, tôi sẽ không ước điều đó! Tôi mong chúng ta  chờ một phép lạ như một dấu chỉ. Tôi cảm thấy dấu chỉ đang hiện diện và hoạt động. Tôi muốn điều này được nhìn thấy!

Luật sư kinh doanh rồi đi tu

Sinh ngày 10 tháng 3 năm 1962 tại Lyon, thân phụ của ngài là nhà đại lý bảo hiểm và mẹ là y tá. Ngài có bằng thạc sĩ luật kinh doanh và thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Trường Cao đẳng Hành chánh. Ngài hành nghề luật sư kinh doanh ở Paris từ năm 1989 đến năm 1995. Xúc động trước ơn gọi sau khi tham dự một thánh lễ truyền chức năm 1994, ngài vào Dòng Đa Minh, ngài khấn tạm ngày 14 tháng 9 năm 1996 và ba năm sau ngài khấn trọn. Sau khi có bằng giáo luật về thần học của phân khoa Công giáo Lyon, ngài chịu chức ngày 24 tháng 6 năm 2001 và là tu sĩ Dòng Đa Minh.

Tổng giám mục Jean-Paul Vesco định cư ở Tlemcen, giáo phận Oran, Algeria, ngài đáp lại lời kêu gọi xây dựng Dòng Đa Minh sáu năm sau vụ ám sát Chân phước Pierre Claverie. Năm 2005, ngài làm Tổng Đại diện giáo phận Oran. Ngài trở về Pháp sau khi được bổ nhiệm làm Giám tỉnh và sau đó được Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Oran năm 2012. Khẩu hiệu giám mục của ngài là: “Tôi muốn sống và làm cho mọi người muốn sống.”

Ngày 27 tháng 12 năm 2021, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm Tổng giám mục Alger thay thế Tổng giám mục Paul Desfarges về hưu. Ngài được tấn phong ngày 11 tháng 2 năm 2022 tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Alger. Kể từ khi được bổ nhiệm làm người đứng đầu Tổng Giáo phận Alger, ngài đã giữ chức vụ Tông tòa của giáo phận Oran trong thời gian trống tòa. Ngài nhập tịch tháng 2 năm 2023 theo sắc lệnh tổng thống của Tổng thống Cộng hòa Abdelmadjid Tebboune.


Máng cỏ keffiyeh của người Palestina là chủ đề bàn tán ở Rôma 

image.png


Máng cỏ keffiyeh của người Palestina tạo tranh cãi ở Vatican

Trong những ngày gần đây, máng cỏ tại Hội trường Phaolô VI, nơi các buổi tiếp kiến chung của Đức Phanxicô được tổ chức trong mùa đông đã tạo nhiều tranh cãi: ngày 7 tháng 12 chiếc khăn keffiyeh truyền thống biểu tượng quốc gia của người Palestina được trải lên đã làm người dân Israel phản đối. Sau đó tấm vải đen trắng biến mất khỏi máng cỏ, ngày 11 tháng 12, Tòa Thánh cho biết không có liên hệ gì với sự cố này.
Máng cỏ có tựa đề “Chúa giáng sinh Bêlem 2024” được hai nghệ sĩ người Palestina Johny Andonia và Faten Nastas Mitwasi thiết kế. Vatican giải thích: “Máng cỏ nhằm mục đích nhắc chúng ta Đất Thánh là sân khấu hàng ngày của sự hủy diệt, xung đột, tang tóc và bạo lực”.
Hình ảnh Đức Phanxicô ngắm nhìn Chúa Giêsu Hài đồng nằm trên khăn keffiyeh đã tạo làn sóng chỉ trích mạnh mẽ, nhật báo Times của Israel tố cáo đây là tác phẩm “khiêu khích”.

Chiếc khăn keffiyeh biến mất tạm thời
Báo chí Ý ngày 11 tháng 12 loan tin: “Tượng Chúa Giêsu Hài đồng và khăn keffiyeh đã được đưa ra khỏi máng cỏ Giáng sinh ở Vatican”.
Sau đó giới truyền thông đồn đoán về nguyên nhân của sự bất hòa, nhưng với Vatican, đây là chuyện bình thường: theo truyền thống, Chúa Hài đồng chỉ được đặt vào máng cỏ ngày 25 tháng 12. Văn phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết cảnh Chúa Giáng Sinh với tất cả các đặc điểm chỉ được trưng bày trong ngày khánh thành để trình cho Đức Phanxicô xem.
image.png
Cơ quan truyền thông của Vatican cho biết, chiếc khăn keffiyeh đã được các nghệ sĩ thêm vào phút cuối, không có trong dự án ban đầu được trình cho chính quyền Thành Vatican. Các bình luận cho thấy sự khác biệt với sáng kiến gây tranh cãi này.
Vì thế ngày 25 tháng 12, không biết tượng Chúa Giêsu Hài đồng có nằm trên chiếc khăn keffiyeh hay không. Một nguồn tin Vatican thì thầm với I.Media: “Có thể chúng tôi sẽ quay lại dự án ban đầu.”
Trong bối cảnh đau lòng này, lịch làm việc của Đức Phanxicô tuần này có hai cuộc gặp liên quan đến khu vực Trung Đông, ngài sẽ tiếp Tổng thống Palestina Mahmoud Abbas ngày 12 tháng 12. Và ngày 13 tháng 12, dự kiến ngài sẽ gặp người đứng đầu chính phủ Lebanon Najib Mikati.

Vì sao Đức Phanxicô cầu nguyện trước máng cỏ Chúa Giêsu nằm trên khăn keffiyeh, biểu tượng của Palestina


Ngày thứ bảy 7 tháng 12, Đức Phanxicô khánh thành máng cỏ tại Vatican, trước khi ngài đến, một thành viên của phái đoàn Palestina đã đặt tấm khăn keffiyeh màu đen và trắng, biểu tượng của người Palestina.

Đây không phải là lần đầu tiên Lễ Giáng sinh nối kết Chúa Giêsu ra đời với các trẻ em nạn nhân của chiến tranh hoặc di cư. Nhưng ngày thứ bảy 7 tháng 12, hình ảnh Đức Phanxicô ngồi xe lăn trước máng cỏ Chúa Giêsu nằm trên chiếc khăn keffiyeh – chiếc khăn đen trắng dùng che đầu đã trở thành biểu tượng đấu tranh của người Palestina – đã tạo nhiều phản ứng ngược nhau trên mạng xã hội.

Tối thứ bảy 7 tháng 12, vài giờ trước lễ khánh thành máng cỏ truyền thống, cây thông cao 29 mét được dựng lên ở Quảng trường Thánh Phêrô, với cảnh Chúa giáng sinh lấy cảm hứng từ những ngôi nhà của ngư dân Ý, một tác phẩm bằng gỗ cao khoảng 3 mét, có đế hình tròn của các nghệ sĩ Palestina Johny Andonia và Faten Nastas Mitwasi đến từ Bêlem làm.

Ban đầu không có khăn keffiyeh

Đức Phanxicô lên tiếng trước các phái đoàn Ý và Palestina: “Chúng ta ngắm nhìn các máng cỏ Bêlem được dựng trên đất Chúa Giêsu sinh ra. Anh chị em thân mến, chiến tranh, bạo lực đã nhiều quá rồi! Anh chị em đã biết, đầu tư sinh lợi nhất là sản xuất vũ khí, lợi nhuận từ việc giết người… Nhưng làm sao điều này lại có thể xảy ra? Chiến tranh như thế là đủ rồi!”

Ban đầu, máng cỏ không có khăn keffiyeh như trong các bức hình đầu tiên chụp tại Hội trường Phaolô VI ngày thứ bảy. Chiếc khăn đen trắng được một thành viên của phái đoàn Palestina đặt lên trước khi Đức Phanxicô đến.

Trong một tuyên bố bằng tiếng Ả Rập, Tổ chức Giải phóng Palestina (PLO) cho biết, máng cỏ được Đại sứ quán Palestina tại Tòa Thánh, một số cơ sở kitô giáo ở Bêlem như Trung tâm Piccirillo của Quỹ Gioan-Phaolô II giúp đỡ người khuyết tật, Tổ chức Giải phóng Palestina (PLO) tài trợ để làm.

Chủ tịch Ủy ban, Tiến sĩ Ramzi Khoury cùng với phái đoàn có mặt tại Vatican trong lễ khánh thành máng cỏ. Theo thông cáo báo chí của Tổ chức Giải phóng Palestina, ông đã chuyển đến Đức Phanxicô lời chào mừng của Tổng thống Chính quyền Palestina Mahmoud Abbas, “hoan nghênh nỗ lực của Đức Phanxicô nhằm chấm dứt chiến tranh ở Dải Gaza và việc ngài tiếp tục ủng hộ người dân Palestina và chính nghĩa của họ”.

Hiệp định Giáng sinh

Khi triều Đức Phanxicô bắt đầu, từ năm 2015 Vatican chính thức công nhận nhà nước Palestina. Kể từ thỏa thuận được ký năm 2000, Tòa Thánh duy trì quan hệ song phương với Tổ chức Giải phóng Palestina. Từ ngày 7 tháng 10 năm 2023 khi cuộc tấn công Hamas xảy ra, Đức Phanxicô luôn cố gắng duy trì quan điểm cân bằng, lên án các vụ đánh bom ở Gaza và Lebanon, đồng thời kêu gọi thả ngay lập tức các con tin Israel, ngài đã gặp thân nhân của họ nhiều lần.

Trong quyển sách phỏng vấn phát hành ở Ý, Tây Ban Nha và Châu Mỹ Latinh ngày 19 tháng 11, lần đầu tiên ngài cáo buộc tội diệt chủng liên quan đến các hoạt động của Israel ở Gaza, ngài cho rằng “cần nghiên cứu vấn đề này một cách cẩn thận để xác định xem tình huống có phù hợp với định nghĩa kỹ thuật do các luật gia và tổ chức quốc tế đưa ra hay không”.

Ngày chúa nhật 8 tháng 12, trong giờ Kinh Truyền Tin ngài đưa ra lời kêu gọi “các nhà lãnh đạo và cộng đồng quốc tế ra lệnh ngừng bắn trên tất cả các mặt trận chiến tranh để người dân có thể mừng lễ Giáng sinh”.

image.png

Hội đồng Giám mục Mỹ kêu gọi Tổng thống Biden ân xá cho các tử tội


Hôm mùng 09 tháng Mười Hai vừa qua, Hội đồng Giám mục Mỹ đã kêu gọi Tổng thống Joe Biden ân xá cho các tử tội trong các nhà tù tại nước này, trước khi kết thúc chức vụ ngày vào ngày 19 tháng Giêng năm 2025 tới đây.



Hiện có 40 tử tội đã bị kết án và giam giữ trong các nhà tù liên bang chờ ngày bị hành quyết.

Trong lời kêu gọi đăng trên trang mạng của Hội đồng Giám mục, các vị viết rằng: “Tổng thống Biden có một cơ may đặc biệt đẩy mạnh chính nghĩa nhân đạo, bằng cách biến cải các án tử hình thành những án tù có thời hạn và tha mạng sống cho 40 tù nhân hiện ở trong các khu tử tội của các nhà tù liên bang”.

Hội đồng Giám mục Mỹ đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi kết thúc án tử hình từ năm 1980, khi các vị ra tuyên ngôn kêu gọi bãi bỏ án này, vài năm sau khi tòa án tối cao ở Mỹ cho mở lại các cuộc hành quyết tại Mỹ. Ông Biden là một tín hữu Công giáo, khi ra tranh cử tổng thống, ông đã kêu gọi chấm dứt việc sử dụng án tử hình.

Án tử hình liên bang được áp dụng tương đối họa hiếm, từ khi được tái lập hồi năm 1966. Cho đến nay, chỉ có 16 tử tội bị chính phủ Liên bang ra lệnh hành quyết, 13 người dưới thời Tổng thống Trump, so với 1.600 vụ tại các tiểu bang.

Trong tuyên ngôn hồi năm 1980, Hội đồng Giám mục Mỹ bày tỏ quan tâm vì án tử hình vẫn còn được áp dụng ngày nay, và án này dập tắt mọi khả thể phục hồi và cải tổ; sự áp đặt án tử hình có thể có sai lầm.

Trong buổi đọc kinh Truyền tin, trưa Chúa nhật ngày 08 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha cũng nói rằng: “Hôm nay, tôi quan tâm xin tất cả anh chị em cầu nguyện cho các tù nhân ở Mỹ đang ở trong các khu vực chờ bị hành quyết. Tôi nghĩ có khoảng từ 13 đến 15 người. Chúng ta hãy cầu nguyện để án tử của họ được biến cải, thay đổi. Tôi nghĩ đến những anh chị em ấy của chúng ta và xin Chúa ban ơn cứu họ khỏi chết”.



Giáo hội Á châu mong muốn người bản địa là trung tâm của Giáo hội


Trong một tuyên bố đưa ra vào cuối diễn đàn, chủ đề “Tôn vinh hiệp hành và truyền thống đời sống bản địa trong Giáo hội tại Á châu”, do Liên các Hội đồng Giám mục Á châu tổ chức, các tham dự viên mong muốn người bản địa phải là trung tâm của Giáo hội.

Sự kiện diễn ra vào tháng 11 nhưng tuyên bố được các tham dự viên, đại diện của 13 quốc gia Á châu đưa ra vào ngày lễ Đức Mẹ vừa qua, trong đó viết: “Chúng tôi quyết định tiếp tục đi theo con đường của một Giáo hội hiệp hành với sự quan tâm đặc biệt đến người dân bản địa, với niềm hy vọng và quyết tâm mới để tôn vinh và bảo vệ các truyền thống sống động của người bản địa trong các Giáo hội địa phương ở Á châu”.

Từ diễn đàn, nhu cầu tiếp tục suy tư đã dẫn tới việc thành lập mạng lưới Công giáo giữa các dân tộc bản địa châu Á. Cha George Plathottam, thành viên ban tổ chức nói: “Sự kiện có ý định tập hợp các tổ chức và những người quan tâm đến hoạt động vì phúc lợi của người bản địa để đào sâu nghiên cứu, suy tư thần học và mục vụ cũng như hành động phối hợp. Mạng lưới hiện đang phát triển một kế hoạch hành động, bao gồm việc thực hiện các khóa đào tạo dành cho các nhà lãnh đạo đổi mới. Các tham dự viên Diễn đàn về Hiệp hành và Truyền thống bản địa được chia thành bốn nhóm nghiên cứu để tiếp tục nghiên cứu và suy tư về các vấn đề chính ảnh hưởng đến các dân tộc bản địa ở châu Á”.

Sự kiện là cơ hội để tôn vinh “sự khôn ngoan bản địa”, bao gồm các tập tục cổ xưa gắn liền với các giá trị chia sẻ, đón tiếp, đồng trách nhiệm và chữa lành. Thực tế, các thực hành và truyền thống của người bản địa rất phù hợp với các dân tộc trong Sách Thánh, là những yếu tố nền tảng về đất, dòng dõi và liên minh.

Câu hỏi được đặt ra: “Tại sao tôn vinh tính hiệp hành và truyền thống bản địa trong Giáo hội ở Á châu?” Tuyên bố trả lời: “Chúng tôi nhận ra thực tế rằng 63% Kitô hữu trên thế giới và 73% Kitô hữu ở Á châu là người bản địa, khuôn mặt của Giáo hội ở Á châu và cả toàn cầu vẫn chưa mang tính bản địa. Cần phải nhìn nhận rằng các dân tộc bản địa không phải ở bên lề nhưng ở trung tâm của Giáo hội”.

Về vai trò của nữ giới, tài liệu nhận định, trong các cộng đồng bản địa ở châu Á, phụ nữ được cho là những người gìn giữ các truyền thống và bảo vệ các nền văn hoá, vốn đóng vai trò nền tảng. Sự đóng góp của phụ nữ là thiết yếu đối với sứ vụ của Giáo hội và điều cần thiết là tiếng nói của họ phải được lắng nghe và sự tham gia của họ phải được công nhận đầy đủ.

Cuối cùng, diễn đàn đưa ra các khuyến nghị: Hiệp hành như là một lối sống tự nhiên trong các nền văn hoá bản địa: kết nối và truyền thông; Các con đường loan báo Tin Mừng, giáo lý, phụng vụ và nghiên cứu; Những vấn đề cần giải quyết.



Số phận Kitô hữu Syria sẽ ra sao sau sự sụp đổ nhanh chóng của Assad?

John Burger, trên Aleteia xuất bản ngày 12/09/24, viết rằng Lịch sử gần đây khiến cộng đồng phải tạm dừng khi đất nước điều chỉnh theo sự lãnh đạo mới. Đây là thời điểm để chờ đợi và xem xét... và cầu nguyện.
Thực vậy, đây là tình huống chờ đợi và xem xét đối với các Ki-tô hữu ở Syria khi đất nước điều chỉnh theo thực tế là chế độ của Bashar al-Assad không còn nữa. Nhưng, dựa trên kinh nghiệm của những thập niên gần đây, các Ki-tô hữu ở đất nước này không có khả năng hoàn toàn ủng hộ các nhóm phiến quân đã đẩy Assad ra ngoài vào cuối tuần.

“Rõ ràng vẫn chưa biết ai sẽ lãnh đạo Syria, nhưng [Abu Mohammad al-Jolani, thủ lĩnh nhóm phiến quân Hayat Tahrir al Sham, HTS] và những người cộng sự của ông ta đang nói bằng một ngôn ngữ cho thấy có lẽ họ sẽ không gây hại cho các Ki-tô hữu và các nhóm thiểu số khác”, Asher Kaufman, một chuyên gia về Trung Đông tại Đại học Notre Dame cho biết. “Nhưng tôi sẽ thận trọng và lo ngại vì lịch sử bạo lực chống lại các Ki-tô hữu trong Nội chiến Syria và danh tiếng rất tệ của Nhà nước Hồi giáo [và các nhóm Hồi giáo khác] trong những năm diễn ra nội chiến trong cách đối xử với các Ki-tô hữu”.

Kaufman, giáo sư về lịch sử và nghiên cứu hòa bình và John M. Regan Jr., Giám đốc Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Kroc tại Trường Quan hệ Toàn cầu Keough của Notre Dame, lưu ý rằng các Ki-tô hữu đang sống trong hòa bình tương đối dưới chế độ Assad.

“Gia đình Assad, chế độ Alawite -- vì bản thân nó là một nhóm tôn giáo thiểu số -- đã đảm bảo rằng các nhóm tôn giáo thiểu số khác được bảo vệ”, Kaufman cho biết. “Nhưng mọi thứ đã thay đổi với cuộc nội chiến Syria, và đây là lúc chúng ta thực sự bắt đầu chứng kiến làn sóng di cư hàng loạt của các Ki-tô hữu khỏi Syria."

Không có tham chiếu rõ ràng

Tu viện trưởng Emanuel Youkhana, một linh mục ở Iraq điều hành tổ chức nhân đạo CAPNI, đồng tình với quan điểm rằng sự do dự của các Ki-tô hữu trong việc ủng hộ những “người giải phóng” Syria là chính đáng, dựa trên lịch sử gần đây.

“Các lực lượng dân quân hiện đang kiểm soát chủ yếu là các nhóm thánh chiến Hồi giáo cực đoan không có tham chiếu chính trị rõ ràng,” ngài nói trong một email gửi cho những người ủng hộ. “Họ đa dạng về hệ tư tưởng và tổ chức, thống nhất bởi mục tiêu duy nhất là lật đổ chế độ. Sau khi đạt được mục tiêu này, không có gì đảm bảo rằng họ sẽ vẫn thống nhất trong việc ra quyết định hoặc chỉ đạo. Ngược lại, họ có khả năng tham gia vào các cuộc xung đột và đấu tranh giành ảnh hưởng và quyền kiểm soát.”

Cha Youkhana nói thêm rằng trong số các lực lượng dân quân này có "các phần tử thánh chiến vũ trang không phải người Syria mà đến từ Chechnya, Trung Á và các khu vực khác".

Nhưng Hayat Tahrir al Sham, đang thành lập một chính phủ chuyển tiếp và hòa giải với các thành viên của chế độ Syria trước đây và Quân đội Ả Rập Syria, đã đưa ra tín hiệu rằng họ sẽ không áp đặt luật Hồi giáo nghiêm ngặt đối với xã hội Syria. Vào ngày 9 tháng 12, nhóm này tuyên bố rằng họ "nghiêm cấm" can thiệp vào việc phụ nữ lựa chọn trang phục hoặc yêu cầu phụ nữ ăn mặc kín đáo, chẳng hạn.

" Hayat Tahrir al Sham nhấn mạnh rằng 'tôn trọng quyền của cá nhân là cơ sở để xây dựng một quốc gia văn minh'", Viện Nghiên cứu Chiến tranh đưa tin. Viện Nghiên cứu Chiến tranh lưu ý rằng "cảnh sát đạo đức" của nhóm này trước đây đã bắt giữ phụ nữ vì ăn mặc "không phù hợp" ở các khu vực của Syria mà nhóm này kiểm soát trước đây.

Đã đến lúc cầu nguyện

Kaufman lưu ý rằng ở Syria có "một số cộng đồng Ki-tô giáo lâu đời nhất ở Trung Đông".

Ông cho biết có một số cộng đồng Kitô giáo, chẳng hạn như ở Maaloula, nơi tiếng Aram vẫn được nói. Tiếng Aram được cho là ngôn ngữ mà Chúa Giêsu đã nói.

Hiện tại, có lẽ điều tốt nhất mà các Ki-tô hữu có thể làm là cầu nguyện cho một kết quả tốt đẹp. Và đó là điều mà nhiều người đã làm vào Chúa Nhật, khi có tin tức rằng quân nổi dậy đã thành công trong việc lật đổ Assad. Trong Thánh lễ vào ngày 8 tháng 12 tại Đền thờ Thánh Behnam và Sarah ở Lebanon, Đức Thượng phụ Công Giáo Syriac Ignatius Youssef III Younan đã cầu nguyện rằng "giai đoạn chuyển tiếp này ở Syria có thể an toàn và hòa bình".

Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Syria, do Đức Thượng phụ Mor Ignatios Aphrem II lãnh đạo, cũng đã ban hành một tuyên bố cầu xin ơn "khôn ngoan thần thiêng" để tìm thấy "linh hứng, sức mạnh và sự kiên định trong tình yêu dành cho quê hương" và tái khẳng định sứ mệnh của Giáo hội là "lan tỏa các giá trị công lý, hòa bình và hòa hợp giữa mọi công dân" trong khi tôn trọng bản sắc văn hóa và lịch sử lâu đời của Syria, theo Fides, thông tin của các Hội Truyền giáo Giáo hoàng.

"Chúng tôi kêu gọi mọi người", thông cáo của Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Syria nêu rõ, "đóng vai trò quốc gia của mình trong việc bảo vệ tài sản công và tư, tránh sử dụng vũ khí và hành vi bạo lực với người khác".

Các giám mục của Tòa Thượng phụ Chính thống giáo Syria cũng kêu gọi "sự bình đẳng của mọi nhóm xã hội và mọi công dân Syria, bất kể họ thuộc dân tộc, tôn giáo và chính trị nào, trên cơ sở quyền công dân phải đảm bảo phẩm giá của mọi công dân".




⛪⛪⛪⛪⛪



Ngoại trưởng Tòa Thánh báo động: Tổ chức OSCE có nguy cơ tan rã


Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức Tổng giám mục Paul Gallagher, cảnh giác rằng tổ chức An ninh và cộng tác Âu châu, gọi tắt là OSCE, ngày càng bị phân hóa và có nguy cơ tự huỷ diệt.


OSCE quy tụ 57 nước thành viên, gồm các nước Âu châu cùng với Mỹ và Canada, được thành lập năm 1975 để ngăn chặn chiến tranh lạnh.

Trong những ngày này, OSCE đang nhóm họp cấp Ngoại trưởng lần thứ 31, tại đảo Malta vì nước này đang làm Chủ tịch.

Trong bài tham luận, Đức Tổng giám mục Gallagher nhận định rằng trong 50 năm qua, từ Văn kiện chung kết Helsinki của OSCE đã có bao nhiêu thành đạt, cũng như những thách đố được vượt thắng. Trái lại, trong những năm gần đầy, giữa lòng tổ chức này, ngày càng có sự rạn nứt trong sự tín nhiệm giữa một số quốc gia thành viên, gia tăng sự gây hấn ý thức hệ và một sự coi thường rõ ràng đối với các nguyên tắc trong Văn kiên chung kết ở Helsinki.

Trong bối cảnh đó, vị Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi các nước thành viên của OSCE hãy phục hồi tinh thần đối thoại và cộng tác, chẳng vậy sẽ đi tới sự tự hủy diệt của tổ chức này. Ngài nói: “Điều không thể phủ nhận là OSCE đang đứng trước ngã ba đường và tương lai của tổ chức này là trách nhiệm của mỗi nước thành viên.”

Đức Tổng giám mục nhắc lại lời cảnh giác của Đức Thánh cha Phanxicô, khi nói về sự cộng tác quốc tế. Người chống lại nguy cơ chia thành những phe nhóm khác nhau và chỉ chấp nhận những nước được coi là có ý thức hệ dung hợp được. “Cả những cơ quan nhắm phục vụ công ích và các vấn đề chuyên môn, cho đến nay tỏ ra có hiệu năng, nhưng hiện có nguy cơ bị tê liệt vì sự phân cực ý thức hệ và lợi dụng khai thác từ phía mỗi quốc gia”.

Tóm lại, Đức Tổng giám mục Gallagher nhấn mạnh rằng như một tổ chức, các quốc gia liên kết hoạt động bằng sự đồng thuận, bây giờ cần tái lập “công việc kiên nhẫn đối thoại và thương thuyết, thay vì áp đặt bằng võ lực. Thật là một điều hết sức đáng lên án nếu các nước thành viên từ bỏ hy vọng và làm thương tổn chính tổ chức OSCE, từ bỏ không theo đuổi những quyết định dựa trên sự đồng thuận để rồi biến nó thành một diễn đàn chỉ dành cho những nước có cùng lập trường”.


Tất cả các nữ tu sẽ phải rời khỏi Nicaragua vào cuối năm nay

Hạn chót là cuối tháng 12/2024, các nữ tu tại Nicaragua phải rời khỏi nước này. Đây là biện pháp trừng phạt mới nhất đối với các tổ chức của Giáo hội được Chính phủ của Tổng thống Nicaragua, Daniel Ortega, đưa ra qua tối hậu thư mới được gửi đến tất cả các cộng đoàn nữ tu có mặt ở Nicaragua.
image.png

Các nữ tu sẽ phải tìm nơi cư trú tại các quốc gia gần Nicaragua, tại các nhà và cơ sở của hội dòng của họ.

Bà Martha Patricia Molina, một luật sư người Nicaragua đang sống lưu vong ở Texas, cho biết: “Các tổ chức phi lợi nhuận mà các nữ tu đảm trách đã bị ngăn chặn. Bây giờ tất cả tài sản của họ sẽ bị tịch thu và phần lớn trong số họ đã rời Nicaragua”.

Cuộc bách hại vẫn tiếp tục

Chính quyền của tổng thống Ortega vẫn tiếp tục bách hại Giáo hội. Vào ngày 13/11/2024, họ đã trục xuất khỏi Nicaragua Đức Cha Carlos Enrique Herrera Gutiérrez, Giám mục của Jinotega và cũng là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Nicaragua.

Trong tháng 11, 3 linh mục bị cấm nhập cảnh vào Nicaragua. Trong số này có Cha Asdrúbal Zeledón Ruiz, giáo phận Jinotega, và Cha Floriano Ceferino Vargas, người đã phải sống lưu vong ở Panama sau khi bị các đặc vụ nhà nước bắt cóc sau một Thánh lễ được cử hành tại nhà thờ San Martín thuộc giáo phận Bluefields, thuộc giáo tỉnh Managua.

Theo ước tính từ tường trình “Nicaragua, một Giáo hội bị bách hại?” do bà Molino soạn thảo, kể từ tháng 4/2018, hơn 250 tu sĩ đã bị trục xuất, bị cấm hoặc buộc phải lưu vong do lệnh chặn nhập cư.

Lời khích lệ của Đức Thánh Cha

Nhân dịp Giáo hội Nicaragua cử hành tuần cửu nhật kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Thánh Cha đã gửi thư cho Dân Chúa tại nước này. Ngài nhắn nhủ họ: “Lòng quan phòng yêu thương của Chúa là sự hướng dẫn chắc chắn duy nhất. Chính trong những thời điểm khó khăn nhất, khi con người không thể hiểu được Thiên Chúa muốn gì nơi chúng ta, chúng ta được mời gọi đừng nghi ngờ sự quan tâm và lòng thương xót của Người. Niềm tin tưởng con thảo của anh chị em đối với Người và lòng trung thành của anh chị em với Giáo hội là hai ngọn hải đăng lớn chiếu sáng cuộc sống của anh chị em”.



Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ: Bách hại Kitô gia tăng


Trong phúc trình mới công bố hôm mùng 05 tháng Mười Hai vừa qua ở Vienna, thủ đô Áo, Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ tố giác tình trạng bách hại các tín hữu Kitô tiếp tục gia tăng trên thế giới.



Phúc trình dài 45 trang mang tựa đề: “Bị bách hại và quên lãng?” tố giác rằng các tín hữu Kitô nam nữ tại nhiều nước trên thế giới tiếp tục chịu đau khổ và nạn bạo lực gia tăng, nạn phân biệt đối xử và những chà đạp khác về nhân quyền.

Phúc trình này được công bố hai năm một lần: lần này từ mùa hè năm 2022 đến mùa hè 2024, đặc biệt tố giác trình trạng bách hại nghiêm trọng chống các Kitô hữu tại 18 quốc gia. Tác giả phúc trình dựa trên các chứng từ tận mắt của những nạn nhân sống sót trong các cuộc tấn công bài Kitô giáo. Ví dụ, chứng từ của Đức cha Gerald Mamman Musa, Giám mục Giáo phận Katsina ở Nigeria, Phi châu. Ngài nói về những vi phạm nhân quyền tự do tôn giáo tại quê hương của ngài.

Tại những nước khác, như Burkina Faso, Mozambique bên Phi châu, các nhóm Hồi giáo cuồng tín thường tấn công và tạo nên tình trạng xuất cư ồ ạt của các cộng đoàn Kitô. Tình trạng này khiến nhiều người tự hỏi về sự sống còn về lâu về dài của Giáo hội tại những vùng chủ yếu ở Phi châu.

Bà Regina Lynch, Chủ tịch quản trị của Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ, tuyên bố rằng: “Phi châu ở nơi trung tâm điểm của bạo lực Hồi giáo cực đoan”.

Đức cha Musa ở miền tây bắc Nigeria, nơi trọng tâm của các tổ chức bạo lực và cực đoan, cho biết: Bên cạnh nhóm thánh chiến Hồi giáo Boko Haram, còn có những dân quân người Fulani, làm nghề chăn nuôi. Nhóm này cũng là một đe dọa lớn cho các Kitô hữu. Đức cha nói: các nhóm cực đoan đó tấn công cả các tín hữu Hồi giáo ôn hòa và Kitô hữu. Trong khoảng thời gian bốn năm, từ 2019 đến 2023, hơn 16.000 tín hữu Kitô đã bị giết.

Đức cha Musa cũng tố giác rằng các Kitô hữu bị kỳ thị trong công ăn việc làm, trong chính trị và trong ngành công lý, vì nhiều bang ở Nigeria có luật Sharia của Hồi giáo. “Những vụ bắt cóc các linh mục và các cộng tác viên của Giáo hội là điều thường xuyên xảy ra. Những vụ tấn công nhà thờ, bắt cóc và sát hại tạo nên lo âu cho các cộng đồng Kitô và thu hút sự chú ý đối với các nhóm cực đoan này”.

Đức cha Musa kêu gọi thực hiện những cố gắng giáo dục về tự do tôn giáo và hòa bình và Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ tích cực hỗ trợ các sáng kiến trong lãnh vực này. Đức cha nói thêm rằng những cuộc bách hại và bạo lực không làm cho việc hành đạo của các Kitô hữu bị giảm sút, trái lại, “Các tín hữu Kitô bị giết đã không đổ máu đào vô ích. Nhiều người bị thu hút vì chứng tá đức tin của họ”.

