Đức Thánh cha bổ nhiệm thêm hai mươi mốt hồng y mới
Sau khi đọc kinh Truyền tin với hàng ngàn tín hữu, tại Quảng trường thánh Phêrô, trưa Chúa nhật, ngày 09 tháng Bảy năm 2023, Đức Thánh cha Phanxicô tuyên bố sẽ triệu tập Công nghị Hồng y vào ngày 30 tháng Chín tới đây để bổ nhiệm thêm hai mươi mốt hồng y mới, trong đó có mười tám vị cử tri và ba vị trên tám mươi tuổi.

Sau đây là tên của các vị tân hồng y:
1. Đức cha Robert Francis Prevost, người Mỹ, Dòng thánh Augustinô, Tổng trưởng Bộ Giám mục.
2. Đức Tổng giám mục Claudio Gugerotti, người Ý, Tổng trưởng Bộ Các Giáo hội Công giáo Đông phương.
3. Đức Tổng giám mục Victor Manuel Fernandez, người Argentina, Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin.
4. Đức Tổng giám mục Emil Paul Tscherrig, người Thụy Sĩ, Sứ thần Tòa Thánh tại Ý.
5. Đức Tổng giám mục Christophe Pierre, người Pháp, Sứ thần Tòa Thánh tại Mỹ.
6. Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa, người Ý, của Công giáo Latinh ở Jerusalem.
7. Đức Tổng giám mục Stephen Brislin, người Nam Phi, Tổng giám mục Giáo phận Thành phố Cap.
8. Đức Tổng giám mục Ángel Sixto Rossi, người Argentina, Dòng Tên, Tổng giám mục Giáo phận Cordoba.
9. Đức Tổng giám mục Luis Rueda Aparicio, người Colombia, Tổng giám mục Giáo phận Bogotà.
10. Đức Tổng giám mục Grzegorz Rys, người Ba Lan, Tổng giám mục Giáo phận Lodz.
11. Đức Tổng giám mục Stephen Ameyu Mulla, người Nam Sudan, Tổng giám mục Giáo phận thủ đô Juba.
12. Đức Tổng giám mục José Cobo Cano, người Tây Ban Nha, Tổng giám mục Giáo phận Madrid.
13. Đức Tổng giám mục Protase Rugambwa, người Tanzania, Tổng giám mục Phó Giáo phận Tabora.
14. Đức cha Sebastian Francis, Giám mục Giáo phận Penang, Malaysia (Chủ tịch FABC-OSC)
15. Đức cha Stephano Chu Thủ Nhân (Chow Sau-yan), Dòng Tên, Giám mục Giáo phận Hong Kong.
16. Đức cha Francois Xavie Bustillo, người Pháp, Dòng Phanxicô Viện Tu, Giám mục Giáo phận Ajaccio.
17. Đức cha Americo Alves Aguiar, người Bồ Đào Nha, Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận Lisboa.
18. Cha Ángel Fernández Artime, người Mêhicô, Bề trên Tổng quyền dòng Don Bosco.
Ba vị trên tám mươi tuổi, là:
19. Đức Tổng giám mục Agostino Marchetto, người Ý, cựu Sứ thần Tòa Thánh.
20. Đức cha Diego Rafael Padrón Sánchez, người Venezuela, cựu Tổng giám mục Cumaná.
21. Cha Luis Pascual Dri, người Argentina, Dòng Capuchino, cha giải tội tại Đền thánh Đức Mẹ Pompei, Buenos Aires và từng là cha giải tội của Đức Hồng y Bergoglio, nay là Đức Giáo hoàng Phanxicô.
Tổng cộng, trong lần thứ chín bổ nhiệm hồng y tới đây, có ba vị người Argentina, hai vị người Ý, hai vị người Pháp; các vị còn lại thuộc các nước Mỹ, Thụy Sĩ, Nam Phi, Colombia, Ba Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Venezuela.
Với việc bổ nhiệm trên đây, nếu không có gì thay đổi thì từ ngày 30 tháng Chín năm 2023, số hồng y sẽ lên tới 243 vị, trong số này có 137 hồng y cử tri và 106 vị trên tám mươi tuổi.
Cha Luis Dri, 96 tuổi, cha giải tội “xin lỗi Chúa vì đã tha tội quá nhiều”, được chọn làm Hồng y
Trong số 21 Hồng y tân cử được Đức Thánh Cha công bố sau khi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 9/7/2023 có Cha Luis Pascual Dri, 96 tuổi, dòng Capuchinô, từ nhiều năm nay là giải tội tại đền thánh Đức Mẹ Pompei ở Buenos Aires. Vào ban chiều cha thường cầu nguyện trước Nhà Tạm Thánh Thể và xin Chúa tha thứ, bởi vì cha đã "tha tội quá nhiều".

ĐTC Phanxicô và Cha Luis Pascual Dri
Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói về Cha Luis Dri. Lần thứ nhất vào ngày 6/3/2014, khi gặp gỡ các cha xứ Roma. Ngài lặp lại gương mẫu này vài tháng sau, vào ngày 11/5/2014, trong bài giảng Thánh lễ truyền chức linh mục. Ngài đã trưng dẫn gương của cha Dri một lần nữa trong cuốn sách phỏng vấn “Tên của Thiên Chúa là thương xót”, sau đó trưng dẫn một lần nữa vào tháng 2/2016, trong bài giảng thánh lễ với các tu sĩ dòng Capuchinô tại đền thờ Thánh Phêrô, và một lần nữa trong cuộc gặp gỡ với các các cha giải tội của Năm Thánh. Vào tháng 2/2017, Đức Thánh Cha đã tặng cho các cha xứ Roma cuốn sách “Đừng sợ tha thứ”, với tiểu sử của Cha Dri.
Một cha giải tội tuyệt vời
Đức Thánh Cha kể: “Tôi nhớ đến một cha giải tội tuyệt vời, một cha dòng Capuchinô, người đã thi hành sứ vụ ở Buenos Aires. Một lần cha đến gặp tôi, cha muốn nói chuyện. Cha nói với tôi: ‘Con xin Đức cha giúp, ở tòa giải tội con luôn gặp rất nhiều người, đủ loại người, khiêm nhường và kém khiêm nhường, nhưng cũng có nhiều linh mục… Con tha thứ nhiều và đôi khi cũng rất lo lắng, lo lắng vì đã tha thứ quá nhiều.’ Chúng tôi nói về lòng thương xót, và tôi hỏi cha ấy đã làm gì khi cha ấy cảm thấy bối rối như vậy. Cha đã trả lời tôi như thế này: ‘Con đến nhà nguyện của chúng con, trước Nhà Tạm Thánh Thể và con nói với Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin tha thứ cho con vì con đã tha thứ quá nhiều. Nhưng chính Chúa đã làm gương xấu cho con!’. Điều này tôi sẽ không bao giờ quên. Khi một linh mục cảm nghiệm được lòng thương xót của chính mình theo cách này, thì ngài có thể ban phát lòng thương xót cho người khác.”
Giúp đỡ, gần gũi với những người đến xưng tội
Cha Luis Dri đã chia sẻ: “Tôi không phải là một người, một linh mục, một tu sĩ học thức, tôi không có bằng tiến sĩ, tôi không có gì cả. Nhưng cuộc đời đã dạy tôi rất nhiều, cuộc đời đã ghi dấu ấn trong tôi, và vì tôi sinh ra trong hoàn cảnh rất nghèo khó, dường như tôi luôn phải có một lời thương xót, một lời giúp đỡ, một sự gần gũi với bất cứ ai đến đây. Không ai nên rời đi với suy nghĩ rằng họ không được hiểu hoặc bị coi thường hoặc bị từ chối.”
Thương xót; đừng sợ
Cha dành mỗi sáng và mỗi chiều để ngồi giải tội cho đến chiều muộn. Cha không có lời khuyên cho các linh mục giải tội, nhưng nói rằng “Thương xót, thấu hiểu, đặt cả cuộc đời để lắng nghe, để hiểu, để có thể đặt mình vào da thịt của người khác, để hiểu những gì đang xảy ra.” Và với các hối nhân, cha luôn khuyên: “Đừng sợ. Tôi luôn cho thấy hình ảnh này, hình ảnh diễn tả cái ôm của người Cha dành cho đứa con hoang đàng.”
Đức Thánh Cha bổ nhiệm Linh mục Ángel Fernández Artime, Bề Trên Cả Dòng Salêdiêng, làm Hồng Y
Ngày 9 tháng 7, sau Kinh Truyền Tin và suy niệm Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố việc triệu tập Mật nghị Hồng Y vào ngày 30 tháng 9 tới để bổ nhiệm 21 tân Hồng Y. Trong số các tân Hồng Y có tên Cha Ángel Fernández Artime, Bề Trên Cả của Dòng Salêdiêng.
Việc bổ nhiệm Cha Ángel Fernández Artime là dấu chỉ của sự tin tưởng và hy vọng mà Đức Thánh Cha Phanxicô đặt nơi Cha Ángel và Dòng Salêdiêng Don Bosco.Việc bổ nhiệm các tân Hồng Y vào giáo triều Rôma cũng cho thấy mối liên hệ không thể tách rời giữa Tòa Thánh Phêrô và các Giáo Hội địa phương trên khắp thế giới. Nguồn gốc của các tân Hồng Y nói lên tính phổ quát của Giáo hội tiếp tục loan báo tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho tất cả mọi người trên thế giới.Đức Thánh Cha kết thúc buổi tiếp kiến bằng cách mời gọi mọi người cầu nguyện cho các tân Hồng Y: “Chúng ta hãy cầu nguyện cho các tân Hồng Y, để khi xác tín sự gắn bó của các ngài với Chúa Kitô, Vị Thượng Tế nhân từ và trung thành (x. Dt 2:17), các ngài có thể giúp tôi trong sứ vụ của tôi với tư cách là Giám mục Rôma vì lợi ích của tất cả những người trung thành với Chúa".Cha Ángel sinh ngày 21 tháng 8 năm 1960 tại Gozón-Luanco, Asturias, Tây Ban Nha. Ngài tuyên khấn lần đầu ngày 3 tháng 9 năm 1978, tuyên khấn trọn đời ngày 17 tháng 6 năm 1984 tại Santiago de Compostela và thụ phong linh mục ngày 4 tháng 7 năm 1987 tại León.Xuất thân từ Tỉnh León, ngài có bằng Thần học Mục vụ và Bằng Triết học và Sư phạm. Ngài là Ủy viên đặc trách Mục vụ Giới trẻ, Giám đốc trường Ourense, thành viên Hội đồng Tỉnh và Phó Tỉnh, và từ năm 2000 đến năm 2006 là Giám tỉnh.Ngài là Ủy viên Tỉnh Dòng đặc trách Mục vụ giới trẻ, là Hiệu trưởng Trường atf Ourense, là thành viên Hội đồng Tỉnh và là Phó Giám Tỉnh, và từ năm 2000-2006, Ngài là Bề Trên Giám Tỉnh.Sau khi là thành viên của ủy ban điều hợp cho Tổng tu nghị thứ 26 vào năm 2009, ngài được bổ nhiệm làm Giám tỉnh Nam Argentina, có trụ sở tại Buenos Aires. Với tư cách này, ngài cũng đã làm việc cá nhân với Đức Tổng Giám Mục lúc bấy giờ của Buenos Aires, là Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, ngày nay là Đức Thánh Cha Phanxicô.Ngày 23 tháng 12 năm 2013, ngài được bổ nhiệm làm Bề Trên Tỉnh Dòng Địa Trung Hải mới của Tây Ban Nha, tỉnh dòng mang tên Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu. Nhưng trước khi ngài đảm nhận vai trò mới này, vào ngày 25 tháng 3 năm 2014, ngài được Tổng Tu nghị 27 bầu chọn làm tân Bề trên Cả của Tu hội Salêdiêng và là Đấng kế vị thứ 10 của thánh Don Bosco. Vào ngày 11 tháng 3 năm 2020, ngài đã được Tổng Tu nghị 28 bầu chọn lại là Bề Trên Cả của Dòng Salêdiêng cho nhiệm kỳ sáu năm từ 2020 đến 2026.Là một người trẻ trung hạt bát và năng động chắc chắn T6an Hồng Y sẽ cống hiến nhiều điều cho Giáo hội.
Con số đáng kể các hồng y thuộc các dòng tu
Trong số 243 hồng y của Giáo hội, từ ngày 30 tháng Chín tới đây, có 56 vị thuộc các dòng tu, trong đó có 33 hồng y cử tri và 23 vị trên 80 tuổi.

Đứng đầu danh sách là Dòng Salésien Don Bosco với 11 vị, trong đó có 5 hồng y cử tri, gồm Đức Hồng y Charles Bo-người Myanmar, Đức Hồng y Carmo da Silva-người Đông Timor, Đức Hồng y Sturla-người Uruguay, Đức Hồng y Lopez Romero, người sau cùng là Đức Hồng y tân cử Artime-người Tây Ban Nha, Bề trên Tổng quyền Dòng Don Bosco. Trong số 6 hồng y của hội dòng trên 80 tuổi, có Đức Hồng y Bertone, nguyên Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và Đức Hồng y Rodriguez Maradiaga, người Honduras, cựu Chủ tịch Hội đồng Cố vấn của Đức Thánh cha.
Tiếp đến là 10 vị hồng y thuộc gia đình Dòng Phanxicô, gồm Dòng Anh Em Hèn Mọn (OFM), Capuchino và Viện Tu, trong đó có 7 vị hồng y cử tri. 3 hồng y cử tri thuộc Dòng Capuchino, là Ambongo, Tổng giám mục Kinshasa-Congo, Aos Braco-người Chile, sau cùng là Đức Hồng y O’Malley, Tổng giám mục Boston bên Mỹ. Hai vị hồng y cử tri Dòng Anh Em Hèn Mọn Phanxicô là Đức Hồng y Steiner-người Brazil gốc Đức, và Đức Hồng y tân cử Pizzaballa, Thượng phụ Công giáo Latinh Jerusalem. Sau cùng, Dòng Phanxicô Viện Tu có Đức Hồng y Gambetti, Giám quản Đền thờ thánh Phêrô và Đức Hồng y tân cử Bustillo, Giám mục Giáo phận Ajaccio ở đảo Corse bên Pháp.
Có 9 hồng y thuộc Dòng Tên, trong đó có 6 vị dưới 80 tuổi, là Barreto Jimeno-người Peru, Czeny-người Canada gốc Tiệp, Hollerich-người Luxemburg, Ladaria Ferrer-người Tây Ban Nha, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, và Đức Hồng y tân cử Rossi người Argentina, sau cùng là Đức Hồng y tân cử Chu Thủ Nhân (Chow Sow-yan)-người Hong Kong.
Dòng thánh Augustinô có 2 hồng y, tất cả đều là cử tri đó là Đức Hồng y Prevost-người Mỹ, tân Tổng trưởng Bộ Giám mục và Đức Hồng y Lacunza thuộc Dòng Augustinô Nhặt Phép.
Dòng Đa Minh có 2 hồng y, là Đức Hồng y cử tri Schoenborn người Áo, và Đức Hồng y Duka người Tiệp, trên 80 tuổi,
Có 2 hồng y thuộc Dòng Lazzariste, trong đó có cử tri là Đức Hồng y Souphariel-người Etiopia, và Đức Hồng y Rodé-người Slovenia, trên 80 tuổi.
Dòng thánh Claret có 2 hồng y trên 80 tuổi, Dòng Cát Minh có một hồng y cử tri là Arborelius-người Thụy Điển, Dòng Thánh Comboni có Đức Hồng y Ayuso-người Tây Ban Nha, Tổng trưởng Bộ Đối thoại liên tôn. Dòng Thánh Giá có Đức Hồng y D’Rozario người Bangladesh. Tu hội Thánh Ý Chúa (Voluntas Dei) có Đức Hồng y người Lào. Dòng Thừa Sai Đức Mẹ An Ủi có Đức Hồng y Marengo, thừa sai ở Mông Cổ. Tu đoàn Xuân Bích có Đức Hồng y Ouellet-người Canada, cựu Tổng trưởng Bộ Giám mục. Dòng Thừa sai Thánh Tâm có Đức Hồng y Piat đảo Maurice. Dòng Xitô có Đức Hồng y Tempesta. Dòng Chúa Cứu Thế với Đức Hồng y Tobin-người Mỹ. Sau cùng là Dòng Đạo Binh Chúa Kitô với Đức Hồng y Vergez Alzaga-người Tây Ban Nha, Thống đốc thành Vatican.
Một số dòng khác, mỗi dòng có một hồng y, là Dòng Don Calabria, Hội thừa sai Phi châu, Dòng thánh Euđê, Dòng Hiến sinh Đức Mẹ Vô Nhiễm (OMI), Dòng Marionit Maria bên Liban và sau cùng là Dòng Scalabrini.
Nhiều người Công Giáo Úc tỏ ra thất vọng vì không có tân Hồng Y
Tờ The Australian số ra hôm thứ Ba 11 Tháng Bảy viết như sau: Sáu tháng sau cái chết của Đức Hồng Y George Pell, Đức Giáo Hoàng đã coi thường nước Úc khi bổ nhiệm 21 tân Hồng Y sẽ được phong vào ngày 30 tháng 9. Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher của Sydney có trình độ tốt hơn, về mặt học thuật và kinh nghiệm mục vụ, mà Đức Thánh Cha Phanxicô thường gọi là bài kiểm tra “mùi của con cừu” so với hầu hết các vị trong danh sách được công bố vào hôm Chúa Nhật.
Đức Tổng Giám Mục Anthony Fisher chia sẻ số phận hẩm hiu với nhiều vị khác. Đức Giáo Hoàng cũng bỏ qua Venice, nơi đã sản sinh ra ba giáo hoàng trong thế kỷ 20, Pháp, từ lâu được biết đến là “trưởng nữ của Giáo Hội '', và Los Angeles, tổng giáo phận lớn nhất ở Hoa Kỳ với hơn năm giáo phận hạt, và hơn 5 triệu người Công Giáo. Trái lại, Đức Phanxicô đã bao gồm cả Giám mục Penang, nơi chỉ có khoảng 65.000 người Công Giáo.
Giám mục Hương Cảng, Stâphanô Châu Thủ Nhân, một tu sĩ Dòng Tên, người ủng hộ mạnh mẽ thỏa thuận bí mật của Vatican với Trung Quốc, đã lọt vào danh sách này. Đức Tổng Giám Mục Victor Fernandez, tác giả của Heal Me With Your Mouth: The Art of Kissing, một bài thơ dài khét tiếng được viết khi còn là một linh mục trẻ ở Á Căn Đình.