Xách nhiễu tại Trung Quốc, Ấn Độ và Nicaragua

Bà Chủ tịch Lynch nêu danh Trung Quốc, Eritrea, Iran như những ví dụ cụ thể về những nước hạn chế tự do tôn giáo. Tại các nước này, Kitô hữu bị coi như kẻ thù của nhà nước. Trong phần khác của phúc trình, có nói đến những chính phủ và các tổ chức không thuộc nhà nước. Luật pháp được gia tăng sử dụng để đàn áp các tín hữu Kitô và những nhóm dân thiểu số khác. Đó là tình trạng tại Ấn Độ, do đảng quốc gia Ấn giáo BJP chủ trương. Phúc trình nói đến hơn 850 Kitô hữu Ấn Độ bị bắt.

Ngoài ra, thường xảy ra những vụ các thiếu nữ Kitô bị bắt cóc và cưỡng bách theo Hồi giáo, như tại Pakistan, hoặc nạn trình bày về Kitô hữu một cách coi rẻ trong các sách giáo khoa. Tại Việt Nam, có quan hệ với Tòa Thánh từ năm 2023, người ta ghi nhận có sự cải tiến đối với các tín hữu Kitô.

Phúc trình đặc biệt nói về tình trạng ở Nicaragua. Tại đây, chính phủ của Tổng thống Daniel Ortega ồ ạt tấn công các Kitô hữu, nhiều nhân viên và cộng tác viên của Giáo hội bị bắt, nhiều linh mục và giám mục bị trục xuất.

Bà Chủ tịch Lynch của Tổ chức trợ giúp các Giáo hội đau khổ kết luận rằng: “tình trạng Kitô hữu tại nhiều nước trở nên xấu hơn”. Bà cũng nhận xét rằng không phải chỉ có các tín hữu Kitô mới bị kỳ thị và bách hại, nhưng cả các nhóm tôn giáo thiểu số khác.

Các Giám mục Liên hiệp Âu châu kêu gọi bài trừ nạn ghét bỏ Kitô hữu


Ủy ban các Giám mục Liên hiệp Âu châu, gọi tắt là COMECE, kêu gọi giới lãnh đạo Liên hiệp này bổ nhiệm một điều hợp viên nhắm bài trừ nạn ghét bỏ các tín hữu Kitô, như các vị điều hợp viên bài trừ nạn kỳ thị Do thái và Hồi giáo.


Ông Alessandro Calcagno, Cố vấn của các Giám mục Âu châu về các nhân quyền cơ bản, trong buổi điểm tâm cầu nguyện của Âu châu, diễn ra tại Nghị viện Âu châu trong tuần qua, nói rằng: “Nay đã đến lúc chín mùi để bổ nhiệm một điều hợp viên của Liên hiệp về bài trừ nạn ghét bỏ chống Kitô tại Âu châu. Đây không phải là vấn đề coi mình là nạn nhân, nhưng là vấn đề bình đẳng trong các phương thế bảo vệ”. Tham dự buổi cầu nguyện điểm tâm có 450 người thuộc các nước, và được tiến hành trong tương quan với một cuộc thảo luận nhóm về các xu hướng gia tăng nạn bất bao dung về tôn giáo hiện nay ở Âu châu.

Ông Calcagno giải thích rằng quyền tự do tôn giáo cũng như những quy luật bài trừ chống nạn kỳ thị vì lý do tôn giáo, không thể bị quan niệm qua lăng kính chỉ bảo vệ các cộng đoàn tín hữu là những nhóm tôn giáo thiểu số.

Theo ông Calcagno, việc bổ nhiệm một điều hợp viên vừa nói là một trong những ưu tiên mà ông nêu bật, nhân danh các Giám mục Âu châu. Việc đề xướng này trong tương quan với việc thực thi tự do tôn giáo trong Liên hiệp, trong đó có việc đảm bảo một sự bảo vệ bình đẳng cho mọi chiều kích của trọng tâm quyền cơ bản, kể cả những người theo định chế. Quá nhiều khi tự do tôn giáo bị mô tả là một quyền gây ra vấn đề, và chiều kích tập thể của nó, so với chiều kích cá nhân, thường bị coi nhẹ”.

Cần bảo vệ các nơi thờ phượng và các dữ kiện về bản chất tôn giáo cũng như hội nhập hơn việc bảo vệ tự do tôn giáo trong các chính sách của Liên hiệp Âu châu.



Mặc dù chiến tranh, Giáo hội Chính thống tại Damasco thành lập Trường Cao đẳng ở Damasco


Mặc dù chiến tranh tại thành Aleppo, Giáo hội Chính thống đã thành lập một Trường Cao đẳng mới, tại thủ đô Damasco của Syria.



Qua sắc lệnh chính thức, Tổng thống Bashar Al-Assad của Syria nhìn nhận việc thành lập trường cao đẳng này, như trang mạng “orthochristian.com“ của Chính thống truyền đi ngày 04 tháng Mười Hai vừa qua, cho biết. Học viện mới này gồm các khoa Thần học, Triết học, và khoa học tôn giáo và một viện về các cổ ngữ. Với việc thành lập học viện này, cả việc đối thoại liên tôn, cũng được tăng cường.

Trước chiến tranh, tại Syria năm 2011, có 1,5 triệu tín hữu Kitô tại Syria nhưng nay, con số lạc quan nhất là nửa triệu người, và có thể chỉ còn hơn 300.000 Kitô hữu. Giáo hội Chính thống là cộng đoàn Kitô lớn nhất tại Syria và có 400 giáo xứ trên toàn quốc. Gần một nửa các tín hữu Kitô ở Syria thuộc Giáo hội này.

Trong khi đó, cách 250 cây số ở miền bắc Damasco, các cuộc giao tranh dữ dội giữa phiến quân Hồi giáo cực đoan vẫn tiếp diễn, sau khi lực lượng này chiếm thành phố Aleppo, từ ngày 29 tháng Mười Một. Các cuộc không kích mạnh mẽ của Nga chống phiến quân đã chặn được bước tiến của họ ở thành Homs.

Các chiến binh người Irak, được Iran hỗ trợ đã được triển khai để giúp đỡ phe của Tổng thống Assad.

Về phần Đức cha Jacques Mourad, Tổng giám mục Giáo phận Homs của Công giáo ở thành Homs, ngài tố giác rằng phiến quân Hồi giáo muốn chấm dứt lịch sử lâu dài của các tín hữu Kitô ở thành Aleppo. Ngài nói với hãng tin Fides của Bộ loan báo Tin mừng: “Chúng tôi thực sự mệt mỏi theo mọi chiều kích!”

Đức Tổng giám mục vốn là một đan sĩ thuộc cộng đoàn Deir Mar Musa và làm Tổng giám mục Công giáo Siriac, từ ngày 03 tháng Ba năm ngoái (2023) tại Homs, nơi mà những người tị nạn từ Aleppo tiếp tục chạy đến đây. Đức Tổng giám mục nói: Chúng tôi không thể chịu nổi đau khổ của tất cả những người dân tị nạn tại đây. Họ đến đây trong tình trạng kiệt lực, đói khát và lạnh lẽo, chẳng còn gì cả. Tình trạng tại thành Homs này cũng nguy hiểm. Chúng tôi không được chuẩn bị để đón tiếp họ. Khi họ đến đây, chúng tôi tổ chức ngay cuộc gặp gỡ giữa các giám mục và thiết lập ngay hai địa điểm tiếp cư, với sự trợ giúp của các cha Dòng Tên và sự sẵn sàng nâng đỡ của tổ chức bác ái Ourve d’Orient và Trợ giúp các Giáo hội đau khổ.

Đức Tổng giám mục không ngại ngần kêu gọi trách nhiệm của các cường quốc, như Mỹ, Nga và Âu châu. Tất cả họ đều có trách nhiệm trực tiếp về những gì đang xảy ra ở Aleppo.


Công nghệ sản xuất và buôn bán vũ khí gia tăng vượt bậc


Điều Đức Thánh cha Phanxicô nhiều lần tố giác đang diễn ra: sự lan tràn chiến tranh và xung đột đang đẩy mạnh công nghệ sản xuất và buôn bán vũ khí trên thế giới, theo phúc trình mới nhất của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế, gọi tắt là SIPRI, có trụ sở ở Stockholm, Thụy Điển.



Sự lan tràn chiến tranh và khủng hoảng an ninh trong những năm gần đây đang đẩy mạnh việc mua sắm vũ khí, tiến trình này càng được đẩy mạnh, với sự bùng nổ chiến tranh giữa Nga và Ucraina, rồi những căng thẳng ở Trung Đông và Đông Á châu.

Năm ngoái, mức thu nhập của 100 hãng hàng đầu trong việc sản xuất vũ khí lên tới 632 tỷ Mỹ kim, tức là tăng 4,2% so với năm 2022 trước đó.

Trong 100 công ty vừa nói, có 41 hãng võ khí của Mỹ và họ tiếp tục chiếm vị thế hàng đầu trên thị trường thế giới, đạt 50% tổng số thu nhập, tức là 317 tỷ Mỹ kim, tăng 2,5% so với năm 2022.

Trong số 100 hãng sản xuất vũ khí hàng đầu của thế giới, có 27 hãng là của Âu châu, có số thu nhập là 133 tỷ Mỹ kim, tức là chỉ tăng 0,2% so với năm 2022. Các hãng sản xuất vũ khí của Đức, Thụy Điển, Ba Lan, Na Uy và Cộng hòa Tchèque nhận được nhiều đơn đặt hàng mua đạn dược và hệ thống phòng không từ nhu cầu nội địa và từ Ucraina. Trong số các hãng sản xuất vũ khí ở Âu châu, hãng BAE Systems của Anh quốc tăng thêm lợi nhuận 3,2%.

Cả các công ty võ khí của Nga cũng gia tăng đáng kể, phản ánh nhu cầu gia tăng do chiến tranh Ucraina và xung đột ở Trung Đông.



QUAN ĐIỂM THEO TINH THẦN CÔNG GIÁO VỀ CHỌN CÁCH CHẾT CỦA NHÀ VĂN QUỲNH DAO

image.png


Sự việc nhà văn Quỳnh Dao chọn cách tự kết thúc cuộc đời đặt ra nhiều câu hỏi triết lý và nhân sinh. Nhưng từ góc nhìn Kitô giáo, điều này cần được nhìn nhận với sự cẩn trọng và lòng yêu thương.

Giáo hội Công Giáo nhấn mạnh rằng sự sống là món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng, và con người được kêu gọi trân trọng, bảo vệ sự sống ấy từ khi thụ thai cho đến cái chết tự nhiên. Quyền quyết định sự sống và cái chết thuộc về Thiên Chúa, chứ không phải con người. Hành động tự tử, dù có được lý giải bởi sự đau khổ hay mong muốn giải thoát đều không phù hợp với giáo huấn của Hội thánh Công Giáo.

Đau khổ và ý nghĩa trong ánh sáng đức tin
Trong Kitô giáo, đau khổ không phải là điều vô nghĩa hay cần phải loại bỏ bằng mọi giá, mà là cơ hội để kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Đức Giêsu đã chịu đau khổ và cái chết trên thập giá để mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Người dạy chúng ta rằng, ngay cả trong đau khổ lớn nhất, vẫn có ý nghĩa nếu chúng ta sống trong niềm tin cậy vào Thiên Chúa.

Sự đau khổ mà nhà văn Quỳnh Dao trải qua, có thể liên quan đến tuổi già, bệnh tật, hoặc cảm giác mất phương hướng... Là một thực tế cần được mọi người, đặc biệt là cộng đồng quan tâm hơn. Đây cũng là lời nhắc nhở chúng ta cần quan tâm chăm sóc, nâng đỡ những người già yếu và cô đơn trong xã hội.

Lời nhắn gửi đến cộng đồng
Giáo hội Công Giáo kêu gọi mỗi tín hữu trở thành nguồn hy vọng và đồng hành cho những người đang chịu đựng đau khổ, khủng hoảng tinh thần hay cảm thấy cuộc đời không còn ý nghĩa. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng : "Một Kitô hữu không dám lội ngược dòng thì không phải là Kitô hữu". Điều này nhấn mạnh rằng chúng ta cần mang tình yêu và hy vọng đến với mọi người, nhất là trong thời điểm họ cảm thấy tuyệt vọng.

Lời nhắc nhở trong niềm tin
Cái chết của nhà văn Quỳnh Dao là một bi kịch, nhưng cũng là lời cảnh tỉnh để chúng ta trân trọng sự sống và thấu hiểu nỗi đau của người khác. Chúng ta không được phán xét, nhưng cần cầu nguyện cho bà và những ai đang trải qua khủng hoảng tương tự. Giáo hội Công Giáo cũng mời gọi mỗi người lắng nghe và hỗ trợ những ai đang chịu đau khổ, giúp họ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong ánh sáng của Thiên Chúa.

Chúng ta nên nhớ, sự sống và cái chết là những điều linh thiêng thuộc về Thiên Chúa. Trong niềm tin Kitô giáo, hãy sống trọn vẹn từng ngày, tìm kiếm ý nghĩa trong đau khổ và trao hy vọng cho những người xung quanh.

Chúng ta không cô đơn trong cuộc hành trình này, vì Chúa luôn đồng hành và ban sức mạnh cho chúng ta.

Một số thông tin thêm về nhà văn Quỳnh Dao :
Sinh thời, nữ sĩ Quỳnh Dao khuynh đảo làng văn lẫn màn ảnh Hoa ngữ, còn trong tình cảm, bà vượt trói buộc xã hội để đến với người yêu. Ở tuổi 86, nhà văn tự quyết định cách bà qua đời vào ngày 4/12. Trong video cáo biệt người thân và khán giả, bà dùng ba hình ảnh để tổng kết cuộc đời chính mình: Ngọn lửa, hoa hồng đỏ và hoa tuyết. Những hình ảnh này cũng xuất hiện trong nhiều tiểu thuyết, tản văn lẫn những câu nói đăng trên mạng xã hội của bà. Năm 2017, nhà văn viết: "Khi còn sống, nguyện là ánh lửa, cháy tới phút cuối cuộc đời. Chết đi, nguyện là hoa tuyết, lất phất rơi, hóa thành cát bụi".

Hoa hồng đỏ tượng trưng nhiệt huyết của Quỳnh Dao trong sáng tác tiểu thuyết, làm phim. Sinh ra ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, tên thật là Trần Triết, bà theo cha mẹ tới Đài Loan sinh sống từ năm 1949, sáng tác từ lúc là nữ sinh trung học. Năm 17 tuổi, lấy bút danh Tâm Như, bà phát hành tiểu thuyết đầu tiên - Bóng mây. Quỳnh Dao nổi tiếng từ năm 1963 nhờ tiểu thuyết Song ngoại.

Nhà văn để lại hơn 60 bộ tiểu thuyết, phần lớn trong số đó gây tiếng vang, được dịch ra nhiều ngôn ngữ đồng thời chuyển thể thành phim, như Dòng sông ly biệt, Bên dòng nước, Xóm vắng, Uyển Quân, Kỷ độ tịch dương hồng, Hoàn Châu cách cách, Hải âu phi xứ, Thủy vân gian, Trời xanh đổ lệ, Tân Nguyệt cách cách, Hãy ngủ yên tình yêu. Quỳnh Dao mở công ty điện ảnh, bà trực tiếp biên kịch, làm nhà sản xuất, viết ca khúc cho hàng chục tác phẩm điện ảnh, truyền hình.

| ✍️ Tác giả : Linh mục Jos Tạ Duy Tuyền


Mikali Nguyễn

unread,
Dec 20, 2024, 7:01:24 PM12/20/24
to alphonsefamily

Giáng sinh là khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong năm đối với phần lớn người dân trên toàn thế giới. Phong tục đón Giáng sinh tại các quốc gia vô cùng phong phú, mang nhiều màu sắc văn hóa độc đáo riêng. Ở Tây phương, người ta có văn hóa tặng quà cho nhau vào dịp lễ Giáng sinh.  Mỗi khi Giáng sinh đến gần, người ta chuẩn bị nhiều quà để tặng cho người thân. Những món quà rất đơn sơ và ý nghĩa. Thí dụ: các bạn nhỏ tặng cho nhau những thỏi chocolat; người thân trong gia đình tặng nhau những món quà gần gũi, như đôi giày, cái vớ, chiếc áo ấm, hay mua một đồ dùng cần thiết cho gia đình… Bên cạnh đó, trong nhiều nhà thờ, họ dành riêng một khu để gom quà cho người nghèo. Những món quà là những đồ dùng còn xài được nhưng không dùng tới, chúng được đóng gói cẩn thận, trang trí đẹp và ghi một vài thông tin cần thiết về món đồ trong hộp, để người nhận có thể chọn được đúng món quà mình đang cần. Trước ngày lễ Giáng sinh, họ sẽ đem những món quà này về các vùng quê để trao tặng cho người dân. Đây là một nét đẹp rất nhân văn – sống quan tâm đến người khác.

 

Tuy nhiên, làm thế nào để chọn được món quà ý nghĩa và hữu ích cho người mình thương mến, thì không phải lúc nào cũng dễ dàng! Đôi lúc, chúng ta cần rất nhiều thời gian để suy nghĩ và chuẩn bị món quà tâm đắc, với ước mong làm vui lòng người nhận. 

 

Bài Tin Mừng hôm nay gợi ý cho chúng ta một món quà đầy ý nghĩa và rất quý giá, mà ai trong chúng ta cũng có thể trao tặng cho người khác trong dịp mừng lễ Giáng sinh.

 

Thánh Luca kể rằng bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. Khi vừa nghe thấy tiếng Maria chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng…”

 

Món quà Đức Maria tặng cho bà Êlisabét là chính sự hiện diện của Con Thiên Chúa.

 

Mẹ đã đón nhận Ngài vào trong cung lòng và đem Ngài đến với bà Êlisabét. Món quà ấy đem lại niềm vui khôn tả cho bà chị họ và đứa con trong bụng là Gioan Tẩy Giả cũng nhảy lên vui sướng. Nếu chúng ta thực sự muốn mang lại niềm vui cho người khác vào dịp lễ Giáng sinh, chúng ta phải mang Chúa Kitô đến với họ. Ngài là món quà tuyệt vời nhất, mà chúng ta có thể tặng cho người mình yêu thương. Nhưng, làm thế nào mà chúng ta có thể trao tặng món quà ấy?

 

Chắc chắn không ai trong chúng ta có thể đem Chúa Giêsu đến với người khác như cách của Đức Maria. Ở trên trần gian này chỉ có mình Mẹ là người duy nhất được diễm phúc cưu mang Con Thiên Chúa trong lòng. Tuy nhiên, mỗi người vẫn có thể coi sứ mệnh này là trung tâm trong cuộc sống của mình. Bằng cách, chúng ta hãy để cho Chúa thực sự ngự trị trong tâm hồn. Rồi sau đó, hãy mang Đấng ngự trong chúng ta đến với người khác. Đây chắc chắn là món quà quý giá và là hành động bác ái vĩ đại nhất, mà chúng ta có thể trao tặng cho người khác.

   

Sau khi nhận được món quà từ Thiên Chúa, Mẹ Maria đã vội vã lên đường và trao ban món quà ấy cho người khác. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên là người trao quà – đem Chúa đến với người khác. Hãy tự hỏi chính mình: Trong các cuộc gặp gỡ, người khác có cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của tôi không? Người khác có cảm nhận được niềm vui mừng và bình an, vì có Chúa ở trong tôi không? Cho dù phản ứng của người xung quanh có như thế nào, bạn vẫn hãy quyết tâm thực hiện sứ mệnh: đem Chúa đến với người khác. Đây thực sự là món quà bác ái nhất, mà bạn có thể trao tặng cho người mà mình gặp gỡ trong mùa Giáng sinh.





image.png

Năm Thánh 2025 sẽ bắt đầu vào ngày 24 tháng 12 năm 2024, ngày Lễ Noël
với việc mở Cửa Thánh tại Vương cung Thánh đường Phêrô ở Vatican.

Trong tinh thần những ngày cận kề Năm Thánh,  Nguyệt san “Phụ nữ Giáo hội Thế giới” của Báo Quan sát viên Roma, của tháng 12 này đã có một bài viết suy tư về ý nghĩa thần học và biểu tượng của Năm Thánh, trong đó nhấn mạnh rằng  “không giống như giới lãnh đạo trong dân với hình ảnh sói đội lốt mục tử, Chúa Giêsu tự nhận là mục tử đích thực của đàn chiên, là người duy nhất có thể bước vào chuồng chiên qua cửa, nhưng ngay lập tức, Người lại tự nhận là cửa chuồng chiên”.
Ngày 24/12/2024, một vị Giáo hoàng lớn tuổi sẽ bước qua Cửa Thánh của Đền thờ Thánh Phêrô, cần nhiều nỗ lực nhưng với quyết tâm. Cửa được gọi là “thánh” và đã được xây kín lại vào ngày bế mạc Năm Thánh ngoại thường, ngày 29/11/2015, dịp kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II và được dành riêng cho lòng thương xót. Sức mạnh biểu tượng của cử chỉ này thật lớn lao: Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đập phần tường được xây kín trước đó và bước vào Vương cung Thánh đường mà ngày nay đại diện trước tiên cho trung tâm của Giáo hội Công giáo. Không chỉ Đức Thánh Cha thực hiện cử chỉ này, nhưng tất cả mọi người đều được mời làm như ngài trong suốt năm. Bước qua Cửa Thánh, không chỉ về mặt thể lý, mà hơn nữa là trong sự hiệp thông với các ý chỉ của Năm Thánh.

Lần này, vì là một Năm Thánh thường lệ chứ không phải ngoại thường, cùng với Cửa Thánh của Đền thờ Thánh Phêrô và ba Đền thờ khác ở Rôma, Đức Thánh Cha sẽ mở một cánh cửa khác, cửa nhà tù, một nơi mà chính vì không thể bước qua về mặt thể lý gợi lên một cách mạnh mẽ nhu cầu tự do.

Theo thực hành toàn xá của Do Thái, những lời của ngôn sứ Isaia, được Chúa Giêsu đề cập đến chính Người trong diễn từ khai mạc sứ vụ Mêsia trong hội đường Nazareth: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18). Với cử chỉ này và từ cánh cửa đó, Đức Thánh Cha và toàn thể Giáo hội không chỉ bước vào một không gian được nhìn nhận là thánh thiêng, nhưng còn là một thời gian thánh, một “năm ân sủng”.

Thánh hóa thời gian

Năm Thánh là một trong nhiều di sản mà Kitô giáo có được nhờ Do Thái giáo, đặc biệt tầm nhìn vĩ đại về thánh hóa thời gian. Đối với con người, thời gian cùng với không gian tượng trưng cho hoàn cảnh quan trọng một cách tuyệt hảo. Tuy nhiên, thời gian cũng làm cho con người khó chịu, bởi làm cho sự sống hao mòn và cái chết đến gần hơn. Với việc “phát minh” sabát, nghĩa là phân biệt giữa thời gian dành cho công việc của con người và thời gian dành cho Thiên Chúa, Israel thực hiện một hoạt động mang tính quyết định: con người không bị thời gian thống trị, nhưng chính họ thống trị thời gian khi nhận ra rằng Thiên Chúa là chủ thời gian bởi vì Người đã in sâu vào công trình sáng tạo của Người luật đan xen giữa hoạt động và nghỉ ngơi. Nói tóm lại, có một người mạnh mẽ hơn thời gian và là người duy nhất có thể “chuộc lại” thời gian bởi vì với món quà sự sống bất tử, người ấy đã loại bỏ được “nọc độc” của nó khỏi cái chết, như Thánh Phaolô viết cho các Kitô hữu ở Côrintô (1Cr 15,55).

Ngày thứ bảy, ngày sabát, ngày nghỉ, cũng như năm sabát diễn ra bảy năm một lần, thánh hóa ngày, tuần và tháng, và sau đó, việc thiết lập năm toàn xá đã củng cố hơn nữa mô hình sabát bằng cách gắn chặt nó với một một khoảng thời gian dài hơn: “đất phải nghỉ một sabát kính Đức Chúa. Trong sáu năm, các ngươi sẽ gieo vãi trong cánh đồng của các ngươi, trong sáu năm, các ngươi sẽ tỉa vườn nho của các ngươi, và các ngươi sẽ thu hoa lợi. Nhưng năm thứ bảy sẽ là một sabát, một thời kỳ đất nghỉ, một sabát kính Đức Chúa […] Các ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần năm đó là bốn mươi chín năm. Tháng thứ bảy, ngày mồng mười trong tháng, các ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò ; vào ngày Xá tội, các ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi. Các ngươi sẽ công bố năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người sống tại đó […]. Đối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho không cắt tỉa. Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với các ngươi (Lv 25, 1-12). Tóm lại, trong năm toàn xá, tất cả phải trở về cội nguồn, nghĩa là được trả về trong tay Thiên Chúa: đất đai nghỉ ngơi, nợ nần được tha và nô lệ được trả tự do và thời gian của lịch sử được thánh hóa.

Liệu Israel cổ xưa có tôn trọng quy định này hay không, hay liệu quy định chỉ đại diện cho ý tưởng của một mô hình xã hội, là chủ đề thảo luận giữa các học giả. Tuy nhiên, thực tế là Kitô giáo thời trung cổ và sau đó là Công giáo Roma đã đảm nhận quy tắc của Năm Thánh sau khi tâm linh hóa các đường nét của quy tắc này: việc tha thứ hậu quả của tội lỗi thay thế cho việc hoàn trả đất và lịch sử cho Thiên Chúa và do đó vai trò trung gian thiết yếu của Giáo hội nhằm đạt được ơn cứu độ đời đời, đã được khẳng định một cách mạnh mẽ. Như tác giả Thánh vịnh đã tiên báo, chính Thiên Chúa sẽ vượt qua những cánh cổng của thời gian để đến và cư trú trên trái đất: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào” (Tv 24.7) .

Tôi là cửa

Một thực tại, một ẩn dụ, một biểu tượng: cửa còn đề cập một cách mạnh mẽ hơn đến chiều kích quan trọng khác của Năm Thánh, đó là không gian để ở, có thể là nhà, thành phố, quốc gia hay cuộc sống. Không phải lúc nào chúng ta cũng nhận ra điều đó, nhưng hàng ngày chúng ta liên tục đi qua những cánh cửa, chúng ta mở và đóng cửa. Đó là những lính canh đảm bảo tính đa dạng của không gian và xác định các địa điểm, thiết lập bản đồ hành trình của chúng ta.

Dù to lớn hay nhẹ nhàng, bằng vàng của Điện Kremlin hay bằng vải của cửa lều trại tị nạn, những cánh cửa cũng là một ẩn dụ quan trọng về cuộc sống và tính hai mặt năng động của nó, bởi vì cửa đề cập đến những hành động quan trọng mà chất lượng thời gian và không gian mà nó diễn ra phụ thuộc: vào-ra hoặc mở-đóng hoặc đón tiếp-xua đuổi. Cuối cùng, vì lý do này, cửa có thể mang phẩm chất của một biểu tượng ngay cả trong bối cảnh tôn giáo, như được thể hiện qua tầm quan trọng của nó trong một trong những thời điểm mạnh mẽ đời sống của Giáo hội Công giáo, đó là Năm Thánh.

Việc khám phá ý nghĩa biểu tượng của “cửa thánh” cũng có thể bắt đầu từ Kinh Thánh. Bởi vì, là cuốn sách vĩ đại về Thiên Chúa ở với con người, Kinh Thánh có rất nhiều cửa, dù đánh dấu ngưỡng cửa nhà hay ngưỡng cửa thành phố, đều đề cập đến những nội dung thần học rõ ràng. Ở đây chúng ta chỉ có thể nhắc lại hai sự kiện từ Cựu Ước và một từ Tân Ước, những điều giúp chúng ta xác định những ý nghĩa thần học có thể có của cửa Năm Thánh.

Sau giấc mơ về chiếc thang ở trên mặt đất nhưng phần phía trên chạm tới trời và trên đó các thiên thần của Chúa lên xuống, tổ phụ Giacóp nhận ra rằng nơi mà ông được trải nghiệm về Chúa phải được thánh hiến, do đó biến đổi ý nghĩa thông thường của nó, trở thành một nơi hiện diện của Thiên Chúa, nghĩa là một nơi mà từ đó người ta có thể lên tới Trời Cao: “Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác” (St 28,17). Cửa nhà Chúa cho phép bước vào một không gian “khác”, nơi Chúa hiện diện, nơi những suy nghĩ trở thành “những thị kiến” tiết lộ ý nghĩa của những gì chúng ta đang sống. Như vậy, một cách ẩn dụ, sinh và tử là những cánh cửa từ đó con người bước vào cuộc sống và từ đó con người ra đi, và đối với Kinh Thánh, những cửa này được canh giữ, nghĩa là, chúng không xác định một cách máy móc lối đi giữa trước và sau, nhưng như Thánh vịnh gia, Thiên Chúa, đấng bảo vệ sự sống, “sẽ gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121,8).

Tuy nhiên, cửa cũng canh giữ lối đi giữa bên trong và bên ngoài, giữa nhu cầu thuộc về để cảm thấy được bảo vệ và nhu cầu tự do để kín múc sức sống. Vì lý do này, cách diễn đạt mang tính thần học sâu sắc nhất về trách nhiệm tượng trưng của cửa là điều mang tầm quan trọng về mặt Kitô học khi Chúa Giêsu đồng nhất cửa với chính Người.

Trong đoạn Tin Mừng Gioan, vừa gợi cảm xúc nhưng vừa phức tạp, Chúa Giêsu trước tiên tự nhận mình là mục tử đích thực của đàn chiên, bởi vì không như những nhà lãnh đạo dân là sói đội lốt mục tử, Chúa Giêsu là người duy nhất có thể đi vào chuồng chiên qua cửa, nhưng rồi ngay sau đó, Người tự nhận là cửa chuồng chiên: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ” (Ga 10,7). Như mọi khi, Chúa Giêsu chỉ tiết lộ căn tính Mêsia của Người cho những ai có khả năng đi vào bên trong bức ảnh, để nắm bắt được sức mạnh biểu tượng và tiềm năng của nó để chuyển thành một sự hiện thực hóa trên thực tế: đi qua Người, đàn chiên sẽ có thể ra ngoài mà không sợ hãi để tận hưởng đồng cỏ. Và chính nhờ đi qua Cửa này mà đàn chiên sẽ có thể quay trở lại để được bảo vệ khỏi bầy sói.  

Khi Đức Thánh Cha khai mạc Năm Thánh Ân Sủng bằng cách bước qua Cửa Thánh vào đêm Giáng sinh, ngài cũng sẽ yêu cầu Giáo hội trở về với Thiên Chúa bằng cách đi qua cánh cửa duy nhất dẫn đến ơn cứu độ, cánh cửa đó là sự mặc khải mà Người Con đã thực hiện về Chúa Cha “Tôi là cửa: Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9).


Vatican chọn các nhà tù là điểm bắt đầu cho các dự án nghệ thuật trong Năm Thánh

Trong buổi họp báo sáng ngày 17/12/2024, Đức Hồng y José Tolentino de Mendonça, Tổng trưởng Bộ Văn hóa và Giáo dục, đã trình bày một số dự án nghệ thuật đương đại của Vatican cho Năm Thánh 2025 và giải thích về sự lựa chọn bắt đầu tại nhà tù Rebibbia của Roma, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô dự kiến sẽ mở Cửa Thánh vào ngày 26/12/2024.

Đức Hồng y Tolentino tin rằng nghệ thuật có thể chữa lành mọi người, bao gồm cả tù nhân, và có thể giúp họ tìm ra con đường đúng đắn để tiến về phía trước.

“Io Contengo Moltitudini”

Khi Đức Thánh Cha mở Cửa Thánh và cử hành Thánh lễ tại nhà tù Rebibbia, ngài sẽ được ngắm tác phẩm có tên tiếng Ý “Io Contengo Moltitudini” (“Tôi bao gồm nhiều người”). Tác phẩm cao hơn khoảng 5,8 mét, được nghệ sĩ đương đại người Ý Marinella Senatore và khoảng 60 tù nhân nam nữ đang thụ án tại Rebibbia thực hiện.

Tác phẩm giống như chiếc đèn theo phong cách baroque. Trên những tia sáng phát ra từ tác phẩm có viết những câu nói về hy vọng bằng nhiều ngôn ngữ và phương ngữ khác nhau.

Tác phẩm được trưng bày tại sân trước nhà thờ và gần nơi tù nhân gặp gỡ gia đình, từ ngày 21/12 đến giữa tháng 2 và sau đó sẽ được trưng bày tại đường Hòa giải để các du khách và tín hữu hành hương Roma trong Năm Thánh có thể chiêm ngắm.