Tổng giám mục Fernandez hiện đang cố gắng xóa bài thơ khỏi lý lịch sau khi được thăng chức đứng đầu cơ quan giám sát giáo lý của Giáo Hội, một vị trí do Đức Hồng Y Joseph Ratzinger nắm giữ trong 24 năm dưới thời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Trong một cuộc phỏng vấn với La Civilta Cattolica hay Văn Minh Công Giáo vào tháng 5 năm nay, Đức Giám Mục Châu Thủ Nhân cho biết “chính phủ Trung Quốc cũng rất kính trọng Đức Thánh Cha Phanxicô. Họ đặc biệt đánh giá cao sự cởi mở và hòa nhập của ngài. Tình yêu của ngài dành cho nhân loại nói chung được coi là trùng hợp với các giá trị được Chủ tịch Tập Cận Bình tán thành khi ông tập trung vào 'Cộng đồng vận mệnh chung' của nhân loại.”
Tân Hồng Y Châu Thủ Nhân, người đã đến thăm Bắc Kinh trước cuộc phỏng vấn, cho biết từ những gì ngài đã thấy, đọc và gặp gỡ thái độ của những người Công Giáo mà ngài đã tiếp xúc trong chuyến đi, “Tôi có thể nói rằng phần lớn người Công Giáo ở Trung Quốc trung thành với Đức Thánh Cha Phanxicô, và họ hy vọng thỏa thuận tạm thời sẽ mang lại những thay đổi mong muốn cho Giáo Hội của họ, bao gồm cả một cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng và Chủ tịch Tập Cận Bình”.
Danh sách các tân Hồng Y bao gồm các giám mục đến từ Juba ở Nam Sudan, Cape Town ở Nam Phi, Tabora ở Tanzania và Thượng phụ Latinh của Giêrusalem, là nhà lãnh đạo Công Giáo cao cấp nhất ở Thánh địa, Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa người Ý, có tổng giáo phận bao gồm Israel, các vùng lãnh thổ của Palestine, Jordan và Síp.
Một trong những vị được tấn phong Hồng Y có quyền lực nhất là nhà lãnh đạo Cơ quan bổ nhiệm Giám mục sinh ra ở Chicago, là Đức Tổng Giám Mục Robert Prevost.
Một vị khác là Sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, người Pháp, là Đức Tổng Giám Mục Christophe Pierre, người mà sự thăng tiến sẽ giúp ông mạnh tay hơn trong việc chống lại chương trình nghị sự quay trở lại những năm 1960 trong Giáo Hội ở Hoa Kỳ.
Những vị khác trong danh sách là các giám mục và tổng giám mục từ Corsica, Lisbon, Madrid, Lodz (Ba Lan), Bogota và Cordoba (Á Căn Đình). Mười tám trong số các tân Hồng Y dưới 80 tuổi và do đó đủ điều kiện để bỏ phiếu trong bất kỳ mật nghị sắp tới.
Sau công nghị, số Hồng Y cử tri sẽ là 137, nhưng con số này có thể thay đổi nhanh chóng khi một số vị bước sang tuổi 80.
Công nghị tấn phong Hồng Y này sẽ là công nghị thứ chín của Đức Phanxicô kể từ khi lên ngôi Giáo Hoàng vào năm 2013.
Trước đó một tháng, ngài dự kiến sẽ đến thăm Mông Cổ, nơi có giáo hội 1300 người Công Giáo được lãnh đạo bởi vị Hồng Y trẻ nhất của giáo hội, Giorgio Marengo, 49 tuổi, người Ý, người mà Đức Phanxicô đã tấn phong Hồng Y vào năm ngoái.
Úc Đại Lợi từ lâu không có Hồng Y mới
Một số báo chí nhận xét rằng từ hai mươi năm nay, không có Hồng Y mới nào được bổ nhiệm cho Giáo hội tại Úc Đại Lợi, tức là từ sau khi Đức Tổng Giám Mục Georg Pell, Tổng giám mục Giáo phận Sydney được bổ nhiệm làm Hồng Y năm 2003, do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, rồi từ năm 2014 ngài được mời về Vatican làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế, và qua đời ngày 10 tháng Giêng năm nay.
Từ đó, Giáo hội tại Australia không có thêm Hồng Y nào nữa, mặc dù tại Úc châu có Đức Hồng Y John Atcherley Dew, 75 tuổi nguyên Tổng giám mục Wellington ở New Zealand, và một Hồng Y ở đảo Tongo là Soan Patita Paini Mafi, năm nay 62 tuổi, thuộc Dòng Đức Mẹ, được bổ nhiệm làm Hồng Y hồi năm 2015, chủ chăn của 13.000 tín hữu Công Giáo trong tổng số 100.000 dân cư, phần lớn là Tin lành, sống rải rác tại 53 hải đảo. Ngài cũng là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Thái Bình Dương. Trong thời gian gần đây, ngài bị vấn đề sức khỏe nên phải cư ngụ tại Rôma.
Tổng giáo phận Sydney là giáo phận lớn nhất tại Úc châu với 667.000 tín hữu Công Giáo. Từ năm 2014, tổng giáo phận do Đức Tổng Giám Mục John Fisher, Dòng Đa Minh coi sóc. Ngài cũng là Giáo chủ Công Giáo Úc.
Vatican phát hành tem chính thức cho Đại hội GTTG Lisbon 2023
Ngày 07/7/2023, Vatican phát hành tem chính thức cho Đại hội Giới trẻ Thế giới Lisbon 2023, thay thế tem phát hành vào tháng 5 đã được thu hồi.

Nội dung tem được lấy theo logo của Đại hội, trong đó Thánh giá là chính, được cắt ngang bởi một con đường nơi có nét vẽ minh họa sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Ba màu xanh, đỏ và vàng gợi lên màu cờ của Bồ Đào Nha. Hình ảnh trẻ trung của Đức Mẹ cùng với con đường biểu hiện cuộc thăm viếng nhiệt thành của Đức Maria đến phục vụ người chị họ Elisabeth theo khẩu hiệu của Đại hội. Cuối cùng, tràng hạt Mân Côi có ý nghĩa tôn vinh đời sống thiêng liêng của người dân Bồ Đào Nha trong việc tôn sùng Đức Mẹ Fatima.
Thông cáo báo chí nhắc lại rằng khẩu hiệu được Đức Thánh Cha chọn cho cuộc gặp gỡ này là “Mẹ Maria chỗi dậy và vội vã lên đường” trích từ Tin Mừng Luca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Nazareth, khi nhận được tin báo của thiên thần, đã đến với người chị họ Elizabeth. Động từ “chỗi dậy” được giải thích cũng có nghĩa là “sống lại”, “đánh thức” và muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bắt đầu hành trình phân định, nhưng đồng thời đặt mình vào vị trí phục vụ của người khác.
Thông cáo cũng nhắc lại những lời của Đức Thánh Cha dành cho các bạn trẻ trong sứ điệp video chuẩn bị cuộc gặp gỡ ở Lisbon: “Sự vội vã của thiếu nữ Nazareth là của những người đã lãnh nhận hồng ân đặc biệt của Chúa và không thể không chia sẻ, để hồng ân bao la mà họ đã cảm nghiệm được lan tràn. Đó là sự vội vã của người biết đặt nhu cầu của người khác lên trên nhu cầu của chính mình. Đức Maria là mẫu gương cho người trẻ không lãng phí thời gian để tìm kiếm sự quan tâm đến người khác”.
Và cũng trong sứ điệp, Đức Thánh Cha nói tiếp: “Đức Mẹ là mẫu gương cho những người trẻ đang hoạt động, không đứng im trước tấm gương để chiêm ngắm hình ảnh của chính mình hoặc bị 'mắc kẹt' trong tấm lưới. Mẹ là phụ nữ phục sinh, luôn xuất hành, ra khỏi chính mình để hướng tới Đấng vĩ đại là Thiên Chúa và hướng tới tha nhân, các anh chị em, đặc biệt là những người khốn khó nhất, như người chị họ Ellizabeth”.
Tân bộ trưởng Giáo lý Đức tin và cuốn sách dạy về nụ hôn
Phản ứng đầu tiên và nhiều hơn cả đối với việc bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Fernadez làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin là về cuốn sách ngài viết lúc còn là một linh mục trẻ Sáname con tu boca: El arte de besar (Hãy chữa lành em bằng miệng anh: Nghệ thuật hôn) xuất bản năm 1995. Cuốn sách nhỏ này đã được dịch sang tiếng Anh và phổ biến trên liên mạng, dường như từ năm 2017 (https://medium.com/@artofkissing/heal-me-with-your-mouth-the-art-of-kissing-c5300a81bb93). Vừa nghe tin ngài được Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm, dư luận liền xôn xao về cuốn sách này, khiến ngày 4 tháng 7, nghĩa là chỉ 4 ngày sau tin bổ nhiệm, Đức Tổng Giám Mục Fernandez phải dùng Facebook để giải thích về nó.

Không chỉ giải thích, đăng tải trên Facebook còn nhân dịp này phê phán những người tiêu cực đối với cuốn sách là “các nhóm chống Đức Phanxicô nổi đóa [đối với việc bổ nhiệm tôi] và họ đã tiến tới việc dùng các phương tiện vô đạo đức để gây hại cho tôi”. Trong số những nhóm này, ngài chỉ đích danh người Công Giáo Hoa Kỳ: “tệ hơn nữa, khi những cuộc tấn công này phát xuất từ người Công Giáo ở Hiệp Chúng Quốc, và họ không biết tiếng Tây Ban Nha, nên họ dịch sai một trong các bài thơ của cuốn sách. Họ dịch chữ ‘bruja’ là ‘puta’. Nhưng cuốn sách viết ‘bruja’. Họ không có quyền thay đổi lời lẽ của tôi. Xem ra họ không có đạo đức đối với việc này, và đây không phải là lần đầu tiên họ làm thế đối với tôi”
Phản công trên quả là mạnh mẽ, nhất là ngài nói chung “người Công Giáo ở Hiệp Chúng Quốc”. Nhận ra nhận định này có hơi quá đáng, ngày 5 tháng 7, trong cuộc phỏng vấn qua email của Elise Ann Allen, thuộc tạp chí Cruxnow, ngài nói lại: “Bà phải nói ‘một số’ người Mỹ.... Ở Hoa Kỳ, dân chúng được giáo dục rất tốt, và sự phát triển vượt bậc mà Hoa Kỳ có được chỉ trong vài thập niên nói lên năng lực tuyệt vời của người dân đó. Tôi sẽ không bao giờ chê bai một dân tộc cao quý và có năng lực như vậy. Nhưng cũng có những thiểu số có khuynh hướng cuồng tín, thù hận, và điều này dẫn đến cái nhìn phiến diện chỉ tìm kiếm mặt tối của kẻ thù. Khi điều này được thêm vào sự kiện những nhóm thiểu số này có rất nhiều quyền lực kinh tế, có thể họ sẽ đạt được tác động lớn hơn trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Nhiều khi không phải ác mà là đam mê nên tôi không phán đoán họ, nhưng tôi phải nói rằng một số lượng giá về Đức Thánh Cha và cả về cá nhân tôi là không công bằng và không khách quan lắm”.
Nói rằng người Công Giáo Hoa Kỳ không biết tiếng Tây Ban Nha cũng là một điều nói quá của Đức Tổng Giám Mục Fernandez. Thực ra về chữ “bruja” trong nguyên bản của Đức Tổng Giám Mục, Hãng tin Catholic World News, trong bài “Archbishop Fernández, new DDF prefect, defends Heal Me with Your Mouth; publisher removes book from website” (Đức Tổng Giám Mục Fernandez, Tân Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, bênh vực Chữa lành Em bằng Môi miệng Anh; nhà xuất bản gỡ bỏ cuốn sách khỏi trang mạng), ngày 6 tháng 7, cho hay: “Trong bài thơ năm 1995 đang bàn, Đức Tổng Giám MụcFernandez ngỏ lời với một người đàn bà là bruja, một chữ có nghĩa chính là ‘phù thủy’(Collins Spanish Dictionary, Wiktionary), và là chữ người dịch trực tuyến dịch thành chữ tầm thường ‘bitch’. Trong đăng tải Facebook của ngài, Đức Tổng Giám Mục Fernandez mô tả bản dich tiếng Anh như tương đương với chữ puta, với nghĩa chính là ‘gái điếm’, nhưng chữ này cũng có nghĩa là ‘bitch’ (Collins Spanish Dictionary, Wiktionary). Vả lại, bruja cũng có nghĩa là ‘bitch’ (Collins Spanish Dictionary), điều này cho thấy quyết định của người dịch chuyển ngữ bruja thành bitch đâu có gì sai”.
Trong đăng tải Facebook, Đức Tổng Giám Mục Fernandez còn muốn làm tăng giá trị của cuốn sách mà theo nhiều ký giả thì một là nhà xuất bản đã gỡ bỏ khỏi trang mạng cùng với tin ngài được Đức Phanxicô bổ nhiệm hai là không còn được liệt kê trên danh sách chính thức các tác phẩm của ngài nữa, khi cho rằng: đây là một loại sách giáo lý dành cho giới trẻ. Ngài viết: “Một câu từ thời các giáo phụ nói rằng nhập thể giống như một nụ hôn Thiên Chúa dành cho nhân loại đã linh hứng cho tôi. Lúc đó, tôi rất trẻ, tôi là một cha xứ, và tôi cố gắng nối vòng tay lớn với giới trẻ. Rồi tôi nẩy ra ý nghĩa viết một cuốn giáo lý cho họ dựa trên điều nụ hôn có ý nghĩa. Tôi viết cuốn giáo lý này với sự tham gia của một nhóm người trẻ, họ cung cấp cho tôi nhiều ý tưởng, cụm từ, bài thơ v.v...”
Nhưng trong dẫn nhập của cuốn sách, Đức Tổng Giám Mục Fernandez không nói chi đến bản chất “sách giáo lý” của nó, ngài chỉ nói đến việc tham khảo rộng rãi giới trẻ mà thôi: “tôi muốn minh xác rằng cuốn sách này không được viết ra dựa nhiều lắm vào chính kinh nghiệm của riêng tôi, nhưng dựa vào đời sống của những người hôn nhau. Trong các trang này, tôi muốn tổng hợp cảm giác phổ thông, người ta cảm thấy gì khi họ nghĩ về một nụ hôn, những kẻ tử sinh cảm nghiệm điều gì khi họ hôn nhau. Vì mục đích này, tôi đã chuyện vãn rất nhiều với nhiều người giầu kinh nghiệm trong lãnh vực này, và cả các người trẻ, những người học hôn theo cách của họ. Tôi cũng tham khảo nhiều cuốn sách, và tôi muốn trình bầy các thi sĩ nói sao về nụ hôn. Nên, cố gắng tổng hợp sự phong phú mênh mông của đời sống, các trang sách này đứng về phía ủng hộ việc hôn. Tôi hy vọng rằng chúng giúp các bạn hôn tốt hơn, vận động các bạn giải thoát phần tốt nhất của con người các bạn vào nụ hôn”.
Đặt cuốn sách trong bối cảnh tổng thể của thừa tác vụ của ngài, Đức Tổng Giám Mục Fernandez nói rằng các nhóm cực đoan chỉ trích ngài và ‘nhục mạ” ngài vì cuốn sách này cả hàng mấy chục năm qua, cho rằng ngài ôm ấp thứ thần học thấp kém. Ngài giận dữ bác bỏ ý niệm cho rằng cuốn sách này đại diện cho tiêu chuẩn các sách thần học của ngài. Vì thực ra, đây không phải là sách thần học, mà chỉ là một cố gắng của một linh mục trẻ hăng say muốn nối vòng tay lớn với mọi người bằng cách “sử dụng các ngôn ngữ đa dạng nhất”. Ngài cho hay, trên thực tế, ngài viết rất nhiều bài báo cho các tạp chí và tập san danh tiếng như Angelicum và Nouvelle Revue Théologique.
Ngài viết: “tôi cũng có những cuốn sách trình độ cao’. Vả lại, không thể giản lược nhiệm vụ của một thần học gia vào các bản văn này mà thôi. Ngài tiếp tục nhấn mạnh rằng trong bản tóm lược tiểu sử của ngài do Vatican công bố hôm thứ Bẩy qua, ngài là khoa trưởng một phân khoa thần học và là cha xứ của giáo xứ Santa Teresita. Khía cạnh thực tế của nhà thần học này đã được Đức Phanxicô đánh giá cao. Thực vậy, Đức Tổng Giám Mục giám mục cho rằng, theo Đức Phanxicô “điều quan trọng là nhà thần học phải sẵn sàng lội bùn và và cố gắng sử dụng ngôn ngữ bình dị để nối vòng tay lớn với mọi người”.
Dưới đây, chúng tôi xin trích phần ngài trả lời câu hỏi “Nụ hôn là cái chi chi?”
Nụ hôn là cái chi chi?
Nụ hôn, trong tiếng Tây Ban Nha là “beso”, trong tiếng Ý là “bacio”, trong tiếng Pháp là “baiser”, trong tiếng Đức là “kuss”, trong tiếng Bồ Đào Nha là “beijo”...
Theo một từ điển, nó có nghĩa “chạm vào thứ gì đó bằng môi của một người, làm chúng co lại và giãn ra một cách nhẹ nhàng, để biểu lộ tình yêu, sự kính trọng hoặc tình bạn”. Nhưng, tất nhiên, khi một người cảm thấy mình đang chết đuối nếu không có nụ hôn, định nghĩa trang trọng này quá ngắn. Toàn bộ con người bạn, chứ không chỉ đôi môi, chìm đắm trong nụ hôn. Ngoài ra, đó không phải là điều được thực hiện để “chứng minh” những gì được cảm nhận, nhưng khi tình yêu tương tự hoàn toàn biến thành một nụ hôn, và mọi thứ bị lãng quên, nó bỏ lại tất cả. Nụ hôn là cuộc gặp gỡ của hai người trong một khoảnh khắc mà không có gì khác ngoài họ, và không có gì khác đáng kể nữa:
Trong một hiện tại tinh khiết, trong khoảnh khắc rõ ràng này,
Bây giờ chỉ có sự hiện diện thánh thiêng của em hiện hữu,
mà không lưu giữ giải trình nào của em,
mà không đòi hỏi bất cứ điều gì của em.
Và anh để em là câu hỏi sâu sắc nhất của anh
câu trả lời duy nhất…
Nụ hôn là tình yêu thành thịt xương, nó là điểm trong đó mọi đặc điểm của tình yêu con người: sự dịu dàng, đam mê, hân hoan, ngưỡng mộ, tế nhị, sức mạnh, nghỉ ngơi, khuây khỏa, chuyển giao, thông đạt. Đó là lý do tại sao nụ hôn là biểu thức tuyệt vời nhất của tình yêu. Và nó chứng tỏ một sự kiện không thể phủ nhận: trong khi sự kết hợp tình dục chỉ xảy ra giữa tuổi vị thành niên và người trưởng thành, thì nụ hôn cũng xuất hiện, như một món quà của Thiên Chúa, giữa người trẻ và người già. Không có tuổi tác cho nụ hôn, không có thời gian hay sự hư hỏng nào có thể dập tắt nó, bởi vì nó là sức hút vĩnh viễn của tâm hồn và thể xác.