Các dự án nghệ thuật khác tại các nhà tù

Hợp tác với các ban Năm Thánh dành cho Nghệ sĩ từ ngày 15 đến 18/2/2025, Bộ Văn hóa và Giáo dục của Tòa Thánh cũng đang yêu cầu các nghệ sĩ tạo ra các tác phẩm trưng bày tại các nhà tù khác ở Ý và trên khắp thế giới.

Dự án đầu tiên, không được Đức Hồng y Tolentino cung cấp nhiều thông tin chi tiết, sẽ được thực hiện tại nhà tù Regina Coeli của Roma, cách Vatican chưa đầy 2 km. Bà Cristiana Perrella, người phụ trách dự án cho biết, nghệ sĩ người Trung Quốc Yan Pei-Ming đã dành hai ngày để thăm các tù nhân và nhân viên.

Đức Hồng y Tolentino cho biết các tác phẩm sẽ được đặt bên ngoài nhà tù để không chỉ tù nhân và nhân viên mà cả công chúng có thể nhìn thấy. Ngài nói: “Mục tiêu là khuyến khích và hỗ trợ các trải nghiệm giúp những người bị giam giữ sống thời gian trong tù như một sự phục hồi, một sự chuẩn bị để trở về với xã hội. Đồng thời, và cũng cấp bách không kém, mục tiêu là hoán cải quan điểm tâm linh và văn hóa, trái tim và suy nghĩ của xã hội về nhà tù để mọi người coi đó là nơi phục hồi chứ không chỉ là nơi trừng phạt”.




                 Ngày thứ ba 17 tháng 12, Đức Phanxicô mừng sinh nhật 88 tuổi. Là Giáo hoàng lớn tuổi thứ hai trong lịch sử đương đại, ngài luôn làm chứng cho Chúa Kitô và phát triển Giáo hội.

Đức Phanxicô, người đứng đầu 1,4 tỷ giáo dân công giáo từ ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài nổi tiếng với tinh thần nhân văn và hài hước, năm nay ngài 88 tuổi và tháng 10 năm nay ngài lập kỷ lục giáo hoàng thứ nhì lớn tuổi trong lịch sử Giáo hội.

Trong thời gian qua, ngài có nhiều vấn đề sức khỏe, đi đứng khó khăn, nhưng lịch làm việc năm 2025 của ngài rất bận rộn: ngày 24 tháng 12, ngài khai mạc “Năm Thánh 2025”, dự kiến sẽ có 30 triệu du khách về Rôma trong sự kiện lớn lao này. Ngoài ra ngài còn có nhiều buổi tiếp kiến, cử hành các thánh lễ; một thách thức lớn với Giáo hoàng lớn tuổi.

Dậy sớm với lịch làm việc dày đặc

Ngày 6 tháng 12, khi ngủ dậy ngài bị té nhẹ trên bàn cạnh giường ngủ và cằm bị bầm. Từ hai năm rưỡi nay ngài phải ngồi xe lăn vì đau đầu gối. Ngài bị cảm lạnh nặng nhiều lần. Tháng 6 năm 2023, ngài phải phẫu thuật bụng.

Bất chấp tuổi tác và vấn đề sức khỏe, ngài vẫn giữ một lịch trình làm việc chặt chẽ. Đầu tháng 9, ngài đi Châu Á và Châu Đại Dương hai tuần, chuyến đi dài nhất triều của ngài. Sau đó ngài đi Luxembourg và Bỉ 4 ngày, ngài phải đối diện với vấn đề lạm dụng ở đây, cuối tuần trước ngày 15 tháng 12 ngài đi đảo Corsica của Pháp.

Năm 2025, Đức Phanxicô sẽ đi Thổ Nhĩ Kỳ để dự kỷ niệm 1.700 năm Công đồng Nicaea. Ngài đang tiến hành kế hoạch cải tổ Giáo hội Công giáo, được khởi xướng trong Thượng hội đồng thế giới kết thúc vào tháng 10 vừa qua.

Ngài sinh ngày 17 tháng 12 năm 1936 tại Buenos Aires, tu sĩ Dòng Tên lãnh đạo tổng giáo phận thủ đô Argentina từ năm 1998 đến năm 2013. Ngày 13 tháng 3 năm 2013, ngài được bầu Giáo hoàng, kế vị Đức Bênêđíctô XVI từ chức.

Người Argentina, gia đình ngài di cư từ Ý đến Nam Mỹ, ngài có phong cách lãnh đạo riêng, có lòng từ thiện và khiếu hài hước nổi tiếng. Trong một tiếp kiến gần đây với các thành viên của Hiệp hội Xe mô tô Ý, ngài xin họ cầu nguyện “vì công việc của tôi tăng tốc độ quá nhanh – chiếc xe của tôi đã cũ, không còn chạy tốt nữa”. Về vết bầm tím trên mặt, ngài nói đùa một linh mục đã đấm vào hàm vì ngài không phong hồng y cho ông!

Tính đến tháng 10 năm 2024, Đức Phanxicô là Giáo hoàng tại vị lâu thứ hai từ trước đến nay – ít nhất là trong số những giáo hoàng có ngày sinh chắc chắn! Chỉ có Đức Lêô XIII là lớn tuổi hơn. Đức Lêô Vincenzo Gioacchino Pecci qua đời ngày 20 tháng 7 năm 1903, thọ 34.108 ngày (93 tuổi). Để bắt kịp, Đức Phanxicô phải lãnh đạo Giáo hội cho đến ngày 7 tháng 5 năm 2030. Chiếc bánh sinh nhật sau đó sẽ được thổi với 93 ngọn nến!


Ở tuổi 88, với sức khỏe hạn chế, đầu tháng 9 ngài đã có chuyến đi xa đến Châu Á và Châu Đại Dương, thăm Indonesia, Papua Tân Ghinê, Đông Timor và Singapore. Tổng cộng, ngài đi 44 giờ bay với chặng đường dài 32.000 km. Một chuyến đi chứng tỏ ước muốn của ngài đi đến các vùng ngoại vi để phát triển Giáo hội và làm chứng cho Chúa Kitô. Và thật ngạc nhiên, có vẻ như ngài trẻ lại sau chuyến đi dài ngày này!

Nhưng năm 2023 là năm ngài gặp các khó khăn sức khỏe, hai lần phải vào bệnh viện, một lần vào tháng 3 vì sưng phổi, một lần tháng 6 để mỗ thoái vị. Tháng 12, ngài giảm lịch làm việc vì bị sưng phổi. Vì sức khỏe yếu nên có nhiều tin đồn ngài sẽ từ nhiệm. Nhưng bây giờ các tin đồn đã lắng xuống dù ngài đã chuẩn bị nơi an nghỉ cuối cùng và xem lại nghi thức tang lễ của Giáo hoàng vào tháng 11 năm 2024, không còn ai nói về việc ngài sẽ rời ngai tòa Thánh Phêrô.

Giáo hoàng lớn tuổi thứ hai

Đức Phanxicô 88 tuổi, từ năm 1870 đến nay, ngài là giáo hoàng lớn tuổi thứ hai trong lịch sử đương đại. Giáo hoàng Lêô XIII là giáo hoàng lớn tuổi nhất, Đức Lêô qua đời khi 93 tuổi, triều của ngài kéo dài từ ngày 20 tháng 2 năm 1878 đến ngày 20 tháng 7 năm 1903. Ngài giữ kỷ lục về số lượng thông điệp công bố: 86 trong 25 năm triều của ngài.



Cầu nguyện cho Đức Thánh Cha dịp ngài tròn 88 tuổi


Bên cạnh nhiều lời chúc mừng gửi đến Đức Thánh Cha vào ngày 17/12/2024, nhân dịp sinh nhật Đức Thánh Cha tròn 88 tuổi, nhóm bạn trẻ của Phong trào Công nhân Kitô giáo Roma cùng với nhiều người vô gia cư ở Roma đã cầu nguyện cho Đức Thánh Cha tại quảng trường Thánh Phêrô.


image.png

                                                                                                                Các nhà báo trên chuyến bay trở về Roma hôm 15/12/2024 mừng sinh nhật Đức Thánh Cha 

Sáng kiến cầu nguyện cho Đức Thánh Cha

Nhóm trẻ của Phong trào Công nhân Kitô giáo thường có mặt vào thứ Ba hàng tuần tại khu vực Đền thờ Thánh Phêrô để hỗ trợ những người vô gia cư. Họ cũng có mặt tại những nơi ở thủ đô có nhiều người vô gia cư sinh sống.

Họ có hai mục tiêu: tạo ra những bản thông tin thực tế về mỗi người họ gặp để hiểu vấn đề, sức khỏe và trạng thái tâm lý, đồng thời hiểu cách can thiệp bằng việc giúp đỡ vật chất, từ chăn màn đến thức ăn.

Giancarlo Moretti, chủ tịch của Phong trào Công nhân Kitô giáo ở Roma giải thích về sáng kiến cầu nguyện: “Chúng tôi đã cùng với những người trẻ của mình nghĩ đến việc có một thời điểm cầu nguyện cho Đức Thánh Cha nhân ngày sinh nhật của ngài, cùng với nhiều người sống trên đường phố và những người chúng tôi gặp gỡ như một phần của sáng kiến ‘Tin Mừng trên đường phố, Phong trào Công nhân Kitô giáo bên cạnh những người vô gia cư’”.

Francesco Spizzirri, người phụ trách nhóm trẻ của Phong trào Công nhân Kitô giáo ở Roma giải thích thêm: “Trong những tuần gần đây chúng tôi đã thiết lập mối quan hệ với những người này dựa trên sự lắng nghe, đối thoại và thảo luận. Một phương pháp hiệu quả để hiểu nhu cầu thực sự của họ”.

Đức Thánh Cha cần những lời cầu nguyện

Đức Thánh Cha sinh ngày 17/12/1936. Từ tháng 10 vừa qua ngài đã trở thành vị Giáo hoàng đương nhiệm cao tuổi thứ hai trong lịch sử Giáo hội, chỉ sau Đức Leo XIII, người qua đời ở tuổi 93. Ngài có những vấn đề về sức khỏe như đau đầu gối, điều khiến ngài phải dùng xe lăn từ hơn 2 năm qua; hay việc ngài chỉ còn một lá phổ cũng khiến ngài phải chịu đựng những cơn cảm lạnh nghiêm trọng. Vào tháng 6/2023 ngài đã trải qua cuộc phẫu thuật bụng.

Mặc dù tuổi cao và gặp các vấn đề về sức khỏe, Đức Thánh Cha vẫn có lịch trình làm việc rất dày đặc với các Thánh lễ, các cuộc tiếp kiến, nhất là những chuyến tông du nước ngoài dài ngày. Bước vào Năm Thánh 2025 với Thánh lễ khai mạc vào tối ngày 24/12 tới đây tại Vatican, Đức Thánh Cha sẽ có rất nhiều hoạt động, những việc sẽ thách đố sức khỏe của ngài. Do đó, Đức Thánh Cha rất cần sự hỗ trợ của mọi người, đặc biệt bằng những lời cầu nguyện.



Almudena Martínez-Bordiú của hãng tin ACI Prensa, đối tác Tây Ban Nha của hãng tin CNA, ngày 17 tháng 12 năm 2024, đặt câu hỏi: Bạn có biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô từng là một nhân viên bảo vệ hộp đêm, bộ phim yêu thích của ngài là "La Strada" của Federico Fellini và ngài không xem tivi không? Nhân dịp sinh nhật lần thứ 88 của ngài, những sự thật đáng lưu này và những sự thật đáng lưu ý khác về Đức Giáo Hoàng Phanxicô được nêu bật dưới đây.

1. Ngài đã khám phá ra ơn gọi của mình như thế nào?

Vào ngày lễ Thánh Mát-thêu Tông đồ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khám phá ra ơn gọi làm linh mục của mình sau khi đi xưng tội lúc ngài mới 16 tuổi. Sự việc xảy ra vào ngày 21 tháng 9 năm 1953. Đó là Ngày sinh viên ở Argentina, trùng với ngày mùa xuân bắt đầu ở Nam bán cầu và được tổ chức bằng một bữa tiệc lớn.

“Trước khi đến dự tiệc, tôi đi ngang qua giáo xứ mà tôi vẫn tham dự và tôi thấy một linh mục mà tôi không quen và tôi cảm thấy cần phải đi xưng tội. Đối với tôi, đây là một trải nghiệm gặp gỡ: Tôi thấy Một Người đang đợi tôi.”

“Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra, tôi không nhớ, tôi không biết tại sao vị linh mục đó lại ở đó, người mà tôi không quen, tại sao tôi lại cảm thấy muốn đi xưng tội, nhưng sự thật là Có Người đang đợi tôi. Người đã đợi tôi rất lâu. Sau khi xưng tội, tôi cảm thấy có điều gì đó đã thay đổi,” Đức Thánh Cha chia sẻ.

Ngài nói rằng sau lần xưng tội đó, ngài không còn là chính mình nữa: “Tôi đã nghe thấy một điều gì đó giống như một giọng nói, một tiếng gọi: Tôi tin rằng mình phải trở thành một linh mục.”

2. Món ăn yêu thích của ngài là gì?

Ngày 19 tháng 11 năm 2022 là một trong những dịp hiếm hoi mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô rời Vatican mà không có chương trình chính thức. Lý do là gì? Một cuộc đoàn tụ gia đình ở Asti, thành phố của Ý nơi người em họ Daniela di Tiglione của ngài đang sống, người đang kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của mình.

Vào dịp đó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có thể thưởng thức món ăn yêu thích của mình: Bagna Cauda, một món ăn đặc trưng của vùng Piedmont được chế biến từ cá cơm, dầu và tỏi và được dùng làm nước sốt cho rau.

3. Niềm đam mê điệu tango

Trước khi được thụ phong linh mục, đặc biệt là khi còn trẻ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất thích điệu tango, một trong những điệu nhảy mang tính biểu tượng nhất của Argentina. Ngài cũng thích diệu milonga, một điệu nhảy đặc trưng khác của quê hương ngài.

4. Ngài từng là vệ sĩ trong hộp đêm.

Giống như bất cứ thanh niên nào, Jorge Bergoglio đã làm nhiều công việc khác nhau để kiếm được đồng lương đầu tiên. Mặc dù công việc đầu tiên của ngài là lau sàn nhà của công ty sản xuất tất [vớ] nơi cha ngài làm việc, nhưng vào năm 2013, ngài đã thú nhận với một nhóm thanh niên rằng ngài cũng từng là vệ sĩ tại một hộp đêm. Nhờ kinh nghiệm đó, ngài bắt đầu "hướng dẫn những người vỡ mộng đến với Giáo hội".

5. Ngài bị mất một lá phổi.

Khi 21 tuổi, ngài đã phải cắt bỏ một lá phổi do nhiễm trùng, khiến ngài gặp một số khó khăn về hô hấp trong những năm gần đây.

6. Ngài chỉ từ chối tha thứ một lần.

Trong hơn một lần, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khuyến khích các linh mục tha thứ "mọi thứ" trong tòa giải tội và "không tra tấn" các tín hữu trong tòa giải tội.

Trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình Ý vào tháng 1, ngài tuyên bố rằng trong hơn 50 năm làm linh mục, ngài chỉ từ chối tha thứ một lần, "vì sự giả tạo của con người".

7. Lời cầu nguyện ngài đọc mỗi ngày để giữ được sự hài hước của mình

Trong nhiều dịp, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ca ngợi khiếu hài hước và nhấn mạnh rằng nỗi buồn không phải là thiên hướng của Kitô hữu. Ngài thậm chí còn đi xa hơn khi nói rằng "dấu hiệu của một Ki-tô hữu" là niềm vui chứ không phải là người khó tính.

Để có được sự hài hước, ngài đọc một lời cầu nguyện của Thánh Thomas More mỗi ngày, một lời cầu nguyện mà ngài đã nhắc đến trong nhiều lần xuất hiện trước công chúng, gần đây nhất là với tổng thống Pháp, Emmanuel Macron.

"Lạy Chúa, xin ban cho con khiếu hài hước. Xin ban cho con ân sủng để hiểu được một câu chuyện cười, để khám phá ra một chút niềm vui trong cuộc sống và có thể chia sẻ nó với những người khác", Đức Thánh Cha cầu nguyện mỗi ngày.

8. Thánh Giuse, sự giúp đỡ của ngài trong những khó khăn

Có một hình ảnh của Thánh Giuse mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất thích, cho thấy vị thánh "im lặng" đang nằm ngủ.

Trong chuyến tông du Philippines, Đức Giáo Hoàng đã gọi Thánh Giuse là “một người đàn ông mạnh mẽ của sự im lặng” và nói rằng ngài giữ bức tượng nhỏ này trên bàn làm việc của mình. “Ngay cả khi ngài ngủ, ngài vẫn chăm sóc Giáo hội”, ngài nói.
“Khi tôi gặp vấn đề, khó khăn, tôi viết một tờ giấy nhỏ và đặt dưới chân Thánh Giuse để ngài có thể mơ về nó. Nói cách khác, tôi nói với ngài: Hãy cầu nguyện cho vấn đề này!” Đức Thánh Cha thú nhận.

9. Đức Giáo Hoàng Phanxicô ngủ trưa.


Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường đi ngủ lúc 9 giờ tối và thức dậy vào khoảng 4 giờ sáng. Ngài ngủ khoảng sáu giờ một ngày, vì ngài thường đọc sách trong một giờ sau khi vào giường, cho đến 10 giờ tối.

“Sau đó tôi cần ngủ trưa. Tôi phải ngủ từ 40 phút đến một giờ. Tôi cởi giày và nằm xuống giường. Và tôi cũng ngủ rất sâu và thức dậy một mình. Vào những ngày tôi không ngủ trưa, tôi nhận ra điều đó,” ngài nói.

10. Đội bóng đá yêu thích của ngài là đội nào?

Mặc dù không còn sống ở Argentina, Đức Giáo Hoàng Phanxicô vẫn tiếp tục ủng hộ đội San Lorenzo de Almagro của Buenos Aires. Ngài luôn cập nhật thông tin nhờ một Đội cận vệ Thụy Sĩ thông báo cho ngài về tin tức của đội mỗi tuần, vì Đức Giáo Hoàng không xem các trận đấu.

Trên thực tế, trong một buổi tiếp kiến tại Vatican vào tháng 9, một phái đoàn từ câu lạc bộ San Lorenzo đã xin Đức Thánh Cha ban phước để đặt tên sân vận động tiếp theo của câu lạc bộ theo tên ngài.

11. Ngày ngài được cứu sống

Ở tuổi 44, Đức Giáo Hoàng Phanxicô bị hoại tử túi mật, một biến chứng nghiêm trọng xảy ra khi mô của cơ quan tiêu hóa này bị hoại tử do lưu lượng máu bị gián đoạn.

“Tôi cảm thấy như mình sắp chết”, Đức Thánh Cha nói, ám chỉ đến đêm năm 1980 khi ngài được phẫu thuật bởi Tiến sĩ Juan Carlos Parodi, một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng người Argentina đã cứu mạng cha Jorge Mario Bergoglio khi đó. Năm 2014, 34 năm sau, hai người đã có một cuộc gặp riêng tại Vatican.

12. Ngài muốn được chôn cất ở đâu?

Không giống như nhiều giáo hoàng khác trong suốt lịch sử của Giáo hội, những người có quan tài nằm trong các hầm mộ của Vatican trong các hang động dưới Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, Đức Thánh Cha tiết lộ rằng ngài đã chuẩn bị lăng mộ của mình tại Vương cung thánh đường Đức Bà Cả ở Rome do lòng sùng kính lớn lao mà ngài dành cho Đức Trinh Nữ Salus Populi Romani (đấng phù hộ người dân Rôma), người mà ngài đã làm một lời hứa.

Ngoài ra, vào tháng 12 năm 2022, Đức Giáo Hoàng đã trả lời phỏng vấn trong đó ngài tuyên bố rằng ngài đã ký đơn từ chức trong trường hợp sức khỏe không cho phép ngài tiếp tục thực hiện sứ vụ của mình.

13. Bộ phim yêu thích của ngài là bộ phim gì?

"La Strada" của Federico Fellini, người chiếm giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất năm 1957.

14. Ngài không xem tivi vì đã hứa với Đức Mẹ Núi Carmel.


Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho biết ngài đã không xem tivi kể từ ngày 15 tháng 7 năm 1990, khi ngài hứa với Đức Mẹ Núi Carmel rằng ngài sẽ không xem tivi nữa. Đức Thánh Cha đã đưa ra lời hứa này vì ngài "cảm thấy rằng Chúa đang yêu cầu tôi làm điều đó".

15. Ngài đã đi trị liệu ở tuổi 42.

Trong cuộc phỏng vấn về cuốn sách "Chính trị và Xã hội" của người Pháp Dominique Wolton, Đức Giáo Hoàng Phanxicô kể lại rằng, khi ngài còn là giám tỉnh của Dòng Tên ở Argentina, ngài đã đi trị liệu trong sáu tháng với một nhà tâm lý học người Do Thái. "Bà ấy rất tốt, rất chuyên nghiệp", Đức Thánh Cha nói.

16. Một vị giáo hoàng ‘ẩn danh’ trên đường phố Rôma

Vào năm 2013, năm ngài được bầu làm giám mục Rome, một nguồn tin từ Vatican đã thông báo với tờ Huffington Post rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ra ngoài vào ban đêm trong trang phục của một linh mục để bố thí và giúp đỡ người nghèo trên đường phố Rôma.

Carol Glatz của Our Sunday Visitor, ngày 17 tháng 12 năm 2024, tường trình rằng: Vào sinh nhật lần thứ 88 của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, hai tờ báo lớn ở cả hai bờ Đại Tây Dương đã xuất bản hai đoạn trích khác nhau từ cuốn sách mới của ngài về hy vọng.

Tờ New York Times đã đăng những lời của Đức Giáo Hoàng về tầm quan trọng của sự hài hước dưới dạng "tiểu luận khách mời" trong mục ý kiến của mình, trong khi tờ Corriere della Sera của Ý đưa tin về chuyến đi Iraq vào tháng 3 năm 2021 của Đức Giáo Hoàng, tiết lộ rằng hai kẻ đánh bom liều chết đã lên kế hoạch tấn công ngài, nhưng đã bị cảnh sát chặn lại và tiêu diệt.

“Tôi đã được cảnh báo ngay khi chúng tôi hạ cánh xuống Baghdad vào ngày hôm trước. Cảnh sát đã cảnh báo cảnh sát Vatican về một báo cáo đến từ tình báo Anh: một phụ nữ mang theo thuốc nổ — một kẻ đánh bom liều chết trẻ tuổi — đang trên đường đến Mosul để tự kích nổ trong chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng. Và một chiếc xe tải cũng đã rời đi với tốc độ tối đa với cùng mục đích", ngài nói trong cuốn sách mới.

"Khi tôi hỏi cảnh sát vào ngày hôm sau về những gì đã biết về hai kẻ đánh bom, viên chỉ huy trả lời ngắn gọn, 'Chúng đã biến mất.' Cảnh sát Iraq đã chặn chúng lại và kích nổ bom. Điều đó cũng khiến tôi bị sốc sâu xa. Đây cũng là trái cây độc của chiến tranh", ngài viết.


CHUYẾN THĂM CỦA Đức Giáo Hoàng IRAQ

Các trích đoạn được xuất bản vào ngày 17 tháng 12 là từ cuốn sách "Hope: The Autobiography", được viết cùng với nhà báo Carlo Musso. Cuốn sách dự kiến phát hành hoàn cầu tại 80 quốc gia vào ngày 14 tháng 1.

Phạm vi đưa tin của tờ New York Times là lần thứ hai tờ báo này đăng tải những lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô dưới dạng "tiểu luận khách mời". Vào tháng 11 năm 2020, tờ báo đã đăng bài "A Crisis Reveals What Is in Our Hearts", được chuyển thể từ cuốn sách mới của ngài khi đó là "Let Us Dream: The Path to a Better Future", được viết cùng Austen Ivereigh.


Tiểu luận của Đức Giáo Hoàng đưa ra sự suy tư về tính hài hước, nỗi buồn


Tiểu luận ngày 17 tháng 12 có tựa đề "There Is Faith in Humor" đã đưa ra một suy tư nhẹ nhàng về nhu cầu "tránh đắm chìm trong nỗi buồn bằng mọi giá, không để nó làm cay đắng trái tim".

"Cuộc sống chắc chắn có những nỗi buồn, đó là một phần của mọi con đường hy vọng và mọi con đường hướng tới sự hoán cải", ngài viết. Nhưng những người có đức tin phải tránh sự cám dỗ để nỗi buồn biến thành cay đắng.

“Sự mỉa mai là một liều thuốc, không chỉ giúp nâng đỡ và làm tươi sáng người khác, mà còn cả chính chúng ta, bởi vì sự tự chế giễu là một công cụ mạnh mẽ để vượt qua sự cám dỗ của chủ nghĩa tự luyến”, ngài viết trong tiểu luận, một tiểu luận đầy rẫy những câu chuyện cười hài hước liên quan đến Đức Giáo Hoàng.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô kể lại một trong số những câu chuyện đó: Ngài đang lái xe limousine trên đường phố New York sau khi thuyết phục tài xế cho ngài lái thử. Khi cảnh sát chặn ngài lại, viên cảnh sát đã bị sốc và gọi điện cho ông xếp của mình về việc phải làm gì vì “Tôi đã dừng một chiếc xe vì chạy quá tốc độ, nhưng có một anh chàng thực sự quan trọng trong đó”.

Sau một hồi qua lại dài dòng giữa ông xếp và viên cảnh sát về việc ai có thể quan trọng đến vậy, câu chuyện cười kết thúc, “Này xếp, tôi không biết chính xác anh ta là ai, tất cả những gì tôi có thể nói với ông là chính giáo hoàng đang lái xe cho anh ta!”

“Tin mừng thúc giục chúng ta trở nên giống trẻ nhỏ để được cứu rỗi, nhắc nhở chúng ta lấy lại khả năng mỉm cười của mình”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết, “không gì làm tôi vui bằng việc gặp gỡ trẻ em”, những người “thường là người cố vấn của tôi”.


Khóc nghiêm túc và cười say sưa

Ngài ca ngợi những người cao tuổi biết cách “ban phước cho cuộc sống, gạt bỏ mọi sự oán giận” và có “món quà của tiếng cười và nước mắt, giống như trẻ nhỏ”.

Những người thấy khó “khóc nghiêm túc hoặc cười say sưa” đang trên đà đi xuống để trở nên “vô cảm” và không thể làm bất cứ điều gì tốt cho bản thân, xã hội hoặc giáo hội, ngài viết.

“Những ai từ bỏ nhân tính của mình là từ bỏ tất cả”, ngài viết.

Nhà xuất bản người Ý của cuốn sách, Mondadori, cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu thực hiện cuốn sách vào năm 2019 với sự hiểu biết rằng nó sẽ chỉ được xuất bản sau khi ngài qua đời, nhưng Năm Thánh 2025 và sự tập trung vào hy vọng đã khiến ngài cho phép phát hành sớm.

“Với vô số tiết lộ và những câu chuyện chưa từng được công bố, cảm động và rất nhân bản, sâu sắc và kịch tính, nhưng cũng có khả năng hài hước thực sự, hồi ký của Đức Giáo Hoàng Phanxicô bắt đầu vào những năm đầu của thế kỷ 20 với câu chuyện về nguồn gốc Ý của ngài và cuộc phiêu lưu di cư của tổ tiên ngài đến Mỹ Latinh, tiếp tục đến thời thơ ấu, tuổi thiếu niên, sự lựa chọn ơn gọi, cuộc sống trưởng thành, bao gồm toàn bộ triều đại giáo hoàng của ngài cho đến ngày nay”, một thông cáo báo chí từ Viking, nơi sẽ xuất bản “Hope” tại Vương quốc Anh cho biết. Random House sẽ xuất bản nó tại Hoa Kỳ và Penguin Random House Canada sẽ xuất bản nó ở Canada.

Cuốn tự truyện của Đức Thánh Cha được ngài viết cùng với ông Carlo Musso, kể lại tuổi thơ của ngài ở Buenos Aires và những khó khăn về mặt hậu cần trong chuyến thăm Iraq năm 2021 của ngài. Cuốn sách được xuất bản bởi nhà xuất bản Mondadori của Ý và sẽ được phát hành vào ngày 14/1/2025 tại hơn 100 quốc gia.

Đây là tự truyện đầu tiên được thực hiện bởi một Giáo hoàng trong lịch sử. Ban đầu, Đức Thánh Cha chỉ muốn xuất bản tự truyện sau khi ngài qua đời. Nhưng do Năm Thánh Hy vọng được công bố vào năm 2025 và nhu cầu của thời đại, ngài đã quyết định để lại di sản quý giá này ngay bây giờ.

Những cảnh báo mất an ninh

Suy tư về chuyến tông du Iraq từ ngày 5 đến 8/3/2021, Đức Thánh Cha cho biết hầu hết mọi người đều khuyên ngài không nên thực hiện chuyến thăm Iraq, “chuyến thăm đầu tiên của một vị Giáo hoàng đến khu vực Trung Đông bị tàn phá bởi bạo lực cực đoan và sự báng bổ của những lực lượng thánh chiến”. Khi đó đại dịch Covid-19 vẫn còn, và trên hết là các nguồn tin an ninh cho thấy độ rủi ro rất cao của chuyến viếng thăm. Thậm chí, vào đêm trước ngày ngài khởi hành, đã xảy ra các cuộc tấn công đẫm máu.

Phải thăm Iraq

Nhưng Đức Thánh Cha viết trong tự truyện: “Nhưng tôi muốn đi hết chặng đường. Tôi cảm thấy mình phải đi. Tôi đã nói, một cách thân mật, rằng tôi cảm thấy cần phải đến thăm người ông Abraham của chúng ta, tổ phụ chung của người Do Thái, Kitô hữu và người Hồi giáo”. “Nếu ngôi nhà của ông bị cháy, nếu con cháu của ông liều mạng sống hoặc mất mạng sống ở đất nước của ông, điều [tốt nhất] cần làm là đến nhà càng sớm càng tốt”. Ngài nhắc lại rằng Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã muốn đến Iraq để khai mạc Năm Thánh 2000, nhưng tổng thống Saddam Hussein đã không cho phép. Vì vậy, Đức Thánh Cha nói, “chúng ta không thể làm mọi người thất vọng lần thứ hai”.

Hai vụ mưu sát

Đức Thánh Cha nhớ lại: “Ngay khi chúng tôi hạ cánh xuống Baghdad vào ngày hôm trước. Cảnh sát [Iraq] đã báo động cho Hiến binh Vatican về một báo cáo từ các cơ quan tình báo Anh: một người phụ nữ mang đầy thuốc nổ, một kẻ đánh bom liều chết trẻ tuổi đang hướng đến Mosul để tự kích nổ trong chuyến thăm của Giáo hoàng. Và một chiếc xe tải cũng đã chạy đến với tốc độ tối đa với cùng mục đích đó”. Nhưng “chuyến viếng thăm đã tiếp tục”.

Cả hai kẻ tấn công đều bị cảnh sát Iraq chặn lại và tiêu diệt. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “Điều này khiến tôi vô cùng xúc động. Đó cũng là một kết quả bị nhiễm độc của chiến tranh”.

Cuộc gặp gỡ với Đại giáo chủ Ali al-Sistani

Tuy nhiên, trong tất cả sự thù hận này, Đức Thánh Cha đã tìm thấy tia hy vọng trong cuộc gặp ngày 6/3/2021 với Đại giáo chủ Ali al-Sistani tại Najaf, một cuộc gặp gỡ mà “Tòa thánh đã chuẩn bị trong nhiều thập kỷ”.

Được tổ chức trong tinh thần huynh đệ tại nhà của Đại giáo chủ al-Sistani, Đức Thánh Cha giải thích rằng đây là “một cử chỉ hùng hồn ở phương Đông, thậm chí còn hơn cả những tuyên bố hay văn bản, vì nó biểu thị tình bạn và sự gắn bó với cùng một gia đình. Điều đó làm tâm hồn tôi cảm thấy tốt đẹp và khiến tôi cảm thấy vinh dự”.



Thuốc đắng dã tật?