Và nếu cơ thể được nuôi dưỡng bằng thức ăn, trí hiểu bằng sách vở và lớp học, và ý chí bằng nỗ lực, thì tình yêu được nuôi dưỡng bằng những nụ hôn. Một vị thánh thời Trung cổ từng nói:
"Sự sống của cơ thể con người được duy trì nhờ hai thứ: thức ăn và không khí. Không có thức ăn, con người có thể sinh tồn trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng không có không khí thì không thể sống trong vài phút. Đối với tình yêu, đó là nụ hôn. Trong nụ hôn có hai hơi thở, hai tinh thần hòa quyện vào nhau, và sự hòa quyện này tạo ra trong tâm hồn một sự ngọt ngào làm phấn khích và thắt chặt tình cảm của những người hôn nhau." (St. Aelred, Tình bạn thiêng liêng, 65).
Trên thực tế, khi không có nụ hôn - "Cờ đỏ!" - chúng tôi có dấu hiệu tốt nhất cho thấy tình yêu đang gặp nguy hiểm. Người ta sẽ có thể làm tình, để giải tỏa bản năng và thỏa mãn một nhu cầu, nhưng nếu không có những nụ hôn chân thật—sâu, dịu dàng và thường xuyên—là vì tình yêu không còn nữa hoặc đang chết dần, bị thương.
Một nụ hôn đúng nghĩa chứng tỏ người khác là thánh thiêng đối với mình. Nhưng khi tình dục nằm ngoài tầm kiểm soát, và chúng ta muốn nhiều hơn nữa - nhiều khoái cảm hơn, mãnh liệt hơn - thì người kia sẽ biến thành một miếng bọt biển mà chúng ta muốn vắt kiệt cho đến giọt cuối cùng. Và thế là họ bắt đầu đánh mất phép thuật, sự tôn kính, sự ngưỡng mộ. Và dấu hiệu rõ ràng nhất của cái chết tình yêu là những nụ hôn run rẩy đó biến mất, chúng bắt đầu nhỏ dần từng chút một; bởi vì lúc đầu, do một nỗi sợ hãi thánh thiêng nhất, chúng ta không dám áp đặt chúng, chúng ta không muốn thúc giục chúng. Vì lý do này, thường xảy ra việc ký ức đẹp nhất còn lại của một tình yêu là những nụ hôn đầu tiên. Sự hiện diện của những nụ hôn ấy, những nụ hôn say đắm, nhưng đầy tôn trọng và dịu dàng, là điều tốt nhất cho thấy một cách nghiêm túc một tình yêu có khả năng tôn trọng và đối xử với người khác như một điều thánh thiêng sâu sắc, như một người tự do, mà tôi không phải là sở hữu chủ cũng không phải là ông chủ.
Nếu những nụ hôn chậm rãi, khoan thai, run rẩy đó không có, thì điều này chứng tỏ tình yêu đã không còn là cuộc gặp gỡ của hai con người ngưỡng mộ nhau, chiêm ngưỡng nhau, tôn thờ nhau mà trở thành tổng số hai kẻ ích kỷ lợi dụng lẫn nhau để giải tỏa nhu cầu căn bản của họ và làm dịu thần kinh của họ.
Ánh mắt lấp lánh ấy, niềm vui thanh thản ấy, ánh sáng soi rọi cuộc đời khi sự dịu dàng được đặt lên trên tình dục, chính là để tiếp tục kéo dài sự quyến rũ của tuổi trẻ, âm thầm nuôi dưỡng nghị lực sống.
Nụ hôn giống như một lời thề được niêm phong bằng đôi môi, một lời thú nhận được xác nhận bằng bí mật của sự im lặng, lấy miệng thay thế cho tai. Đó là để trái tim nếm trải tâm hồn bằng đôi môi. Để đưa cả tâm hồn vào miệng với sự mềm mại ngọt ngào của ngọn lửa. Nụ hôn tự nói lên, ngay cả khi nó bịt kín đôi môi. Nó cho phép chúng ta thở gần người khác, chạm vào hơi thở của họ, dấu hiệu tinh tế của tinh thần được trao đổi, từ những tầng sâu mà họ giao tiếp với nhau, từ những vực thẳm tìm thấy tiếng vang của họ. Đó là cách hít vào và thở vào linh hồn người khác, giống như chúng ta đến gần suối nước để uống. Là nói với các bạn rằng chúng tôi khao khát trái tim của các bạn và chúng tôi dùng miệng tìm kiếm thức ăn nuôi sống chúng tôi (Eduardo Casas, chưa xuất bản).
Bùa mê này nếu mất thì có thể tìm lại được, có thể hồi sinh; nhưng để làm được điều này, hữu thể nhân bản kia, thánh thiêng và tự do, phải trở lại quan trọng hơn bất cứ điều gì khác. Và khi điều này xảy ra, nụ hôn được tái sinh, thanh thản và đồng thời rực lửa, khiến chúng ta cảm thấy chúng ta đã quyết định có một sở hữu chủ; như thể điều cực kỳ vinh dự đối với một vị vua hay nữ hoàng là cho phép chúng ta bước lên ngai vàng của họ để chạm vào đôi môi dịu dàng của họ. Tôi thích mô tả của Enrique Fabbri:
"Nụ hôn là một biểu tượng kỳ diệu của tình yêu; một dấu hiệu cho đi và chào đón cùng một lúc. Một nụ hôn chỉ thực sự xảy ra khi nó được chấp nhận. Nụ hôn không thể bị đánh đĩ, không thể lừa dối anh. Đó là một cuộc trao đổi thân mật, một thông báo về những cuộc trao đổi thân mật khác. Đối với nụ hôn, miệng không còn là cơ quan ngấu nghiến mà là biểu hiện của sự tôn trọng dịu dàng và khao khát người khác. Hôn là trao đổi hơi thở, có nghĩa là trao đổi những tầng sâu thẳm của chúng ta; đó là mong muốn nuôi dưỡng người khác. Hơn lời nói, nó là việc trở về với nội tâm chữ yêu được hít thở trong khát khao sống còn". (Revista Criterio, 12-11-1992, tr. 19).
Vậy thì chúng ta nên làm gì? Hãy xem những con đường dẫn đến một nụ hôn.
Đức Tổng Giám Mục Fernandez với nạn lạm dụng và việc bị Bộ Giáo Lý Đức Tin điều tra
Ngoài việc ngài bị chỉ trích về cuốn sách dạy hôn, Đức Tổng Giám Mục Fernandez cũng bị nhóm BishopAccountability.org, một tổ chức ở Hoa Kỳ chuyên theo dõi nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục ở Hoa kỳ, chỉ trích. Thực vậy, trong một bản tuyên bố, đồng giám đốc của tổ chức này, Anne Barrett Doyle, nói rằng Đức Tổng Giám Mục Fernández “công khai bênh vực” và hỗ trợ linh mục của giáo phận La Plata là cha Eduardo Lorenzo bị đương đầu với năm tố cáo về lạm dụng tình dục năm 2019. Doyle nói rằng Đức Tổng Giám Mục Fernandez tiếp tục ủng hộ cha Lorenzo cả sau khi một lệnh bắt giam đã được công bố và vị linh mục này đã tự sát.

Vào hôm thứ Hai, Doyle nói với hãng tin CNA rằng lối xử lý của Fernandez khiến bà rất quan tâm: “Ngài giữ linh mục này ở thừa tác vụ giáo xứ, ngay cả trong lúc có nhiều nạn nhân hơn lên tiếng. Ngài tỏ ra sẵn lòng ác tâm đánh bạc với sự an toàn của trẻ em. Ngài tỏ ra khinh miệt các người được coi là nạn nhân. Nếu đáp ứng của ngài đối với vụ này nói lên thái độ của ngài đối với các lời tố cáo, chắc chắn ngài sẽ gây thiệt hại ghê gớm trong tư cách bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin”.Tuy nhiên, trong một email gửi cho CNA, Tổng giáo phận La Plata bác bỏ các lời chỉ trích trên đây. Email cho rằng “Đức Tổng Giám Mục không bao giờ nói rằng ngài không tin các nạn nhân, như các blogs đưa ý kiến tự do nói. Khi được các nhà báo hỏi, ngài rõ ràng trả lời rằng ‘khi một ai đó trình bầy một lời tố cáo loại này, trên nguyên tắc, họ luôn lập tức được tin theo, nhưng ngoài việc này ra, một cuộc điều tra và một diễn trình đúng thủ tục là điều cần thiết vì luật pháp đã thiết định như thế”.Email viết thêm, “khi các chứng từ mới xuất hiện, Đức Tổng Giám Mục đều đưa ra các biện pháp mới, bắt đầu bằng việc cấm vị linh mục này được làm bất cứ hoạt động nào với các vị thành niên cho trước khi hạn chế ngài tại cơ quan Caritas”.Tuy nhiên, trong một trao đổi ngày 9 tháng 7 với hãng tin A.P. (https://apnews.com/article/vatican-pope-argentina-fernandez-abuse-case), Đức Tổng Giám Mục thừa nhận ngài mắc sai lầm trong vụ việc này. Ngài nói: “hôm nay, chắc chắn tôi sẽ hành động rất khác và lối hành xử cũ của tôi chắc chắn không đầy đủ”.A.P. nhắc lại lời tố cáo của nhóm BishopAccountability.org, cho rằng Đức Tổng Giám Mục Fernandez “không chịu tin các lời tố cáo của các vị thành niên, những em đã tố cáo Eduardo Lorenzo lạm dụng các em. Cũng như với Catholic World News, trong cuộc tiếp xúc với A.P., Đức Tổng Giám Mục bác bỏ lời tố giác này; ngài cho hay: chưa bao giờ ngài nói ngài không tin các lời tố cáo và đã tách vị linh mục này cách xa các nạn nhân.Và, vũng theo A.P., dịp này, Đức Tổng Giám Mục tự phê bình ngài nhiều hơn về các hành động của ngài, điều ngài gán cho việc tới tổng giáo phận La Plata năm 2018 mà “không có bất cứ kinh nghiệm nào”. Ngài nói các thủ tục của Giáo Hội trong việc xử lý các lời tố cáo lạm dụng lúc đó “không rõ ràng lắm”. Ngài nói với A.P., “tôi không thể nói tôi đã phạm một tội ác hay một điều chống lại những gì đã được thiết định lúc đó, nhưng đáng lẽ tôi nên là một người cha tốt hơn thế, một mục tử tốt và hửu hiệu hơn thế. Dĩ nhiên, tôi thừa nhận điều đó”.Ngài nói thêm: “với mọi điều tôi nói, rõ ràng là tôi đã không hành động cách tốt nhất”. Ngài cho biết ngài nên “đối xử với các nạn nhân cách gần gũi hơn’ và hành động “sớm sủa hơn” trong việc loại bỏ Lorenzo khỏi các bổn phận linh mục trong khi ông ta bị điều tra.Anne Barrett Doyle tỏ ý không tin vào lời lẽ của Đức Tổng Giám Mục. Bà nói: “ngài tự tuyên bố lấy làm ngạc nhiên, nhưng ngài là người tinh vi và có học... cho rằng mình không biết là điều không thể tin được”.Bà cho rằng Đức Tổng Giám Mục “liên tiếp” biểu lộ sự hỗ trợ đối với vị linh mục. Bà nói: “Nếu Đức Tổng Giám Mục Fernandez hối tiếc việc ngài xử lý vụ này, tại sao ngài không bao giờ tiếp xúc với các nạn nhân của Lorenzo?”Về khía cạnh trên, Catholic World News cho hay: trong một lá thư công bố hồi tháng Hai năm 2019 trên El Dia có trụ sở tại La Plata, Đức Tổng Giám Mục Fernandez chất vấn động lực của các cha mẹ và những người khác nêu lo ngại đối với cha Lorenzo, người bị tố cáo lạm dụng vào năm 2008, mặc dù lúc đó, công tố viên địa phương đã xác định không đủ chứng cớ để kết tội cha Lorenzo, nhưng các cha mẹ vẫn nêu lo ngại cả một thập niên sau về việc vị linh mục này được cử làm mục tử cho một giáo xứ có trường học.Bức thư trên thực sự gửi cho chính linh mục Lorenzo. Ngài viết: “tôi không biết làm thế nào họ ráng làm cho chủ đề này hiện diện dai dẳng như thế trên các phương tiện truyền thông”. Ngài còn xin lỗi cha Lorenzo, “Tôi xin lỗi nếu tôi mắc sai lầm đã chường cha ra cho đau khổ và nhục nhã công khai vào lúc này”.Về vấn đề này, theo CNA, Đức Tổng Giám Mục Fernandez nói với InfoVaticana “vấn đề này phức tạp vì trong nguyên tắc, người ta phải tin tưởng những người trình bầy các lời tố cáo lạm dụng trẻ em, bạn phải tin tưởng họ, và mặt khác bạn không thể kết án vị linh mục mà không có diễn trình phải có, một diễn trình đòi thời gian.Và trong lúc đó, mọi khiếu nại xuất hiện mà người ta phải đáp ứng bằng cách nói càng ít càng tốt để không can thiệp vào. Lúc ấy, tôi để mình được hướng dẫn bởi các nhà giáo luật học và tôi học hỏi, nhưng với nhiều đau đớn nặng nề vì sợ bất công với bên này hay bên kia.”Nỗi sợ ấy được Ed. Condon của The Pillar thông cảm khi nhấn mạnh rằng “trong những vụ lạm dụng vị thành niên rõ ràng đã được chứng minh, người ta dễ thông cảm với sự mất kiên nhẫn của người Công Giáo địa phương và những người bênh vực các nạn nhân đối với các giáo phận tỏ ra quá chậm chạp trong việc hành động một cách cương quyết do tôn trọng thủ tục phải có của giáo luật. Đồng thời, việc một số giáo phận vội vàng công bố các lời tố cáo các linh mục và loại các ngài khỏi thừa tác vụ, trước bất cứ diễn trình nào đạt tới kết luận, đã góp phần vào việc hủy diệt lòng tin giữa hàng giáo sĩ địa phương và vị Giám Mục của các ngài.Ed.Condon cũng cho hay chính hướng dẫn của Bộ Giáo Lý Đức Tin cũng cảnh cáo các Giám Mục đừng biến các giai đoạn khởi đầu khi mới nhận và điều tra một đơn tố cáo thành một loại phán đoán tiền kết (summary judgment) chống vị linh mục bị tố cáo: “các phát biểu (về đơn tố cáo) nên vắn gọn và súc tích, tránh những tuyên bố ầm ĩ, hạn chế hoàn toàn bất cứ phán đoán quá sớm nào về tôị lỗi hoặc vô tội của người bị tố cáo”Dù thế nào, thì vấn đề xử lý nạn lạm dụng tình dục đã ám ảnh Đức Tổng Giám Mục Fernandez từ lâu, khiến ngài do dự chấp nhận việc đề cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, vì phần lớn công việc của bộ này là lo giải quyết các vụ lạm dụng tình dục. Theo Catholic World News, trong một đăng tải trên Facebook ngay khi được bổ nhiệm, ngài cho hay ngài đã từ khước việc bổ nhiệm này một lần rồi vì “nhiệm vụ của bộ trưởng bao gồm vấn đề lạm dụng trẻ em, và tôi cảm thấy không sẵng sàng cũng như được huấn luyện cho những vấn đề này”.Chính vì thế, trong lá thư gửi cho ngài ngày 1 tháng 7, Đức Phanxicô bảo đảm với ngài rằng “các nhà chuyên nghiệp có khả năng” thuộc phân bộ kỷ luật của Bộ sẽ lo phụ trách các vấn đề này, ngài chỉ phải lo phần vụ liên quan đến tín lý Công Giáo. Phân bộ kỷ luật này, từ tháng Hai năm 2022, đã được Đức Phanxicô, nhân một cuộc cải tổ, tách biệt với phân bộ tín lý, đặt dưới quyền một tổng thư ký riêng biệt song hành với một tổng thư ký khác phụ trách phân bộ tín lý.Về lý thuyết, việc này đã vô hiệu hóa lời phàn nàn cho rằng Đức Tổng Giám Mục không đủ tư cách lãnh đạo Bộ Giáo Lý Đức Tin khi vai trò này đòi người đảm nhận phải thông thạo các vấn đề thuộc giáo luật để giải quyết phần lớn công việc của bộ hiện nay thuộc phạm vi kỷ luật, trong khi, theo lời thú nhận của chính ngài, Đức Tổng Giám Mục Fernandez không thông thạo các vấn đề luật học. Ngài nói với InfoVaticana của Tây Ban Nha mới đây rằng: “Lần đầu tiên [Đức Giáo Hoàng Phanxicô] đề nghị với tôi chức vụ này, tôi đã trả lời không, trước nhất vì tôi coi mình không thích đáng lãnh đạo công việc của lãnh vực kỷ luật này. Tôi vốn không phải là một nhà giáo luật học, và thực tế, khi tôi tới [tổng giáo phận] La Plata, tôi có rất ít ý nghĩ phải đương đầu ra sao với các vấn đề này”.Theo Ed Condon của The Pillar, thông thường vị bộ trưởng không bị đòi phải là người cuối cùng quyết định vụ việc của phân bộ này. Khi bộ phải đưa ra quyết định sau cùng thì thường vụ việc sẽ được bỏ phiếu giữa các vị Hồng Y thành viên của bộ hay qua sự can thiệp của Tòa án tông tòa đặc biệt. Thành thử như một qui định, các vị bộ trưởng của bộ này chỉ là các nhà thần học, không phải giáo luật học. Các tiền nhiệm của Đức Tổng Giám Mục Fernandez như Ladaria, Müller, Levada, Ratzinger, và Šeper đều không phải là các giáo luật gia. Vị duy nhất là giáo luật gia đã qua đời từ năm 1968, Đức Hồng Y Ottaviani.Chỉ phiền là dù sao ngài vẫn phải chịu trách nhiệm về công việc của phân bộ kỷ luật vì nó vẫn là một bộ phận thuộc bộ ngài đảm nhận. Người ta khó hình dung vai trò của tân bộ trưởng trong việc giám sát, phối hợp công việc nói chung của cả bộ. Trong cuộc phỏng vấn của Alise Ann Allen của Crux, ngài đơn giản cho hay: sẽ hết lòng yểm trợ phân bộ kỷ luật nhưng không đụng đến khía cạnh chuyên môn của họ. Nói thì dễ làm không hẳn dễ. Hiệu năng của bộ chắc chắn chịu ảnh hưởng.Có hồ sơ tại Bộ Giáo Lý Đức TinNhiều người khác lưu ý đến việc Đức Tổng Giám Mục Fernandez từng bị điều tra bởi Bộ Giáo Lý Đức Tin, bộ mà ngài sẽ đảm nhận chính thức từ tháng Chín này. Thực vậy, theo Edward Pentin của National Catholic Register, Đức Hồng Y Gerhard Müller xác nhận rằng tại Bộ Giáo Lý Đức Tin có một hồ sơ cho thấy các lo ngại về thần học đối với Đức Tổng Giám Mục Victor Manuel Fernández.