Trong buổi tiếp kiến dành cho những người lãnh đạo các cơ quan trung ương tại giáo triều Rôma ngày 22/12/2014, Đức Giáo hoàng Francis đã liệt kê 15 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại đây.
Không chỉ người ngoài mà có thể nói ngay cả cử tọa có mặt – trong đó 60 Hồng y và 50 Giám mục – cũng không ngờ Ngài lại gay gắt phê phán tình trạng quan liêu ở Vatican khi họ đến chúc mừng Giáng sinh và Năm mới Ngài như vậy.


Sống đơn sơ, đạm bạc


Nhưng nếu nhìn lại những gì Đức Giáo hoàng Francis nói, làm và sống – đặc biệt kể từ khi Ngài được bầu làm Giáo hoàng vào tháng 3/2013 – thì những chỉ trích, phê phán ấy không có gì ngạc nhiên.
Ngài được bầu lên ngôi vị Giáo hoàng vào một thời điểm mà Giáo hội Công giáo nói chung và Vatican nói riêng đang phải đối diện với nhiều tai tiếng. Một cách nào đó có thể nói các hồng y bầu Ngài vì họ biết Ngài có đủ khôn ngoan, đức hạnh và can đảm thể lèo lái con thuyền Giáo hội qua những sóng gió đó.

Vì vậy, không quá ngạc nhiên ưu tiên hàng đầu của Ngài sau khi được bầu làm Giáo hoàng là canh tân Giáo hội và cải tổ Giáo triều Rôma. Và Ngài làm việc đó trước hết bằng chính đời sống, gương mẫu của mình.
Đến từ một quốc gia đang phát triển, lại có một đời sống đạm bạc, đơn sơ, Ngài không chấp nhận lối sống khá xa hoa, trần tục, lãng phí, thích phô trương Ngài thấy nơi một số giáo sĩ.

Ngày lễ tấn phong Giáo hoàng, thay vì đội vương miện, đeo nhẫn vàng, đi giày đỏ như các vị tiền nhiệm, Ngài vẫn dùng trang phục cũ, chỉ khác chiếc khăn choàng trắng trên vai.
Thay vì đi xe Limousine mới, với biển ưu tiên của Vatican hay vào sống trong một căn hộ sang trọng dành cho Giáo hoàng tại điện Tông Tòa, Ngài vẫn đi chiếc xe cũ và chọn sống tại Lưu xá Thánh Mátta (một nhà khách của Vatican).

Không chỉ sống đạm bạc, khó nghèo, Ngài cũng là một con người rất khiêm tốn, cởi mở, luôn dành một tình cảm, sự quan tâm đặc biệt cho những người thấp kém, bất hạnh, thiếu may mắn trong xã hội và rất coi trọng sự hợp tác, đối thoại.

Một mục tử như Ngài không vui gì khi thấy có những giáo sĩ trưởng giả, háo danh, thích xu nịnh, khép kín, bè phái, quan liêu và dửng dưng với tha nhân.

Một con người với những đức tính đó, Đức Giáo hoàng Francis lại càng không thể im lặng khi thấy những người lãnh đạo các cơ quan trung ương của Tòa Thánh có một cách nhìn, lối sống như thế.

image

Ưu tiên của Ngài khi được bầu làm Giáo hoàng là cải tổ Vatican – một cơ chế nặng nề, thiếu hiệu quả, nhiều tai tiếng, nếu không muốn nói là đang mang nhiều bệnh.
Và việc cải tổ đó chỉ có thể được tiến hành khi những người nắm giữ những chức vụ trong cơ chế đó biết nhận ra bệnh của mình và tìm cách chữa trị. Đây cũng là lý do tại sao Ngài công khai chỉ ra 15 ‘căn bệnh’ tại Vatican.

Như mọi cơ thể khác

Có một điểm khác có thể giúp mọi người cảm thấy không quá ngạc nhiên khi Đức Giáo Hoàng chỉ ra 15 căn bệnh của Giáo triều Vatican.
Trong diễn từ của mình, trước khi liệt kê 15 căn bệnh tại Giáo triều Vatican, Đức Giáo Hoàng Francis đã nhấn mạnh rằng dù ‘luôn được mời gọi cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng, cũng như mỗi thân thể con người, Giáo triều cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt’.

Thực ra, điều này không chỉ đúng đối với Giáo triều Rôma mà còn rất đúng đối tới toàn thể Giáo hội Công giáo và mọi cộng đoàn, dòng tu, giáo xứ hay mọi thành phần trong Giáo hội.
Trong một thông cáo gửi tới các cơ quan truyền thông sau bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng Francis, Linh mục Thomas Rosica, phát ngôn viên tiếng Anh của Vatican, đã nhấn mạnh rằng những điều Đức Giáo Hoàng nói không chỉ dành cho Giáo triều Rôma mà còn dành cho toàn thể Giáo hội.

Vì ý thức rằng mình là con người (và vì vậy), có thể bị bệnh, dễ phạm tội, Giáo hội luôn mời gọi con cái mình biết xét mình, xưng tội, hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân.
Đức Giáo hoàng liệt kê 15 căn bệnh đó củng chỉ muốn ‘giúp chúng ta [Ngài cũng như Giáo triều Rôma và toàn thể Giáo hội] chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải để đón mừng lễ Giáng Sinh’.

Hơn nữa, theo Linh mục Rosia, những gì Đức Giáo Hoàng nói còn giá trị đối với nhiều thể chế trên thế giới đang đánh mất sứ vụ nguyên thủy của mình.

Đúng vậy, nếu không biết – và đặc biệt biết mà không dám thừa nhận hoặc chữa trị – những căn bệnh của mình thì một tổ chức hay một thể chế không thể phát triển được.
Trái lại, nếu biết nhận ra những yếu kém của mình và biết đổi mới, hoàn thiện chính mình thì một tổ chức, một thể chế có thể phát triển, bền vững.

Có thể nói Giáo hội Công giáo tồn tại, phát triển hơn 2000 năm qua không phải vì Giáo hội luôn tốt lành, thánh thiện mà vì Giáo hội luôn ý thức được những yếu kém, mỏng giòn của mình và qua đó biết hoán cải, canh tân.

Đức Giáo Hoàng Francis nhấn mạnh rằng 'cũng như mỗi thân thể con người, Giáo triều cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt’

Trong thông cáo của mình, Linh mục Rosia còn chỉ rằng trong chiều dài lịch sử của Giáo hội, ‘có lúc các ngôn sứ xuất hiện để kêu gọi chúng tôi quay trở về với cội nguồn và sứ vụ căn bản của mình. Và đó là những gì mà Đức Giáo hoàng Francis đang làm’.

Đúng vậy, trong quá khứ nhiều lúc Giáo hội rơi vào khủng hoảng, suy thoái vì những chia rẻ, xâu xé, bê bối, xung đột ngay trong lòng Giáo hội. Mỗi lần như vậy có những nhà cải cách, ngôn sứ hay thánh nhân xuất hiện.

Chẳng hạn, vào cuối thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13, khi Giáo hội trở nên xơ cứng, hàng giáo sĩ suy thoái, xa lạ với người dân, Francis thành Assisi xuất hiện. Bằng chính đời sống đơn sơ, khó nghèo của mình, Thánh Francis – hay còn được gọi là Thánh Phanxicô Khó nghèo và cũng là vị thánh mà Đức Giáo hoàng Francis chọn làm tông hiệu của mình) – đã giúp Giáo hội canh tân, vượt qua được những khủng hoảng lúc đó.

Có thể nói, như phát ngôn nhân của Tòa Thánh nhận định, bằng chính những lời nói, gương sáng của mình, Đức Giáo hoàng Francis cũng đang từng bước giúp cải tổ giáo triều Rôma và canh tân Giáo hội.

Là một người rất tế nhị và nhạy cảm, công khai chỉ trích những thói hư tật xấu của những người nắm giữ các vị trí quan trọng trong các bộ, cơ quan quan trọng trong Tòa Thánh – và cũng là những cộng sự thân cận của mình – chắc chắn Ngài và cử tọa hôm đó cũng cảm thấy không thoải mái.

Nhưng đó có thể là một liều thuốc đắng nhưng hiệu nghiệm giúp Giáo triều Rôma và Giáo hội chữa lành những căn bệnh hiện tại của mình, và qua đó có thể chu toàn sứ mạng luôn báo Tin mừng của mình.



⛪❄️⛪❄️⛪


Đức Thánh cha tiếp kiến một nhóm ân nhân của Tòa Thánh là người Việt tại Mỹ


Sáng ngày 19 tháng Mười Hai năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến, cám ơn và khích lệ một nhóm năm mươi tín hữu người Việt tại Mỹ, ân nhân của Hội Giáo hoàng Truyền giáo.


image.png        

Ngỏ lời trong dịp này, Đức Thánh cha nói: “Anh chị em thân mến, tôi vui mừng tiếp đón anh chị em trong cuộc hành hương tại Roma, diễn ra vài ngày trước khi mở Cửa Thánh, đánh dấu khởi đầu Năm Thánh. Tôi cầu mong rằng thời điểm này giúp tất cả các tín hữu sống một cuộc gặp gỡ chân thực và đích thân với Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà chúng ta luôn luôn phải loan báo ở mọi nơi và cho tất cả mọi người, như niềm hy vọng của chúng ta (Xc. Spes non confundit, 1). Sự dấn thân của anh chị em trong việc hỗ trợ các hoạt động truyền giáo và bác ái của Giáo hội hoàn vũ là một biểu hiện cụ thể về việc loan báo này và sẽ góp phần mang hy vọng nảy sinh từ Tin mừng cho nhiều anh chị em chúng ta, ở các nơi trên thế giới.”

Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Ngay từ thời các tông đồ, các chi thể của Thân Mình Chúa Kitô vẫn nâng đỡ nhau với tài nguyên của mình (Xc 2 Cr 8,1-15). Tình liên đới của anh chị em với người nghèo và những người sống ngoài lề xã hội đáp ứng mệnh lệnh của Chúa: hãy chăm sóc những người rốt cùng trong chúng ta; và như thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta, điều quan trọng là sự trợ giúp này được trao ban với tâm hồn vui tươi (Xc 2 Cr 9,7). Xin Chúa ban cho anh chị em luôn trao tặng sự làm phúc của anh chị em trong tinh thần vui tươi, và những hy sinh của anh chị em mang lại hoa trái trong đời sống của anh chị em, như thế họ có thể cảm nghiệm tình thương dịu dàng và cảm thương của Chúa Kitô.”

Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng: “Một nét nổi bật của nhiều tín hữu Công giáo di cư từ Việt Nam sang Mỹ, là đức tin vững mạnh mà họ mang theo mình. Tôi chắc chắn rằng đức tin ấy soi sáng ước muốn của anh chị em, giúp đỡ các cộng đoàn Kitô ở những nơi ở xa cộng đoàn của anh chị em.”

“Với những tâm tình này, tôi cầu chúc anh chị em một cuộc viếng thăm Roma được nhiều thành quả, từ gần hai ngàn năm nay Roma vẫn đón tiếp các tín hữu đến viếng mộ các tông đồ và các nơi thánh khác. Ước gì chuyến đi này canh tân trong đức tin và củng cố anh chị em trong đức bác ái. Tôi thành tâm chúc lành cho anh chị em cùng với gia đình và xin anh chị em vui lòng đừng quên tôi trong kinh nguyện”.


image.png



Bethlehem u buồn vì chiến tranh



Cách đây một năm, dân chúng tại Bethlehem còn tin tưởng đến lễ Giáng sinh 2024 thì chiến tranh sẽ qua đi, nhưng nay thành phố này vẫn còn ở mùa đông của chiến tranh.

Bethlehem cũng như phần còn lại trên toàn lãnh thổ của người Palestine tiếp tục ở trong tình trạng u buồn vì chiến tranh tại Gaza. Hiện nay, không có những cây thông Giáng sinh được trang trí, không có những tiếng đàn ca và tiếng hát, cũng như không có các hang đá, vốn được bố trí tại Quảng trường Máng Cỏ để chào mừng các du khách. Quảng trường này ở giữa Văn phòng của Thị trưởng và Nhà thờ Giáng sinh ngày nay đầy những xe taxi chờ đợi khách nhưng không có ai.

Năm nay, các vị lãnh đạo Giáo hội phần lớn muốn theo đường hướng của thành phố và quốc gia: đó là không có những “hoành tráng” bề ngoài, đàn ca tiếng hát hoặc những buổi lễ long trọng công cộng. Các tín hữu được khuyến khích mừng lễ Chúa Giáng sinh trong khuôn khổ thánh đường. Tuy nhiên, các vị chống lại cảm tưởng các tín hữu Kitô muốn hủy bỏ lễ Giáng sinh. Cha sở địa phương Rami Askarieh nói với phái viên hãng tin Công giáo Đức KNA rằng: “Chúng tôi đang cử hành đại lễ của Vua Hòa bình, vốn là đại lễ hy vọng của mọi người”. Tại Bethlehem, các tín hữu Kitô vẫn còn chiếm một phần ba dân số, mặc dù con số này đã giảm sút. Họ chịu đau khổ nhiều vì hậu quả của chiến tranh và khủng hoảng trong vùng.

Từ sau cuộc tấn công khủng bố, hôm mùng 07 tháng Mười năm 2023 của Hamas, Israel đã phong tỏa miền Cisjordani của người Palestine. Điều này có nghĩa là phần lớn những người Palestine thường tới Jerusalem để làm việc hằng ngày, nay trở thành những người thất nghiệp và không còn lợi tức nữa. Thêm vào đó, vì hầu như không còn du khách và tín hữu hành hương, hậu quả của tình trạng thiếu an ninh, nên ngành du lịch, vốn chiếm 60% kinh tế của thành Bethlehem, nay bị sụp đổ và tạo nên hậu quả thê thảm, đặc biệt là các tín hữu Kitô, vì 90% trong số họ đều hoạt động trong lãnh vực này.

Sự sụp đổ kinh tế vừa nói, người ta thấy rõ tại thành Bethlehem, nơi Chúa Giêsu sinh ra: các khách sạn đóng cửa, nhiều quán ăn không thể mở cửa hoặc chỉ mở vài giờ. Quảng trường trước Nhà thờ Giáng sinh, vốn có từ 1.500 năm nay trở nên trống vắng, khác với trước được đông đảo các tín hữu hành hương. Chỉ có hai nhân viên cảnh sát đợi ở cửa ra vào, vài du khách xuống hang đá, nơi Chúa Cứu Thế sinh ra, khác hẳn với trước kia tín hữu thường phải chờ đợi cả tiếng đồng hồ mới đến lượt mình được vào đó để kính viếng.

Chiến đấu cho hy vọng

Chung quanh thánh đường, hầu hết các cửa tiệm bán đồ thủ công, đồ kỷ niệm, các ảnh tượng Giáng sinh, nay đều đóng cửa. Những người làm đồ thủ công thất nghiệp vì không có khách hàng. Một người chủ tiệm, ông Rony ở đầu đường, đang cố gắng tìm cách bán các đồ kỷ niệm này ra nước ngoài, ông nhất định không muốn từ bỏ hy vọng.

Nữ tu Aleya thuộc Bệnh viện Nhi đồng của Caritas ở mạn bắc thành Bethlehem cũng cố gắng để gìn giữ hy vọng, bên cạnh bức tường cao tám mét cũng là biên giới với Israel. Bệnh viện này mỗi năm chữa trị khoảng 50.000 trẻ em Palestine và là nhà thương chuyên môn duy nhất trên lãnh thổ của Palestine, không những với chất lượng y tế cao độ. Điều thiết yếu là chăm sóc cho các bệnh nhân cả về mặt nhân đạo: các em bệnh nhân và thân nhân thường phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu trạm kiểm soát của Israel mới đến được nhà thương nhi đồng này, và hầu hết họ là người Hồi giáo.

Chiến tranh trở thành tập quán

Hãng tin Công giáo Đức cũng nhận định rằng dân chúng trở nên quen thuộc với chiến tranh và nhiều người nản chí trước những khó khăn, theo nhận xét của một Bề trên một hội dòng người Ấn Độ. Cha nói: “Chúng tôi cố gắng mang lại hy vọng phần nào qua sự săn sóc và qua đó cũng bày tỏ tình thương của Chúa”. Trên nguyên tắc, thành Bethlehem phải đương đầu với tình trạng bấp bênh giống như cách đây 2.000 năm, khi Chúa Giêsu sinh ra trong chuồng súc vật.”

Thánh lễ Giáng sinh, ngày 24 tháng Mười Hai, theo niên lịch Latinh, được cử hành theo những quy luật nghiêm ngặt. Chiều hôm đó, Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa đến Bethlehem và đi rước theo Con đường Ngôi Sao đến Nhà thờ Giáng sinh. Đi trong đoàn rước, có các nhóm hướng đạo sinh. Năm nay, không có kèn trống và ca đoàn. Đức Thượng phụ chào thăm ông Thị trưởng và các chức sắc của Giáo hội tại Quảng trường Máng Cỏ, trước khi tiến vào Nhà thờ Giáng sinh.

Năm nay, không có vé được phát cho lễ đêm Giáng sinh tại nhà thờ thánh nữ Catarina, trái ngược với những năm trước đây. Tín hữu nào cũng có thể đến dự lễ, đặc biệt là các tín hữu ở địa phương, nhưng cũng có các công nhân viên nước ngoài cũng như các nhà ngoại giao hoạt động ở vùng Tel Aviv. Hàng ghế đầu trong thánh đường được dành cho chính quyền Palestine. Người ta không rõ Tổng thống Mahmoud Abbas có đích thân dự lễ năm nay hay không, điều chắc chắn là ông không cần vé.


Hội đồng Giám mục Việt Nam dựng bia ghi ơn Hội Thừa sai Paris



Sau Thánh lễ Chúa nhật ngày 15/12/2024, tại nhà nguyện Hiển Linh rue du Bac, vào lúc 11h00 (giờ Pháp), Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đã làm phép bia ghi ơn Hội Thừa sai Hải ngoại Paris tại trụ sở của Hội.

              image.png

Hiện diện trong biến cố quan trọng này có Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng – Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam, Cha Vincent Sénéchal – Bề trên Tổng quyền Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, quý cha thành viên nhà MEP, quý cha du học sinh và một số anh chị em giáo dân hải ngoại.

Bia ghi ơn này được đặt tại hoa viên Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, ngay cạnh tượng đài Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo, nơi các nhà thừa sai được sai đi. Việc đặt tấm bia này mang nhiều ý nghĩa. Đây là tâm tình tri ân của Hội Đồng Giám mục và của Giáo hội Công giáo Việt Nam đối với Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, đồng thời nhắc nhớ cho các thế hệ tương lai lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Qua tấm bia này, Giáo hội Việt Nam luôn hiện diện giữa trụ sở của Hội.

Hội Thừa sai Hải ngoại Paris là tổ chức được thiết lập để truyền giáo cho Việt Nam và vùng Viễn Đông năm 1663. Hội đã đóng góp khoảng 1000 nhà thừa sai làm việc trên cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam. Trong số này có 10 vị tử đạo đã được phong thánh ngày 19/6/1988. Cha Jean-Baptiste Etcharren là vị thừa sai cuối cùng hiện diện tại Việt Nam, mất ngày 21/9/2021 tại Tổng Giáo phận Huế.

Hiện nay, Hội Thừa sai Hải ngoại Paris vẫn tiếp tục giúp đỡ Giáo Hội Việt Nam qua việc đào tạo rất nhiều nhân sự cho hầu hết các giáo phận tại Việt Nam. Đây là nghĩa cử biểu lộ lòng biết ơn của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng như của con dân Công giáo đất Việt đối với công ơn của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris.




⛪❄️⛪❄️⛪


Bia đá ghi Mười Điều răn cổ nhất được bán đấu giá hơn 5 triệu đô la Mỹ

Ngày 18/12/2024, nhà đấu giá Sotheby ở New York (Mỹ) đã bán tấm bia đá Mười Điều Răn được cho là cổ nhất, có niên đại từ năm từ khoảng năm 300 đến năm 800 sau Chúa Giáng Sinh, với giá 5 triệu 40 ngàn đô la Mỹ.

image.png

Bia đá ghi Mười Điều răn cổ nhất trong buổi bán đấu giá của Sotherby 

Theo trang web chính thức của Sotheby, tấm bia đá này được khắc, tại Thánh Địa vào cuối thời đế quốc Roma-Byzantine, cách đây khoảng 1.500 năm.

Giá khởi điểm của bia đá ước tính từ 1 triệu đến 2 triệu đô la, nhưng sau đó, trong thời gian đấu giá khoảng 10 phút, nó đã được bán với giá cao hơn nhiều so với giá khởi điểm.

Lịch sử tấm bia Mười Điều răn

Tấm bia đá bằng đá cẩm thạch trắng, nặng 52 kg và cao 60 cm. Theo nhà đấu giá Sotheby, bia đá này được phát hiện cách tình cờ vào năm 1913 trong quá trình xây dựng tuyến đường sắt ở bờ biển phía nam của Israel để tới Ai Cập. Việc phát hiện này không được chú ý trong nhiều thập kỷ và trong 30 năm, bia đá được dùng làm đá lát vỉa hè.

Mãi đến năm 1943, Jacob Kaplan, một nhà khảo cổ học nổi tiếng ở Tel Aviv mới có được tấm bia đá và nhận ra giá trị lịch sử của nó.

20 dòng văn bản trên bia đá dựa theo bản văn Kinh Thánh của Sách Xuất hành, nhưng điều răn “Ngươi không được kêu tên Chúa là Thiên Chúa của ngươi cách vô cớ” đã bị thiếu. Thay vào đó, một điều răn không có trong Kinh Thánh đã được thêm vào, cụ thể là thờ phượng Thiên Chúa tại Núi Gerizim, thánh địa trung tâm của người Samaria.

Theo Yitzhak Ben-Zvi, một nhà lịch sử và cũng là tổng thống thứ hai của Israel, Mười Điều Răn được chạm khắc tỉ mỉ trên 20 dòng bằng kiểu chữ Paleo-Hebrew, một lối viết tiếng Do Thái cổ, cho biết niên đại của tấm bia đá là từ thời Byzantine. Ông cho rằng nó được người Samaria ở Israelviết.

Trước khi được Sotheby đưa ra đấu giá, tấm bia đá Mười Điều Răn được một nhà sưu tầm đồ cổ người Israel sở hữu vào năm 1995 và sau đó được chuyển đến Bảo tàng Kinh Torah Sống ở Brooklyn, New York. Vào năm 2016, một nhà sưu tập và chủ sở hữu cuối cùng của nó, Mitchell S. Cappell, đã mua lại với giá 850 ngàn đô la. 







Hai chai whisky có chữ ký của Đức Phanxicô bán được 27.500 đô la


image.png

Hai chai whisky có chữ ký của Đức Thánh Cha Phanxicô bán được 27.500 đô la

Tháng 12, hãng Sotheby’s New York bán đấu giá hai chai rượu Willett bourbon có chữ ký của Đức Phanxicô, mỗi chai bán được 13.750 đô la. Số tiền thu được sẽ dành cho các tổ chức từ thiện.

Việc bán đấu giá các quà tặng của Đức Phanxicô thường rất thành công: Xe hơi, xe mô tô, đồng hồ, v.v. những vật dụng được những người yêu mến ngài sẵn sàng mở hầu bao.

Hai chai rượu whisky bourbon có chữ ký của ngài là những chai rượu đặc biệt. Chai đầu tiên kỷ niệm 10 năm ngài làm giáo hoàng, chai thứ hai kỷ niệm Năm Thánh 2025 sắp tới với chủ đề “Những người hành hương của niềm hy vọng”. Tiền bán được 27.500 đô la sẽ dành cho các tổ chức từ thiện.

Cha Jim Sichko, Nhà truyền giáo của Lòng Thương Xót nói lên lòng biết ơn: “Hai chai rượu này không chỉ là những chai rượu sưu tầm, nhưng còn là biểu tượng của niềm hy vọng và lòng trắc ẩn, những điều tốt lành cho thế giới.”


Lật ngược lệnh cấm rước lễ của Nancy Pelosi: Chuyên gia cho biết đã quá muộn để kháng cáo




Đức Giáo Hoàng Phanxicô gặp Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi tại Vatican vào ngày 9 tháng 10 năm 2021


Kristina Millare của hãng tin CNA, ngày 13 tháng 12 năm 2024, cho hay: Mặc dù cựu chủ tịch hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi tuyên bố gần đây rằng bà đã kháng cáo lên Vatican để lật ngược lệnh cấm rước lễ áp dụng đối với bà vì lập trường của bà về phá thai, nhưng bà không còn có thể kháng cáo nữa, một giáo sư l giáo luật nói với CNA.

Pelosi sẽ cần phải đưa vụ việc của mình lên Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong vòng 30 ngày kể từ khi Tổng giám mục San Francisco Salvatore Cordileone ban hành lệnh cấm ban đầu vào năm 2022, theo Cha Stefan Mückl, giáo sư luật tôn giáo tại Đại học Giáo hoàng Holy Cross ở Rome.

Trong một cuộc phỏng vấn với National Catholic Reporter được công bố vào tuần này, Pelosi cho biết bà đã tìm kiếm sự can thiệp tại Vatican để lệnh cấm được lật ngược.

"Theo tôi hiểu, miễn là Rome còn vụ việc, thì vụ việc vẫn chưa được giải quyết", Pelosi nói với National Catholic Reporter. "Tôi chưa bao giờ bị từ chối. Tôi đã đến các nhà thờ Công Giáo trên khắp cả nước và tôi chưa bao giờ bị từ chối".

Không rõ Pelosi đã kháng cáo lên Vatican khi nào. National Catholic Reporter cho biết "bà đã không trả lời yêu cầu được nói chuyện với luật sư giáo luật của mình" và "người phát ngôn của bà đã từ chối bình luận về vấn đề bản thân".

Trong một bức thư ngỏ năm 2022 gửi cho cựu chủ tịch Hạ viện, Cordileone đã cấm Pelosi rước lễ vì lập trường công khai của bà về vấn đề phá thai. Ngài đã trích dẫn Điều 915 của Bộ luật Giáo luật để áp dụng cho trường hợp của bà.

Theo Mückl, nếu Pelosi kháng cáo theo giáo luật lên Vatican, bà sẽ cần phải làm như vậy trong một khung thời gian cụ thể.

"Nếu bà Pelosi hiện đã nộp đơn 'kháng cáo' lên Tòa thánh, thì đây khó có thể là một biện pháp khắc phục theo nghĩa giáo luật vì một biện pháp khắc phục như vậy [rõ ràng sẽ] không còn phù hợp nữa", Mückl nói với CNA.

“Tốt nhất là có thể cho rằng đó là một ‘lời kêu gọi chính trị’”, ông nói. “Một biện pháp khắc phục theo nghĩa kỹ thuật sẽ bị giới hạn thời gian”.

Đề cập đến Điều 1734 và 1735 của Bộ Giáo luật, Mückl giải thích rằng Pelosi sẽ có “10 ngày để tìm cách thu hồi sắc lệnh của tác giả [Cordileone], sau đó là 30 ngày để đề xuất biện pháp khắc phục lên cấp trên có thẩm quyền [Đức Giáo Hoàng Phanxicô]”.

Đáp lại những bình luận của Pelosi trên tờ National Catholic Reporter, tổng giám mục San Francisco đã đưa ra một tuyên bố vào ngày 10 tháng 12 bày tỏ mong muốn được nói chuyện với chính trị gia này.

“Là một mục tử của các linh hồn, mối quan tâm hàng đầu và trách nhiệm chính của tôi là sự cứu rỗi của các linh hồn. Và như Ezekiel nhắc nhở chúng ta, để một mục tử hoàn thành ơn gọi của mình, ông ta không chỉ có nhiệm vụ dạy dỗ, an ủi, chữa lành và tha thứ mà còn phải sửa sai, khuyên răn và kêu gọi hoán cải khi cần thiết”, Cordileone viết.

“Do đó, tôi tha thiết lặp lại lời kêu gọi của mình một lần nữa tới Chủ tịch Hạ viện Pelosi để cho phép cuộc đối thoại này diễn ra”, ngài nói thêm.

Theo Mückl, nếu Pelosi từ chối tham gia đối thoại với Cordileone, “về mặt pháp lý, bà ấy đã không hoàn thành nghĩa vụ hợp tác của mình”.

Tuy nhiên, Mückl nói với CNA rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô “có thể tự do giải quyết vấn đề này”. “Liệu ngài có thực sự làm như vậy hay không thì rất khó để dự đoán”.


*****


JD Flynn, đồng chủ bút tạp chí mạng The Pillar, ngày 13 tháng 12 năm 2024, tường trình rằng Tuần này, nữ dân biểu Nancy Pelosi đã tham gia vào cuộc trò chuyện về giáo luật khi bà lên tiếng phản đối quyết định năm 2022 của tổng giám mục cấm bà rước lễ.

Trong một cuộc phỏng vấn trong đó Pelosi khẳng định rằng bà vẫn tiếp tục rước lễ, nữ dân biểu này cho biết đơn kháng cáo về quyết định của Tổng giám mục San Francisco Salvatore Cordileone trong vụ án đang chờ xử lý tại Rome và bà vẫn tiếp tục rước lễ tại các giáo xứ trong tổng giáo phận địa phương của mình.

"Miễn là Rome có vụ án, thì vụ việc vẫn chưa được giải quyết", Pelosi nói với National Catholic Reporter trong tháng này.

Nhưng trong khi Pelosi nói rằng bà đang chờ giải quyết, thì có khả năng bà sẽ phải chờ thêm một thời gian nữa — và các quan chức Vatican có thể không mấy quan tâm đến việc kết thúc vụ việc của bà.



Khi Tổng giám mục Cordileone tuyên bố vào tháng 5 năm 2022 rằng Pelosi đã bị cấm tham dự Thánh lễ, ngài đã nói rõ rằng quyết định của ngài được đưa ra sau một nỗ lực mục vụ kéo dài.

Các tuyên bố công khai của Cordileone giải thích rằng ngài đã nhiều lần nỗ lực gặp Pelosi, sau khi bà "thề sẽ đưa phán quyết Roe v. Wade của Tòa án Tối cao vào luật liên bang".

"Đó là lý do tại sao tôi đã trao đổi những lo ngại của mình với bà qua thư vào ngày 7 tháng 4 năm 2022 và thông báo với bà rằng, nếu bà không công khai từ chối việc ủng hộ 'quyền' phá thai hoặc không đề cập đến đức tin Công Giáo của mình ở nơi công cộng và Rước lễ, tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tuyên bố, theo giáo luật 915, rằng bà sẽ không được Rước lễ", vị tổng giám mục giải thích trong một lá thư gửi Pelosi, được công bố trực tuyến.

Các nguồn tin thân cận với Cordileone nói với The Pillar rằng vào đầu năm 2022, vị tổng giám mục đã nhiều lần cố gắng gặp Pelosi vì ngài hy vọng tránh được một cuộc đối đầu công khai và vì ngài hy vọng rằng một cuộc trò chuyện với bà có thể thay đổi suy nghĩ của bà.

Nhưng khi điều đó không xảy ra, Cordileone quyết định rằng: "thời điểm [đã] đến rồi".

"Bà không được phép rước lễ cho đến khi bà công khai từ chối việc ủng hộ tính hợp pháp của phá thai và xưng tội cũng như được xá tội trọng này trong bí tích sám hối", ngài viết.

Pelosi không công nhận nhiều trong quyết định của Cordileone khi nó được công bố, ngay cả sau khi nhiều giám mục Hoa Kỳ cho biết họ ủng hộ quyết định này.

Nhưng các nguồn tin đã xác nhận rằng nữ dân biểu đã thuê một chuyên gia giáo luật ngay sau khi quyết định được công bố và bắt đầu quá trình kháng cáo lên phẩm trật đối với quyết định của Cordileone, đầu tiên với Tổng giáo phận San Francisco.

Văn phòng của Pelosi đã không trả lời yêu cầu cung cấp thông tin về quá trình này.

Các nguồn tin thân cận với giáo phận này đã nói với The Pillar rằng vụ việc đang được giải quyết tại Bộ Phụng tự, nơi đã liên lạc với Tổng giáo phận San Francisco về việc kháng cáo.



Lệnh cấm Rước lễ không phải là hình phạt, và do đó không yêu cầu các thủ tục chi tiết của phiên tòa hoặc quá trình xử phạt hành chính.

Thay vào đó, một giám mục phải chắc chắn rằng một người bị cấm như vậy vẫn ngoan cố trong "tội lỗi nghiêm trọng rõ ràng", bất chấp các cảnh báo và lời khuyên răn thay đổi con đường.