Đức Hồng Y Müller, vốn là bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin từ năm 2012 đến năm 2017, ngày 4 tháng 7, 2023, nói với tờ National Catholic Register rằng hồ sơ này được thành lập vào thập niên 2000 bởi Đức Tổng Giám Mục Jean-Louis Bruguès, Thư ký của Bộ Giáo dục lúc ấy, sau khi Đức Hồng Y Bergoglio đề cử Fernandez, lúc ấy còn là một linh mục, làm viện trưởng Đại Học Công Giáo Á Căn Đình năm 2009.Mục đích của hồ sơ là cung cấp thông tin cho Bộ Giáo Lý Đức Tin để bộ này có thể cấp hoặc bác bỏ Nihil Obstat (không trở ngại) cho việc đề cử này, một đòi hỏi đối với bất cứ viện trưởng Đại Học Công Giáo nào.Theo Đức Hồng Y Müller, Bộ Giáo Lý Đức Tin luôn can dự vào việc có tiếng nói sau cùng. Bộ Giáo dục, do đó, buộc phải xin Nihil Obstat của Bộ Giáo Lý Đức Tin để ban tiếng “yes” chính thức, ngõ hầu Giáo Hội tuyệt đối biết chắc không có vấn đề nào trong việc đề cử này.Vì nội dung của hồ sơ, Bộ Giáo Lý Đức Tin, lúc đó dưới quyền Đức Hồng Y William Levada, đã triển hạn việc ban hành Nihil Obstat cho tới khi nội dung được giải quyết. Thành thử Cha Fernandez không thể tuyên thệ nhậm chức cho tới tháng 5 năm 2011, 2 năm rưỡi sau khi được bổ nhiệm không chính thức, do mối quan tâm kéo dài nêu lên trong hồ sơ liên quan đến một số quan điểm thần học của ngài.Trong nhận định của ngài ngày 5 tháng 7 với National Catholic Register , Đức Tổng Giám Mục Fernandez không coi nội dung của hồ sơ là quan trọng, cho biết Vatican quan tâm tới một số tố giác căn cứ vào một số bài viết của ngài và sau việc trao đổi một số thư từ với các viên chức Vatican, trong đó, ngài “minh xác suy nghĩ đích thực của ngài, mọi việc đã được giải quyết thanh thỏa."Phần Đức Hồng Y Müller thì cho rằng có thể Cha Fernandez đã gửi cho Bộ Giáo Lý Đức Tin “cam kết sẽ làm tốt hơn”, một việc “luôn là chiến thuật dành cho những sự việc này, để diệt mọi nghi ngờ”.Theo National Catholic Register , dường như Đức Tổng Giám Mục Fernandez đã theo chiến lược trên. Ngài nói với National Catholic Register rằng sau việc ngài được đề cử làm viện trưởng năm 2009, một số bài viết của ngài đã tới Rôma và từ đó trở đi, trao đổi thư từ bắt đầu diễn ra, trong đó ngài minh xác ‘sư suy nghĩ chân thực của tôi và mọi sự đã được giải quyết thanh thỏa”.Ngài nói: “Phải mất hơn một năm với tốc độ làm việc của Rôma, nhưng tôi muốn nói rõ rằng những lời buộc tội không có trọng lượng lớn. Chẳng hạn, họ đặt câu hỏi về nửa trang tôi đã viết trên một tờ báo nhỏ ở thành phố của tôi, trong nội địa Á Căn Đình. Trong đó, tôi giải thích rằng các linh mục chúng tôi không thể chúc phúc cho các cuộc kết hợp đồng tính vì chúng tôi có một quan niệm nhất định về hôn nhân. Tuy nhiên, chúng tôi đã không phán xét hay lên án người ta.”Đức Tổng Giám Mục Fernández nói tiếp, “Những người buộc tội tôi nói rằng tôi đã không giải thích đầy đủ sự hiểu biết của Giáo hội về hôn nhân. Tin hay không tùy bạn, nhưng việc này đã mất vài tháng thời gian của tôi.”Ngài nói thêm rằng việc ngài công bố một bài báo đính chính về vấn đề này được coi là “không cần thiết hoặc phù hợp” vì ngài giải thích rằng ngài “không phải là chuyên gia về chủ đề này”. Ngài nói, nói chung, “các nhà thần học cố gắng viết các bài báo về các chủ đề mà chúng tôi có thể chuyên môn hóa”.Trong một cuộc phỏng vấn ngày 3 tháng 7 với Perfil, một đài phát thanh của Á Căn Đình, Đức Tổng Giám Mục Fernández đã suy tư về trải nghiệm này, nhắc lại rằng Bộ Giáo lý Đức tin từng là Văn phòng thánh của Toà án dị giáo và nói rằng họ “thậm chí còn điều tra cả tôi”. Ngài nói rằng quá trình này "thực sự rất khó chịu" và ngài đã "mất hàng tháng trời cho những điều vô nghĩa" để tự biện minh cho mình.Đức Tổng Giám Mục Fernández tiếp tục cân nhắc về chủ đề gây tranh cãi về việc chúc lành cho các cặp đồng tính luyến ái. Ngài nói với trang web Công Giáo Tây Ban Nha Infovaticana vào ngày 5 tháng 7 rằng không gì có thể so sánh với “hôn nhân” theo “nghĩa chặt chẽ” giữa một người nam và một người nữ, và “điều quan trọng nhất cần được thực hiện là tránh các nghi thức hoặc phép lành có thể gây ra sự nhầm lẫn đó.” Nhưng ngài nói thêm: “Bây giờ, nếu một phước lành được ban theo cách mà nó không gây ra sự nhầm lẫn đó, nó sẽ phải được khảo sát và xác minh. Như bạn sẽ thấy, có một điểm trong đó chúng ta rời khỏi cuộc thảo luận thần học thuần túy và chuyển sang một vấn đề có tính khôn ngoan thận trọng và kỷ luật hơn.”Rrong cuộc phỏng vấn trên, ngài cũng nói rằng mặc dù tín lý của Giáo hội không thể thay đổi, nhưng “sự hiểu biết của chúng ta” về tín lý có thể thay đổi, “và trên thực tế, nó đã thay đổi và sẽ tiếp tục thay đổi.”Đức Tổng Giám Mục Fernández cho biết những lo ngại của Vatican đã bị loại bỏ không phải do bất cứ áp lực nào từ Đức Hồng Y Bergoglio. “ngài tự tin rằng, nếu tôi trả lời những câu hỏi được gửi đến cho tôi thì sớm muộn gì mọi chuyện cũng sẽ được giải quyết”.Tuy nhiên, có vẻ như đã có những hậu quả đối với Đức Tổng Giám Mục Bruguès. Điều đáng chú ý là Đức Giáo Hoàng Phanxicô chưa bao giờ phong vị giáo phẩm người Pháp này làm Hồng Y, mặc dù ngài phục vụ với tư cách là văn khố viên và quản thủ thư viện của Thánh Giáo Hội Rôma từ năm 2012 đến 2018, một vị trí danh giá vốn được lãnh đạo bởi một Hồng Y kể từ thế kỷ 18.Hai tháng sau khi được bầu làm giáo hoàng, Đức Phanxicô đã nâng Cha Fernández lên làm tổng giám mục, nhưng không thông báo cho Bộ Giáo lý Đức tin, lúc đó do Hồng Y Müller đứng đầu. Mặc dù các giáo hoàng không có nghĩa vụ phải yêu cầu Bộ Giáo lý Đức tin cung cấp một nihil obstat trước khi bổ nhiệm một giám mục, nhưng Đức Hồng Y Müller cho biết họ thường làm như vậy để chắc chắn rằng ứng viên vững chãi về tín lý.Trong lá thư gửi Đức Tổng Giám Mục Fernández nhân dịp được bổ nhiệm, Đức Thánh Cha Phanxicô dường như gợi ý rằng Bộ Giáo lý Đức tin dưới thời Đức Tổng Giám Mục Fernàndez sẽ không còn xem xét kỹ lưỡng tính chính thống của các nhà thần học ở mức độ mà chính Đức Tổng Giám Mục Fernández đã phải chịu.Đức Phanxicô viết “Bộ mà Đức Cha sẽ chủ trì trong những thời điểm khác đã sử dụng các phương pháp vô đạo đức. Đó là những thời điểm mà thay vì thúc đẩy kiến thức thần học, người ta lại theo đuổi những sai lầm có thể có về giáo lý. Những gì tôi mong đợi từ Đức Cha chắc chắn là một điều gì đó rất khác”.Trong một tuyên bố vào ngày 1 tháng 7 về việc bổ nhiệm của mình, Đức Tổng Giám Mục Fernández cho biết bộ trong quá khứ “là nỗi kinh hoàng của nhiều người, bởi vì nó chuyên tố cáo những sai lầm, bách hại những kẻ dị giáo, kiểm soát mọi thứ, thậm chí tra tấn và giết chóc.Ngài nói tiếp, “Không phải mọi thứ đều như vậy, nhưng đây là một phần của sự thật. Đức Phanxicô đã viết cho tôi rằng cách tốt nhất để quan tâm đến giáo lý đức tin là tăng cường sự hiểu biết của chúng ta về nó, bởi vì 'sự phát triển hài hòa này sẽ bảo tồn giáo lý Kitô giáo hiệu quả hơn bất kỳ cơ chế kiểm soát nào', đặc biệt nếu chúng ta biết cách trình bày một Thiên Chúa là Đấng yêu thương, giải thoát, nâng đỡ, ban sức mạnh cho con người.”
Chung quanh việc bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Víctor Manuel Fernández làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin
Cho đến nay, có thể nói chưa có vị Giáo Hoàng nào gây tranh luận vì bất cứ cuộc bổ nhiệm nhân sự cao cấp nào của Tòa Thánh bằng Đức Giáo Hoàng đương nhiệm và không cuộc bổ nhiệm cấp cao nào của ngài gây tranh cãi bằng việc bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Víctor Manuel Fernández làm Bộ trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin. Thực vậy, vào Google, chỉ cần đánh tên Víctor Manuel Fernández, bạn đọc cũng đọc được cả hàng chục bài báo nói tới ngài, ngay trong mấy ngày sau ngày 1 tháng 7 năm 2023, ngày Tòa Thánh công bố việc bổ nhiệm ngài.

Trước khi bàn tới những điều gây tranh cãi về Đức Tổng Giám Mục Víctor Manuel Fernández, chúng tôi mời bạn đọc đọc bài phỏng vấn ngài qua e-mail của Elise Ann Allen trên tạp chí CruxNow ngày 8 tháng 7 năm 2023, trong đó ngài nhấn mạnh: Tôi ở đây để thi hành Huấn quyền ‘gần đây’.
Tân cố vấn thần học hàng đầu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cố gắng trấn an những tiếng nói ở Hoa Kỳ và những nơi khác, những người đã đặt câu hỏi về việc tuân thủ giáo huấn và truyền thống Công Giáo của ngài, thề rằng ngài không phải là “gián điệp Soros xâm nhập vào Giáo hội”.
“Tôi không phải là Hội Tam điểm, cũng không phải là đồng minh của Trật tự Thế giới Mới, cũng không phải là gián điệp của Soros xâm nhập vào Giáo Hội. Đó là những tưởng tượng thuần túy,” Đức Tổng Giám Mục Víctor Manuel Fernández nói thế; ngài là một nhà thần học người Á Căn Đình được Đức Thánh Cha bổ nhiệm ngày 1 tháng 7 trong tư cách tân Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, theo truyền thống là cơ quan giám sát tín lý của Vatican.
Đức Tổng Giám Mục Fernández nói, “tôi thường thú nhận tôi cố gắng trở thành một người trung thực, tôi yêu mến Giáo hội và tín lý của Giáo hội, hầu hết các bài viết của tôi là về linh đạo và cầu nguyện. Tôi không thể hình dung cuộc sống của mình nếu không có Thiên Chúa”.
Đức Tổng Giám Mục Fernández, người sẽ bước sang tuổi 61 vào ngày 18 tháng 7, nói: “Vì vậy, [họ có thể] tin tưởng, và tốt hơn là [họ] nên tìm kiếm kẻ thù của đức tin ở nơi khác”.
Các nhận xét được đưa ra trong một cuộc phỏng vấn với Crux vào ngày 5 tháng 7, được thực hiện qua email và bằng tiếng Tây Ban Nha. Nó đánh dấu cuộc trò chuyện đầu tiên của Fernández với một hãng tin tức tiếng Anh kể từ khi ngài được bổ nhiệm vào vai trò mới mà ngài sẽ chính thức đảm nhận vào giữa tháng 9.
Là một đồng minh quan trọng của Đức Giáo Hoàng và là người viết ẩn danh một số tài liệu quan trọng của Đức Giáo Hoàng, kể từ khi được bổ nhiệm, Đức Tổng Giám Mục Fernández đã sử dụng mạng xã hội để trả lời những người chỉ trích ở Hoa Kỳ, những người mà theo ngài là đã dịch sai một số cụm từ nào đó trong các bài viết của ngài, nhưng ngài nói với Crux rằng ngài không có định kiến nói chung về người Mỹ.
Ngài nói, “Ở Hoa Kỳ, dân chúng được giáo dục rất tốt, và sự phát triển vượt bậc mà Hoa Kỳ có được chỉ trong vài thập niên nói lên năng lực tuyệt vời của người dân đó. Tôi sẽ không bao giờ có ý chê bai một dân tộc cao quý và có năng lực như vậy”.
“Nhưng cũng có những nhóm thiểu số có thể có khuynh hướng cuồng tín, thù hận, và điều này dẫn đến cái nhìn phiến diện chỉ tìm kiếm mặt tối của kẻ thù,” Đức Tổng Giám Mục Fernández nói thế, đồng thời khẳng định rằng “một số đánh giá về Đức Giáo Hoàng và thậm chí về con người tôi là không công bằng và không khách quan lắm.”
Đức Tổng Giám Mục Fernández đã nói về việc đào tạo thần học của chính ngài và nói rằng về vai trò mới của ngài, theo các hướng dẫn của Đức Phanxicô, ngài sẽ tập chú vào việc thúc đẩy “đối thoại và đào sâu suy nghĩ” hơn là các hành động kỷ luật đối với các nhà thần học ương ngạnh.
Ngài cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của một trách nhiệm khác do Đức Phanxicô giao cho ngài, đó là bảo đảm rằng tất cả các cơ quan của Vatican đều tuân theo “huấn quyền gần đây”.
Đức Tổng Giám Mục Fernández nói: “Có thể xảy ra việc các câu trả lời được đưa ra cho một số vấn đề thần học mà không chấp nhận những gì Đức Phanxicô đã nói là mới về những vấn đề đó. “Không những chỉ chèn một cụm từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, mà còn cho phép suy nghĩ được biến đổi theo tiêu chuẩn của ngài. Điều này đặc biệt đúng đối với thần học luân lý và mục vụ.”
Toàn bộ cuộc phỏng vấn với Đức Tổng Giám Mục Fernández xuất hiện dưới đây, trong bản dịch của Crux từ tiếng Tây Ban Nha:
Crux: Đến bây giờ, ai cũng biết rằng Đức Tổng Giám Mục và Đức Giáo Hoàng Phanxicô chia sẻ một mối quan hệ thân thiết. Đức Tổng Giám Mục gặp ngài lần đầu khi nào, và tình bạn của các vị đã phát triển như thế nào?
Đức Tổng Giám Mục Fernández: Bạn biết đấy, tôi chưa bao giờ phô trương mối quan hệ này, nhưng sự thật là kể từ năm 2007, đó là một mối quan hệ rất đáng tin cậy. Trước đó, tôi không biết rõ về ngài. Khi tôi là phó khoa trưởng Khoa Thần học Buenos Aires và ngài là tổng giám mục, đôi khi chúng tôi gặp nhau và nói về một người bạn chung. Sau đó, ngài chúc mừng tôi về một bài báo của tôi và đề xuất rằng Hội đồng Giám mục Á Căn Đình mời tôi tham dự Hội nghị Châu Mỹ Latinh ở Aparecida. Ở đó, ngài phụ trách nhóm soạn thảo và đã có lúc nhờ tôi giúp đỡ vì không đủ thời gian để viết tài liệu cuối cùng. Ngài lo lắng đến mức có thể ở lại đến 3 hoặc 4 giờ sáng, và tôi là người cuối cùng rời đi cùng với ngài. Ở đó, một mối quan hệ thân thiết đã được sinh ra. Tôi không nói về tình bạn, bởi vì tôi rất tôn trọng ngài.
Đức Tổng Giám Mục sẽ nói gì về việc đào tạo thần học của Đức Tổng Giám Mục? Những bài viết và nhà thần học nào đã có ảnh hưởng lớn nhất đến tư tưởng và cách tiếp cận thần học của Đức Tổng Giám Mục?
Trong thời gian học đại học ở Rôma, tôi chuyên về Kinh Thánh. Điều này cũng hướng tôi đến với nghiên cứu ngành chú giải, và tôi trở nên đặc biệt thân thiết với triết gia [Hans-Georg] Gadamer, người đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi. Sau đó, tôi lấy bằng tiến sĩ thần học về tư tưởng của Thánh Bonaventura, đặc biệt về mối tương quan giữa nhận thức và đời sống, một vấn đề cũng để lại dấu ấn sâu sắc trong cách hiểu thần học của tôi và sự phục vụ của các nhà thần học, hướng đến việc nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng. Đối với các nhà tư tưởng hiện đại, tôi đặc biệt tập trung vào những người vĩ đại: Rahner và Von Balthasar. Tôi đã nhận được rất nhiều từ cả hai vị.
Tại Khoa Thần học, tôi đã dạy các lớp về Thần học (Pneumatology [Thần khí học], chuyên luận về Ân sủng, Nhân chủng học) và cả Kinh thánh (Nhất lãm, khoa chú giải và giảng thuyết, v.v.). Bên cạnh nhiều trước tác phổ thông, chắc chắn tôi đã viết nhiều bài viết phức tạp và mang tính suy lý nhiều hơn: nhiều bài báo về chú giải Kinh thánh, sách giáo khoa về Ân sủng, sách giáo khoa về Thần học linh đạo, các bài báo về Trung trạng (giữa lúc chết và lúc sống lại) và Ngôi vị Chúa Cha (trong tạp chí Angelicum), các bài báo về tư tưởng của thánh Phaolô, về quan hệ với Do Thái giáo và về hội nhập văn hóa (trong Nouvelle Revue Théologique), chỉ đơn cử một số thí dụ.
Với kinh nghiệm và sự đào tạo thần học của Đức Tổng Giám Mục, đâu là tầm nhìn của Đức Tổng Giám Mục đối với vai trò mới của Đức Tổng Giám Mục và đối với chính thánh bộ?
Tầm nhìn của tôi được minh họa đặc biệt nhờ bức thư của Đức Giáo Hoàng. Một tuần trước, tôi ở Rôma với ngài và chúng tôi đã nói chuyện đôi lần về những ấn định này. Sau đó, chính ngài đã cho tôi hay ngài đang nghĩ đến việc viết nó ra. Nhiều nhà thần học, Công Giáo Tin lành và Do Thái giáo đã gửi cho tôi những thông điệp nêu bật giá trị của bức thư này và coi đó là một “bước ngoặt”.
Tôi thấy rõ rằng Đức Phanxicô muốn chức năng của bộ trưởng hoàn toàn hướng tới một suy tư thần học trong đối thoại giúp trưởng thành tư tưởng của Giáo hội. Tôi hiểu rằng điều này có nghĩa là đặc biệt coi trọng hai ủy ban báo cáo trực tiếp cho tôi: các ủy ban thần học và Kinh thánh (vì lý do này, chuyên môn kép của tôi trong tư cách nhà thần học và nhà nghiên cứu Kinh thánh là rất quan trọng).
Nhưng điều này cũng sẽ có tác động đến các câu trả lời mà Bộ đưa ra cho các câu hỏi thần học (và thậm chí cả những lời buộc tội) tới với Bộ. Nghĩa là, cần phải tận dụng lợi thế để những can thiệp này không chỉ đáp ứng với một “dạng thức” [format] nhất định đã được củng cố mà còn mở ra khả năng đào sâu hơn. Mặt khác, tôi rất coi trọng điều cuối cùng mà bức thư nói: rằng tôi phải bảo đảm để cả tài liệu của thánh bộ và của những thánh bộ khác “chấp nhận Huấn quyền gần đây”.
Đây là điều chủ yếu cho sự mạch lạc nội tại của tư tưởng trong Giáo triều Rôma. Bởi vì có thể xảy ra việc câu trả lời được đưa ra cho một số vấn đề thần học mà không chấp nhận những gì Đức Phanxicô đã nói là mới về những vấn đề này. Và nó không những chỉ chèn một cụm từ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà còn để cho suy nghĩ được biến đổi theo tiêu chuẩn của ngài. Điều này đặc biệt đúng đối với thần học luân lý và mục vụ.
Trong lá thư gửi cho các Đức Tổng Giám Mục, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói rằng ngài không muốn Đức Tổng Giám Mục bách hại những sai lầm về giáo lý, cũng như vai trò lịch sử của thánh bộ, nhưng Đức Tổng Giám Mục nên khuyến khích đối thoại thần học. Điều này đặt ra hai câu hỏi cho con. Đầu tiên, Đức Tổng Giám Mục nghĩ thế nào về việc nhiệm vụ của thánh bộ của Đức Tổng Giám Mục đã thay đổi kể từ khi được thành lập vào năm 1542? Tức là đã có lúc cần phải phân biệt rạch ròi giữa tà thuyết và dị giáo? Tại sao bây giờ lại cần một cách tiếp cận khác?
Coi này, trên thực tế, tôi muốn minh xác điều này: không nên giải thích là tôi phải làm điều gì đó mà Đức Hồng Y [Luis] Ladaria đã làm một cách tồi tệ. Không phải như vậy, vì thực ra chúng ta biết Đức Hồng Y Ladaria không lên án ai cả, ngài là người rất hiểu biết và đối thoại. Theo nghĩa đó, những năm làm bộ trưởng của ngài đã tạo ra một sự thay đổi. Nhưng chính ngài đã nói với tôi trong chuyến viếng thăm ad limina của các giám mục Á Căn Đình rằng các vấn đề kỷ luật chiếm hầu hết thời gian, và hầu như không còn thời gian cho thần học. Điểm này rất quan trọng, bởi vậy giờ đây Đức Thánh Cha yêu cầu tôi cống hiến hết mình cho thần học và thúc đẩy việc đào sâu tư tưởng.
Thứ hai, đối thoại thần học có ý nghĩa gì đối với Đức Tổng Giám Mục? Làm thế nào để Đức Tổng Giám Mục hình dung nhiệm vụ này? Nó ám chỉ điều gì?
Nếu bà nhìn vào những người tạo thành Ủy ban Thần học Quốc tế, bà sẽ thấy rằng họ là những người thuộc các đường hướng khác nhau, nhưng họ có nhiệm vụ soạn thảo một tài liệu chung. Kinh nghiệm của Aparecida, và mục tiêu của Bergoglio vào thời điểm đó, bao gồm việc đạt được một tài liệu cuối cùng phản ảnh sự phong phú và đa dạng của cuộc thảo luận trong những tuần đó. Một mặt, đối thoại thần học bao hàm việc tìm kiếm một sự đồng thuận nào đó, nhưng không phải mọi sự đều bị giản lược vào sự đồng thuận.
Một bản văn cũng có thể thu thập và cho thấy rằng ngoài những sự đồng thuận này, còn có nhiều ý kiến khác nhau có thể làm phong phú thêm chủ đề đó, cần phải tiếp tục đào sâu. Không phải tất cả mọi thứ nên được "đóng cửa". Chẳng hạn, chúng ta hãy nhớ lại cuộc tranh luận nổi tiếng về de auxiliis [về ơn Thiên Chúa hộ trợ], trong đó hai trường phái thần học [Dòng Đa Minh và Dòng Tên] tranh cãi và lên án nhau. Vị Giáo hoàng lúc bấy giờ [Đức Clêmentê VIII] không muốn khép lại vấn đề và nói rằng đây vẫn là vấn đề tự do thảo luận cần được tìm hiểu thêm.
Mặt khác, ngày nay chắc chắn cần phải kết hợp các yếu tố phát xuất từ cuộc đối thoại đại kết và liên tôn, nhưng phải chấp nhận rằng điều này không có nghĩa là tất cả chúng ta sử dụng cùng các phạm trù thần học hoặc cùng một ngôn ngữ. Cần phải chấp nhận một lần và mãi mãi rằng có những ngôn ngữ thần học khác nhau. Thánh Augustinô và Thánh Tôma đã nói rằng thần học cũng được làm với các phép ẩn dụ. Chẳng hạn, trong đối thoại liên tôn, không gian phong phú và huynh đệ nhất diễn ra giữa các đan sĩ, những người phát biểu từ kinh nghiệm tâm linh nơi tìm thấy những điểm tiếp xúc quý giá.
Một số người rõ ràng không thoải mái với sự thay đổi trong cách tiếp cận này và sợ rằng “đối thoại thần học” sẽ dẫn đến sự thay đổi trong các giáo huấn và tín lý quan trọng nhất của Giáo Hội, chẳng hạn như giáo huấn về hôn nhân và đồng tính luyến ái. Đức Tổng Giám Mục có coi những giáo huấn này sẵn sàng để được thay đổi không? Đối thoại về những vấn đề như vậy có ý nghĩa gì đối với Đức Tổng Giám Mục?
Tất cả các giáo huấn của Giáo hội đều có một sự phong phú to lớn. Đối với tôi, có vẻ hơi viển vông khi tin rằng mọi thứ đều rõ ràng về những vấn đề này. Nơi chúng, mầu nhiệm gây phấn khích về các cuộc đời nhân bản đang diễn ra, nơi không phải mọi thứ đều là toán học. Há Thánh Tôma chẳng đã nói rằng “càng đi sâu vào chi tiết, ý muốn của Thiên Chúa càng trở nên rối rắm” đó sao?” Và ngài không phải là người theo thuyết tương đối. Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi về rất nhiều điều, và hãy nói thật rõ ràng: tín lý của Tin Mừng không thay đổi, nhưng sự hiểu biết của chúng ta về tín lý này thay đổi, và thay đổi rất nhiều.
Tương tự như vậy, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, giống như nhiều người trước ngài, thường sử dụng cụm từ “sự phát triển của tín lý”. Điều này khiến một số người lo lắng, bởi vì đối với họ, phát triển có nghĩa là thay đổi. Đức Tổng Giám Mục hiểu tín lý ra sao? Và do đó, Đức Tổng Giám Mục sẽ mô tả ra sao tiến trình khi học thuyết “phát triển”?
Như tôi đã nói với bà, ý nghĩa là “phát triển trong sự hiểu biết của chúng ta về tín lý”. Nhưng thông thường, điều này dẫn đến sự thay đổi trong cách diễn đạt tín lý, vì sự hiểu biết nhiều hơn đòi ngôn ngữ được điều chỉnh hoặc làm phong phú hơn để diễn đạt điều đã được hiểu rõ hơn. Đó là, "sự phát biểu tín lý" cũng được phát triển.
Mặt khác, nếu chúng ta cho rằng mối quan tâm thường xuyên của Đức Giáo Hoàng là đạt được mục tiêu truyền giảng Tin Mừng và sự nhạy cảm mục vụ, thì chúng ta có thể nói rằng hình thức, cách diễn đạt, trở thành một phần của nội dung, bởi vì nó có thể gây khó hiểu. Thí dụ, nói rằng Thiên Chúa là bất biến là đúng và không thể chối cãi, nhưng phải bổ sung cho cách diễn đạt đó với những người khác, vì ngày nay khi nhiều người nghe điều đó, họ hiểu rằng Thiên Chúa thật nhàm chán hoặc không có năng động tính.
Điều tương tự cũng xảy ra khi chúng ta nói rằng trong Chúa Kitô, chỉ có một ngôi vị thần linh, Chúa Con, không phải là một ngôi vị nhân bản. Đó là tín điều, nhưng người ta phải làm phong phú cách diễn đạt đó với những người khác để tránh nó bị hiểu sai hoặc người ta hiểu rằng Chúa Kitô không phải là người thật. Điều này có thể giúp hiểu tại sao Đức Giáo Hoàng muốn có một vị tổng trưởng là một nhà thần học nhưng đồng thời cũng là một linh mục quản xứ, giáo lý viên và giáo viên. Liên quan đến điều này là một vấn đề mà Đức Phanxicô đã nhấn mạnh rất nhiều: phẩm trật các chân lý, không chỉ hàm ý một thứ bậc quan trọng nhất định, mà còn bao hàm một số chân lý được hiểu dưới ánh sáng của các chân lý khác.
Trong một số bài đăng trên mạng xã hội của Đức Tổng Giám Mục, ngài đã nói rằng có một số người Công Giáo ở Hoa Kỳ đã chỉ trích ngài và một số bài viết của ngài, bao gồm cả tập sách trước đây của ngài về nụ hôn, để chỉ trích Đức Giáo Hoàng. Ngài có nghĩ rằng điều này là do sự hiểu lầm ngài và Đức Giáo Hoàng Phanxicô không? Ngài nghĩ người Công Giáo ở Hoa Kỳ có những hiểu lầm nào về vị giáo hoàng này và làm thế nào để làm sáng tỏ những hiểu lầm đó?
Bà phải nói “một số” người Mỹ, chẳng hạn như trường hợp của một số người Tây Ban Nha, Pháp hoặc Ba Lan. Ở Hoa Kỳ, dân chúng được giáo dục rất tốt, và sự phát triển vượt bậc mà Hoa Kỳ có được chỉ trong vài thập niên nói lên năng lực tuyệt vời của người dân đó. Tôi sẽ không bao giờ chê bai một dân tộc cao quý và có năng lực như vậy.
Nhưng cũng có những thiểu số có khuynh hướng cuồng tín, thù hận, và điều này dẫn đến cái nhìn phiến diện chỉ tìm kiếm mặt tối của kẻ thù. Khi điều này được thêm vào sự kiện những nhóm thiểu số này có rất nhiều quyền lực kinh tế, có thể họ sẽ đạt được tác động lớn hơn trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Nhiều khi không phải ác mà là đam mê nên tôi không phán đoán họ, nhưng tôi phải nói rằng một số lượng giá về Đức Thánh Cha và cả về cá nhân tôi là không công bằng và không khách quan lắm.
Không có gì bí mật khi những lời chỉ trích có thể sẽ tiếp tục, vì không phải ai cũng chia sẻ tầm nhìn của ngài. Ngài muốn nói gì với những người còn hoài nghi về cách thức mà ngài sẽ thi hành nhiệm vụ mà ngài sắp đảm nhận?
Tôi muốn nói rằng tôi không phải là Hội Tam điểm, cũng không phải là đồng minh của Trật tự Thế giới Mới, cũng không phải là gián điệp của Soros xâm nhập vào Giáo Hội. Đó là những tưởng tượng thuần túy. Tôi thường thú nhận: tôi cố gắng trở thành một người trung thực, tôi yêu mến Giáo hội và tín lý của Giáo hội, hầu hết các bài viết của tôi là về linh đạo và cầu nguyện. Tôi không thể tưởng tượng cuộc sống của tôi mà không có Thiên Chúa. Vì vậy, [họ có thể] tin tưởng, và tốt hơn là [họ] nên tìm kiếm kẻ thù của đức tin ở nơi khác.
Cuối cùng, người ta đã nói rõ rằng ngài sẽ tập trung chủ yếu vào các vấn đề thần học và giáo lý và sẽ để lại những nỗ lực chống khủng hoảng lạm dụng cho các chuyên gia trong bộ mới của ngài. Tuy nhiên, bảo vệ trẻ em vẫn là một phần lớn về những gì bộ của ngài làm và đó là một chủ đề quan trọng đối với Giáo Hội Công Giáo. Ngài sẽ hỗ trợ những nỗ lực bảo vệ trẻ em như thế nào và cuộc khủng hoảng lạm dụng nằm ở đâu trong các ưu tiên của ngài khi ngài bước vào vai trò mới của mình?
Tôi sẽ khuyến khích công việc của bộ phận kỷ luật, tránh can thiệp vào những vấn đề không thuộc chuyên môn của tôi. Chúng ta phải để các chuyên gia làm việc. Trong những năm gần đây họ đã thể hiện sự nghiêm túc và tính chuyên nghiệp cao.
Vì lý do này, quyết định của Đức Thánh Cha để tôi tập trung vào các vấn đề tín lý không hề giảm thiểu tầm quan trọng của cuộc chiến chống lạm dụng, nó cho thấy sự tin tưởng của ngài đối với những người hiểu biết [tốt nhất về những vấn đề này] để họ tiếp tục đi đúng hướng, một hướng từng chút một đang được củng cố. Tôi sẽ không ngừng khuyến khích họ, dành cho họ sự hỗ trợ và lòng biết ơn của tôi, giúp đỡ họ bằng mọi cách họ cần, nhưng không qui định họ trong nhiệm vụ chuyên môn của họ.
Đức Phanxicô với vị Bộ trưởng mới của Bộ Giáo Lý Đức Tin: không dùng các phương pháp vô đạo đức để bảo vệ đức tin
Theo Elise Ann Allen của tạp chí CruxNow, Đức Phanxicô vừa bổ nhiệm Tổng Giám mục Víctor Manuel Fernández, người Á Căn Đình vào chức vụ Bộ Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin của Tòa Thánh.
Đức Tổng Giám Mục Víctor Manuel Fernández và Hồng Y Jorge Mario Bergoglio của Buenos Aires, nay là Giáo hoàng Francis, xuất hiện cùng nhau trong bức ảnh năm 2010 này.
Theo Elise, Đức Tổng Giám Mục Víctor Manuel Fernández được nhiều người coi là đồng minh thân cận và là người viết một số tài liệu quan trọng của Đức Giáo Hoàng
Trong một tuyên bố ngày 1 tháng 7, Vatican cho biết nhiệm vụ của Đức Hồng Y Dòng Tên người Tây Ban Nha Luis Ladaria với tư cách là người đứng đầu Thánh bộ Giáo lý Đức tin (DDF), chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Kinh thánh và người đứng đầu Ủy ban Thần học Quốc tế đã chấm dứt.
Thông báo cho biết Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Víctor Manuel Fernández của La Plata, Á Căn Đình, kế vị Đức Hồng Y Ladaria, chính thức nhậm chức vào giữa tháng Chín.
Là người được Đức Phanxicô bảo trợ trong một thời gian dài, Đức Tổng Giám Mục Fernández được nhiều người coi là một trong những người viết các tài liệu cho Đức Giáo Hoàng, bao gồm cả những văn bản mang tính bước ngoặt quan trọng như thông điệp sinh thái năm 2015 Laudato Si’ của ngài; tông huấn hậu thượng hội đồng năm 2016 của ngài về gia đình Amoris Laetitia; và tông huấn đầu tiên của ngài, Evangelii Gaudim, được xuất bản vào năm 2013 và được nhiều người coi là một văn bản thiết lập giai điệu cho phần còn lại của triều giáo hoàng của Đức Phanxicô.
Trong số những điều khác, Đức Phanxicô đã giao nhiệm vụ cho Đức Tổng Giám Mục Fernandez phải bảo đảm để các tài liệu của Vatican không chỉ phản ảnh giáo lý lâu đời của Giáo hội mà còn “chấp nhận Huấn quyền gần đây”, gợi ý rằng một phần nhiệm vụ của ngài sẽ là duyệt xuất lượng của các cơ quan khác của Vatican để nhất quán với giáo huấn của Đức Phanxicô.
Là một linh mục vào thời điểm Đức Phanxicô được bầu chọn, Fernández được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm làm viện trưởng Đại học Giáo hoàng Á Căn Đình, và ngài là người được bổ nhiệm làm giám mục đầu tiên của Đức Phanxicô.
Được coi là một trong những vị giáo phẩm có ảnh hưởng nhất của Á Căn Đình, phần lớn là do mối quan hệ thân thiết của ngài với Đức Giáo Hoàng, Đức Tổng Giám Mục Fernández trong quá khứ đã được coi là nhà thần học cá nhân của Đức Giáo Hoàng do ảnh hưởng của ngài đối với các trước tác của Đức Phanxicô.
Ngài đã tham gia Thượng Hội đồng Giám mục về Gia đình năm 2014 và 2015, trong đó Đức Thánh Cha quyết định mở một cánh cửa thận trọng để cho phép những người Công Giáo ly dị và tái hôn được rước lễ, và vào năm 2017, ngài được bổ nhiệm làm chủ tịch Ủy ban Văn hóa và Đức tin của Hội đồng Giám mục Á Căn Đình.
Đức Tổng Giám Mục Fernández trước đây là thành viên của Bộ Văn hóa Vatican và là cố vấn cho Bộ Giáo dục Công Giáo. Ngài hiện là thành viên của siêu bộ Văn hóa và Giáo dục mới.
Ngài đã xuất bản hơn 300 công trình, hầu hết đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Theo tiểu sử của Đức Tổng Giám Mục Fernández do Vatican cung cấp, các trước tác của ngài “cho thấy một nền tảng quan trọng trong Kinh thánh và sức mạnh liên tục của cuộc đối thoại thần học với văn hóa, sứ mệnh truyền giáo, linh đạo và các vấn đề xã hội”.
Vatican cũng cung cấp danh sách gần 50 cuốn sách và bài viết của ngài.
Bản tuyên bố công bố việc bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Fernández được kèm theo một lá thư cá nhân rất bất thường của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, bày tỏ kỳ vọng của ngài đối với Đức Tổng Giám Mục Fernandez trên cương vị mới là người đứng đầu Bộ Giáo Lý Đức Tin.