Về phần mình, Cordileone đã cẩn thận ghi lại mức độ nghiêm trọng trong việc bà Pelosi ủng hộ chính sách phá thai, cũng như các cảnh báo, lời khuyên răn và lời mời gọi đối thoại mục vụ được viết lại nhiều lần của ngài. Trong phạm vi mà các chữ t được gạch chéo và các chữ i được chấm, vị tổng giám mục đã ghi chép tỉ mỉ, theo các nguồn tin thân cận với giáo phận này, đã được chuyển trực tiếp đến Rome.

Tất cả những điều đó có nghĩa là về mặt thủ tục, Bộ Phụng tự khó có thể lật ngược vụ án.

Mặc dù Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói vào năm 2021 rằng các chính trị gia ủng hộ việc bảo vệ hợp pháp cho phá thai sẽ tách mình khỏi sự hiệp thông của Giáo hội. — và “không được rước lễ” — thì có vẻ rõ ràng là nhiều Hồng Y trong giáo triều sẽ không có xác suất áp dụng cách tiếp cận của Cordileone đối với kỷ luật bí tích.

Bản thân Đức Hồng Y Arthur Roche, Tổng trưởng Bộ Phụng tự, có thể không phải là người hâm mộ cách tiếp cận mà Cordileone đã thực hiện với Pelosi.

Nhưng nếu không tước bỏ hoàn toàn các điều khoản giáo luật có liên quan và làm giảm đáng kể các đặc quyền kỷ luật của các giám mục giáo phận, thì Vatican có rất ít lý lẽ pháp lý để thách thức quyết định của Cordileone hoặc thẩm quyền của ngài trong việc đưa ra quyết định.

Tuy nhiên, khó có khả năng là một quyết định khẳng định động thái của ngài sẽ sớm được bộ ban hành, bởi vì Vatican của Đức Phanxicô đã cho thấy, nói chung, sự miễn cưỡng của họ trong việc can thiệp một cách dứt khoát hoặc có thẩm quyền vào các vấn đề tôn giáo đầy ngòi nổ gây ảnh hưởng đến đời sống của Giáo hội.

Thay vào đó, giáo triều của vị giáo hoàng này nổi tiếng là hoàn thiện nghệ thuật trì hoãn.

Trong khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô phải đối diện với áp lực đưa ra một số quyết định về vấn đề phó tế nữ, thì giáo hoàng lại thành lập ủy ban nghiên cứu này đến ủy ban nghiên cứu khác — ngài gần như luôn ở vị trí muốn nói rằng vấn đề này cần được các chuyên gia xem xét.

Khi tranh cãi nổ ra về các thầy giáo trong các cuộc hôn nhân đồng tính tại một trường trung học Công Giáo ở Indiana — và một biện pháp khắc phục đang chờ xử lý tại một giáo phận của Vatican — Đức Giáo Hoàng đã thực hiện một lộ trình mới lạ, bằng cách cử một sứ giả đến giải quyết vấn đề và để vấn đề này chính thức không được giải quyết trong hơn năm năm.

Nếu Vatican không muốn phán quyết có thẩm quyền về tranh chấp giữa một giám mục và Dòng Tên — phần lớn là vì nó liên quan đến vấn đề hôn nhân đồng tính — hãy xem giáo triều của giáo hoàng sẽ dị ứng như thế nào với một quyết định cân nhắc trong một vụ án nổi cộm, liên quan đến phá thai, một tổng giám mục và người phụ nữ có quyền lực chính trị nhất đất nước.

Có vẻ như giáo triều sẽ thúc giục Cordileone gặp Pelosi để thảo luận thêm về mục vụ, nữ dân biểu sẽ phản đối, và vấn đề sẽ bị căng thẳng vô thời hạn.



Tuy nhiên, trong thời gian chờ đợi, Pelosi đã công khai tiết lộ một vấn đề gần nhà hơn mà Cordileone có thể phải đối diện với một số lời kêu gọi giải quyết. Nữ dân biểu nói với National Catholic Reporter rằng bà thường xuyên nhận Bí tích Thánh Thể từ các linh mục San Francisco — mặc dù tổng giám mục của họ đã chỉ thị rõ ràng rằng bà không được phép nhận Bí tích Thánh Thể.

Theo hầu hết các tính toán theo giáo luật, thẩm quyền của Cordileone về vấn đề này chủ yếu mở rộng đến ranh giới lãnh thổ của ngài — vì Pelosi không phải là đối tượng của lệnh trừng phạt của giáo hội, nên ngài không có thẩm quyền cấm bà nhận Bí tích Thánh Thể ở các lãnh thổ giáo hội khác.

Nhưng trong lãnh thổ của mình, ngài có thẩm quyền phán quyết các vấn đề về kỷ luật bí tích. Về nguyên tắc, tổng giám mục có thể theo đuổi một số hậu quả theo giáo luật đối với các linh mục vi phạm chỉ thị của ngài.

Nhưng nhìn chung, Cordileone có vẻ như quá nghiêm khắc trong phán quyết của mình — bày tỏ sự hối tiếc về hoàn cảnh của Pelosi ngay cả khi ngài tuyên bố như vậy, và bày tỏ hy vọng về sự hoán cải và đối thoại, ngay cả trong tuần này.

Đối với Pelosi, quan điểm của Cordileone về vấn đề này rõ ràng là không quan trọng.

Việc bà tiếp nhận Bí tích Thánh Thể là "vấn đề của ông ấy, không phải của tôi", bà nói trong tuần này.

Và trong khi đơn kháng cáo của bà về mặt kỹ thuật vẫn đang chờ xử lý, các quan chức Rôma có vẻ như sẽ để nó vẫn là "vấn đề của ông ấy" và không để nó trở thành vấn đề của họ.





ĐTC Phanxicô: Tạ ơn Chúa vì ngày nay các tín hữu Tin Lành Giám lý và Công giáo hiểu nhau và yêu mến nhau hơn


Tiếp Phái đoàn Hội đồng Thế giới của Tin Lành Giám lý vào sáng ngày 16/12/2024, Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu tiến bước trên con đường tiến tới sự hiệp nhất hữu hình và hướng về Trái Tim Chúa Giêsu Kitô để sống hòa bình và phục vụ Nước Chúa.




Đức Thánh Cha tiếp Phái đoàn Hội đồng Thế giới của Tin Lành Giám lý

Ngỏ lời với phái đoàn, Đức Thánh Cha lưu ý rằng “Trong một thời gian dài, giữa các tín hữu Tin Lành Giám lý và tín hữu Công giáo chúng ta có sự xa lạ và nghi ngờ lẫn nhau. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể tạ ơn Chúa vì trong gần sáu mươi năm qua, chúng ta đã cùng nhau tiến bộ về kiến thức, sự hiểu biết và tình yêu mến lẫn nhau. Điều này giúp chúng ta đào sâu thêm sự hiệp thông giữa chúng ta”.

Thái độ hòa bình là nhiệm vụ của trái tim

Đức Thánh Cha cũng nhận xét rằng “Việc cởi mở với nhau đã đưa chúng ta đến gần nhau hơn, khiến chúng ta khám phá ra rằng thái độ hòa bình là nhiệm vụ của trái tim”. Ngài giải thích: “Khi Trái Tim Chúa Giêsu chạm đến trái tim chúng ta, Người biến đổi chúng ta. Đây là cách mà các cộng đồng của chúng ta có thể liên kết các trí tuệ và ý chí khác nhau của họ để được Thánh Thần hướng dẫn như anh chị em”. Theo ngài, cuộc hành trình này cần có thời gian, nhưng chúng ta phải tiếp tục con đường này, luôn hướng về Trái Tim Chúa Kitô, bởi vì chính từ Trái Tim đó mà chúng ta học cách có tương quan tốt với nhau và phục vụ Nước Thiên Chúa (xem Thông điệp Dilexit nos số 28).

Chứng tá sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới

Đức Thánh Cha nhắc rằng năm tới các Kitô hữu trên khắp thế giới sẽ kỷ niệm 1.700 năm kể từ Công đồng Đại kết đầu tiên, Công đồng Nixêa. Theo ngài, việc cử hành này nhắc nhở chúng ta rằng “chúng ta tuyên xưng cùng một đức tin và do đó, chúng ta có cùng trách nhiệm đưa ra những dấu hiệu hy vọng chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế giới”.

Nhắc lại Sắc chỉ Công bố Năm Thánh 2025 “Hy vọng không làm thất vọng”, Đức Thánh Cha mời gọi tất cả các Giáo hội và cộng đồng giáo hội tiến bước trên con đường hướng tới sự hiệp nhất hữu hình, không mệt mỏi tìm kiếm những hình thức thích hợp để thực hiện trọn vẹn lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho họ nên một” (Spes non confundir).

Cuối cùng, Đức Thánh Cha cảm ơn các mục sư và các nhà thần học đã phục vụ trong Ủy ban Hỗn hợp Đối thoại Quốc tế giữa Hội đồng Giám lý Thế giới và Giáo hội Công giáo, và khuyến khích các thành viên hiện tại tiếp tục sự dấn thân tương tự.




Nhà cầm quyền mới tại Syria cho phép các Kitô hữu cử hành lễ Giáng sinh


Theo Tổ chức bác ái “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, bầu không khí ở Aleppo, thành phố lớn thứ hai của Syria, có phần được cải thiện, nhưng người ta vẫn còn ngờ vực về tương lai tình trạng các tín hữu Kitô thiểu số tại nước này.



Christen in Aleppo beim Sonntagsgottesdienst nach dem Machtwechsel in Syrien


Các tín hữu Kitô tại Syria đang chuẩn bị cử hành lễ Giáng sinh, trong tâm tình vừa hy vọng vừa lo âu, sau những thay đổi chính trị tại nước này. Hôm 18 tháng Mười Hai vừa qua, Tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, có trụ sở ở Munich bên Đức, cho biết các nhà thương ở Syria hoạt động trở lại, vật giá ổn định sau những tăng giá ban đầu. Các sản phẩm nước ngoài, như từ Thổ Nhĩ Kỳ, thường rẻ hơn so với các sản phẩm địa phương. Tuy nhiên, tâm trạng ngờ vực vẫn còn trổi vượt nơi các tín hữu Kitô. Họ nói: “Sau bao nhiêu đau khổ và cơ cực, chúng tôi cảm thấy rất khó tín nhiệm nơi nhà cầm quyền mới”.

Theo nghiên cứu của Tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ”, từ khi thay đổi chế độ ở Syria, chưa có dấu hiệu gì chứng tỏ có một sự bách hại có hệ thống hoặc kỳ thị các tín hữu Kitô. Nhưng cũng có tin về một vài vụ gây hấn. Từ thành phố Homs, có tin nói tình trạng yên hàn và các trường Công giáo cũng đã mở cửa lại.

Tuy nhiên, các tín hữu Kitô cũng lo âu quan sát diễn biến tình hình. Ví dụ, một nguồn tin ẩn danh nói rằng: “Khi có một hiến pháp mới dựa trên luật Sharia của Hồi giáo, thì chắc chắn các tín hữu Kitô sẽ phải rời bỏ đất nước này, vì tự do cá nhân của họ sẽ bị giới hạn”. Điều quan trọng là sự chú ý của quốc tế và hỗ trợ các nhóm thiểu số, như các Kitô hữu để Syria có một hiến pháp dân sự.



Số chủng sinh Tây Ban Nha tăng sau nhiều năm giảm


Sau nhiều năm giảm, năm nay, số chủng sinh của Giáo hội Tây Ban Nha vượt con số 1.000, nghĩa là tăng 239 thầy. Ngoài ra còn có 103 chủng sinh nước ngoài đang được đào tạo tại Tây Ban Nha.

image.png

Tổng cộng, số chủng sinh của 69 giáo phận thuộc lãnh thổ và Tổng Giám mục Quân đội lên tới 1.036 so với 956 trong năm học 2023-2024 và 974 trong năm học 2022-2023.

Trong số 1.036 chủng sinh, 79% thuộc các chủng viện giáo phận (825 thầy), trong khi 211 thầy được đào tạo tại chủng viện Mẹ Đấng Cứu Chuộc của Con đường Tân Dự Tòng.

Theo dữ liệu do Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha cung cấp, tính thêm sinh viên từ các quốc gia khác đang được đào tạo ở Tây Ban Nha, tổng cộng có 1.239 sinh viên cho năm học 2024-2025.

Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha khẳng định có ba yếu tố giải thích sự thay đổi rõ ràng về xu hướng số chủng sinh ở Tây Ban Nha. Đầu tiên là sự hồi sinh của toàn thể hoạt động chăm sóc mục vụ của Giáo hội, và đặc biệt hơn là mục vụ giới trẻ và ơn gọi, sau khi đại dịch chấm dứt. Những thành quả mục vụ đầu tiên của những năm gần đây giờ đây đã bắt đầu được cảm nhận.

Thứ hai, các vị mục tử nhấn mạnh đến tác động của Ngày Giới trẻ Thế giới được tổ chức tại Lisbon vào năm 2023: “Những sự kiện đặc biệt của Giáo hội cũng có xu hướng đánh thức nơi một số thanh niên mối quan tâm về ơn gọi linh mục, mối quan tâm mà khi được đồng hành một cách thích hợp, có thể bao hàm việc gia nhập Đại chủng viện”. 

Thứ ba, theo các Giám mục là yếu tố chính, đó là cần phải đọc một cách tin tưởng về thực tế, dựa trên sự chắc chắn rằng Thiên Chúa tiếp tục thực hiện lời hứa của Người là ban cho chúng ta những mục tử theo lòng Chúa mong muốn.

Các Giám mục nói thêm: “Giữa một xã hội mà chiều kích ơn gọi của con người đã bị đánh mất, mỗi chủng sinh trở thành một dấu lạ thực sự và là dấu chỉ sự can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử của chúng ta”. 






⛪❄️⛪❄️⛪


Trong năm 2023, ở Canada, luật cho phép trợ tử hay làm cho chết êm dịu, theo yêu cầu của bệnh nhân nan y hoặc vì những lý do khác, đã làm tăng số người chết. Đã có hơn 15.000 người chết vì an tử, tăng 16% so với năm trước.


Số người chết vì an tử tại Canada tăng vọt 16% trong năm qua



Luật cho phép trợ tử hay làm cho chết êm dịu, theo lời thỉnh cầu của người bệnh nan y hoặc vì những lý do khác đã làm tăng vọt số người chết trong năm ngoái (2023) tại Canada. Đã có hơn mười lăm ngàn người chết, tức là tăng thêm 16%.

Phúc trình thường niên lần thứ V của Bộ y tế Canada cho thấy, cứ hai mươi người chết tại Canada trong năm ngoái, thì có một người chết vì trợ tử.

Hơn một nửa số người được trợ tử có số tuổi trên 75, và bệnh ung thư thường là lý do thông thương nhất trong vấn đề này. Ngoài ra, có các bệnh khác, như tiểu đường, sức khỏe quá yếu ớt và đau đớn kinh niên.

Bộ trưởng y tế Canada, ông Mark Holland, bày tỏ hài lòng trong việc công bố thống kê, vì theo ông, nó cho thấy một cái nhìn bao quát về vấn đề trợ giúp y tế cho những người gần chết tại đất nước này. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, ví dụ hồi tháng Mười Một vừa qua, cũng có những tố giác hàng trăm vụ vi phạm luật quốc gia về an tử. Tình trạng này xảy ra từ lâu nhưng không có vụ nào được trình báo với nhà chức trách an ninh.

Trong khi đó, những người ủng hộ trợ tử thì thúc đẩy chính phủ nới rộng luật an tử dành cho những người bị bệnh tâm trí, tuy rằng hồi đầu năm nay chính phủ tạm ngưng để hệ thống y tế quốc gia “có thời gian nhiều hơn” để chuẩn bị cho việc nới rộng này.



Tổng thống Zelensky: Nga giết hại năm mươi linh mục và phá hủy khoảng bảy trăm thánh đường


                                      Trong gần ba năm chiến tranh chống Ucraina, Nga đã giết hại năm mươi linh mục Chính thống và Công giáo, cũng như phá hủy gần bảy trăm thánh đường.



Tổng thống Zelensky của Ucraina đã tuyên bố như trên với đài truyền hình CBN News của Mỹ, truyền đi hôm 12 tháng Mười Hai vừa qua. Ông nói: “Quân Nga đối xử với các thánh đường ở Ucraina hơn kém giống như một trường học, nghĩa là mỗi khi vào lãnh thổ chúng tôi, họ phá hủy các trường học và nhà thờ, và cũng nhắm không để lại dấu vết gì, khi họ rời khỏi nơi đó. Đó là lý do tại sao nhiều linh mục bị bắt cóc hoặc bị giết. Năm mươi linh mục bị họ giết bằng nhiều cách khác nhau. Có nhiều bằng chứng cho thấy các linh mục đó đã bị tra tấn. Họ tra tấn để làm gì? Thưa, chỉ vì họ phải phục vụ Thượng phụ Kirill của Nga và Giáo hội Chính thống Nga, và đó là một giáo sĩ phục vụ hai chủ: nhân dân và Thiên Chúa”.

Tổng thống Zelensky cũng nêu lên câu hỏi: Tại sao quân Nga làm hư hại hoặc phá hủy 2.109 cơ sở văn hóa, bằng bom và tên lửa. Và bất cứ khi nào họ vào lãnh thổ đất nước chúng tôi, thì họ nổi lửa thiêu hủy các cơ sở đó?”

Theo thống kê của Bộ văn hóa và thông tin thì chiến thuật của Ucraina, tính đến ngày 25 tháng Mười năm nay, có 2.109 cơ cấu hạ tầng văn hóa của Ucraina bị thiệt hại hoặc phá hủy do các cuộc tấn công ồ ạt của Nga.

Mặt khác, cũng liên quan đến Ucraina, Đức Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến Đức Tổng giám mục Epiphanius, Thủ lãnh của Giáo hội Chính thống Ucraina. Đại sứ Ucraina cạnh Tòa Thánh, ông Andrij Jurash đã thông báo tin này trên trang mạng X, hôm thứ Sáu, ngày 13 tháng Mười Hai vừa qua, và gọi đó là một cuộc gặp gỡ rất tốt đẹp. Kèm theo đó là hình chụp Đức Giáo hoàng với Đức Tổng giám mục Epiphanius.

Đức Tổng giám mục năm nay 45 tuổi, thủ lãnh của Giáo hội Chính thống Ucraina, từ tháng Mười Hai năm 2018 sau khi nhận được Tomos, tức là sắc lệnh của Đức Thượng phụ Bartolomaios I, Giáo chủ danh dự chung của Chính thống giáo, công nhận sự độc lập của Giáo hội Chính thống Ucraina, đối với Giáo hội Chính thống Mascơva.

Phía Tòa Thánh cho biết, cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh cha và Đức Tổng giám mục Epiphanius là một cuộc gặp gỡ riêng tư, giống như hồi năm 2023.

Chính phủ Ucraina ủng hộ Giáo hội Chính thống Ucraina và cấm Chính thống Nga không được hoạt động. Cuộc thăm dò mới đây cho biết nhiều tín hữu Chính thống Ucraina trước đây thuộc Tòa Thượng phụ Chính thống Mascơva nay đã chuyển sang Giáo hội Chính thống Ucraina.




Nạn kỳ thị Kitô hữu tại Ấn Độ gia tăng trong năm 2024

Trong năm 2024 này, các tín hữu Kitô tại Ấn Độ phải chịu tình trạng gia tăng kỳ thị, tấn công và xách nhiễu do các thành phần quốc gia Ấn giáo cực đoan, đặc biệt tại các hàng mạc xa xăm, thuộc các bang do đảng Ấn giáo BJP cầm quyền.

Hãng tin Công giáo Á châu Ucan, truyền đi ngày 19 tháng Mười Hai vừa qua, cho biết từ tháng Giêng đến tháng Chín năm nay, các tín hữu Kitô Ấn Độ đã phải chịu 585 vụ tấn công, theo báo cáo của Diễn đàn Kitô thống nhất, gọi tắt là UCF, một tổ chức chuyên theo dõi và lập hồ sơ về những vụ bạo hành chống Kitô hữu.

Sự đố kỵ chống Kitô hữu gia tăng sau khi Thủ tướng Ấn Nadrendra Modi đắc cử nhiệm kỳ thứ ba, hồi tháng Sáu năm nay và tiếp tục lãnh đạo đảng BJP trong cuộc bầu cử toàn quốc, tuy rằng đảng của ông và liên minh các nhóm Ấn giáo giảm bớt đa số ghế ở Quốc hội. Đảng BJP chủ trương biến Ấn Độ thành một quốc gia thần quyền và ngăn chặn các hoạt động cải đạo và việc truyền giáo của các tôn giáo khác, đặc biệt nơi các làng ở vùng sâu vùng xa, và những dân làng nghèo.

Bang Uttar Pradesh ở miền bắc Ấn là bang đông dân cư nhất của Ấn Độ và bang này là nơi tệ nhất đối với các tín hữu Kitô, vì chính quyền địa phương thuộc đảng BJP, quyết liệt áp dụng luật chống cải đạo, từ tháng Tám năm nay. Luật tu chính về phương diện này phạt tới hai mươi năm tù những ai vi phạm luật và hạn chế tối ta việc cho tại ngoại hầu tra. Luật cũng cho phép bất kỳ người nào cũng có thể tố giác người vi phạm luật, thay vì trước kia, chỉ có người nào là nạn nhân sự cải đạo hoặc thân nhân của họ mới có quyền khởi tố.

Tại bang Uttar Pradesh, có 156 trên tổng số 585 vụ chống Kitô hữu trên toàn quốc, đây là mức độ cao nhất trong số hai mươi tám bang ở Ấn Độ.

Tại bang Manipur ở miền Đông bắc Ấn Độ, xung đột chủng tộc đã bùng nổ vào ngày 03 tháng Năm năm ngoái, và còn tiếp tục giữa các tín hữu Kitô bản xứ thiểu số và những người Ấn giáo Meitei chiếm đa số. Các tín hữu Kitô tố giác chính quyền thuộc đảng BJP tại bang này ủng hộ bạo lực chống Kitô hữu.

Bạo lực làm cho ít nhất 250 người chết và 60.000 người phải tản cư, đa số là Kitô hữu, nay đang phải sống trong các trại tạm trú của nhà nước và không biết bao giờ có thể trở về gia cư của họ, trong đó có nhiều nhà đã bị phá hủy hoặc thiêu rụi.

Giáo hội Công giáo tại Ấn Độ đảm trách hơn 55.000 cơ sở giáo dục, trong đó có 400 trường học và học viện, sáu đại học, sáu trường y khoa. Có một đề nghị gây sốc, đó là Tòa án cấp cao ở Madras, thủ phủ bang Tamil Nadu ở miền nam Ấn, hôm 18 tháng Mười Một vừa qua, gợi ý thiết lập một đạo luật để quản lý các tài sản của Giáo hội, giống như trường hợp những người Ấn giáo và Hồi giáo.

Tòa án đưa nhận xét đó sau khi nghe một loạt những vụ hối lộ và biển thủ tài sản do Giáo hội Nam Ấn, gọi tắt là CSI, một Giáo hội tin lành xuất thân từ Giáo hội Anh giáo và thừa hưởng tài sản của Giáo hội này, sau khi Ấn Độ được độc lập hồi năm 1947. Lời cáo buộc chống Giáo hội này, đó là tài sản của Giáo hội bị bán dưới giá thị trường và trong nội bộ Giáo hội này, có một số xung đột và xì căng đan.



Chính trị gia, triết gia Nikos Kazantzakis (1883-1957) đã viết: “Con người luôn thiếu kiên nhẫn, nhưng Thiên Chúa không bao giờ nóng vội!”. Câu này nêu bật một chân lý quan trọng. Chúng ta cần kiên nhẫn, kiên nhẫn vô hạn với Thiên Chúa. Chúng ta cần để mọi chuyện phát triển đúng thời điểm của nó, đúng thời điểm của Thiên Chúa.

Nhìn vào lịch sử tôn giáo qua hàng thế kỷ, chúng ta không khỏi choáng váng trước sự thật Thiên Chúa dường như thong thả trước sự thiếu kiên nhẫn của chúng ta. Kinh Thánh thường ghi lại những khao khát bị nản lòng, những điều không viên mãn, và sự thiếu kiên nhẫn của con người. Việc Thiên Chúa can thiệp trực tiếp và dứt khoát giải quyết một căng thẳng nào đó của con người là chuyện hiếm hơn cả mức ngoại lệ. Chúng ta luôn mãi khao khát một Đấng Thiên sai đến cất đi nỗi đau, báo oán những áp bức, nhưng hầu hết những lời cầu nguyện này dường như rơi vào hư không.

Vì thế trong Kinh Thánh triền miên có lời cầu khẩn đau đớn: Lạy Chúa, xin hãy đến! Xin cứu chúng con! Chúng con còn phải chờ bao lâu nữa! Lúc nào, lạy Chúa, đến lúc nào!

Chúng con luôn thiếu kiên nhẫn, nhưng Chúa lại không vội vàng. Vì sao? Vì sao Chúa dường như hành động quá chậm trễ? Chẳng lẽ Chúa nhẫn tâm nhìn chúng con khổ sao? Thiên Chúa chai đá trước đau khổ của chúng con sao? Vì sao Chúa hành động quá đỗi chậm trễ trước sự mất kiên nhẫn của nhân loại?

Trong ngụy văn của Do Thái giáo, có một câu giúp trả lời câu hỏi này một cách ẩn dụ: Mọi giọt nước mắt sẽ đưa Đấng Thiên sai đến gần hơn!  Có vẻ có một mối liên kết cố hữu giữa sự chán nản và khả năng Đấng Thiên sai ra đời. Đấng Thiên sai chỉ có thể ra đời sau khi con người khao khát suốt một thời gian dài. Tại sao?

Việc sinh hạ có thể cho chúng ta thấy được đôi điều. Không thể đẩy nhanh thời kỳ thai nghén, và có mối liên kết giữa cơn đau mà người mẹ chịu lúc sinh con. Việc hạ sinh của Chúa Giêsu cũng vậy. Với tiền đề không thể đẩy nhanh quá trình thai nghén. Nước mắt, nỗi đau, và thời gian cầu nguyện lâu dài là điều cần thiết để tạo điều kiện cho sự thai nghén sẽ hạ sinh Đấng Thiên sai vào thế giới chúng ta. Vì sao? Vì có một dạng tình yêu và sự sống chỉ có thể nảy sinh sau khi kiên nhẫn chịu đựng lâu dài, tạo nên một không gian thích đáng cho dạ người trinh nữ, để từ đó hạ sinh sự siêu phàm. Sự siêu phàm luôn dựa vào một sự thăng hoa trước đó.

Một vài ẩn dụ có thể giúp chúng ta hiểu chuyện này.

Khi cố gắng giải thích về cách con người có thể được thổi bùng với tình yêu vị tha, Thánh Gioan Thánh Giá đã dùng hình ảnh một khúc gỗ cháy thành ngọn lửa trong lò. Khi khúc gỗ khô được đặt vào lò, nó không cháy ngay lập tức. Trước hết, nó cần được làm khô đã. Do đó, suốt một thời gian dài, nó chỉ kêu xèo xèo trong lò, màu xanh và độ ẩm sẽ mất và chỉ khi đến nhiệt độ cháy, nó mới có thể bắt lửa và cháy bùng thành ngọn.

Một cách ẩn dụ, trước khi khúc gỗ có thể bùng cháy, nó phải qua thời kỳ chờ đợi, một tình trạng khô héo, một thời gian  chán nản và khao khát. Động lực để một tình yêu đặc biệt sinh ra trong đời  chúng ta cũng vậy. Chúng ta chỉ có thể khơi lên dạng tình yêu này khi chúng ta bị là những khúc củi ẩm ướt, còn xanh, kêu xèo xèo trong ngọn lửa của khao khát bất đạt.

Thần học gia Pierre Teilhard de Chardin cho chúng ta một ẩn dụ thứ hai. Ngài nói về điều mà ngài gọi là “tăng nhiệt độ tâm linh”. Trong phòng thí nghiệm hóa học, bạn có thể đặt hai chất trong cùng một ống mà không bị hợp nhất. Những chất đó vẫn tách biệt, không hợp nhất với nhau được.  Chỉ sau khi được nung đến một nhiệt độ đủ cao, chúng mới phản ứng hợp lại với nhau. Chúng ta cũng vậy. Thường chỉ khi nhiệt độ tâm linh của chúng ta lên đến mức hợp nhất đó, nghĩa là khi khao khát bất đạt làm tăng nhiệt độ tâm hồn của chúng ta đến mức chúng ta có thể hướng về sự hòa hợp và hợp nhất.

Tóm lại, đôi khi chúng ta phải đi đến cơn sốt mến tâm linh bằng chán nản và nỗi đau, trước khi sẵn sàng buông bỏ ích kỷ và để mình được kéo vào thông hiệp.

Thần học gia công giáo Thomas Halik từng nói, người vô thần đơn giản chỉ là một từ khác để gọi một người không đủ kiên nhẫn với Thiên Chúa. Cha nói đúng. Thiên Chúa không bao giờ vội vã, và Ngài làm thế vì những lý do chính đáng. Đấng Thiên sai chỉ có thể được thai nghén trong một dạng cung lòng nhất định, cụ thể là một cung lòng đủ kiên nhẫn và sẵn lòng chờ đợi, để mọi chuyện diễn ra theo kỳ hạn của Thiên Chúa chứ không phải kỳ hạn của chúng ta.

Mọi giọt nước mắt đưa Đấng Thiên sai đến gần hơn. Đây là một bí ẩn không thể dò thấu. Về lý thuyết, mỗi một chán nản nên làm chúng ta sẵn sàng yêu thương hơn. Về lý thuyết, mỗi một giọt nước mắt nên làm chúng ta sẵn sàng tha thứ hơn. Về lý thuyết, mỗi một lần đau lòng nên làm chúng ta sẵn sàng buông bỏ phần nào sự tách biệt của mình. Về lý thuyết, mỗi một khao khát bất đạt nên dẫn chúng ta đi vào lời cầu nguyện sâu sắc hơn và thành tâm hơn. Và về lý thuyết, mọi sự thiếu kiên nhẫn đau đớn của chúng ta hướng đến sự sự kết hợp vốn luôn mãi tránh né chúng ta, làm cho chúng ta đủ nhiệt tâm để cháy bùng thành ngọn lửa tình yêu. Một cách ngôn trong ngụy văn Do Thái giáo đã diễn đạt rất nên thơ rằng: Với nhiều tiếng rên rỉ của xác thịt thì sự sống của linh hồn được sinh ra!



Mikali Nguyễn

unread,
Dec 27, 2024, 4:41:03 PM12/27/24
to alphonsefamily

Lạy Thiên Chúa Cha toàn năng,

Trong Năm Thánh này, chúng con chiêm ngắm Thánh Gia – mẫu gương của tình yêu, sự hiệp nhất và đời sống thánh thiện. 

Xin cho chúng con biết học nơi Thánh Gia tinh thần vâng phục, lòng tin tưởng và sự kiên nhẫn trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Xin Cha thánh hóa gia đình chúng con, để qua mọi thử thách và niềm vui, 

chúng con ngày càng gần Cha hơn, và trở thành chứng nhân cho Tình yêu Cha giữa đời.

Chúng con cầu xin Cha, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.


Đức Thánh cha mở cửa Năm Thánh tại Đền thờ thánh Phêrô


                              Lúc 19 giờ, ngày 24 tháng Mười Hai năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự nghi thức mở Cửa Thánh tại Đền thờ thánh Phêrô để khai mạc Năm Thánh 2025.

Vào đầu Thánh lễ đêm Giáng sinh, Đức Giáo hoàng Phanxicô  mở Cửa Thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô, nơi sẽ mở trong suốt cả năm để cho phép khoảng 32 triệu người hành hương dự kiến đến thăm Rome đi qua.


Năm Thánh đầu tiên được kêu gọi vào năm 1300, và trong thời gian gần đây, năm này thường được tổ chức sau mỗi 25 đến 50 năm. Những người hành hương tham gia có thể nhận được “lễ xá tội” đặc điểm có từ nhiều thế kỷ của Giáo hội Công giáo liên quan đến việc tha thứ tội lỗi, tương đương với một tấm thẻ “thoát khỏi Luyện ngục”.


Năm Thánh thường kỳ cuối cùng là vào năm 2000, khi Thánh Gioan Phaolô II mở ra thiên niên kỷ thứ ba của giáo hội. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên bố một Năm Thánh đặc biệt vào năm 2015-2016 dành riêng cho lòng thương xót và năm tiếp theo được lên kế hoạch là vào năm 2033, để kỷ niệm năm Chúa Kitô bị đóng đinh.



Lễ xá tội là gì?


Theo giáo lý của giáo hội, những người Công giáo xưng tội sẽ được tha thứ và do đó được giải thoát khỏi hình phạt vĩnh viễn hoặc hình phạt tinh thần của sự nguyền rủa. Ân xá được thiết kế để xóa bỏ hình phạt “tạm thời” của tội lỗi có thể còn tồn tại hậu quả của hành vi sai trái có thể phá vỡ mối quan hệ của tội nhân với người khác.


Sự phản đối của Martin Luther đối với việc bán ân xá của giáo hội đã truyền cảm hứng cho ông phát động cuộc Cải cách Tin lành vào những năm 1500. Ông đã bị khai trừ, và việc mua bán ân xá đã trở thành bất hợp pháp kể từ Công đồng Trent năm 1562. Nhưng việc ban ân xá vẫn tiếp tục và là một yếu tố quan trọng trong các cuộc hành hương trong Năm Thánh.


Theo các chuẩn mực được ban hành cho Năm Thánh 2025, người Công giáo có thể được ân xá nếu họ:


Thực hiện một cuộc hành hương ngoan đạo, tham gia Thánh lễ và các bí tích khác, tại bất kỳ một trong bốn vương cung thánh đường của giáo hoàng ở Rome hoặc Đất Thánh, hoặc các địa điểm linh thiêng khác của Năm Thánh “để thể hiện nhu cầu lớn lao về sự cải đạo và hòa giải”.


Tham gia vào các công việc từ thiện, thương xót hoặc sám hối, chẳng hạn như thăm tù nhân, người bệnh hoặc người già hoặc thực hiện các công việc thương xót về thể xác “cho người đói ăn, cho người khát uống, cho người trần truồng mặc quần áo, tiếp đón khách lạ, chữa lành người bệnh, thăm viếng người bị giam cầm và chôn cất người chết”.


Kiêng, theo tinh thần sám hối, ít nhất một ngày trong tuần, không “làm phiền vô ích”, chẳng hạn như mạng xã hội, hoặc “tiêu dùng thừa thãi”, chẳng hạn như kiêng ăn; hoặc quyên góp số tiền tương ứng cho người nghèo hoặc giúp đỡ di dân.


Tại sao lại tập trung vào tù nhân?


Đức Giáo hoàng Phanxicô từ lâu đã biến mục vụ cho tù nhân thành dấu ấn của ơn gọi linh mục của mình, và Năm Thánh dành riêng cho thông điệp hy vọng cũng không ngoại lệ.


Trên thực tế, Cửa Thánh duy nhất khác mà Đức Giáo hoàng Phanxicô sẽ đích thân mở trong năm nay nằm tại nhà nguyện của nhà tù Rebibbia ở Rome, để thu hút sự chú ý đến nhu cầu mang lại cho tù nhân hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.


Sự kiện lớn cuối cùng của Năm Thánh trước khi kết thúc vào ngày 6 tháng 1 năm 2026, là Năm Thánh của Tù nhân vào ngày 14 tháng 12 năm 2025.


Có gì trong lịch?


Lịch Năm Thánh là tập hợp các sự kiện chính thức và không chính thức của Năm Thánh sẽ thử thách sức bền của Đức Giáo hoàng Phanxicô, người vừa tròn 88 tuổi và bước vào mùa Giáng sinh với cơn cảm lạnh khiến Ngài khó thở.


Mỗi tháng có hai, ba hoặc bốn sự kiện chính thức của Năm Thánh mà Đức Giáo hoàng Phanxicô dự kiến sẽ tham dự, được chỉ định cho những nhóm người cụ thể: quân đội, nghệ sĩ, linh mục, người nghèo, tình nguyện viên và giáo viên. Sau đó là các sự kiện không chính thức của Năm Thánh, trong đó các giáo phận riêng lẻ và các nhóm khác đã tổ chức các cuộc hành hương của riêng họ đến Rome.


Một mục trong lịch không chính thức của Năm Thánh, ngày 6 tháng 9, đã trở thành tin tức vì nó được tổ chức bởi một hiệp hội của Ý, “La Tenda di Gionata” hay “Lều của Jonathan”, một hiệp hội dành riêng để giúp những người Công giáo LGBTQ+ cảm thấy được chào đón hơn trong Giáo hội Công giáo.


Còn vấn đề an ninh cho rất nhiều người thì sao?


Thị trưởng Rome Roberto Gualtieri cho biết các kế hoạch an ninh đòi hỏi sự kết hợp giữa hoạt động cảnh sát truyền thống được báo cáo là có thêm 700 cảnh sát cộng với giám sát công nghệ cao bằng máy bay không người lái và camera, nhờ các thuật toán được thông báo bằng trí tuệ nhân tạo, có thể theo dõi theo thời gian thực về quy mô đám đông và các điểm tắc nghẽn.


“Sẽ có nhiều xe cộ hơn, nhiều người hơn và chúng ta có thể nói là, các thiết bị an ninh rất, rất mạnh mẽ và quan trọng,” ông Gualtieri nói với các phóng viên tuần trước.


Vatican đã cố gắng giảm tình trạng tắc nghẽn cho những người hành hương bằng cách cho phép họ đặt chỗ tham quan trước Vương cung thánh đường Thánh Phê-rô trực tuyến.


Sau khi một tài xế lái xe đâm vào một khu chợ Giáng sinh ở Magdeburg, Đức, khiến năm người thiệt mạng, tuần trước, chính quyền Ý đã gửi một thông tư tới các đồn cảnh sát trên khắp cả nước khuyến nghị các nỗ lực điều tra “tối đa” và ngay lập tức tăng cường giám sát và tuần tra của cảnh sát xung quanh các khu chợ Giáng sinh, các màn trình diễn và các điểm tham quan du lịch.


Vatican, với nơi Chúa Giêsu giáng sinh có kích thước bằng người thật và cây thông Noel khổng lồ ở Quảng trường Thánh Phêrô và triển lãm ngoài trời về cảnh Chúa giáng sinh trong hàng cột Bernini bao quanh, đủ điều kiện là mục tiêu có nguy cơ.


Rome còn chuẩn bị như thế nào nữa?


Rome đã có hai năm chuẩn bị khẩn trương cho Năm Thánh bao gồm các dự án công trình công cộng lớn và cải tạo nghệ thuật trùng với các sáng kiến riêng biệt do quỹ phục hồi COVID-19 của Liên hiệp Châu Âu tài trợ.


Ít hơn một phần ba trong số 323 dự án của Năm Thánh đã hoàn thành hoặc sẽ kết thúc vào tháng tới, nghĩa là tình trạng giao thông đau đầu và cảnh tượng nhức mắt sẽ tiếp tục kéo dài đến tận năm 2025 và thậm chí là năm 2026. Nhưng người dân Rome và du khách đang bắt đầu nhìn thấy một số sản phẩm đã hoàn thiện.


Đài phun nước Bernini ở Piazza Navona lại sáng bóng sau nhiều tháng chùi rửa. Đài phun nước Trevi được tân trang đã mở cửa trở lại vào cuối tuần, và vào thứ Hai, dự án chính của Jubilee đã được công bố: Một quảng trường dành cho người đi bộ nối Castel St. Angelo với Via della Conciliazione, đại lộ chính dẫn đến Quảng trường Thánh Phêrô.



Đức Thánh cha mở cửa Năm Thánh tại Đền thờ thánh Phêrô


Lúc 19 giờ, ngày 24 tháng Mười Hai năm 2024, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự nghi thức mở Cửa Thánh tại Đền thờ thánh Phêrô để khai mạc Năm Thánh 2025.


Ý nghĩa

Trong Tông sắc Spes Non Confundit, Hy vọng không làm thất vọng, để ấn định Năm Thánh 2025, Đức Thánh cha Phanxicô khẳng định rằng: “Nay đã đến thời điểm một Năm Thánh mới, trong đó Cửa Thánh được mở toang để cống hiến kinh nghiệm sinh động về tình thương của Thiên Chúa, khơi lên trong tâm hồn niềm hy vọng chắc chắn về ơn cứu độ trong Chúa Kitô” (n.6).

Dưới ánh sáng Lời Chúa Giêsu “Thầy là cửa: nếu ai bước vào qua Thầy, thì sẽ được cứu độ” (Ga 10.9), việc mở Cửa Thánh là dấu chỉ con đường cứu độ được Chúa Kitô mở ra với sự nhập thể, cái chết và sự sống lại của Ngài, kêu gọi tất cả mọi người hãy hòa giải với Thiên Chúa và tha nhân. Việc mở toang các cánh cửa là một lời mời gọi đi vào con đường cứu độ duy nhất, đó là Chúa Giêsu, Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và con người”.

Chuẩn bị

Trước nghi thức mở Cửa Thánh do Đức Thánh cha chủ sự, đông đảo các tín hữu đã tụ tập tại Đền thờ thánh Phêrô để chuẩn bị tâm hồn, qua việc lắng nghe Lời Chúa, qua hai bài đọc trích từ Kinh thánh Cựu ước xen lẫn các bài thánh ca.

Nghi thức chính thức mở cửa được Đức Thánh cha khởi đầu với lời nhắn nhủ các tín hữu:

“Anh chị em thân mến, trong cuộc Giáng sinh này của Chúa, Đấng là ánh sáng bởi ánh sáng, là hy vọng không thể tắt lịm, chúng ta chuẩn bị bước qua Cửa Thánh trong đức tin. Những bước đường của chúng ta là những bước đường của toàn thể Giáo hội, đang lữ hành trên trần thế và là chứng nhân hòa bình. Được gắn chặt vào Chúa là đá tảng cứu độ của chúng ta, được Lời Ngài soi sáng và củng cố nhờ ơn thánh Chúa, chúng ta bước qua ngưỡng cửa Đền thánh này và bước vào thời kỳ thương xót và tha thứ, để con đường hy vọng không làm thất vọng được mở ra cho mỗi người nam nữ”.

Sau khi Đức Thánh cha đọc lời nguyện, mọi người đã nghe công bố đoạn Tin mừng theo thánh Gioan (10,7-10), trong đó Chúa Giêsu quả quyết Ngài là cửa chuồng chiên, nếu ai bước vào qua đó thì sẽ được cứu thoát, ai bước vào và đi ra, sẽ tìm được đồng cỏ”.

Rồi Đức Thánh cha đến Cửa Thánh để đẩy và mở cửa ra. Ngài dừng lại cầu nguyện trong thinh lặng giữa lúc các chuông Đền thờ thánh Phêrô được gióng lên vui mừng.

Đức Thánh cha tiến vào Đền thờ cùng với đoàn giúp lễ, một số đại diện của dân Chúa, trong đó có mười trẻ em thuộc năm châu, cùng với một số vị đồng tế tiến lên Bàn thờ Chính, Bàn thờ Tuyên xưng Đức tin trên mộ của thánh Phêrô để chuẩn bị cử hành thánh lễ, trong khi ca đoàn hát Thánh Ca Năm Thánh “Những người lữ hành hy vọng”.



 Tường thuật Nghi thức mở Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô


Vào lúc 7 giờ tối thứ Ba ngày 24/12/2024, Đức Thánh Cha đã chủ sự nghi thức mở Cửa Thánh Đền thờ Thánh Phêrô, và sau đó ngài đã cử hành Thánh lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Đức Thánh Cha đã chính thức khai mạc Năm Thánh Hy vọng trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh mang lại hy vọng cho mỗi người.

image.png


Đức Thánh cha công bố Sứ điệp Giáng sinh 2024 và ban Phép lành toàn xá


Lúc 12 giờ, trưa ngày 25 tháng Mười Hai năm 2024, theo truyền thống, Đức Thánh cha Phanxicô đã công bố Sứ điệp Giáng sinh 2024 và ban phép lành với ơn toàn xá cho thành Roma và toàn thế giới.

Trong sứ điệp, Đức Thánh cha mời gọi mọi người hãy bước qua Cửa Năm Thánh là chính Chúa Giêsu, và đồng thời ngài kêu gọi hòa bình cho những vùng có xung đột trên thế giới, từ Ucraina tới Trung Đông, Phi châu, Myanmar và Mỹ châu, sau cùng là tha nợ cho các nước nghèo.

Buổi công bố và ban phép lành toàn xá diễn ra từ bao lơn chính của Đền thờ thánh Phêrô, nhìn xuống Quảng trường thánh Phêrô, trước sự hiện diện của hơn ba mươi ngàn tín hữu Roma và khách hành hương, dưới bầu trời lạnh lẽo của mùa đông nhưng nắng đẹp. Trên thềm Đền thờ, có một toán Vệ binh Thụy Sĩ, và liên quân của Ý.

Mở đầu, ban quân nhạc của đoàn Hiến binh Vatican và ban quân nhạc của Ý đã xướng quốc thiều Vatican và Ý.

Buổi lễ cũng được các cơ quan truyền thông Vatican và nhiều quốc gia trực tiếp truyền hình và truyền thanh.


Sứ điệp của Đức Thánh cha

Mở đầu Sứ điệp Giáng sinh, Đức Thánh cha nói: Anh chị em thân mến, chúc mừng lễ Giáng sinh!

Mầu nhiệm Chúa làm người

Đêm nay đã tái diễn mầu nhiệm làm cho chúng ta kinh ngạc và cảm động: Đức Trinh Nữ Maria đã hạ sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, bọc Hài Nhi trong tã và đặt trong máng cỏ. Những người chăn súc vật ở Bethlehem đầy vui mừng đã tìm thấy Ngài, trong khi các thiên thần ca hát: “Vinh danh Thiên Chúa và hòa bình cho con người” (Xc Lc 2,6-14).

Đúng vậy, biến cố này, xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm, đang tái diễn nhờ hoạt động của Chúa Thánh Linh, cũng là Thần Khí Tình thương và Sự sống, đã làm cho cung lòng Đức Maria thụ thai và từ thể xác nhân trần của Mẹ đã hình thành Chúa Giêsu. Và thế là ngày nay, giữa những chao đảo của thời đại chúng ta, Chúa lại nhập thể và thực sự là Lời cứu độ vĩnh cửu, nói với mỗi người nam nữ, nói với toàn thế giới: “Ta yêu thương con, tha thứ cho con, hãy trở về cùng Ta, cánh cửa tâm hồn của Ta mở rộng!”

Anh chị em thân mến, cánh cửa tâm hồn của Thiên Chúa luôn mở ra, chúng ta hãy trở về với Ngài! Chúng ta hãy trở về với con tim yêu thương và tha thứ cho chúng ta! Chúng ta hãy để cho mình được Ngài tha thứ, hòa giải với chính Ngài!

Ý nghĩa và vai trò Cửa Năm Thánh

“Điều này có nghĩa là Cửa Năm Thánh mà tối hôm qua tôi đã mở ra tại Đền thờ thánh Phêrô này: Cửa cứu độ, tượng trưng Chúa Giêsu, được mở ra cho mọi người, Chúa Giêsu là Cửa mà Chúa Cha từ bi đã mở ra giữa lòng thế giới, giữa lòng lịch sử, để tất cả mọi ngươi chúng ta có thể trở về cùng Chúa. Tất cả chúng ta như chiên lạc và chúng ta cần một vị Mục Tử và một Cửa để trở về nhà Cha. Chúa Giêsu là Mục Tử, Chúa Giêsu là Cửa.

Anh chị em đừng sợ! Cửa đã mở ra, được mở toang ra! Anh chị em hãy đến! Chúng ta hãy hòa giải cùng Thiên Chúa, và chúng ta sẽ được hòa giải với chính mình, có thể hòa giải với tha nhân, và với cả những kẻ thù của chúng ta. Đúng vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa có thể làm mọi sự, tháo gỡ mọi nút chặn, phá đổ mọi bức tường chia rẽ, giải tỏa oán ghét và lòng thù hận. Anh chị em hãy đến! Chúa Giêsu là Cửa hòa bình.

Đừng dừng lại ở ngưỡng Cửa

Đức Thánh cha nhận xét rằng: “Nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở ngưỡng Cửa; chúng ta không có can đảm bước xa qua Cửa, vì chúng ta tranh luận với nhau. Bước qua Cửa đòi phải hy sinh đi bước đầu, để lại đằng sau lưng những tranh chấp và chia rẽ, để phó thác mình cho vòng tay mở rộng của Chúa Hài Đồng, là vị Vua hòa bình. Trong lễ Giáng sinh này, bắt đầu Năm Thánh, tôi mời gọi mỗi người, mỗi dân tộc và mỗi quốc gia hãy có can đảm bước qua Cửa, trở thành những người Lữ hành hy vọng, làm cho võ khí im tiếng và vượt thắng những chia rẽ!

Ucraina

Đức Thánh cha nói tiếp: “Võ khí tại Ucraina hãy im tiếng! Đúng vậy, hãy có can đảm mở ra cánh cửa cho cuộc thương thuyết và những cử chỉ đối thoại và gặp gỡ, để đi đến một nền hòa bình công chính và lâu dài.

Trung Đông

“Võ khí tại Trung Đông hãy im tiếng! Mắt hướng về chiếc nôi ở Bethlehem, tôi nghĩ đến các cộng đoàn Kitô ở Israel và Palestine, đặc biệt tại Gaza, nơi mà tình trạng nhân đạo rất trầm trọng. Hãy ngưng bắn, trả tự do cho các con tin và giúp đỡ dân chúng bị kiệt quệ vì đói và chiến tranh. Tôi gần gũi cả các cộng đoàn ở Liban, nhất là ở miền nam nước này, cộng đoàn ở Syria, trong lúc tế nhị hiện nay. Hãy mở ra những cánh cửa đối thoại và hòa bình trên toàn vùng, đã bị xâu xé vì xung đột. Và ở đây, tôi muốn nhắc đến cả nhân dân Libya, khuyến khích tìm ra những giải pháp giúp hòa giải quốc gia.”

Congo Dân chủ và các nước Phi châu

“Ước gì sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế mang lại một thời kỳ hy vọng cho các gia đình của hàng ngàn trẻ em đang chết vì bệnh sởi ở Cộng hòa Dân chủ Congo, cũng như cho dân chúng ở miền đông nước này và tại các nước Burkina Faso, Mali, Niger và Mozambique. Cuộc khủng hoảng nhân đạo đang đè nặng trên các dân tộc này chủ yếu là do các cuộc xung đột vũ trang và tai ương khủng bố, lại thêm những hậu quả tàn hại do sự thay đổi khí hậu, làm cho nhiều người thiệt mạng và hàng triệu người khác phải tản cư. Tôi cũng nghĩ đến dân chúng tại các nước ở Vùng Sừng của Phi châu và khẩn cầu ơn hòa bình cho họ, sự hòa hợp và tình huynh đệ. Xin Con của Đấng Tối Cao nâng đỡ sự dấn thân của cộng đồng quốc tế, tạo điều kiện cho việc đưa các đồ cứu trợ nhân đạo cho các thường dân ở Sudan và khởi sự các cuộc thương thuyết mới để đạt tới sự ngưng chiến.

Myanmar và Mỹ châu

“Ước gì sự loan báo Giáng sinh mang lại an ủi cho dân chúng tại Myanmar, vì những cuộc đụng độ võ trang liên tục, họ đang chịu đau khổ nặng nề và buộc lòng phải rời bỏ gia cư đi lánh nạn.

Xin Chúa Hài Đồng soi sáng cho các chính quyền và tất cả những người thiện chí tại Mỹ châu, để họ sớm tìm được những giải pháp hữu hiệu trong sự thật và công lý, để thăng tiến sự hòa hợp xã hội, đặc biệt tại Haiti, Venezuela, Colombia và Nicaragua, và chúng ta hãy hoạt động, đặc biệt trong Năm Thánh này, để xây dựng công ích và tái khám phá nhân phẩm của mỗi người, vượt thắng những chia rẽ chính trị.

Phá đổ các bức tường

Ước gì Năm Thánh là dịp để phá đổ mọi bức tường ngăn cách: những bức tường ý thức hệ, nhiều lần ảnh hưởng đến đời sống chính trị, và những bức tường thể lý, như sự chia cách từ 50 năm nay tại đảo Cipro và làm hao mòn kết cấu nhân bản và xã hội. Tôi cầu mong người ta có thể đạt tới một giải pháp chung, chấm dứt chia rẽ trong sự hoàn toàn tôn trọng các quyền và phẩm giá của tất cả các cộng đoàn Cipro.

Bước qua Cửa Chúa Giêsu

“Chúa Giêsu là Lời Vĩnh Cửu của Thiên Chúa làm người, là Cửa mở toang mà chúng ta được mời gọi bước qua để tái khám phá ý nghĩa cuộc sống chúng ta và sự thánh thiêng của mỗi mạng sống, và để phục hồi các giá trị nền tảng của gia đình nhân loại. Chúa đang chờ đợi chúng ta ở ngưỡng cửa. Ngài chờ đợi mỗi người chúng ta, đặc biệt những người yếu thế nhất: Chúa đợi các trẻ em, tất cả các trẻ em đang đau khổ vì chiến tranh và đói khát; Chúa chờ những người cao niên, nhiều khi phải sống trong những tình cảnh cô đơn và bỏ rơi; Chúa chờ những người đã mất gia cư hoặc phải bỏ quê hương trong toan tính tìm được một nơi tị nạn an toàn; Chúa chờ đợi những người đã mất hoặc không tìm được một việc làm; Chúa chờ các tù nhân, dù thế nào đi nữa, họ vẫn là con của Thiên Chúa; Chúa chờ những người bị bách hại vì đức tin của họ.

Ghi ơn những người âm thầm phục vụ

Đức Thánh cha cũng nói rằng: “Trong ngày lễ này, ước gì không thiếu sự biết ơn của chúng ta đối với những người xả thân vì điều thiện một cách âm thầm và trung tín: tôi nghĩ đến các cha mẹ, những nhà giáo dục và các giáo chức, là những người có trách nhiệm lớn trong việc hình thành các thế hệ tương lai, tôi nghĩ đến các nhân viên công lực, những người dấn thân trong các công tác bác ái, đặc biệt là các thừa sai rải rác trên thế giới, đang mang ánh sáng và an ủi đến bao nhiêu người gặp khó khăn! Chúng ta hãy cám ơn tất cả!

Kêu gọi tha nợ trong Năm Thánh

“Anh chị em thân mến, ước gì Năm Thánh là dịp để tha nợ, đặc biệt là những món nợ đè nặng trên các nước nghèo nhất. Mỗi người được kêu gọi tha thứ những xúc phạm đã chịu vì Con Thiên Chúa, đã sinh ra trong giá lạnh và trong bóng đêm, tha mọi nợ nần cho chúng ta. Chúa đã đến để chữa lành và tha thứ cho chúng ta. Hỡi những người lữ hành hy vọng, chúng ta hãy đến gặp Chúa! Hãy mở cho Ngài những cánh cửa lòng chúng ta, như chính Chúa đã mở toang cánh cửa Tâm Hồn Ngài cho chúng ta.

Tôi cầu chúc tất cả mọi người một lễ Giáng sinh thánh thiêng và bình an.

Phép lành toàn xá

Kết thúc sứ điệp, Đức Thánh cha và mọi người đã đọc kinh Truyền tin, rồi Đức Hồng y Dominique Mamberti, người Pháp, Chủ tịch Tòa án Tối cao của Tòa Thánh, trong tư cách là Hồng y Trưởng Đẳng Phó tế, đã thông báo cho mọi người chủ ý của Đức Thánh cha ban phép lành Tòa Thánh với ơn toàn xá cho Roma và toàn thế giới, với điều kiện thường lệ là xưng tội và cầu nguyện theo ý Đức Thánh cha.

Rồi Đức Thánh cha long trọng đọc công thức ban ơn toàn xá cho các tín hữu:

“Nhờ lời cầu nguyện và công phúc của Đức Trinh Nữ Maria, Tổng lãnh thiên thần Micae, thánh Gioan Tẩy Giả và các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót và, sau khi mọi tội lỗi của anh chị em được tha thứ, xin Chúa Kitô dẫn đưa anh chị em đến sự sống đời đời.

“Xin Chúa toàn năng và thương xót ban cho anh chị em ân xá, sự xá giải và tha thứ mọi tội lỗi của anh chị em, cơ hội thống hối chân thực và phong phú, một con tim luôn thống hối và một đời sống hoán cải, ơn phúc và an ủi của Chúa Thánh Linh, và sự kiên trì đến cùng trong các công việc lành”.

“Và xin phúc lành của Thiên Chúa toàn năng là Cha và Con và Thánh Thần xuống trên anh chị em và ở cùng anh chị em luôn mãi. Amen.”

Lần đầu tiên “Ánh sáng Bêlem” không đến từ Bêlem nhưng từ thành phố kết nghĩa ở Áo


Năm nay, do cuộc xung đột giữa Israel và Palestine, lần đầu tiên “Ánh Sáng Hòa bình Bêlem” không được lấy trực tiếp từ ngọn lửa cháy không ngừng tại Hang đá Chúa Giáng Sinh trong Đền thờ Giáng Sinh ở Bêlem để sau đó được chuyển đi các nước Châu Âu, nhưng được lấy từ đền thánh ở thành Steyr, vùng Thượng Áo.

Ánh sáng Hòa bình Bêlem là một biểu tượng của giá trị hoàn vũ về tình huynh đệ và hòa bình.

Sáng kiến “Ánh sáng Bêlem”

Sáng kiến “Ánh sáng Bêlem” ra đời ở Áo vào năm 1986 và sau đó lan rộng khắp châu Âu. Từ năm 1986 đến nay, hàng năm, vài ngày trước lễ Giáng sinh, một thiếu nhi sẽ đốt sáng ngọn đèn từ Bêlem rồi vận chuyển bằng máy bay sang Áo. Từ đó ngọn lửa được chia sẻ khắp Châu Âu (và xa hơn nữa) nhờ các nhóm hướng đạo sinh và các hiệp hội khác. Sáng kiến lần thứ 34, vào năm nay, có chủ đề “Yêu bằng hành động”.

Thành phố Steyr là thành phố kết nghĩa với Bêlem, cũng được gọi là “Christkindl” (thành phố của Chúa Giêsu Hài Đồng). Vào tháng 12/2023, Pillar Jarayseh, một thiếu niên 12 tuổi, đã thắp sáng ngọn đèn từ ánh sáng tại nơi Chúa Giáng Sinh ở Bêlem và đưa về Áo. Ngọn lửa này đã được các hướng đạo sinh cẩn thận bảo quản trong suốt năm qua.

Toàn thế giới hướng đến Bêlem để gặp gỡ Chúa Giêsu

Ngày 23/12/2024, tại Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục Ba Lan ở Warsaw, Tổng giám mục Tadeusz Wojda, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, đã nhận được Ánh sáng Bêlem từ cha tuyên úy của các hướng đạo sinh. Cha Wojciech Jurkowski nói: “Hôm nay, khi chúng ta truyền lại ánh sáng từ Bêlem, chúng ta truyền lại món quà hòa bình, thứ đang thiếu ở nơi Chúa Kitô sinh ra”.

Đức Cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục đã cảm ơn ánh sáng đã đến Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục Ba Lan. Ngài nhấn mạnh: “Ước gì ánh sáng này nhắc nhở chúng ta rằng đây là lễ Giáng sinh. Bêlem đã trở thành nơi hy vọng, vì Thiên Chúa đã từ thiên đàng xuống thế để trở thành một người trong chúng ta. Chúng ta có thể nói rằng toàn thể thế giới, toàn thể nhân loại, toàn thể lịch sử theo một cách nào đó đã hướng đến Bêlem, để gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô giáng sinh, Ngôi Lời đã trở thành xác phàm”.

Ánh sáng Bêlem cũng được chuyển đến Ý. Từ năm 1992, các hướng đạo sinh Ý và Đức nhận Ánh sáng Bêlem trong một nghi lễ được cử hành tại biên giới. Số tiền quyên góp được trong các buổi cử hành năm nay sẽ được sử dụng để giúp đỡ cho Thánh Địa, Brazil, Uganda và Benin.


Chính quyền Israel cấp 4.000 giấy phép cho các Kitô hữu Palestine đến Israel dịp Giáng Sinh

Chính quyền Israel cấp khoảng 4.000 giấy phép cho các Kitô hữu Palestine ở Bờ Tây đến Giêrusalem dịp lễ Giáng sinh, nhưng thời gian chỉ được hơn một tuần, và chủ yếu cho những người trên 55 tuổi.

Đức cha William Shomali, Giám mục phụ tá Giêrusalem và Đại diện Thượng phụ cho Palestine xác nhận: “Sẽ có vài ngàn, khoảng 4.000 giấy phép do chính quyền Israel cấp cho các Kitô hữu Palestine ở Bờ Tây vào Giêrusalem dịp lễ Giáng sinh. Các giấy phép (được cấp bởi COGAT, đơn vị Quân đội điều phối các hoạt động của chính phủ ở các Lãnh thổ) chỉ kéo dài hơn một tuần, không như những năm trước với hiệu lực khoảng một hoặc hai tháng”.

Theo Đức cha, chiến tranh đã làm giảm số giấy phép và thời hạn lưu trú. Ngoài ra, chính quyền Israel chỉ cấp giấy phép chủ yếu cho những người trên 55 tuổi.

Về tâm trạng của các tín hữu địa phương trong mùa Giáng sinh này, Đức cha Shomali cho biết, mọi người chờ đợi Giáng sinh với những cảm xúc lẫn lộn, sự pha trộn giữa thất vọng và hy vọng. Do bởi vì vẫn còn lo sợ về những gì có thể xảy ra trong những ngày tới đây. Nhiều người nghĩ rằng sau Gaza, điều tương tự có thể xảy ra với các vùng lãnh thổ của Bờ Tây.

Ngài mời gọi: “Chúng ta phó thác cho Chúa Kitô, Hoàng tử Hòa bình, với niềm hy vọng đến từ Giáng sinh để nâng chúng ta lên. Cầu xin Năm Thánh tiếp thêm cho chúng ta sức mạnh và đưa những người hành hương trở lại Đất Thánh. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho tất cả các Kitô hữu của chúng ta, cả về phần thiêng liêng lẫn vật chất”.


Vào ngày Giáng sinh, Đức Giáo hoàng Phanxicô kêu gọi đàm phán để chấm dứt chiến tranh Ukraine



Đức Thánh Cha Phanxicô  đọc bài phát biểu Ngày Giáng sinh truyền thống Urbi et Orbi của mình cho thành phố và thế giới từ ban công chính của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô ở Vatican, 

ngày 25 tháng 12 năm 2024. 

Đức Thánh Cha đã kêu gọi im lặng tiếng súng trên toàn thế giới

Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi đàm phán giữa Ukraine và Nga để chấm dứt cuộc chiến do Nga xâm lược Ukraine vào năm 2022.

Trong bài diễn văn truyền thống nhân Ngày Giáng Sinh, Đức Giáo Hoàng nói rằng “cần có sự táo bạo để mở cánh cửa” đối thoại “nhằm đạt được một nền hòa bình công bằng và lâu dài” giữa hai bên.

Lời kêu gọi tiếp theo của ông về một cuộc tấn công lớn của Nga cùng ngày vào các cơ sở năng lượng của Ukraine, mà Ukraine cho biết có liên quan đến ít nhất 184 tên lửa và máy bay không người lái.

Đầu năm nay, Ukraine đã kịch liệt bác bỏ lời kêu gọi của Giáo hoàng về việc Kyiv đàm phán chấm dứt chiến tranh và có “can đảm giương cờ trắng”.

Thông điệp Urbi et Orbi (gửi tới thành phố và thế giới) của ông cũng đề cập đến những xung đột khác.

Nói chuyện với hàng ngàn người tụ tập tại Quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha 88 tuổi tuyên bố: “Cầu mong tiếng vũ khí im bặt ở Ukraine bị chiến tranh tàn phá” và hơn thế nữa.

Ngài nói: “Tôi mời gọi mọi cá nhân và mọi người thuộc mọi quốc gia... hãy trở thành những người hành hương của niềm hy vọng, làm im lặng tiếng súng và vượt qua sự chia rẽ”.

Nhắc lại thông điệp Ngày Giáng sinh năm ngoái, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng kêu gọi ngừng bắn ở Gaza và giải phóng các con tin bị Hamas bắt giữ.

“Tôi nghĩ đến các cộng đồng Kitô giáo ở Israel và Palestine, đặc biệt là ở Gaza, nơi tình hình nhân đạo cực kỳ nghiêm trọng”, ông nói.