Đức Phanxicô nói với Đức Tổng Giám Mục Fernández rằng nhiệm vụ chính của ngài “là bảo vệ giáo huấn bắt nguồn từ đức tin để ‘đưa ra lý do cho niềm hy vọng của chúng ta, chứ không phải như những kẻ thù phải vạch ra và lên án.’”
Trong quá khứ, Đức Phanxicô nói, bộ “đã sử dụng các phương pháp vô đạo đức,” mà không nói rõ ngài nghĩ gì về điều này.
Đức Thánh Cha nói, “đã có những thời điểm, thay vì thúc đẩy kiến thức thần học, những sai lầm có thể có về giáo lý đã bị bức hại. Những gì tôi mong đợi ở Đức Cha chắc chắn là một điều gì đó rất khác biệt”.
Ngài chỉ ra một số chức vụ nổi tiếng mà Đức Tổng Giám Mục Fernández đã nắm giữ, lưu ý rằng trong mọi trường hợp, ngài “được bầu chọn bởi các đồng nghiệp của Đức Cha, những người đã đánh giá cao sức thu hút thần học của Đức Cha.”
Ngài nói, với tư cách là viện trưởng của Đại học Giáo hoàng Công Giáo Á Căn Đình, “Đức Cha đã khuyến khích sự tích hợp kiến thức một cách lành mạnh,” và với tư cách là mục tử của giáo xứ Saint Teresita và sau đó là tổng giám mục La Plata, “Đức Cha đã biết cách đưa kiến thức thần học vào cuộc đối thoại với cuộc sống của dân thánh của Chúa”.
Một lĩnh vực mà Đức Phanxicô dường như muốn nhấn mạnh liên quan đến cuộc chiến chống lạm dụng tình dục của hàng giáo sĩ. Lưu ý rằng một bộ phận kỷ luật đặc biệt gần đây đã được tạo ra tại Bộ Giáo Lý Đức Tin; ngoài những điều khác, bộ phận này giải quyết các trường hợp lạm dụng tình dục đối với trẻ vị thành niên; nhưng Đức Thánh Cha chỉ đạo Đức Tổng Giám Mục Fernández dành thời gian của mình ở nơi khác.
Nói chung, Đức Phanxicô dường như thúc giục Đức Tổng Giám Mục Fernandez khuyến khích khám phá thần học hơn là kiểm soát ranh giới của tính chính thống.
“Để không giới hạn ý nghĩa của nhiệm vụ này, cần phải nói thêm rằng đó là việc ‘tăng cường trí thông minh và thông truyền đức tin nhằm phục vụ việc rao giảng Tin Mừng, để ánh sáng của nó là tiêu chuẩn để hiểu ý nghĩa của cuộc sống, đặc biệt là đứng trước những vấn đề được đặt ra bởi sự tiến bộ của khoa học và sự phát triển của xã hội,” Đức Thánh Cha nói, trích dẫn thông điệp Laudato Si của ngài, thông điệp mà Đức Tổng Giám Mục Fernández được coi là đã viết ra ẩn danh.
Đức Thánh Cha nói, những vấn đề này, nếu chúng được đón nhận trong tinh thần truyền giáo, thì “‘hãy trở thành công cụ truyền giáo’, bởi vì chúng cho phép chúng ta tham gia vào cuộc đối thoại với ‘bối cảnh hiện tại trong điều chưa từng có trong lịch sử nhân loại.’”
Tiếp tục trích dẫn rộng rãi từ các tài liệu trước đó, bao gồm cả tông huấn Evangelii Gaudium năm 2013 của ngài, cũng được cho là do Fernández viết ra ẩn danh, Đức Phanxicô nói rằng Giáo hội “'cần phát triển trong việc giải thích lời mạc khải và hiểu biết về sự thật’ mà không hàm ý áp đặt một cách diễn đạt duy nhất.”
Đức Phanxicô lập luận rằng các dòng tư tưởng triết học, thần học và mục vụ khác nhau, “nếu chúng để cho Chúa Thánh Thần hòa hợp trong sự tôn trọng và yêu thương, thì cũng có thể làm cho Giáo hội phát triển.”
Ngài nói, sự tăng trưởng này sẽ bảo tồn giáo lý Kitô giáo “hiệu quả hơn bất kỳ cơ chế kiểm soát nào”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với Đức Tổng Giám Mục Fernández rằng công việc của ngài phải khuyến khích “' đặc sủng của các nhà thần học và nỗ lực của họ đối với nghiên cứu thần học', miễn là họ 'không bằng lòng với một nền thần học trên máy tính', với 'một logic lạnh lùng và cứng rắn tìm cách thống trị mọi điều.'”
Đức Phanxicô viết, “Sẽ luôn đúng là thực tại vượt trội hơn ý tưởng. Theo nghĩa này, chúng ta cần thần học chú ý đến tiêu chuẩn căn bản: coi ‘bất cứ quan niệm thần học nào đặt câu hỏi cuối cùng về sự toàn năng của Thiên Chúa và đặc biệt là lòng thương xót của Ngài’ đều không thỏa đáng”
Ngài kêu gọi tư tưởng thần học “biết trình bày một cách thuyết phục về một Thiên Chúa yêu thương, tha thứ, cứu độ, giải thoát, thăng tiến con người và kêu gọi họ phục vụ một cách huynh đệ”.
Ngài nói với Đức Tổng Giám Mục Fernández, điều trên sẽ chỉ xảy ra “'nếu việc công bố tập trung vào điều thiết yếu, điều đẹp nhất, tuyệt vời nhất, hấp dẫn nhất và đồng thời là điều cần thiết nhất'. Đức Cha biết rất rõ rằng có một trật tự hài hòa giữa các sự thật trong thông điệp của chúng ta, nơi mối nguy hiểm lớn nhất xảy ra khi các vấn đề thứ yếu làm lu mờ các vấn đề trung tâm.”
Ám chỉ một số lượng đáng kể các tài liệu của Vatican trong tương lai sẽ phải qua bàn của Đức Tổng Giám Mục Fernández trước khi được xuất bản, ngài nói, “Dưới tầm nhìn của sự phong phú này, nhiệm vụ của Đức Cha cũng bao hàm một sự quan tâm đặc biệt để xác minh rằng các tài liệu của chính Bộ và của các cơ quan khác có hỗ trợ thần học đầy đủ, phù hợp với chất đất mùn phong phú của giáo huấn lâu đời của Giáo hội, đồng thời chấp nhận Huấn quyền gần đây”.

Đức Tổng Giám Mục Fernandez nghĩ gì với vai trò mới của bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin
Như mọi người đều biết, để thuyết phục Đức Tổng Giám Mục Fernandez chấp nhận việc bổ nhiệm ngài vào chức vụ mới, Đức Phanxicô đã làm một việc chưa từng có là viết một lá thư làm bảo chứng rằng nhiệm vụ của ngài tại Bộ Giáo Lý Đức Tin chỉ là các vấn đề tín lý, chứ không còn là các vấn đề kỷ luật, không phải đi tìm những kẻ phá hoại tín lý này cho bằng tích cực khai triển nó cho thời đại hiện nay.

Theo Courtney Mares của hãng tin CNA, trong cuộc phỏng vấn đầu tiên từ ngày được bổ nhiệm, Đức Tổng Giám Mục Fernandez cho hay ngài đã viết cho các thành viên của Bộ Giáo Lý Đức Tin một lá thư trong đó, ngài ca ngợi đương kim bộ trưởng, Đức Hồng Y Luis Ladaria Ferrer, như một nhà thần học và vì phong thái làm việc của ngài nhưng “nói thêm rằng tôi sẽ làm nó ‘theo cách của tôi’như bài hát tiếng Ý nói”.Trong cuộc phỏng vấn của trang mạng Tây Ban Nha InfoVaticana, công bố ngày 5 tháng 7, ngài nói, “Tôi sẽ lưu ý đến lời kêu gọi đồng nghị của Đức Giáo Hoàng, trước nhất tôi sẽ lắng nghe một chút trước khi đưa ra bất cứ quyết định gì, nhưng chắc chắn có những xem xét từ lá thư của Đức Giáo Hoàng gửi cho tôi mà ta sẽ phải áp dụng cách nào đó”.Khi được hỏi ngài sẽ nói gì với những người chống đối việc bổ nhiệm ngài, Đức Tổng Giám Mục Fernandez cho hay: “đối với bạn há không tốt hay sao việc vào một lúc nào đó trong lịch sử một người Mỹ Latinh từng là một cha xứ một họ đạo ngoại vi, lớn lên tại một thị trấn nhỏ ở vùng quê, rất mẫn cảm một cách gần gũi với nỗi đau của những người bị vứt bỏ của xã hội, với một câu truyện đời sống rất khác với câu truyện đời sống của người Âu Châu hay Hoa Kỳ, nhưng đồng thời là một tiến sĩ thần học, chiếm giữ chúc vụ này sao? Một lần nữa, tôi xin nói với họ rằng tôi sẽ học hỏi từ lịch sử, tôi sẽ tôn trọng các diễn trình, tôi sẽ đối thoại, nhưng tôi sẽ làm nó theo cách của tôi”.Cách ấy chắc chắn là tập chú vào việc khai triển tín lý, không phải lên án các sai lầm. Về khía cạnh này, theo Scott Smith trên National Catholic Register [https://www.ncregister.com/blog/ddf-new-prefect-reaction], Đức Tổng Giám Mục Fernandez cho rằng “vào các thời kỳ khác trước đây, Bộ Giáo Lý Đức Tin được gọi là Văn phòng Thánh, chuyên bách hại các người lạc giáo, những người phạm sai lạc tín lý, và Đức Giáo Hoàng [Phanxicô] thừa nhận rằng Văn phòng này đã dùng các phương pháp vô luân như tra tấn. Ngài nói với tôi rằng ngài yêu cầu tôi một điều rất khác, vì các sai lạc không được chỉnh sửa bằng bách hại hay kiểm soát, mà bằng cách tạo đức tin và gia tăng đức khôn ngoan. Đó là cách tốt nhất bảo tồn đức tin”.Smith cho rằng tập chú trên thực ra chẳng cách mạng chi, mà đúng hơn chỉ nhắc lại sứ mệnh của Bộ Giáo Lý Đức Tin vốn có từ năm 1965. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, trong tông thư Integrae Servendae, cải tổ Bộ Giáo Lý Đức Tin, lúc đó từng viết rằng: “Nhưng, vì trong tình yêu không hề có sợ hãi (1Ga 4:18), việc bảo vệ đức tin nay được phục vụ tốt hơn bằng việc cổ vũ tín lý, một cách khiến cho, trong khi các sai lạc được chỉnh sửa và những người sai lạc được nhẹ nhàng kêu gọi trở về với sự thật, các sứ giả của Tin Mừng tìm được sức mạnh mới. Hơn nữa, việc thăng tiến nền văn hóa nhân bản, mà tầm quan trọng của nó lãnh vực tôn giáo không nên bỏ qua, là việc tín hữu tuân theo các chỉ thị của Giáo Hội một cách gắn bó và đầy yêu thương hơn nếu, trong các vấn đề đức tin và luân lý, ta có thể làm rõ ràng cho họ các lý do cho các định tín và lề luật”.Ngoài ra, đối với Smith, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đâu có miễn chước cho Bộ Giáo Lý Đức Tin vai trò liên tục trong việc áp dụng kỷ luật đối với các thần học gia bất đồng ý kiến. Mới năm ngoái đây, trong Tự sắc Fidem Servare tháng Hai năm 2022 của ngài, Đức Phanxicô đã tái khẳng định rằng phân bộ tín lý của Bộ Giáo Lý Đức Tin có nhiệm vụ “sắp xếp việc khảo sát... các trước tác và ý kiến tỏ ra có vấn đề đối với đức tin đúng đắn, khuyến khích đối thoại với các tác giả của chúng và đề nghị các biện pháp sửa chữa thích đáng”.Và một lần nữa trong tông hiến Praedicate Evangelium tháng 3 năm 2022, tức tông hiến ấn định cơ cấu hiện thời của Giáo triều Rôma, Đức Phanxicô xác định vai trò của Bộ Giáo Lý Đức Tin bao gồm “việc bảo vệ chân lý đức tin và sự toàn vẹn luân lý”. Thực vậy, tiết tín lý của tông hiến liệt kê hai nhiệm vụ cho thánh bộ;1. Xem xét các trước tác và ý kiến có vẻ trái ngược hoặc có hại cho đức tin và luân lý; nó tìm kiếm một cuộc đối thoại với các tác giả của những trước tác này và đưa ra các biện pháp khắc phục phù hợp để áp dụng, theo các quy tắc thích hợp của nó;2. Hoạt động để bảo đảm rằng những sai lầm và giáo huấn nguy hiểm đang lưu truyền dân Kitô giáo phải bị bác bỏ một cách thích hợp.Thành thử, theo Smith, nhiệm vụ của Đức Tổng Giám Mục Fernandez không khác bao nhiêu so với nhiệm vụ của các vị tiền nhiệm của ngài.Chúc lành các cặp đồng tính luyến áiMột trong những lý do Bộ Giáo Lý Đức Tin trước đây triển hạn cấp nihil obstat cho việc đề cử Cha Fernandez làm viện trưởng viện Đại Học Công Giáo Á Căn Đình là quan điểm của ngài về việc chúc lành cho các cặp đồng tính luyến ái. Theo Luke Coppen của tạp chí The Pillar, Đức Tổng Giám Mục nói rằng ngài chống đối việc chúc lành cho các cặp đồng tính khi việc này gây “hiểu lầm” đối với bản chất của hôn nhân. Tuy nhiên, những cuộc chúc lành nào không gây một hiểu lầm như thế thì “nên phân tích và xác nhận”. Ngài đưa ra nhận định này trong cuộc phỏng vấn của InfoVaticana.Ngài nói: “như tôi cương quyết chống phá thai thế nào (và tôi thách thức bạn tìm được ai ở Châu Mỹ Latinh viết nhiều bài báo hơn tôi chống phá thai), tôi cũng hiểu rằng ‘hôn nhân’, theo nghĩa chặt chẽ của nó, chỉ là một điều: cuộc kết hợp bền vững của hai hữu thể khác nhau là nam và nữ, những người, trong chính sự khác nhau này, có khả năng sinh ra sự sống mới”.“Không có điều gì có thể so sánh với điều đó và sử dụng tên đó để phát biểu một điều khác là không tốt và đúng đắn. Đồng thời, tôi tin rằng chúng ta phải tránh các cử chỉ và hành động có thể nói lên một điều khác. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng phải hết sức cẩn thận tránh các nghi thức hay chúc lành có thể nuôi dưỡng sự mơ hồ này”.Ngài nói thêm: “nhưng nếu việc chúc lành được ban một cách không tạo nên sự mơ hồ đó, thì ta phải phân tích nó và xác nhận nó. Như bạn thấy, có một điểm tại đó, ta phải bỏ qua cuộc thảo luận thần học đúng nghĩa để chuyển qua vấn đề có tính khôn ngoan thận trọng và kỷ luật nhiều hơn”.Coppen nhân dịp này nhắc đến hai thực hành chúc lành cho các cặp đồng tính: một tại Bỉ và một tại Đức. Tuy Đức Giáo Hoàng Phanxicô chưa lên tiếng gì về hình thức thực hành này, nhưng năm 2021, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã ban hành một chỉ thị dưới hình thức một bản trả lời (Responsum) cho câu hỏi: Giáo hội có quyền ban phép lành cho các cuộc kết hợp của những người cùng một giới tính hay không? Và câu trả lời là KHÔNG.Bản trả lời và lời giải thích kèm theo đã đệ trình lên Đức Phanxicô và Đức Phanxicô “đã thuận ý cho việc công bố Bản Trả Lời trên với Lời Giải Thích đính kèm”. Lời giải thích này khẳng định rằng “Sẽ trái phép khi ban phép lành cho các mối liên hệ hay sống chung, dù là ổn định, nếu liên hệ đến sinh hoạt tính dục bên ngoài hôn nhân... như trường hợp các cuộc kết hợp giữa những người cùng một giới tính”.Nó khẳng định thêm: “sự hiện diện các yếu tố tích cực trong các mối liên hệ này, tuy tự chúng cần được trân trọng và đánh giá cao, vẫn không thể biện minh cho các mối liên hệ này và làm chúng thành đối tượng hợp pháp của phép lành Giáo Hội, vì các yếu tố tích cực hiện hữu trong bối cảnh một việc kết hợp không tuân theo kế hoạch của Thiên Chúa”.Lời giải thích quảng diễn thêm lý do tại sao việc chúc lành này trái phép: “vì chúng tạo nên một mô phỏng hay loại suy nào đó với phép lành hôn phối ban cho một người đàn ông và một người đàn bà kết hợp trong bí tích hôn phối trong khi trên thực tế, ‘tuyệt đối không hề có cơ sở nào để coi các cuộc kết hợp đồng tính tương tự bất cứ cách nào hay cả xa xôi loại suy với kế hoạch của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”, Lời Giải Thích nói thế, dựa vào chính tông huấn Amoris Laetitia năm 2016 của Đức Phanxicô, bản văn mà Đức Tổng Giám Mục Fernandez giúp soạn thảo.Một tân Ratzinger?Mặc dù chính Đức Tổng Giám Mục Fernandez chưa bao giờ tự ví mình như Đức Hồng Y Joseph Rtazinger, vị tiền nhiệm của ngài tại Bộ Giáo Lý Đức Tin, mặc dù theo Dan Hitchens của First Things (https://www.firstthings.com/web-exclusives/2023/07/archbishop-fernandez-preacher-of-chaos), ngài khá khoa trương. Nhưng ít nhất có đến hai tạp chí đề cập đến sự so sánh này. Đó là John Allen trên tạp chí CruxNow và Cha de Souza trên tạp chí National Catholic Register.Ngay 1 ngày sau tin bổ nhiệm ngài, John Allen cho chạy hàng tít: “Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa ban Ratzinger của ngài cho Vatican”. Allen không có ý so sánh phẩm chất hay ý nghĩa xuất lượng trí thức của hai vị, nhưng về phương diện chính trị và bản thân, Đức Tổng Giám Mục Fernandez đối với Đức Phanxicô gần giống như Đức Hồng Y Ratzinger đối với Đức Gioan Phaolô II, có khi còn hơn thế nữa vì dây nối kết giữa ngài và Đức Phanxicô thâm hậu hơn mối liên kết bản thân giữa Đức Hồng Y Ratzinger và Đức Gioan Phaolô II. Mối liên kết này có từ năm 2007: ngài là chuyên viên của Đức Hồng Y Bergoglio tại Hội Nghị các Giám Mục Mỹ Latinh tại Aparecida với văn kiện sau cùng trở thành kế sách cho triều Giáo Hoàng Phanxicô. Và rồi các văn kiện Niềm vui Tin Mừng năm 2013, Niềm Vui Yêu Thương năm 2016 và cả Laudato Si’ nữa đều do ngài viết ẩn danh.Allen liệt kê 3 song hành giữa Ratzinger và Fernandez: 1) Ratzinger nổi bật hơn cả Quốc Vụ Khanh Angelo Sodano thế nào, Fernandez hiện cũng nổi nang như thế so với đương kim Quốc Vụ Khanh Pietro Parolin; 2) Ratzinger là cột thu lôi cho triều Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thế nào, thì Fernandez cũng là cột thu lôi như thế cho triều Giáo Hoàng Phanxicô; 3) Dù thế, Ratzinger thành người kế vị của Đức Gioan Phaolô II; với tước vị Hồng Y, Fernandez cũng rất có thể trở thành người kế vị của Đức Phanxicô.Cha de Souza viết sau đó 3 ngày, với nhận định cho rằng: “Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hài lòng về việc để thừa tác vụ của ngài được phê phán bởi việc ngài lựa chọn người cộng tác chính thế nào, thì Đức Tổng Giám Mục Fernandez cũng nghĩ rằng việc bổ nhiệm ngài phục vụ cùng một vai trò như thế đối với Đức Giáo Hoàng Phanxicô”, nghĩa là ngài là một Ratzinger của Đức Phanxicô.Nhưng có phải là Ratzinger đối với người khác hay không, quả là một chuyện khác hẳn. Vì người ta vốn nghĩ ngài “là một nhân vật hậu trường, chắc chắn có gây ảnh hưởng, nhưng không thuộc loại nhân vật có quyền đòi được yêu qúi rộng rãi như một giáo phẩm dầy kinh nghiệm và một thần học gia có năng khiếu”.Sở dĩ Cha De Souza nhận định Đức Tổng Giám Mục Fernandez có ý tự ví mình như Đức Hồng Y Ratzinger có lẽ do câu nói của ngài khi gọi những người chỉ trích ngài là “các nhóm chống đối Đức Phanxicô”. Khi tự cột mình vào Đức Giáo Hoàng Phanxicô như thế “Đức Tổng Giám Mục Fernadez minh nhiên mong muốn vai trò Ratzinger từng đóng cho Đức Gioan Phaolô II, người giải thích ưu tuyển của triều Giáo Hoàng”.