Ngài yêu cầu “các cánh cửa đối thoại và hòa bình phải được mở ra”.

Cuộc chiến ở Gaza bắt đầu sau khi những người cai trị Hamas trên lãnh thổ tấn công Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023. Các tay súng đã giết chết khoảng 1.200 người và bắt 251 người khác trở lại Gaza làm con tin. Bộ Y tế do Hamas điều hành ở Gaza cho biết hơn 45.000 người Palestine đã thiệt mạng trong cuộc tấn công của Israel.

Đầu tuần này, Giáo hoàng đã hai lần mô tả các cuộc tấn công của Israel là "tàn ác", khiến Israel chỉ trích gay gắt và gọi những nhận xét này là "đặc biệt đáng thất vọng".

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng cho biết suy nghĩ của ngài hướng về các cộng đồng Kitô giáo ở Lebanon và Syria, nơi phe nổi dậy gần đây đã lật đổ Tổng thống Syria Bashar al-Assad sau 24 năm nắm quyền. Dân số theo đạo Thiên Chúa ở Syria đã giảm dần kể từ khi bắt đầu chiến tranh vào năm 2011, và các báo cáo cho thấy hiện nay họ chỉ ở mức một phần nhỏ so với tổng số khoảng 1,5 triệu người trước chiến tranh.

Các cộng đồng thiểu số ở Syria đã bày tỏ lo ngại về tương lai của họ ở đất nước này kể từ khi quân nổi dậy Hồi giáo lên nắm quyền - mặc dù nhóm phiến quân hàng đầu Hayat Tahrir al-Sham cho biết tất cả các tín ngưỡng sẽ được bảo vệ.

Đức Tổng giám mục Shevchuk: Lễ Giáng sinh năm nay tại Ucraina u tối và giá lạnh nhất!


Đức Tổng giám mục Trưởng Sviatoslav Shevchuk, Giáo chủ Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương, tuyên bố rằng lễ Giáng sinh năm nay là lễ “u tối và giá lạnh” nhất, kể từ gần ba năm nay khi chiến tranh bùng nổ tại nước này.
Đức Tổng giám mục Trưởng Sviatoslav Shevchuk

Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Tương Lai (Avvenire) của Công giáo Ý, ra ngày 21 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Tổng giám mục Trưởng cho biết các trung tâm năng lượng điện của Ucraina bị Nga liên tục phá hoại, nhất là trong những tuần lễ gần đây, với các cuộc không kích và máy bay không người lái, khiến cho dân chúng không có điện cũng chẳng có hệ thống sưởi. Đức Tổng giám mục nói: “Chúng tôi mừng lễ Giáng sinh với những đèn cầy. Thiếu sưởi ấm vật chất, chúng tôi sẽ thay điều đó bằng hơi ấm tình người, như dấu chỉ chia sẻ những đau khổ”.

Trả lời câu hỏi của nhà báo về những tin nói là đang có những thương lượng, theo đó có sự nhìn nhận sự chiếm đóng của Nga trên một phần tư lãnh thổ Ucraina, Đức Tổng giám mục Trưởng Shevchuk nói: “Dân Ucraina chúng tôi sợ một sự đóng băng chiến tranh, vì đó không phải là một giải pháp. Đó là tâm tình chung của nhiều người. Điều rất nguy hiểm là hiểu lầm một sự ngưng chiến với hòa bình. Thực vậy, nó có thể trở thành một thời điểm để chuẩn bị một cuộc tấn công tàn ác chống Ucraina. Quả thực, chúng tôi mệt mỏi và cần đối thoại. Nhưng chúng tôi nghĩ đến một người bị thương nặng: nếu chỉ săn sóc ngoài da, thì những vết thương sẽ vị nhiễm nặng hơn và toàn cơ thể bị ảnh hưởng... Những giải pháp đơn giản hoặc dễ dàng bị coi là một xúc phạm”.

Mặt khác, Đức Tổng giám mục Shevchuk đặc biệt nghĩ đến các gia đình có thân nhân trong quân ngũ tử thương hoặc bị Nga cầm tù. Đức Tổng giám mục nói: “Giáo hội chúng tôi đồng hành với các thân nhân tử sĩ, những người bị mất tích, bị cầm tù. Chúng tôi đồng hành bằng một đường lối mục vụ thích ứng với thời chiến, trong đó chiều kích tôn giáo xen lẫn chiều kích tâm lý. Đặc biệt, Giáo hội dấn thân cổ võ việc trả tự do cho các tù nhân. Qua Tòa Sứ thần Tòa Thánh, chúng tôi đã chuyển về Tòa Thánh tên của năm ngàn tù nhân Ucraina. Việc vận động này được ủy thác cho một kênh, được mở giữa Kiev và Mascơva, qua trung gian ngoại giao của Tòa Thánh. Theo ý của Đức Thánh cha, kênh này được thực hiện qua Bộ ngoại giao Vatican và “sứ vụ hòa bình” của Đức Hồng y Matteo Zuppi, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý, đặc ủy của Đức Thánh cha.

Đức Tổng giám mục Shevchuk cho biết trong danh sách các tù nhân Ucraina bị Nga giam giữ có mười giáo sĩ, hai linh mục thuộc Công giáo Ucraina nghi lễ Đông phương đã được trả tự do, tám vị còn lại vẫn bị Nga cầm giữ, và phần lớn là mục sư Tin lành.

Đức Tổng giám mục Trưởng cũng cho biết đang phải tranh đấu với chính quyền Ucraina để các linh mục không bị động viên và đưa ra chiến trường, như trường hợp cha Vyacheslav Grynevych, Giám đốc toàn quốc Caritas-Spes của Công giáo Ucraina Latinh. Nhờ sự can thiệp của Đức Tổng giám mục Trưởng, cha đã được trở về nhà. Ngài nói: “Việc gửi các linh mục ra mặt trận là kết quả của lệnh tổng động viên của chính quyền Ucraina, nhưng việc làm này khiến cho giáo quyền lo lâu và cả Tòa Thánh nữa.”

Đức Tổng giám mục Shevchuk nói: “Mỗi lần tôi bị kiểm soát tại các nút chặn, tôi phải chứng minh tại sao tôi không ở trong quân đội. Chúng tôi không xin các vị lãnh đạo quốc gia những đặc ân, nhưng xin họ hiểu rằng chúng tôi phục vụ nhân dân một các khác, không phải bằng võ khí”.

Đức Hồng y Bộ trưởng Bác ái của Đức Thánh cha cử hành lễ Giáng sinh tại Ucraina

Nhân dịp mang chiếc xe “Bệnh xá lưu động” do Đức Thánh cha Phanxicô tặng cho nhân dân Ucraina, Đức Hồng y Konrad Krajewski, Bộ trưởng Bác ái của Đức Thánh cha, đã viếng thăm nhiều cộng đoàn và cử hành lễ Giáng sinh với các tín hữu địa phương.

Ucraina đã trải qua lễ Giáng sinh trong tối tăm và lạnh lẽo tại nhiều nơi, vì Nga liên tục ồ ạt bắn các tên lửa và sử dụng máy bay không người lái để đánh bom xuống các cơ cấu hạ tầng năng lượng điện.

Đặc biệt, tại Kharkiv, thành phố lớn thứ hai của Ucraina ở miền đông, rồi tại thành Kherson. Chính Đức Hồng y kể lại rằng: “Tôi cảm thấy không nói nên lời. Sáng hôm nay, lúc 6 giờ của ngày chính lễ Giáng sinh, Kharkiv bị dội bom, ba phần tư trên tổng số một triệu dân không có điện. Khu vực có những máy phát điện bị đánh bom, và cũng có những người bị thương.

Trong cuộc viếng thăm Kharkiv, Đức Hồng y đã cầu nguyện với dân chúng, và cùng với Đức Tổng giám mục Visvaldas Kulbokas, người Lituani, Sứ thần Tòa Thánh tại Kiev, ngài cử hành thánh lễ. Sau lễ, Đức Hồng y đã gặp gỡ nhiều trẻ em xuất thân từ trường âm nhạc, cũng có các trẻ em mồ côi vì chiến tranh. Ngài cũng viếng thăm nhà dưỡng lão và chia sẻ truyền thống Giáng sinh với việc bẻ bánh trắng. Dân chúng cám ơn Đức Thánh cha và các tín hữu ở Roma, vì những máy phát điện ngài tặng cho họ. Những phương tiện này rất cần thiết để cứu mạng dân chúng và để có thể cư ngụ trong nhà.

Tại thành phố Fastiv, Đức Hồng y Krajewski đã tham dự buổi làm phép quán ăn cho người nghèo thuộc trung tâm thánh Martino de Porres, do các cha dòng Đa Minh ở địa phương phụ trách. Từ hai mươi năm nay, qua trung tâm này, các cha vẫn giúp đỡ và săn sóc các bà mẹ độc thân, người vô gia cư và người cao tuổi. Nhiều người tìm được nơi tá túc tại trung tâm này.

Đặc biệt, tại thủ đô Kiev, Đức Hồng y Bộ trưởng Bác ái của Tòa Thánh đã viếng thăm nhà thờ thánh Nicola, đã bị hư hại trong vụ một loạt tên lửa của Nga bắn vào khu vực này. Cả sáu đại sứ quán của các nước cũng bị tổn thương


Hơn một ngày sau khi mở cửa Năm Thánh ở Đền thờ thánh Phêrô, lúc 8 giờ 45 sáng ngày 26 tháng Mười Hai, Đức Thánh cha Phanxicô đã đến nhà tù Rebibbia, lớn nhất ở Roma và Ý, để chủ sự nghi thức mở cửa Năm Thánh và cử hành thánh lễ cho các tù nhân. Đức Thánh cha giải thích ý nghĩa nghi thức này và mời gọi mọi người làm chứng về niềm hy vọng.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội, Cửa Năm Thánh được mở ra tại một nhà tù


Sau Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, sáng ngày 26/12, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành nghi thức Năm Thánh tại Nhà thờ Kinh Lạy Cha trong nhà tù Rebibbia của Roma. Đức Thánh Cha bước qua Cửa Thánh cùng với Đức Giám mục Ambarus, các tù nhân và những người điều hành. Trong Thánh Lễ, ngài mời gọi “mở rộng những cánh cửa trái tim”, bởi vì “những trái tim khép kín và chai cứng không giúp chúng ta sống”

Trước khi mở Cửa Thánh, Đức Thánh Cha nói: “Tôi đã mở Cửa Thánh đầu tiên vào lễ Giáng sinh ở Vương cung thánh đường thánh Phêrô, nhưng tôi muốn mở Cửa Thánh thứ hai ở trong nhà tù này. Tôi muốn mỗi người chúng ta đang ở đây, trong cũng như ngoài, cũng có cơ hội mở cánh cửa trái tim mình và hiểu rằng niềm hy vọng không làm thất vọng”.

Đức Thánh Cha Phanxicô đang ngồi, với lễ phục màu đỏ, trước cánh cửa đồng phía bên phải Nhà thờ Kinh Lạy Cha, bên trong nhà tù Rebibbia. Sau đó, ngài đứng lên và gõ cánh cửa đồng sáu lần, cửa được mở ra. Với những bước chậm rãi, ngài đi qua Cửa Thánh tại nhà tù này. Lần đầu tiên trong lịch sử, một Đức Giáo Hoàng mở Cửa Thánh không phải trong một vương cung thánh đường mà bên trong một nhà tù. Đức Thánh Cha Phanxicô muốn làm điều đó để mang món quà hy vọng – chủ đề của cả Năm Thánh – đến một nơi bị giam cầm và khó khăn, nơi nó rất dễ bị đánh mất.

Một cử chỉ xuất phát từ yêu cầu của tù nhân

Một cử chỉ đặc biệt, chưa từng có của Đức Thánh Cha, thậm chí còn rất long trọng không kém nghi thức mở Cửa Thánh ở Đền thờ Thánh Phêrô. Một cử chỉ là kết quả từ những câu hỏi của chính các tù nhân: “Thật hay, Năm Thánh bắt đầu nhưng có gì đặc biệt đối với chúng tôi?”. Họ nói điều này với giám mục phụ tá của Roma, đức cha Benoni Ambarus, người đã trình bày những yêu cầu này với Đức Thánh Cha. Đức cha Ambarus tâm sự: “Đó là một giấc mơ mà chúng tôi đã nuôi dưỡng trong thời gian dài”.

Trong Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã có một bài giảng ứng khẩu:

“Hôm nay tôi muốn mở Cánh Cửa ở đây. Tôi đã mở Cửa đầu tiên tại Đền thờ thánh Phêrô, cái thứ hai là của anh chị em. Thật cử chỉ thật đẹp khi mở Cánh Cửa, mở ra. Nhưng quan trọng hơn là ý nghĩa của nó: nó đang mở rộng trái tim anh chị em. Hãy mở cửa trái tim. Và đây chính là điều mà tình huynh đệ thực hiện”.

Ngài nói tiếp: “Những trái tim khép kín, những trái tim chai cứng, không giúp chúng ta sống. Do đó, ân sủng của Năm Thánh là mở rộng, mở ra và trên hết là mở rộng trái tim để hy vọng”. Ngài so sánh niềm hy vọng này với một chiếc neo, một cái gì đó để bám vào giữa những khó khăn và những viễn cảnh đen tối nhất.

Đức Thánh Cha khuyến khích: “Hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng! Hãy suy nghĩ cẩn thận về điều này. Tôi cũng nghĩ như thế, vì trong những lúc tồi tệ người ta nghĩ rằng mọi chuyện đã kết thúc, không thể giải quyết được gì. Nhưng hy vọng không bao giờ làm thất vọng”. Niềm hy vọng ở đó, giống như chiếc neo vào bờ, “trên đất” và “chúng ta ở đó với sợi dây, an toàn, bởi vì niềm hy vọng của chúng ta giống như chiếc neo vào đất”.

Một lần nữa, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Đừng mất hy vọng. Đây là thông điệp tôi muốn gửi đến anh chị em; đến mọi người, tất cả chúng ta. Tôi là người đầu tiên. Mọi người. Đừng mất hy vọng. Hy vọng không bao giờ thất vọng. Không bao giờ”. Đôi khi thật khó để giữ chặt sợi dây này: “Nó làm cho tay đau…”. Nhưng khi chúng ta nhìn vào bờ, thì “mỏ neo” sẽ đưa chúng ta “tiến về phía trước”. “Luôn có điều gì đó tốt đẹp, luôn có điều gì đó để tiến về phía trước”.

Mở cửa trái tim là lời mời cuối cùng ngài gởi đến các tù nhân và nhân viên của nhà tù Rebibbia: “Trái tim khép kín sẽ quên đi sự dịu dàng. Ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, mỗi chúng ta đều có hoàn cảnh riêng - dễ dàng hơn, khó khăn hơn - nhưng luôn có một trái tim rộng mở. Trái tim chính là thứ làm cho chúng ta trở thành anh chị em. Hãy mở rộng cánh cửa trái tim. Mọi người đều biết cách thực hiện. Mỗi người đều biết nơi đâu cửa đang đóng hay đóng một nửa. Mỗi người đều biết”.

Vì thế tôi cầu chúc anh chị em có một “trải nghiệm một Năm Thánh tuyệt vời”: “Tôi chúc anh chị em thật nhiều bình an, nhiều bình an. Và mỗi ngày tôi cầu nguyện cho anh chị em. Thật sự. Đây không phải là một cách nói. Tôi nghĩ đến anh chị em và cầu nguyện cho anh chị em. Và xin anh chị em cũng cầu nguyện cho tôi. Xin Cảm ơn”.


Đức Giáo Hoàng mở Cửa Năm Thánh trong nhà tù: thông điệp hy vọng cho các tù nhân

Lần đầu tiên trong truyền thống Năm Thánh, Đức Phanxicô mở cửa Năm thánh thứ năm trong một nhà tù ở Rome vào ngày 26 tháng 12, một cử chỉ hy vọng thể hiện sự gần gũi của ngài đối với những người bị giam cầm, điều này đã luôn được duy trì trong suốt triều đại giáo hoàng của ngài.

Theo truyền thống, Giáo hoàng Phanxicô sẽ chính thức khai mạc Năm Thánh 2025 bằng nghi lễ long trọng mở Cửa Thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào tối nay, Đêm Giáng sinh, sau đó là lễ mở Cửa Thánh tại ba Vương cung thánh đường lớn khác ở Rome.

Lễ mở Cửa Thánh thứ năm trong nhà tù Rebibbia

Lần đầu tiên trong truyền thống Năm Thánh đã có từ thế kỷ 15, Giáo hoàng sẽ mở cửa Năm thánh thứ năm trong một nhà tù ở Rome, như một dấu hiệu "mời gọi tất cả các tù nhân hướng tới tương lai với hy vọng và cảm giác tự tin mới".

Nghi lễ chưa từng có này sẽ diễn ra vào ngày 26 tháng 12, ngày lễ Thánh Stephen, tại Nhà tù Rebibbia New Complex, nơi ngài đã đến thăm vào năm 2015 để cử hành nghi lễ Rửa chân trong dịp lễ Phục sinh. Ngài cũng đã đến thăm khu tù dành cho phụ nữ của nhà tù vào Thứ Năm Tuần Thánh năm nay.

Lần này, Đức Giáo Hoàng sẽ đến như một “Người hành hương của Hy vọng”, một tình cảm quá mong manh trong tù và phải được nuôi dưỡng bằng tình yêu thương và sự tận tụy, với sự giúp của nhân viên và giáo sĩ, đặc biệt là khi số lượng người thân đến thăm tù nhân có hạn.

“Các tù nhân đang chờ đợi Đức Giáo Hoàng với niềm vui vì họ cảm thấy sự gần gũi của ngài, cũng như họ cảm nhận được sự tách biệt và khoảng cách của chính họ với xã hội”, Cha Lucio Boldrin, tuyên úy của trại tù Rebibbia giải thích. “Tất cả chúng ta cần cam kết ‘kéo dài’ tinh thần chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng trong suốt Năm Thánh”, ngài nói với đài Vatican trước chuyến thăm của ĐTC.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô luôn quan tâm đến tù nhân

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giáo Hoàng Phanxicô chứng minh sự gần gũi của mình với các tù nhân thông qua sự hiện diện an ủi và cầu nguyện.

Trong suốt triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã luôn thể hiện mối quan tâm sâu sắc và nhất quán đối với những người bị giam giữ, nhấn mạnh đến nhu cầu về lòng trắc ẩn và tôn trọng phẩm giá của họ và thách thức xã hội coi tù nhân không phải là những kẻ bị ruồng bỏ mà là những cá nhân có khả năng biến đổi.

Quan điểm này bắt nguồn sâu sắc từ giáo lý xã hội Công Giáo, nhấn mạnh lòng thương xót, sự cứu chuộc và tầm quan trọng của việc coi mỗi người là con của Chúa.

"Tôi nghĩ đến những tù nhân bị mất tự do, hàng ngày cảm thấy sự khắc nghiệt của việc giam giữ và những hạn chế của nó, thiếu tình cảm và trong không ít trường hợp là thiếu sự tôn trọng".

Vận động cải cách nhà tù

Trọng tâm trong hoạt động vận động của ngài là lời kêu gọi công nhận phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, bao gồm cả những người bị giam giữ. Phù hợp với giáo lý xã hội Công Giáo, ngài nhấn mạnh đến nhu cầu coi nhà tù là cơ sở phục hồi chức năng chứ không chỉ là nơi trừng phạt, đồng thời thừa nhận quyền của nạn nhân đối với công lý.

Những lời nhắc nhở thường xuyên của ngài về việc loại bỏ những cá nhân phản ánh một thông điệp rộng hơn: ngay cả những người đã phạm tội nghiêm trọng vẫn giữ được tính nhân đạo và khả năng thay đổi để nên tốt hơn.

Một khía cạnh quan trọng trong hoạt động ủng hộ này là lời kêu gọi liên tục của ngài về việc bãi bỏ án tử hình cùng với lời chỉ trích thẳng thắn của ngài đối với án tù chung thân, mà ngài mô tả là "án tử hình ẩn", thay vào đó ủng hộ các hệ thống ưu tiên phục hồi chức năng và tái hòa nhập xã hội.

Công lý phục hồi so với công lý trừng phạt

Lời kêu gọi của ĐTC mở rộng đến việc giải quyết các vấn đề mang tính hệ thống trong các nhà tù, chẳng hạn như tình trạng quá tải, điều kiện vô nhân đạo và sự thiệt thòi của các tù nhân.

Bằng cách thúc giục các chính phủ đầu tư vào các chương trình công lý phục hồi, Giáo hoàng nhấn mạnh đến nhu cầu giải quyết các nguyên nhân xã hội gốc rễ của tội phạm thay vì chỉ là các triệu chứng của nó.

ĐTC ủng hộ một hệ thống tư pháp tập trung vào việc phục hồi và chữa lành, thay vì trừng phạt, thúc đẩy các phương pháp xây dựng lại các mối quan hệ và hàn gắn cộng đồng.

Tập trung vào các nhóm thiệt thòi

Một chủ đề thường xuyên trong hoạt động ủng hộ của Giáo hoàng là mối quan tâm của ngài đối với những người thiệt thòi, đặc biệt là người nghèo và dễ bị tổn thương, những người chiếm tỷ lệ không cân xứng trong dân số nhà tù.

DTC lưu ý đến những bất bình đẳng có hệ thống góp phần làm tăng tỷ lệ giam giữ trong những nhóm này, thúc giục xã hội giải quyết gốc rễ kinh tế xã hội của tội phạm. Lời kêu gọi công lý của ngài mang tính toàn diện, không chỉ tập trung vào cá nhân mà còn vào các cấu trúc duy trì vòng luẩn quẩn của đói nghèo và tội phạm.

Các chuyến thăm nhà tù của Đức Giáo Hoàng Phanxicô


Đức Giáo Hoàng vào Thứ Năm Tuần Thánh đã nói: 'Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ'

Hành động của Đức Giáo Hoàng Phanxicô có ý nghĩa hơn lời nói, như trường hợp truyền thống thực hiện nghi lễ rửa chân vào Thứ Năm Tuần Thánh trong các nhà tù, nơi ngài đã rửa chân cho các tù nhân từ nhiều hoàn cảnh khác nhau, bao gồm cả người Hồi giáo và phụ nữ.

Cử chỉ mang tính biểu tượng cao này thách thức những định kiến của xã hội và truyền tải thông điệp đoàn kết.

Ngoài ra, trong các Chuyến tông du của mình, Đức Giáo Hoàng thường xuyên đến thăm các nhà tù. Các chuyến thăm đáng chú ý bao gồm chuyến đến Trại giam Curran-Fromhold ở Philadelphia trong chuyến đi năm 2015 của ngài đến Hoa Kỳ và đến nhà tù Ciudad Juárez nhân dịp Chuyến tông du của ngài đến Mexico năm 2016. Trong cả hai lần, ngài đều đưa ra những thông điệp hy vọng và nhắc nhở các tù nhân về khả năng biến đổi của họ.

Ý tưởng cơ bản, như ngài thường nhắc lại trong nhiều dịp, là không ai là không thể cứu chuộc và thương xót của Chúa, ngay cả những người đã phạm những tội ác tày đình nhất.

Ngài đã nhắc lại thông điệp này gần đây hơn trong chuyến thăm khu dành cho phụ nữ của Rebibbia vào Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, trong đó ngài nhắc nhở các tù nhân rằng "Chúa Giêsu không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ", và sau đó vào tháng 4 tại Nhà tù dành cho phụ nữ Giudecca ở Venice, nơi ngài nhận xét rằng bất chấp những khó khăn, nhà tù có thể trở thành nơi làm việc để xây dựng lại cuộc sống và khuyến khích các tù nhân "luôn hướng tới tương lai, với hy vọng".


Đức Thánh Cha lên án sự giả dối của các nước nói về hòa bình nhưng lại thích gây chiến tranh


Trò chuyện với nhà báo Maria Bernarda Llorente của kênh truyền hình Argentina “Canal Orbe 21” tại nhà Thánh Marta ở Vatican ngay sau khi kết thúc Thượng Hội đồng, Đức Thánh Cha đã lên án “sự giả dối” của các nước khi nói về hòa bình trong khi tiếp tục các cuộc “xung đột vũ trang” và bày tỏ mối quan ngại về sự suy yếu của các thể chế.

Hòa bình chỉ có thể đạt được thông qua đối thoại và hòa giải thực sự

Nói về chiến tranh, “sự thất bại của con người”, Đức Thánh Cha than phiền về sự giả dối của các quốc gia ủng hộ hòa bình trong khi lại kiếm lợi từ hoạt động buôn bán vũ khí. Trong nhiều bài phát biểu và lời kêu gọi, ngài cũng lên án số các cuộc xung đột ngày càng tăng - đặc biệt là tình trạng bạo lực đang diễn ra ở Ucraina và Thánh Địa - và khẳng định lại xác tín của ngài rằng hòa bình chỉ có thể đạt được thông qua đối thoại và hòa giải thực sự.

Và nhắc lại hậu quả tai hại của việc buôn bán vũ khí, Đức Thánh Cha lên án thực tế rằng “một trong những khoản lợi nhuận đầu tư lớn nhất ở châu Âu đến từ các nhà máy sản xuất vũ khí. Vì vậy, chúng ta tổ chức các hội nghị và cuộc họp hòa bình, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục sản xuất vũ khí để giết người”. Ngài ám chỉ rằng nhân loại có nguy cơ xây dựng một tương lai mong manh và nguy hiểm nếu tiếp tục theo quỹ đạo hiện tại.

Thừa nhận tính phức tạp của các cuộc xung đột hiện đại, Đức Thánh Cha chỉ ra sự thất bại của đạo đức cá nhân và lợi ích cá nhân là nguyên nhân khiến các cơ chế quốc tế không hiệu quả. Ngài nhấn mạnh: “Đối thoại là điều cốt yếu. Nếu không có đối thoại, sẽ không có hòa bình. Chúng ta phải ngừng tấn công lẫn nhau, ngừng phá hoại lẫn nhau và bắt đầu tạo nên những tương tác với nhau. Hòa bình đạt được thông qua đối thoại”.

Về việc Liên minh châu Âu cần tiếp tục làm việc vì hòa bình, Đức Thánh Cha nói: “EU không được đánh mất sự độc lập mà mình có trong vấn đề này. Đây là điều thúc đẩy sự thống nhất nội bộ và từ đó, EU có được sức mạnh để tương tác với bên ngoài. Các thể chế này đã suy yếu một chút, nhưng chúng vẫn có khả năng thúc đẩy đối thoại”.

Chống lại sự cực đoan và phân cực

Trong một thế giới ngày càng phân cực bởi các hệ tư tưởng, Đức Thánh Cha kêu gọi tập trung quá trình đổi mới vào sự thật và đối thoại. Ngài cảnh báo về những nguy cơ của chủ nghĩa phủ nhận (lựa chọn phủ nhận thực tế); ngài mô tả nó là “sự tự sát”, và thúc giục các nhà lãnh đạo giải quyết gốc rễ của xung đột bằng sự trung thực và khiêm nhường. Ngài nói: “Chủ nghĩa phủ nhận luôn nguy hại. Khi một người phủ nhận một thực tế, một lịch sử, một tình huống cụ thể, người đó đang tự bắn vào chân mình. Chỉ có thực tế mới giúp tìm ra cách thoát khỏi xung đột”.

Đức Thánh Cha cũng lên tiếng phản đối sự đan xen giữa tôn giáo với chính trị nhà nước, lưu ý rằng những liên minh như vậy thường dẫn đến sự không khoan dung và đàn áp. Ngược lại, ngài ca ngợi những ví dụ về sự chung sống và đối thoại, chẳng hạn như những gì ngài chứng kiến ở Indonesia.

Giáo hội hiệp hành: bao gồm những khác biệt

Suy tư về Thượng Hội đồng Giám mục kết thúc vào tháng 10, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cột mốc này trong triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài nói: “Giáo hội không còn là sự áp đặt từ trên xuống nữa”. Ngài giải thích: “Không còn là các giám mục, Giáo hoàng, các linh mục, các nữ tu; mà là Giáo hội từ cơ cấu bên dưới thể hiện chính mình và tạo ra cộng đoàn”. Và ngài mô tả Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội phát triển nhờ sự hòa hợp giữa những hỗn loạn, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.



Vụ không kích khiến 7 trẻ em ở Gaza thiệt mạng làm dấy lên những lời qua tiếng lại giữa Israel với Giáo hoàng Francis, người đứng đầu Tòa thánh Vatican.


Israel khẩu chiến với Giáo hoàng Francis về 'sự độc ác' ở Gaza

Giáo hoàng Francis trong một buổi lễ tại Tòa thánh Vatican

"Hôm qua, họ đã không cho Thượng phụ của Jerusalem vào Gaza như đã hứa. Hôm qua, trẻ em đã bị đánh bom. Đây là sự tàn ác, đây không phải là chiến tranh. Tôi muốn nói điều này vì nó đã chạm đến trái tim của tôi", Giáo hoàng Francis nói với các thành viên cấp cao của Tòa thánh Vatican ngày 21-12.

Trước đó một ngày, theo một cơ quan cứu hộ dân sự của người Palestine tại Dải Gaza, 12 người trong cùng một gia đình đã thiệt mạng khi Israel không kích trúng nhà của họ tại Jabalia phía bắc Gaza.

"Tất cả những người đã chết đều cùng một gia đình, trong đó có 7 trẻ em và đứa lớn nhất chỉ mới 6 tuổi", cơ quan này nói thêm. Quân đội Israel sau đó khẳng định với Hãng thông tấn AFP rằng họ đã tấn công một số thành viên của lực lượng Hamas đang có trong khu vực và gây ra mối đe dọa cho binh sĩ Israel.

Phía Israel cũng thừa nhận có thương vong trên mặt đất, song số liệu không đến mức như phía Palestine công bố.

Trong tuyên bố ngày 22-12, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Israel đã mô tả phát biểu của Giáo hoàng Francis là "đặc biệt đáng thất vọng, bởi chúng không liên quan đến bối cảnh thực tế và đúng đắn cho cuộc chiến chống khủng bố của Israel".

Người này cũng nhấn mạnh đây là một cuộc chiến tranh trên nhiều mặt trận mà Israel buộc phải bắt đầu từ ngày 7-10, thời điểm Hamas bất ngờ tấn công khiến hàng ngàn dân thường Israel thiệt mạng.

"Sự độc ác ở đây là những kẻ khủng bố ẩn sau trẻ em trong khi cố gắng giết hại trẻ em Israel. Sự độc ác là việc giam giữ 100 con tin trong 442 ngày, bao gồm một em bé", đại diện Bộ Ngoại giao Israel phản pháo phát ngôn của Giáo hoàng Francis.

Khác với những người tiền nhiệm, Giáo hoàng Francis thường đưa ra quan điểm về các vấn đề thời sự thế giới.

Với cuộc chiến giữa Hamas và Israel, ông đã kêu gọi hòa bình ngay từ khi súng nổ và tăng cấp dần trong những tuần gần đây khi đưa ra những phát biểu lên án các vụ tấn công của Israel.

Trong một cuốn sách mới xuất bản, Giáo hoàng Francis đã kêu gọi một cuộc nghiên cứu kỹ lưỡng về việc liệu tình hình ở Gaza có "phù hợp với định nghĩa kỹ thuật" về tội diệt chủng hay không. Israel đã nhiều lần kiên quyết bác bỏ việc sử dụng thuật ngữ này để mô tả chiến dịch quân sự tại Gaza.

Năm 2013, Tòa thánh Vatican đã công nhận nhà nước Palestine và ủng hộ giải pháp hai nhà nước, với nhà nước Israel và nhà nước Palestine cùng tồn tại hòa bình.


Bộ luật và luật hình sự Vatican phù hợp với các hệ thống pháp luật hiện nay

Đức Thánh Cha viết lời tựa cho sách mới của ông Alessandro Diddi, Chưởng lý của Vatican “Bộ luật và luật hình sự Vatican”, nhấn mạnh rằng nội dung sách là một công trình sưu tập luật có hệ thống rất hữu ích cho những ai làm việc trong lĩnh vực pháp lý, giữa một thế giới ngày càng toàn cầu hoá.

Đức Thánh Cha nhận xét, trong một thời điểm lịch sử, trong đó các nhà lập pháp trên thế giới luôn phải thường xuyên đối diện với nhu cầu ngày càng tăng về quy định các vùng lãnh thổ mở ra theo tiến bộ, thì cần phải cập nhật pháp luật nhằm đáp ứng đòi hỏi phát sinh từ toàn cầu hoá.

Ngài viết: “Tiến trình hội nhập tất yếu của các hệ thống pháp luật, và sự hợp tác, vì sự phát triển xã hội và hòa bình giữa các dân tộc, được yêu cầu đối với từng quốc gia, trong sự tôn trọng đặc thù của mỗi quốc gia, làm cho sự hiểu biết rộng rãi và hỗ tương về các quy tắc điều chỉnh các lĩnh vực mà họ thực thi chủ quyền trở thành thiết yếu hơn bao giờ hết”.

Nói về hệ thống hình sự và tố tụng của Vatican, được xây dựng trong suốt gần một thế kỷ xung quanh các văn bản có hiệu lực ở Vương quốc Ý vào năm 1929, Đức Thánh Cha nhắc lại nhiều cập nhật cần thiết để làm cho luật Vatican luôn bắt kịp thời đại, và đáp ứng các giá trị được chia sẻ bởi các hệ thống pháp luật hiện đại nhất. Những đặc điểm này tạo nên tập hợp các luật, trong một thời gian dài đã tạo nên các quy phạm, vượt xa ý nghĩa và chức năng của một công cụ làm việc đơn thuần, bởi vì nó thực hiện hoá các mục đích mà các hệ thống hình sự ngày nay phải hướng đến.


Roma và Tòa Thánh khánh thành khu vực mới dành cho người đi bộ gần Vatican

Sáng thứ Hai ngày 23/12, ba ngày trước khi khai mạc Năm Thánh, Toà Thánh và Roma đã khánh thành Quảng trường Pia mới, khu vực rộng lớn dành cho người đi bộ nằm ở cuối đại lộ Hoà giải, từ đó dẫn đến Quảng trường Thánh Phêrô.
Quảng trường Pia được tái thiết kế đã đưa Roma và Vatican lại gần nhau hơn, tạo ra một không gian chào đón du khách và tín hữu hành hương. Gần Sông Tevere, quảng trường hiện có một khu vực dành cho người đi bộ rộng lớn có sức chứa lên đến 150.000 người. Quảng trường được thiết kế với mục tiêu phát triển bền vững, bao gồm các khu vực bóng mát, đài phun nước và hệ thống thoát nước mưa, tất cả đều được cải thiện nhằm nâng cao cả chất lượng thẩm mỹ và chức năng của khu vực.
Khu vực Quảng trường Pia


Dự án, do công ty quản lý lưới đường bộ và đường cao tốc quốc gia Ý giám sát, đã phải đối diện với những thách đố đáng kể, bao gồm các khám phá cổ gần đường hầm mới. Trong suốt nhiều tháng làm việc, các kỹ sư đã làm việc chặt chẽ với các cơ quan di sản văn hóa để bảo tồn các hiện vật cổ đồng thời cải thiện khả năng tiếp cận và lưu lượng giao thông. Kết quả cuối cùng là một không gian hiện đại được bao quanh bởi lịch sử, kết hợp liền mạch ý nghĩa tinh thần của Vatican với nhu cầu thực tế của một thủ đô nhộn nhịp.

Hiện diện tại buổi lễ, về phía Toà Thánh có Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh, Đức Tổng Giám Mục Rino Fisichella, Phụ trách Phân Bộ thứ nhất của Bộ Loan báo Tin Mừng, phụ trách tổ chức Năm Thánh; về phía chính phủ Ý, có bà Giorgia Meloni, Thủ tướng Ý, ông Roberto Gualtieri, Đô trưởng Roma.

Phát biểu tại buổi lễ, Đức Hồng Y Parolin nói: “Đây là một khoảnh khắc ý nghĩa và đối với cá nhân tôi, đó là một thời điểm tri ân. Có thể nói rằng nhiều năm làm việc đã được hoàn thành”. Ngài nhấn mạnh thêm về những bước phát triển đầu tiên kể từ Năm Thánh 1950 và việc thiết lập đại lộ Hòa Giải (Via Della Conciliazione) dưới triều Đức Giáo Hoàng Piô XII .

Quốc vụ khanh Toà Thánh kết luận: “Ở quảng trường mới, cổ xưa và hiện đại kết hợp với nhau một cách hài hoà, giữa Lâu đài Thiên thần với hàng cột Bernini. Một công trình có giá trị kỹ thuật lớn đã được hoàn thành, sẽ giúp dễ dàng chiêm ngắm một thành phố có sông Tevere chảy qua nhưng không chia cắt”.

Về phía Đô trưởng Roma, ông Roberto Gualtieri đề cập đến những con số của dự án - 110 công nhân, chia thành ba ca với tổng cộng 450 ngày làm việc, không nghỉ-, nhấn mạnh “ít người tin vào điều đó, nhưng chúng ta đã làm được. Theo ông, quảng trường vừa được hoàn thành  dường như muốn ôm lấy tất cả, biểu tượng một mùa hiệp thông, hợp tác mới giữa Tòa Thánh, Nhà nước Ý và thủ đô Roma. Quảng trường Pia trở thành khu đi bộ đô thị rộng lớn nhất ở Roma, với tổng sức chứa 150 ngàn người. Như thế, nơi đây là một cơ hội để “tổ chức nhiều sự kiện Năm Thánh” và tái khởi động, như ông nói với Vatican News bên lề sự kiện, “một thông điệp mạnh mẽ về hy vọng, tình huynh đệ và hòa bình”.

Cũng phát biểu trong buổi khánh thành, Thủ tướng Ý, bà Giorgia Meloni nói về một “phép màu dân sự nhỏ”, coi Năm Thánh là một sự kiện “trước hết là đức tin, cho phép chúng ta đối diện với chính mình một chút”. Bà Meloni hy vọng “thời gian dành cho chính mình sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi thứ dư thừa. Ba-lô của người hành hương rất nhẹ vì chỉ chứa những thứ cần thiết”.

Cũng phát biểu tại buổi lễ, Bộ trưởng Bộ Cơ sở hạ tầng, Matteo Salvini, ca ngợi sự “hội nhập” giữa người lao động Ý và nước ngoài cũng như sự thống nhất về ý định của “các lực lượng chính trị, xã hội và công đoàn” trong việc thực hiện công việc, “tất cả cùng chèo một hướng”.

Sau lời chào mừng của ông Stefano Antonio Donnarumma, Giám đốc điều hành Đường sắt Ý và Francesco Rocca, chủ tịch khu vực Lazio, lễ khánh thành kết thúc bằng nghi thức cắt băng khánh thành truyền thống và đoàn xe của công ty quản lý lưới đường bộ và đường cao tốc quốc gia Ý  đi qua, tiếp theo là chiếc Fiat 500 màu trắng, cùng mẫu xe đã đưa Đức Thánh Cha Phanxicô đi vòng quanh New York vào tháng 9/2015.



Làm phép hệ thống năng lượng mặt trời ở Bảo tàng viện Vatican


Thứ Sáu, ngày 20 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Hồng y Fernando Vergez Alzaga, Thống đốc thành Vatican, đã làm phép hệ thống năng lượng mặt trời, trong tiến trình góp phần chống sự thay đổi khí hậu tại quốc gia nhỏ bé nhất trên thế giới.


Buổi làm phép được cử hành ở lối vào Bảo tàng viện và hệ thống này được hoàn thành với thời gian kỷ lục, đúng hẹn, sáu tháng trước khi khai mạc Năm Thánh, vào ngày 24 tháng Mười Hai sắp tới. Hiện diện trong dịp này, đặc biệt có bà Barbara Jatta, Giám đốc Bảo tàng viện Vatican.

Qua công trình này, Quốc gia thành Vatican đang thực hiện các chỉ dẫn của Đức Thánh cha trong Thông điệp “Laudato sì”, ban hành năm 2015 về việc bảo vệ trái đất như căn nhà chung của chúng ta, đồng thời cũng góp phần thực thi những cam kết quốc tế đã được đề ra tại Hội nghị quốc tế tại Paris, về sự thay đổi khí hậu.

Trong những tháng qua, Vatican đã theo đuổi các sáng kiến gia tăng sử dụng năng lượng tái tạo và dùng các phương tiện di chuyển bằng điện cũng như tối ưu hóa nguồn nước. Đối tác hợp tác trong lãnh vực này là công ty Acea cung cấp nước của Ý. Trong chiều hướng này, toàn thể các xe của Vatican sẽ được chuyển sang phương tiện chạy bằng điện, được cung cấp từ năng lượng tái tạo tại các trạm sạc điện ở nội thành Vatican.


Một số Kitô hữu bị bắt tại bang Uttar Pradesh bên Ấn Độ


Bảy tín hữu Tin lành bị bắt trước lễ Giáng sinh tại bang Uttar Pradesh ở miền bắc Ấn Độ, vì bị cáo buộc về tội “cưỡng bách cải đạo” trong một buổi cầu nguyện tại gia.

Bang Uttar Pradesh là một trong những nơi luật cấm cải đạo bị những người Ấn giáo cuồng tín áp đặt ngặt nghèo nhất. Cảnh sát tại Sitapur đã bắt giam bảy tín hữu Tin lành thuộc cộng đoàn ở vùng Sidhauli Kotwali và tiến hành các thủ tục truy tố họ. Một cuốn nhật ký dài 70 trang và hai điện thoại di động của các tín hữu vừa nói, cũng bị tịch thu. Họ bị cảnh sát buộc vào tội cải đạo những người nghèo và yếu thế, chiêu dụ tín đồ bằng công ăn việc làm và tiền bạc. Và như mọi khi, một số thành phần tổ chức quốc gia Ấn giáo Vishwa Hindu Parishad tố cáo các Kitô hữu và yêu cầu cảnh sát can thiệp.

Luật chống cải đạo ở bang Uttar Pradesh đã được tu chính để trở nên ngặt nghèo hơn từ ngày 29 tháng Bảy năm nay, theo đó không phải những người liên hệ nhưng bất ai cũng có thể tố giác những vụ gọi là “cưỡng bách cải đạo”. Ngoài ra, hình phạt được gia tăng tối đa, bị can có thể phạt tù tới án chung thân, và phạt tiền tăng, từ một trăm ngàn lên năm trăm ngàn Rupee, tương đương với năm ngàn sáu trăm Euro trong những trường hợp có liên hệ tới phụ nữ, trẻ vị thành niên và người cùng đinh Dalit.

Đức giám mục Công giáo Gerald Mathais của Giáo phận Lucknow nói với hãng tin Công giáo Asia News rằng: “Luật chống cải đạo ở Uttar Pradesh là luật ngặt nghèo nhất tại Ấn. Đó là một phương tiện bị lạm dụng trầm trọng và thỉnh thoảng các tín hữu và mục tử bị bắt. Và cả việc xin tại ngoại hầu tra hay tự do tạm thời cũng là một công trình khó khăn. Cộng đồng Kitô sống trong sợ hãi vì cử hành tất cả buổi cầu nguyện nào trong nhà cũng trở thành điều rủi ro. Nhân quyền cơ bản được tuyên xưng, rao giảng và thực hành tín ngưỡng của mình, như Hiến pháp Ấn Độ bảo đảm, trong thực tế bị vi phạm nặng nề. Trong năm nay người ta ghi nhận có hơn 673 vụ bạo hành và tàn ác chống Kitô hữu.

Cha Ananda Matthew IMS, điều hợp viên Liên minh những người bênh vực nhân quyền, Sanjha Sandra Manch, có trụ sở ở thành phố Varanasi nói với hãng tin Asia News, rằng: “Mỗi Chúa nhật, đều có các mục sư Tin lành bị tấn công, ngược đãi và bị bắt tại bang Uttar Pradesh, không phải vì họ phạm tội ác nào đó, nhưng vì họ tỏ ra can đảm trong việc cầu nguyện với những người dễ bị tổn thương nhất. Họ bị tấn công và bị bắt vì là những người tích cực hoạt động cho Tin mừng. Cả tại bang Chhattisgarh, Kitô hữu bị trục xuất khỏi làng mạc của họ. Dịp lễ Giáng sinh này, nhiều người qua đêm ngoài trời. Tất cả những điều đó xảy ra trong khi thủ tướng tổ chức một bữa chiều cho các vị lãnh đạo Kitô, và nói rằng tại Ấn Độ mọi người đều bình đẳng và nước này là một nơi an toàn cho các Kitô hữu”.


Đức Hồng Y Bồ Đào Nha Bảo Vệ Quyết Định Tham Gia Cuộc Biểu Tình Của Đảng Cộng Sản

Một Hồng Y người Bồ Đào Nha được thăng Hồng Y vào năm ngoái đã gây tranh cãi vào đầu tháng này khi ngài tham dự một cuộc mít tinh cộng sản do Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha, gọi tắt là PCP tổ chức, đây là đảng cộng sản lâu đời nhất của đất nước này và được cho là một trong những đảng cộng sản mạnh nhất ở Tây Âu.

Đức Hồng Y Américo Aguiar, giám mục của giáo phận Setúbal ngay bên ngoài Lisbon, đã bảo vệ quyết định tham gia cuộc biểu tình cuối tuần trước tại Almada gần Lisbon, nói rằng ngài làm như vậy vì những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa tham dự rất gần gũi với người dân.

“Chúng tôi đoàn kết và đang tiến triển,” ngài trả lời truyền thông Bồ Đào Nha khi bị chỉ trích. “Điều quan trọng là tất cả các bên đều sử dụng ngôn ngữ giải quyết được các vấn đề thực sự của mọi người dân Bồ Đào Nha.”

Lưu ý rằng ngài cũng có thể dễ dàng tham dự một cuộc mít tinh của các đảng cánh hữu Bồ Đào Nha, mà ngài đã liệt kê, Đức Hồng Y nói thêm rằng sự gần gũi như vậy với người dân là điều cần thiết để sau này không có “khiếu nại về tin tức giả mạo hoặc sai lệch về ý thức hệ”.

Ngài nói thêm rằng mọi người “không hiểu thông điệp mà các đảng muốn truyền tải” và kêu gọi những người trẻ tuổi “cam kết và sẵn sàng tham gia vào quyền công dân, ngay cả trong đời sống của các đảng, của tất cả các đảng”.

Đức Hồng Y Aguiar, 51 tuổi, chưa bao giờ che giấu khuynh hướng chính trị của mình. Ngài đã từng làm ủy viên hội đồng thị trấn của Đảng Xã hội trong một thời gian ngắn và nói rằng ngài tự hào vì đã làm như vậy.

PCP là một trong những đảng cộng sản lâu đời và quan trọng nhất ở Tây Âu. Được thành lập vào năm 1921, đảng này đã đóng vai trò quan trọng trong bối cảnh chính trị của Bồ Đào Nha trong hơn một thế kỷ và vẫn tiếp tục được ưa chuộng, bao gồm cả ở những khu vực công nghiệp hóa mạnh như Setúbal.

PCP luôn ủng hộ Liên Xô và không bao giờ đứng về phía các đảng cộng sản, dân chủ xã hội Âu Châu ôn hòa hơn. Đảng này vẫn giữ được ảnh hưởng đáng kể, đặc biệt là thông qua mối quan hệ chặt chẽ với phong trào công đoàn và chính quyền địa phương.

Giáo lý của Giáo hội về chủ nghĩa cộng sản

Giáo huấn của Giáo hội về chủ nghĩa cộng sản rất rõ ràng. Về cơ bản, Giáo hội phản đối ý thức hệ cộng sản do chủ nghĩa duy vật vô thần, sự từ chối sở hữu tư nhân, thúc đẩy xung đột giai cấp và lịch sử đàn áp tôn giáo. Những nguyên tắc này vẫn là trọng tâm của học thuyết xã hội Công Giáo cho đến ngày nay.

Nhiều giáo hoàng đã lên án chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội: Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã lên án chủ nghĩa xã hội trong thông điệp Quod Apostolici Muneris năm 1879 của mình, gọi đó là một “giáo phái đáng ghê tởm” đang cố gắng “lật đổ mọi xã hội dân sự”. Đức Giáo Hoàng Pius XI, trong thông điệp Quadragesimo Anno năm 1931 của mình, coi chủ nghĩa cộng sản là mối đe dọa đối với tự do và sự tồn tại của Giáo hội. “ Sắc lệnh chống lại chủ nghĩa cộng sản” năm 1949 của Giáo hoàng Pius XII tuyên bố rằng những người Công Giáo tuyên xưng học thuyết cộng sản vô thần sẽ bị khai trừ vì là những kẻ bội giáo khỏi đức tin Kitô.

Ở Bồ Đào Nha, sự tham gia của Hồng Y Aguiar được coi là thực sự thúc đẩy chủ nghĩa cộng sản và làm cho nó có vẻ bình thường và có thể chấp nhận được, do đó đi ngược lại lập trường của Giáo hội về ý thức hệ chính trị. Không giống như các đảng phái khác ở cánh hữu và trung hữu, mà Hồng Y đã liệt kê, các đảng phái và hiệp hội cộng sản có lịch sử âm mưu chống lại Giáo hội, như quá khứ chính trị của Liên Xô và các nước khối Đông Âu chứng minh, và gần đây hơn là Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính sách “Hán hóa” của đảng này, công khai muốn biến Giáo Hội Công Giáo thành xã hội chủ nghĩa.

Điều 1374 của Giáo luật quy định rằng “người nào gia nhập một hiệp hội âm mưu chống lại Giáo hội phải bị phạt xứng đáng; người nào cổ xúy hoặc nhậm chức trong một hiệp hội như thế phải bị phạt cấm chế”.

“Việc đưa ra sự tương đương sai lầm rằng chủ nghĩa cộng sản cũng giống như bất kỳ đảng phái nào khác cũng giống như việc bình thường hóa nó,” một linh mục ở Bồ Đào Nha cho biết. “Điều này rất nghiêm trọng vì nó có nguy cơ khiến các linh hồn rơi vào tình trạng nguy hiểm, đặc biệt là những người ít được giáo dục và dễ bị tổn thương, và những người có khả năng trở thành cộng sản vì sự thiếu hiểu biết.”

Các giám mục của Setúbal trong lịch sử được gọi là “giám mục đỏ” vì khuynh hướng chính trị cánh tả của họ. Hồng Y Aguiar đến từ Giáo phận Oporto, nổi tiếng có các giáo sĩ cực kỳ cấp tiến.

Được đánh giá cao về kỹ năng giao tiếp, Hồng Y Aguiar đã nhanh chóng thăng tiến trong hàng giáo phẩm và đóng vai trò lãnh đạo trong Ngày Giới trẻ Thế giới tại Lisbon năm ngoái.

Ngài cũng gây tranh cãi tại sự kiện này khi phát biểu ngay trước khi sự kiện bắt đầu rằng: “Chúng tôi không muốn cải đạo những người trẻ theo Chúa Kitô hay theo Giáo Hội Công Giáo”. Sau đó, ngài nói rằng ý của ngài là Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới không phải là một sự kiện truyền giáo tích cực mà là cơ hội để những người tham gia trải nghiệm Chúa Kitô thông qua tình bạn và suy tư.



Nhìn lại năm 2024 sắp kết thúc, trang mạng Aleteia liệt kê những sự kiện đáng chú ý nhất trong năm của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Ngày 11/01: Châu Phi nói không với Tuyên bố Fiducia Supplicans

Đầu năm nay, Đức Thánh Cha đã phải đối diện với khó khăn do văn kiện Fiducia Supplicans được công bố vào cuối năm 2023, cho phép chúc lành ngoài phụng vụ các cặp đồng tính.

Một số bày tỏ phản đối mạnh mẽ chống lại sáng kiến này của Bộ Giáo lý Đức tin. Đặc biệt, các giám mục châu Phi, dưới sự lãnh đạo Đức Hồng Y Fridolin Ambongo, đã công bố một tuyên bố từ chối áp dụng văn kiện này. Vào tháng 3, lại có một trở ngại khác, lần này trong lĩnh vực đại kết: Giáo hội Chính thống Copte Ai Cập tuyên bố ngưng đối thoại thần học với Công giáo, với lý do được đưa ra là do sự khác biệt “quan điểm đồng tính luyến ái”. Đức Hồng Y Fernández, Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã tới Cairo vào tháng 5 để gặp trực tiếp Đức Thượng Phụ Tawadros II, Giáo hội Chính thống Copte Ai Cập.

Ngày 12/01: Đức Thánh Cha bị bệnh về đường hô hấp

Trong những tháng đầu năm 2024, Đức Thánh Cha bị bệnh về đường hô hấp buộc ngài phải hủy bỏ nhiều cuộc gặp gỡ và giao việc đọc các bài giáo lý và diễn văn cho những người cộng tác. Ngài đã mất một thời gian dài để phục hồi. Vào cuối tháng 3, để không bị bệnh do thời tiết lạnh, vào những phút cuối Đức Thánh Cha đã quyết định không đến chủ sự buổi suy niệm Đàng Thánh giá trọng thể, ở Hý trường Colosseo, Roma, và ngài dự buổi cử hành này qua truyền hình, từ Nhà thánh Marta ở Vatican.

Nhưng sau đó, vào mùa thu Đức Thánh Cha đã phục hồi nhanh chóng và tiếp tục thực hiện các chuyến tông du. Và ngài có lại được sức khoẻ ổn định, như được thấy trong các buổi tiếp kiến và gặp gỡ, mặc dù vào đầu tháng 12, ngài bị ngã khiến cằm bị bầm tím.

Ngày 03/4: Đức Thánh Cha trải lòng về Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI

Trong cuốn sách “El Sucesor - Người Kế nhiệm”, nội dung là cuộc phỏng vấn của nhà báo người Argentina Javier Martinez-Brocal, được công bố vào ngày 03/4, Đức Thánh Cha nói về những hồi ức của ngài về vị tiền nhiệm, Đức cố Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Đức Thánh Cha nói rằng đối với ngài, Đức Biển Đức là một người cha, luôn bảo vệ và không bao giờ can thiệp vào công việc của ngài.

Phủ nhận những người muốn gây chia rẽ giữa hai vị, Đức Thánh Cha thú nhận, trong mật nghị Hồng y năm 2005, ngài bầu cho Đức Hồng Y Joseph Ratzinger và coi Đức Biển Đức XVI là nhà thần học trổi vượt.

Đức Thánh Cha cũng tiết lộ muốn một nghi thức đơn giản cho tang lễ của chính ngài, và cho biết phần mộ của ngài đã được chuẩn bị ở Đền thờ Đức Bà Cả.

Ngày 28/4: Đức Thánh Cha viếng thăm thành phố nổi Venezia

Đức Thánh Cha đã dành 8 tiếng để thực hiện chuyến viếng thăm mục vụ tại Venezia, vào ngày 28/4. Đầu tiên, ngài đã đến thăm một nhà tù, sau đó gặp gỡ các nghệ sĩ nhân dịp cuộc triển lãm nghệ thuật thứ 60, trong đó cũng có một gian hàng của Tòa Thánh do Bộ Văn hóa của Tòa Thánh đảm trách. Tại sự kiện, Đức Thánh Cha tuyên bố “thế giới cần các nghệ sĩ”. Và sự kiện cuối cùng tại đây là Thánh lễ. Nhân dịp này, ngài khuyến khích người dân Venezia bảo vệ di sản sinh thái, cũng như “di sản nhân loại của họ”.

Đức Thánh Cha còn hai lần nữa đến thăm vùng đông bắc nước Ý: vào ngày 18/5 tới Verona để tham dự cuộc họp mặt lớn về hòa bình ở hý trường Arena, và ngày 07/7 tới Trieste để bế mạc Tuần lễ xã hội Công giáo lần thứ 50.

Ngày 28/5: Đức Thánh Cha xin lỗi vì dùng từ ngữ xúc phạm

Vào những ngày cuối tháng 5, một số trang mạng cho rằng trong buổi trao đổi riêng giữa Đức Thánh Cha và khoảng 200 giám mục Ý ngày 20/5, ngài đã xúc phạm người đồng tính khi dùng từ “frociaggine” trong tiếng lóng của Ý, thường có nghĩa tiêu cực, thay vì từ “omossessualità” để chỉ sự đồng tính luyến ái.

Sau đó, Phòng Báo chí Tòa Thánh đã đưa ra một tuyên bố khẳng định: “Đức Thánh Cha không bao giờ có ý xúc phạm hoặc thể hiện mình bằng những thuật ngữ kỳ thị người đồng tính, và ngài gửi lời xin lỗi tới những người cảm thấy bị xúc phạm khi ngài sử dụng từ này, như những người khác thuật lại”.

Theo báo Avvenire -Tương lai của Hội đồng Giám mục Ý, lập trường trên đây của Đức Thánh Cha không có gì là mới mẻ. Huấn thị của Bộ Giáo sĩ năm 2005 dưới triều Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã khẳng định rằng: “Tuy có lòng tôn trọng sâu xa đối với những người đồng tính luyến ái, Giáo hội không thể nhận vào chủng viện và cho chịu các thánh chức đối với những người có xu hướng đồng tính luyến ái tại căn, hoặc chủ trương văn hóa đồng tính luyến ái”.

Ngày 14/6: Đức Thánh Cha tham dự hội nghị thượng đỉnh G7 về trí tuệ nhân tạo

Tham dự hội nghị về trí tuệ nhân tạo, Đức Thánh Cha đã nói về cơ hội, mối nguy và ảnh hưởng của trí tuệ nhân tạo: nhân loại sẽ bị kết án trong một tương lai vô vọng nếu khả năng quyết định về bản thân và cuộc sống của họ bị tước đi khỏi con người, buộc họ phải phụ thuộc vào sự lựa chọn của máy móc. Trí tuệ nhân tạo không thể thay thế con người đưa ra quyết định. Ngài nhấn mạnh tính cấp thiết đặt phẩm giá con người trở lại trung tâm theo một đề xuất đạo đức chung.

Từ ngày 02 đến 13/9: Chuyến tông du dài ngày đến châu Á và châu Đại Dương

Với 44 giờ bay và 32.000 km di chuyển, chuyến viếng thăm dài ngày đến châu Á và châu Đại Dương vào tháng 9 đã phá vỡ mọi kỷ lục tông du của Đức Thánh Cha. Điều đáng ngạc nhiên nhất là vị Giáo hoàng lúc đó gần 88 tuổi dường như tràn đầy sinh lực sau chuyến đi này.

Tại Indonesia, Đức Thánh Cha đã khuyến khích một Giáo hội thiểu số tìm chỗ đứng của mình bên cạnh cộng đồng Hồi giáo lớn nhất thế giới. Ở Papua New Guinea  xanh tươi, ngài đã trở thành nhà truyền giáo hòa bình chống lại nạn bạo lực đang tàn phá đất nước. Sau đó, ngài đã thực hiện cuộc viếng thăm được cho là rất thành công đến Đông Timor, một đất nước đa số Công giáo mà ngài ca ngợi là trẻ. Và cuối cùng đến Singapore, nơi ngài ủng hộ sự hòa hợp giữa các tôn giáo và tôn trọng người di cư.

Từ ngày 26 đến 29/9: Chuyến tông du khó khăn của Đức Thánh Cha đến Bỉ

Sau chặng dừng chân mang tính biểu tượng ở Luxembourg, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thực hiện chuyến viếng thăm Bỉ. Đó là một trong những khó khăn nhất trong triều giáo hoàng của ngài.

Trong những lời chào mừng tại dinh thự Hoàng gia, Nhà vua và Thủ tướng đã hỏi Đức Thánh Cha về những vụ bê bối lạm dụng tình dục của các linh mục. Sau khi tiếp đón các nạn nhân, Đức Thánh Cha đã thay đổi nội dung bài giảng trong Thánh lễ được cử hành tại sân vận động King Baudouin để yêu cầu các giám mục nỗ lực chống lại tai họa này một cách hiệu quả hơn.

Vào cuối thánh lễ, Đức Thánh Cha tuyên bố đang mở tiến trình phong chân phước cho vua Baudouin, vì ông phản đối việc hợp pháp hóa phá thai. Và ngài đã bị chỉ trích mạnh mẽ trong chuyến thăm Đại học Công giáo Leuven vì lập trường “ủng hộ sự sống” của ngài và quan điểm truyền thống về vai trò của phụ nữ.

Từ ngày 2 đến 27/10: Thượng hội đồng về tính hiệp hành

Trong suốt tháng 10, Đức Thánh Cha đã chủ trì phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng về hiệp hành, trong đó 368 thành viên từ khắp nơi trên thế giới, với 25% trong số đó không phải là giám mục, đã cùng nhau suy tư về một cách toàn diện hơn, có tính tham gia hơn và ít giáo sĩ hơn.

Phiên họp này được cho là kết thúc một tiến trình bắt đầu vào năm 2021, nhưng thực tế, công việc vẫn đang tiếp diễn. 10 nhóm làm việc do Đức Thánh Cha thành lập để nghiên cứu một số vấn đề nhạy cảm phải đưa ra kết luận vào tháng Sáu năm 2025.

Vào cuối Thượng Hội đồng, Đức Thánh Cha đã ký Văn kiện Chung kết của các thành viên Thượng hội đồng. Ngài mô tả Văn kiện này như một phần của “Giáo huấn thông thường của Người kế vị Thánh Phêrô” và yêu cầu tôn trọng bản chất có thẩm quyền của tài liệu.

Ngày 22/10: Thỏa thuận với Trung Quốc được gia hạn thêm 4 năm

Lần thứ ba, Tòa Thánh và Trung Quốc đã gia hạn thỏa thuận mục vụ năm 2018 về thủ tục bổ nhiệm giám mục ở Trung Quốc. Mặc dù văn bản vẫn mang tính chất tạm thời và không công khai, nhưng hoạt động ngoại giao giáo hoàng của Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Toà Thánh Pietro Parolin đã đạt được tiến bộ cụ thể: thỏa thuận đã được gia hạn thêm bốn năm, thay vì hai năm.

Tại Vatican, hiện nay các buổi tiếp kiến chung cũng được tóm tắt bằng tiếng Quan thoại, các giám mục Trung Quốc đã tham gia Thượng hội đồng và một hội nghị chuyên đề dịp kỷ niệm 100 năm Công đồng đầu tiên của Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc, và thỏa thuận cho phép bổ nhiệm 5 giám mục mới.

Ngày 7/12: Công nghị Hồng y với 20 hồng y cử tri

Đức Thánh Cha tiếp tục thành lập hồng y đoàn bầu chọn người kế vị bằng cách triệu tập công nghị thăng 21 hồng y, 20 trong số đó dưới 80 tuổi và do đó, có thể bỏ phiếu trong trường hợp mật nghị. Trong Công nghị Hồng y lần thứ mười, Đức Thánh Cha đã chọn những gương mặt phù hợp với các cuộc cải cách mục vụ khởi đầu từ năm 2013, như nhà thần học Timothy Radcliffe và Đức Tổng Giám Mục Jean-Paul Vesco của Algeria.

Trong khi châu Phi vẫn còn ít đại diện (2 hồng y trong công nghị này), châu Á tiếp tục tăng, chiếm 16% đại diện và thậm chí 18% nếu bao gồm các hồng y từ Trung Đông - Hồng y Dominique Joseph Mathieu, Tổng Giám Mục Tehran-Isfahan của Công giáo Latinh. Trong số 140 hồng y cử tri hiện nay, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm gần 80%.

Ngày 15/12: chọn Corsica thay vì Notre-Dame

Một lần nữa, thích các vùng ngoại vi hơn là trung tâm, Đức Thánh Cha đã làm mọi người ngạc nhiên khi chọn đến thăm đảo Corsica của Pháp để tham dự một hội nghị về “Lòng đạo đức bình dân ở miền Địa Trung Hải”, trong đó các giám mục Ý, Pháp và Tây Ban Nha cũng tham gia.

Tại Ajaccio, Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến một “thế tục lành mạnh”, trong đó Corsica, nơi các truyền thống Công giáo vẫn bám rễ sâu, theo ngài là một thí dụ điển hình.

Cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha với các giáo sĩ địa phương và Thánh lễ được cử hành dưới tượng Napoléon Bonaparte đã tỏ lộ mối liên kết bền chặt giữa người dân Corsica và Giám mục Roma. Chuyến thăm thứ ba của Đức Thánh Cha tới Pháp kết thúc bằng một cuộc gặp khác với Tổng thống Emmanuel Macron. Trong buổi gặp, Tổng thống đã tặng ngài một cuốn sách về việc tái thiết Nhà thờ Đức Bà Paris.

Reply all
Reply to author
Forward
This conversation is locked
You cannot reply and perform actions on locked conversations.
0 new messages