“Uỷ ban các Vị Tử đạo mới” và một số vị Tử đạo mới
Các vị tử đạo mới trong một phần tư đầu của thế kỷ 21 này rất nhiều, trong số đó có các tín hữu của Giáo hội Chính Thống Coptic bị Nhà nước Hồi giáo sát hại ở Libya , các nạn nhân của các cuộc tấn công vào Lễ Phục sinh ở Sri Lanka năm 2019, Sơ Luisa Dall'Orto ở Haiti và Sơ Maria De Coppi ở Mozambique, Cha Santoro ở Thổ Nhĩ Kỳ, Cha Hamel ở Pháp. Đây là một số vị “tân tử đạo” trong 25 năm qua, những chứng tá của họ sẽ được Ủy ban do Đức Thánh Cha Phanxicô thành lập thu thập.
![image.png]()
Người thân quy tụ xung quanh chân dung của 20 tín hữu Chính Thống Coptic người Ả Rập đã bị chiến binh Nhà nước Hồi giáo chặt đầu trên bãi biển ở Libya vào năm 2015.
Ngày 5/7/2023, Đức Thánh Cha đã thiết lập “Uỷ ban các Vị Tử đạo Mới - Chứng nhân Đức tin” để lập một danh sách tất cả những người đã đổ máu để tuyên xưng Chúa Kitô và làm chứng cho Tin Mừng.
Đức Thánh Cha Phanxicô cho biết Uỷ ban các Vị Tử đạo Mới sẽ tiếp tục nghiên cứu việc đã được bắt đầu trong dịp Đại Năm Thánh 2000, để xác định các Chứng nhân Đức tin trong một phần tư đầu của thế kỷ và sau đó tiếp tục trong tương lai, những người cho đến hôm nay vẫn tiếp tục bị sát hại chỉ vì là Kitô hữu. Nghiên cứu sẽ không chỉ liên quan đến các tín hữu của Giáo hội Công giáo, nhưng sẽ được mở rộng đến các các tín hữu của các hệ phái Kitô.
Trong số các thành viên của Uỷ ban các Vị Tử đạo Mới này có Cha Angelo Romano của Cộng đoàn thánh Egidio, giám đốc đền thờ Thánh Bartolomeo trên đảo Tiberina của sông Tevere ở Roma, được dâng kính các vị tử đạo của thế kỷ 20 và 21. Cha đã có cuộc trò chuyện với Vatican News
** Thưa cha, mục tiêu của Ủy ban là gì?
- Chúng ta đã bước vào một thiên niên kỷ mới và một thế kỷ mới và do đó, một lần nữa cần phải thu thập chứng tá của những người đã hy sinh mạng sống của họ cho Tin Mừng. Giá trị đại kết của việc này cũng được tái khẳng định. Việc tìm kiếm những chứng nhân đức tin mới này sẽ không chỉ liên quan đến Giáo hội Công giáo, mà sẽ mở rộng ra tất cả các hệ phái Kitô giáo. Tất cả các tình huống khác nhau tạo ra các vị tử đạo cũng được liệt kê. Trong một số trường hợp, thậm chí các tín hữu chỉ tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật cũng có nghĩa là mạo hiểm mạng sống của mình. Do đó, có sự chú ý đến một Giáo hội, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói nhiều lần, một lần nữa trở thành “Giáo hội của các vị tử đạo” và Giáo hội muốn biết và sau đó lưu giữ những câu chuyện của tất cả những người con của Chúa đã hy sinh mạng sống của họ vì Tin Mừng.
** Đức Thánh Cha viết, và đây không phải là lần đầu tiên, rằng số người tử đạo trong thời đại chúng ta nhiều hơn so với các thế kỷ đầu tiên. Tại sao lại có những con số này?
- Điều ngạc nhiên hơn chính là vấn đề của sự kiện, bởi vì có lẽ chúng ta đã quên rằng chứng tá của các Kitô hữu theo cách nào đó “gây khó chịu” trong rất nhiều tình huống. Ví dụ, các Kitô hữu, trong bối cảnh bị tội phạm có tổ chức kiểm soát, giáo dục những người trẻ tuổi, chào đón người nghèo, giúp đỡ họ mà không có động cơ nào khác... Họ đại diện cho một yếu tố khiến các tổ chức tội phạm rất khó chịu, và cuối cùng, trên thực tế, như xảy ra trong nhiều hoàn cảnh khác nhau ở Mỹ châu Latinh, các tội phạm không ngần ngại giết chết, ngay cả các linh mục, thậm chí cả giám mục. Chứng tá của các Kitô hữu, trong khi “hiền lành”, là một lời chứng mạnh mẽ. Tình yêu mãnh liệt của họ nhiều khi theo một cách nào đó gây ra sự ác cảm đến mức lấy đi mạng sống của một người. Ở nhiều nơi trên thế giới, các Kitô hữu phải chịu áp lực vì là thiểu số hoặc sống trong những xã hội chưa có quan niệm đúng đắn và hoàn hảo về tự do tôn giáo. Ở những nơi khác, họ cũng phải đối mặt với ác cảm chính trị và nỗ lực giảm đời sống Kitô giáo thành một hành động thờ phượng đơn giản. Một nỗ lực được thực hiện để cắt xén đời sống của Giáo hội trong nhiều khía cạnh cơ bản. Chúng ta hãy nghĩ đến việc hỗ trợ những người nghèo nhất, về giáo dục. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp nhắc nhở chúng ta rằng Tin Mừng theo một cách nào đó là một điều gì đó thay đổi thực tại, không để cho thực tại ở yên như vậy, và điều này rõ ràng tạo ra những phản ứng và phản ứng dữ dội. Thật không may đôi khi thậm chí tiêu cực. Theo một cách nào đó, sức mạnh của Tin Mừng thường nhận kết quả này từ những người muốn dập tắt ánh sáng hy vọng đó, đề xuất thay thế đó, thứ men mà theo một cách nào đó, đang biến đổi xã hội.
** Cha là quản đốc đền thờ Thánh Bartolomeo ở Roma, tại một nhà thờ dâng kính các vị tử đạo của thế kỷ 20 và 21 và nơi có đài tưởng niệm các ngài. Ai là những nhân vật nổi bật nhất trong một phần tư thế kỷ qua?
- Trong 25 năm qua chắc chắn có rất nhiều vị. Tôi đặc biệt nghĩ đến câu chuyện của Cha Hamel, người trong những ngày này khi nước Pháp đang bị rung chuyển bởi bạo lực rất đau đớn, thì câu chuyện của ngài lại là một dấu hiệu ngược lại. Một con người của hòa bình, một con người của tình huynh đệ vĩ đại, người đã hiến đất của giáo xứ để xây dựng một trung tâm Hồi giáo cho phép người Hồi giáo trong khu vực của mình cầu nguyện, và người đã bị giết khi đang cử hành phụng vụ bởi hai phần tử còn rất trẻ và cực đoan trên internet. Điều ấn tượng là thành quả của sự kiện bi thảm này. Có một cuộc tụ họp của tất cả mọi người, gồm cả nhiều nhà chức trách tôn giáo Hồi giáo, những người đã thể hiện một cách không chính thức, nhưng thực sự là nỗi đau dành cho một người tốt. Máu của các vị tử đạo đã làm chuyển động một cách mầu nhiệm một điều gì đó sâu sắc trong lịch sử, điều đã được nhìn thấy trong nhiều tình huống và được nhìn thấy liên tục. Có khi chứng tá Kitô giáo của họ rõ ràng là một thất bại, nhưng thật nghịch lý, cuối cùng nó lại trở nên hơi giống thập giá, một dấu hiệu của chiến thắng. Trong lịch sử của họ, chúng ta thấy những dấu hiệu chói lọi về chiến thắng của sự thiện trước cái ác và của sự sống trước cái chết.
** Thưa cha, làm thế nào những câu chuyện về các vị tử đạo có thể trở thành tấm gương cho các Kitô hữu ngày nay vào năm 2023?
- Biết về những câu chuyện này thì đã là một điều gì đó cơ bản. Trên thực tế, nhiệm vụ của Ủy ban, như có thể thấy từ lá thư của Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng là nhiệm vụ của Ủy ban các Thánh Tử đạo mới trong dịp mừng Năm Thánh 2000, chính xác là thu thập các câu chuyện, do đó thu thập các chứng tá về những sự kiện này, để chúng được biết đến. Sự thật là hầu hết những chứng nhân đức tin này đều sống trong một bối cảnh không được nhắc đến hoặc rất ít được nhắc đến, chẳng hạn như Haiti, chẳng hạn như Kivu ở Cộng hòa Dân chủ Congo, hoặc như ở một số nơi nào đó của Trung Đông. Biết được những câu chuyện của họ cũng có nghĩa là mở ra một cái nhìn thoáng qua về bức màn im lặng thường ngăn cản chúng ta biết và đánh giá cao họ. Nhưng chúng là những câu chuyện hấp dẫn, chúng là những câu chuyện hay, chúng là những viên ngọc của Tin Mừng mà chúng ta nhất định phải chiêm ngưỡng. Chúng đưa chúng ta đến chỗ chiêm ngưỡng, ngưỡng mộ và biết ơn đối với một sự sống đã cố gắng đạt đến nơi mà theo cách nói của con người, nó không bao giờ đạt được, đó là món quà của sự sống, nhưng thông qua một con đường được soi sáng bởi ân sủng của Thiên Chúa.
21 vị tử đạo Chính Thống Coptic
Gần gũi và được thế giới biết đến trong những năm gần đây là lòng dũng cảm của 21 tín hữu Chính Thống Coptic - 20 người Ai Cập và một người Ghana -, những người vào ngày 15 tháng 2 năm 2015 đã bị những chiến binh Nhà nước Hồi giáo tự xưng cắt cổ trên bãi biển Izmir, Libya, nơi họ đang làm việc. Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong một thông điệp video vào ngày 15 tháng 2 năm 2021, nhân dịp các tín hữu Coptic này được Giáo hội của họ phong thánh: “Những vị tử đạo này đã được rửa tội không chỉ trong nước và Thánh Thần, mà còn bằng máu, với dòng máu là hạt giống hiệp nhất cho tất cả những người theo Chúa Kitô.” Sau đó, trong cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Tawadros của Giáo hội Alexandria và là người đứng đầu Giáo hội Chính thống Coptic của Ai Cập vào ngày 11 tháng 5 năm nay tại Vatican, Vatican thông báo rằng “với sự đồng ý của Đức Thánh Cha, 21 vị tử đạo này sẽ được đưa vào danh sách Tử đạo Roma như một dấu chỉ của sự hiệp thông thiêng liêng liên kết hai Giáo hội của chúng ta”. Một ý tưởng đã được Đức Thánh Cha tái khẳng định trong Thư mới đây về việc thành lập “Ủy Ban Các vị Tử Đạo Mới” với mục đích thu thập những chứng tá của cuộc sống, cho đến việc đổ máu vì Chúa Kitô, trong 25 năm qua, việc nghiên cứu đã mở rộng cho tất cả các hệ phái Kitô giáo và không chỉ người Công giáo.
Thi thể của 21 tín hữu Chính Thống Coptic đã được tìm thấy chôn trong một ngôi mộ tập thể, trên người mặc bộ quần áo màu cam giống như họ đã mặc vào thời điểm bị hành quyết. Cha Philippe Luisier, dòng Tên, giáo sư về tiếng Coptic tại Học viện Giáo hoàng Đông Phương ở Roma, chia sẻ với Vatican News về tầm quan trọng của các vị tử đạo trong thế giới Coptic ngày nay và trên hết là ảnh hưởng của câu chuyện về 21 Kitô hữu của Giáo hội Coptic bị giết vào năm 2015.
Cha nói: “Nếu chúng ta biết tường tận thực tại của Giáo hội Coptic, chúng ta sẽ thấy rằng tử đạo là một điều cơ bản trong đó. Cần phải nói rằng đối với các tín hữu Coptic, đời sống đan tu có tầm quan trọng rất lớn - điều vốn đã ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống đan tu ở phương Tây, vốn dựa vào đời sống đan tu của Thánh Pacômiô - và rằng có một thực tế rất mạnh mẽ về sự tử đạo, của những vị tử đạo trong Giáo hội Coptic. Không chỉ của các vị tử đạo - rất đông - thời hoàng đế Diocletiano, đặc biệt là ở miền Thượng Ai Cập, gần như toàn bộ vùng Samàlut cách Cairo khoảng 200 cây số về phía nam, trong thung lũng sông Nile. Ở đó, cứ 10 cây số lại có một thánh tử đạo hoặc một đan sĩ là trụ cột của Giáo hội địa phương. Ngoài những vị tử đạo thời Diocletiano, còn có những vị tử đạo mới, tức là những người đã tử vì đạo sau khi người Hồi giáo đến đất nước này. Các vị tử đạo ngày nay, của năm 2015, tiếp tục một truyền thống rất phong phú và cũng được liên kết với phụng vụ của Giáo hội. Vì vậy hình ảnh của những vị tử đạo này bắt nguồn từ Giáo hội Coptic ở Thượng Ai Cập. Và đây là những nhân chứng rất xác đáng cho Ai Cập ngày nay.
Năm 2024 sẽ là Năm Thánh của Công giáo Melkite, mừng 300 năm hiệp nhất với Công giáo Roma
Vào năm 2024, Giáo hội Công giáo Melkite sẽ cử hành Năm Thánh, mừng 300 năm hiệp thông trọn vẹn với Công giáo Roma, với chủ đề Năm Thánh là “Giáo hội Công giáo-Hy Lạp Melkite: Hành trình đại kết 1724-2024”.
Đức Thượng Phụ Youssef Absi
Trong cuộc họp báo tại Toà Thượng phụ ở Raboué, Liban, ngày 11/7/2020, Đức Thượng Phụ Youssef Absi của Giáo hội Công giáo Hy Lạp Melkite tuyên bố: “Đối với Giáo hội Công giáo Hy Lạp Melkite, năm 2024 sẽ là Năm Thánh được cử hành dưới dấu hiệu của sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Đây là một thời điểm đặc biệt trong đó chúng ta được mời gọi kỷ niệm 300 năm khôi phục sự hiệp thông trọn vẹn giữa Giáo hội Melkite và Giáo hội Roma”.
Ngài giải thích: “Thượng hội đồng Giáo hội chúng ta không muốn kỷ niệm này trôi qua mà không có suy tư về quá khứ, hiện tại và con đường tương lai, sứ vụ của Giáo hội”.
Tại cuộc họp báo, Đức Thượng Phụ cũng nói đến lịch sử của Giáo hội Antiokia, được Tông đồ Phêrô thiết lập và cũng được Tông đồ Phaolô chăm sóc. Ngài cũng nhắc lại những tranh luận và chia rẽ thần học trong dòng lịch sử đã phân cách các cộng đoàn Giáo hội được sinh ra từ lần rao giảng đầu tiên của các Tông đồ.
Ở Trung Đông, từ thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Công giáo phương tây đã tìm cách hàn gắn sự rạn nứt và đạt được sự hiệp nhất mong muốn giữa Toà Thượng Phụ Antiokia và Giáo hội Roma. Nỗ lực này đã phát triển thành một “phong trào hiệp nhất”, cùng với các yếu tố quan trọng khác, dẫn đến sự chia rẽ khác trong chính Giáo hội Antiokia.
Đức Thượng Phụ nói: “Từ năm 1724, chúng ta có Giáo hội Công giáo Hy Lạp Melkite và Giáo hội Chính thống Hy Lạp. Mỗi sự chia tách đều để lại dấu ấn và dẫn đến những căng thẳng đau đớn. Nhưng mặc dù vậy, các Giáo hội ở Antiokia đã hoàn thành sứ vụ bảo tồn đức tin Kitô giáo và đã vượt qua tất cả những thời khắc quan trọng mà Giáo hội đã trải qua. Và ngày nay, nhờ Thiên Chúa Toàn Năng và ý muốn của những người có trách nhiệm, tương quan giữa Giáo hội chúng ta và các Giáo hội chị em tiếp tục là quan hệ tôn trọng nhau, huynh đệ và cộng tác trong việc phục vụ một Tin Mừng duy nhất, và các tín hữu thuộc các hệ phái Kitô khác nhau có một trải nghiệm tụ họp dưới một mái nhà để làm chứng rằng mình thuộc về Chúa Kitô.”
Năm Thánh của Giáo hội Melkite sẽ khai mạc vào ngày 11/11/2023 tại Damas ở Syria với một nghi thức phụng vụ trọng thể do Đức Thượng Phụ Youssef Absi chủ tế tại Nhà thờ Chính toà Đức Mẹ Ngủ.
Chương trình Năm Thánh bao gồm các cử hành phụng vụ, hội nghị nghiên cứu, ấn phẩm và nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử, thần học và đại kết, và triển lãm về di sản tinh thần và nghệ thuật được bảo tồn bởi các cộng đoàn Melkite ở Trung Đông.
ĐTC Phanxicô hy vọng việc học hỏi Kinh Thánh thúc đẩy đối thoại đại kết và liên tôn
Trong một thông điệp do Đức Hồng Y Parolin ký, gửi đến 500 học giả tham dự hội nghị thường niên của Hiệp hội Nghiên cứu Kinh thánh Châu Âu do Viện Khoa học Tôn giáo cấp cao Thánh Metodio tổ chức tại Syracuse trên đảo Sicilia của Ý, từ ngày 10 đến 13/7/2023, Đức Thánh Cha khuyến khích nghiên cứu học thuật về các bản văn Kinh Thánh để thúc đẩy việc chia sẻ đại kết và đối thoại liên tôn.
![image.png]()
Hiệp hội Nghiên cứu Kinh thánh Châu Âu (Eabs) là một hiệp hội quốc tế không giới hạn hệ phái đức tin, nhằm thúc đẩy các nghiên cứu cấp học thuật về Kinh Thánh và các chủ đề liên quan.
Đại kết và liên tôn
Đức Tổng Giám mục Francesco Lomanto đã đọc những lời của Đức Thánh Cha khi khai mạc hội nghị. Đức Thánh Cha hy vọng rằng những ngày nghiên cứu và suy tư về Kinh Thánh, nguồn khôn ngoan vô tận và luôn tươi mới, có thể làm phong phú kiến thức và đào sâu các chủ đề Kinh Thánh, đồng thời thúc đẩy việc chia sẻ đại kết và đối thoại liên tôn”. Đức Thánh Cha cũng khuyến khích “thừa tác vụ nghiên cứu Lời Chúa, trong bối cảnh huynh đệ của cuộc gặp gỡ, để nghiên cứu học thuật truyền cảm hứng cho ước muốn thúc đẩy những con đường hợp tác mới trên bình diện con người và tôn giáo.”
Chìa khoá của khoa chú giải Kinh Thánh: Liên ngành và tính hiện đại
Danilo Verde, nhà nghiên cứu Kinh thánh tiếng Do Thái tại Khoa Thần học Công giáo của Louvain, chia sẻ với Vatican News: “Hiệp hội Nghiên cứu Kinh Thánh Châu Âu tập hợp các học giả, nhiều thành viên đến từ Israel, Hoa Kỳ, Úc, do đó họ đại diện cho những gì đang diễn ra trong bức tranh toàn cảnh về chú giải Kinh Thánh trên toàn thế giới. Khoa chú giải Kinh Thánh trong quá khứ có xu hướng là một thế giới khá khép kín, bị chi phối bởi khoa chú giải phê bình lịch sử, một bộ môn khá biệt lập. Trong những thập kỷ gần đây, việc chú giải Kinh Thánh đã mở ra cho các ngành khác; các bộ môn ngôn ngữ học, các bộ môn văn học, xã hội học, văn hóa học. Hiệp hội đại diện cho tất cả những điều này, trong hiệp hội có hơn 70 nhóm nghiên cứu khác nhau nghiên cứu Kinh thánh từ nhiều quan điểm và giải quyết các chủ đề đa dạng nhất. Ví dụ, có một nhóm nghiên cứu về động vật và Kinh thánh hoặc về sinh thái học, hoặc về cơ thể trong Kinh thánh, về chấn thương, về giới tính. Ở đây, liên ngành là một từ khóa, và một từ khóa khác là tính hiện đại. Ngày nay, khoa chú giải Kinh Thánh và Hiệp hội có xu hướng gặp gỡ con người hiện đại với tất cả những mối quan tâm và thắc mắc của họ.
Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh phê bình việc giải thích sai trái lập trường của Đức Thánh cha
Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức Tổng giám mục Paul Gallagher phê bình sự hiểu sai trái lập trường của Đức Thánh cha Phanxicô trong việc cổ võ chấm dứt chiến tranh và xây dựng hòa bình cho Ucraina.
![image.png]()
Đức Tổng giám mục Paul Gallagher
Đức Tổng giám mục Gallagher, người Anh, đã bày tỏ lập trường trên đây, trong buổi giới thiệu bản ấn hành mới, số 5/2023, với tựa đề “Các bài học Ucraina” (Lezioni Ucraine) của tạp chí Limes ở Ý, chuyên về các hoạt động ngoại giao.
Đức Tổng giám mục minh định về “lập trường của Đức Thánh cha về chiến tranh tại Ucraina và những giải thích người ta đưa ra về những lời nói và cử chỉ của ngài, nhiều khi từ phía chính quyền Ucraina cũng như từ một số đại diện của Giáo hội và tôn giáo địa phương."
Đức Tổng giám mục Gallagher nhấn mạnh rằng: “Giải thích những lời nói và cử chỉ của Đức Thánh cha như những “hành động chủ hòa trống rỗng”, một “ước muốn đạo đức trình diễn”, đó là những điều không phản ánh đúng quan điểm và chủ ý của Đức Thánh cha, là người không muốn cam chịu chiến tranh, nhưng quyết liệt tin tưởng nơi hòa bình, mời gọi tất cả mọi người hãy trở thành những người có tinh thần sáng tạo và can đảm trong việc tìm kiếm hòa bình. Thực vậy, “Điều thúc đẩy Đức Thánh cha không là gì khác hơn, đó là làm cho việc đối thoại và hòa bình trở thành điều có thể, lấy hứng khởi từ nguyên tắc “Giáo hội không được sử dụng ngôn ngữ chính trị, nhưng ngôn ngữ của Chúa Giêsu. Vì thế, thật là điều bất công khi định nghĩa “Những cố gắng, toan tính của Vatican là vô ích cũng như có hại, hoặc coi đó là một điều phạm thượng, “Bài Mỹ kiểu Vatican”, giống như một thứ tả phái của Ý”.
Ngoại trưởng Tòa Thánh nói thêm rằng: “Dĩ nhiên, chủ ý của Tòa Thánh không phải là nhắm mắt trước những tội ác chiến tranh từ phía quân đội và chính quyền Nga, đặt ngang hàng nhau nước gây hấn và nước bị tấn công”, vì chính Đức Thánh cha đã nói rõ là đã phân biện giữa kẻ tấn công và người bị tấn công, với xác tín chắc chắn rằng cả thế giới đều biết rõ đó là những ai.
Cũng trong bài giới thiệu, Đức Tổng giám mục Gallagher nhấn mạnh rằng: “Ngày hôm nay có một số thái độ phải thay đổi để bênh vực hòa bình, trước tiên là đi ngược với xu hướng hiện nay trên thế giới, đó là cần thay đổi tiêu chuẩn chiến tranh tiếp tục thịnh hành như phương thế để giải quyết xung đột, hoặc dưới chiêu bài là cần thiết để tự vệ. Không thể để cho quan niệm “chẳng có thể làm được gì, không có chỗ cho lời nói, cho sự đối thoại sáng tạo và ngoại giao, cần đành chịu và chấp nhận tiếp tục những cuộc chiến tàn khốc, gieo rắc chết chóc và tàn phá.
“Cần có những thay đổi nhỏ để có thể vượt thắng một số khuôn mẫu và mở tâm trí đối với người khác. Vì thế, xu hướng biện minh sự bất tín nhiệm đối với người khác cần phải được vượt thắng bằng một sự dấn thân mạnh mẽ hơn để kiến tạo sự tín nhiệm đối với nhau. Theo nghĩa đó, có thể là một sự trợ giúp thực sự nếu củng cố các sáng kiến nhân đạo đã có, như việc trao đổi các tù binh chiến tranh, hoặc xuất khẩu ngũ cốc, hồi hương các trẻ em, như Đức Hồng y Matteo Zuppi đã theo đuổi, theo sau sứ vụ tại Kiev và Mascơva. Và Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh kết luận rằng: “Cuộc chiến tranh hiện nay phải được chấm dứt càng sớm càng tốt”.
Đức Hồng y Grech: Công nghị sắp tới là Thượng Hội đồng của các Giám mục
Tại Áo, bốn nhóm dấn thân cổ võ cải tổ Giáo hội đã chào mừng quyết định của Đức Thánh cha Phanxicô cho giáo dân nam nữ tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới Kỳ thứ XVI vào tháng Mười tới đây và năm tới tại Roma, với quyền bỏ phiếu, nhưng họ than phiền vì vẫn còn có quá ít giáo dân tại Công nghị này.Trong số khoảng 375 thành viên Công nghị vừa nói, có khoảng 275 giám mục, 50 linh mục và nữ tu, khoảng 45 giáo dân nam nữ.
![image.png]()
Bốn nhóm vừa nói mang tên “Chúng tôi là Giáo hội” (Wir sind Kirche”, “Sáng kiến của các cha sở” (Pfarrer-Initiative”, “Sáng kiến của giáo dân” (Laieninitiative) và sau cùng là nhóm “Các Linh mục không nhiệm sở” (Priester ohne Amt).
Trong thông cáo công bố ngày 09 tháng Bảy vừa qua, bà Martha Heizer, Chủ tịch tổ chức “Chúng tôi là Giáo hội Áo” chào mừng quyết định trên đây của Đức Thánh cha và nhận xét rằng chỉ có 95 thành viên không phải là giám mục, và tổng cộng một phần bảy các thành viên là nữ giới. Như vậy, vẫn còn quá xa mục tiêu cần đạt tới. Thật là đẹp nếu Thượng Hội đồng sắp tới trở thành một Công nghị của toàn Giáo hội”. Phần lớn các tham dự viên vẫn là giáo sĩ, nên người ta đặt câu hỏi: phải chăng có thể thực sự giải quyết một cách thích hợp các vấn đề cấp thiết của Giáo hội, như sự đồng quyết định, sự bình quyền, luật độc thân và chức linh mục hay không... Nếu sự đồng hành, hay hiệp hành, có nghĩa là lắng nghe nhau, cùng nhau quyết định, thì Thượng Hội đồng phải lắng nghe nguyện vọng của con người, thảo luận với họ và quyết định với họ”.
Nhóm “Chúng tôi là Giáo hội” ở Áo cũng kêu gọi làm sao để trong Thượng Hội đồng sắp tới đừng quên tiếng nói của những người trẻ và đưa họ lên hàng đầu. “Tuổi trung bình của các thành viên Thượng Hội đồng sắp tới không còn trẻ nữa. Vì thế, điều càng quan trọng là làm sao để những người trẻ cảm thấy họ được đại diện trong Công nghị sắp tới của Giáo hội”.
Lập trường của các nhóm cấp tiến trên đây trái với điều Đức Hồng y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục khẳng định. Ngài giải thích rằng: Thượng Hội đồng sắp tới vẫn là Thượng Hội đồng của các giám mục. Không có Thượng Hội đồng nếu không có giám mục, vì chính các giám mục thi hành thừa tác vụ cơ bản, chính các vị là những người Chúa đã đặt lên coi sóc dân đã được ủy thác cho các vị”.
Đức Hồng y Grech nhắc lại rằng các kết luận và đề nghị của Thượng Hội đồng Giám mục không có tính cách bó buộc, vì chỉ là một cơ quan tư vấn cho Đức Thánh cha.
Đức cha Stefan Oster: Đừng quá mong đợi nơi Thượng Hội đồng Giám mục
Đức cha Stefan Oster, Giám mục Giáo phận Regensburg, ở miền nam Đức, cảnh giác các tín hữu đừng quá mong đợi nơi Thượng Hội đồng Giám mục thế giới XVI, nhóm vào tháng Mười tới đây.
![image.png]()
Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Phát thanh Horeb ở Đức, truyền đi hôm thứ Ba, ngày 11 tháng Bảy vừa qua, Đức cha Oster nói: “Tôi nghĩ nhiều người quá mong đợi nơi Thượng Hội đồng Giám mục này”. Ngài nhắc lại rằng vào cuối Thượng Hội đồng Giám mục thế giới năm 2018, về giới trẻ, Đức Thánh cha đã nói với các tham dự viên rằng không nên đọc quá nhiều các tài liệu, văn kiện từ Vatican và chính các tham dự viên Thượng Hội đồng này là những sứ giả và cần phải sống những gì được thảo luận và được ghi xuống. “Xét cho cùng, chính những người đã cảm nghiệm về sự đồng hành tại Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, khi trở về nhà, cố gắng sống và thực thi tinh thần đồng hành trong các lãnh vực Giáo hội, các giáo phận liên hệ”.
Đức cha Oster cho biết ngài cũng làm như vậy và cố gắng tìm cách để trong Giáo phận Regensburg, có nhiều người được tham gia vào tiến trình quyết định và với Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới, ngài cũng hy vọng có những động lực thúc đẩy hành động như vậy.
Giáo phận Regensburg là nơi Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã sinh sống và dạy học, trước khi được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Giáo phận Munich, rồi về Roma. Đức cha nhắc đến sự tương phản giữa Thượng Hội đồng Giám mục thế giới và Con đường Công nghị tại Đức. Con đường này nhắm tập trung vào những thay đổi. Đi từ những cuộc điều tra về những lạm dụng tính dục trong quá khứ, Con đường này chủ trương thay đổi cả về đạo lý trong Giáo hội, thay đổi luân lý tính dục và sự tham gia của phụ nữ.
Về phần Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, Đức Giáo hoàng chưa hỏi về sự thay đổi đạo lý. Trong tài liệu làm việc của Công nghị hoàn cầu này, tuy có nói đến vấn đề những người đồng tính luyến ái, lưỡng tính và những người chuyển giống (LGBTQ) nhưng không phải để thay đổi đạo lý, nhưng là: làm thế nào để những người ấy có thể tham gia tốt đẹp hơn vào cộng đoàn Giáo hội, làm sao để họ không cảm thấy bị loại ra ngoài. Có những người đề nghị chúng ta hãy thay đổi đạo lý, nhưng đó không phải là điều Đức Thánh cha yêu cầu.
Đức cha Oster cho biết ngài rất ngạc nhiên về việc Đức Thánh cha chọn ngài vào số các tham dự viên Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới, vì đã có ba đại biểu của Hội đồng Giám mục được các giám mục bỏ phiếu chọn, đó là Đức cha Georg Bätzing, Chủ tịch, Đức cha Bertram Meier, Giám mục Giáo phận Augsburg và Đức cha Overbeck, Giám mục Giáo phận Essen. Tuy nhiên, Đức Thánh cha bổ nhiệm thêm ba người, là Đức Hồng y Gerhard Müller, nguyên Tổng trưởng Bộ Giáo lý đức tin, Đức cha Felix Genn, Giám mục Muenster và Đức cha Oster.
Giáo hội Anh bỏ phiếu tái lập hình phạt huyền chức với các giáo sĩ có hành vi sai trái nghiêm trọngCác giáo sĩ phạm tội có hành vi sai trái nghiêm trọng có thể bị tước bỏ chức thánh sau khi Hội Đồng Thường Trực của Giáo hội Anh bỏ phiếu khôi phục hình phạt đã bị hủy bỏ trong hơn 2 thập kỷ qua.Tất cả các linh mục, từ những người mới được thụ phong cho đến tổng giám mục Canterbury, có thể bị cách chức theo các biện pháp kỷ luật mới được hỗ trợ bởi Thượng Hội đồng Chung, đang họp ở York.Hình phạt huyền chức đã bị bãi bỏ hơn 20 năm trước. Hiện tại, hình phạt khắc nghiệt nhất dành cho hàng giáo sĩ là cấm suốt đời không được cử hành thánh lễ công khai. Nhưng tư cách linh mục của họ vẫn được giữ lại và họ có quyền sử dụng danh hiệu Reverend. Nói nôm na là trong hơn 2 thập kỷ qua, trong Anh Giáo, hình phạt cao nhất là treo chén.Thượng Hội đồng Chung của Anh Giáo giới thiệu lại “quyền của một giám mục phế truất một linh mục hoặc phó tế khỏi các chức thánh sau khi phát hiện hành vi sai trái không liên quan đến vấn đề giáo lý, nghi thức hoặc nghi lễ”.Ảnh hưởng của việc huyền chức là “người đó sau đó phải sống cuộc sống của họ như một giáo dân”, dự thảo của Thượng Hội đồng Chung nêu rõ.Một điều khoản riêng biệt trong dự luật đưa ra “quy định tương đương về việc phế truất chức thánh đối với một giám mục hoặc tổng giám mục”.Vào năm 2020, cuộc điều tra độc lập về lạm dụng tình dục trẻ em đã khuyến nghị Hội Đồng Thường Trực áp dụng lại việc huyền chức, nói rằng nó sẽ có tầm quan trọng mang tính biểu tượng, đặc biệt đối với những nạn nhân bị lạm dụng.Huyền chức là hình phạt cuối cùng của Giáo Hội Công Giáo dành cho hàng giáo sĩ. Theodore McCarrick, cựu tổng giám mục và Hồng Y, đã trở thành một trong những nhân vật cao cấp nhất bị huyền chức trong thời hiện đại khi ông bị tước bỏ chức tư tế vào năm 2019 sau khi Vatican kết tội ông lạm dụng tình dục.Thượng Hội đồng Chung của Anh Giáo đã xem xét các biện pháp chống lại nạn lạm dụng tính dục của hàng giáo sĩ của Công Giáo nhưng nhận định rằng tình hình của Anh Giáo phức tạp hơn nhiều do các giáo sĩ Anh Giáo có thể có vợ hay chồng.Trường hợp bị kiện cáo phổ biến nhất trong Anh Giáo là trường hợp các nam linh mục theo đuổi một phụ nữ và sau đó bỏ rơi người phụ nữ ấy. Trong khi nhấn mạnh rằng những người tố cáo cần được lắng nghe, Thượng Hội đồng Chung cũng phàn nàn rằng trong thực tế, các nam linh mục này thường bị tố cáo là lạm dụng tính dục như một hình thức trả thù. Nhờ luật độc thân linh mục, Giáo Hội Công Giáo khó bị rơi vào trường hợp này.
Church of England votes to bring back ‘defrocking’ as punishment for clergy
Priests or deacons guilty of serious misconduct may be stripped of holy orders, in measure abolished 20 years ago
Giáo hội Công giáo CHDC Congo đối mặt với làn sóng bắt cóc ở thủ đô Kinshasa
Tại thủ đô Kinshasa, trong nửa đầu năm 2023 này, làn sóng bắt cóc và giết người gia tăng. Bọn tội phạm hoạt động bằng cách nhốt nạn nhân trong các phương tiện giao thông công cộng. Vì sự không an toàn này, Giáo hội đã thực hiện một số biện pháp để bảo vệ các tín hữu của mình.
![image.png]()
Cha Aloïs Konde, giám đốc Trung tâm Mục vụ Lindonge ở Kinshasa, thông báo: “Trước tình trạng mất an ninh gia tăng ở thành phố Kinshasa và vùng ngoại ô, chúng tôi đưa ra cho các bạn một số hướng dẫn liên quan đến các hoạt động trong ngày lễ.” Tuyên bố cho biết: “Các khóa tĩnh tâm, trại hè và các hoạt động khác sẽ được tổ chức theo sự sắp xếp thực tế hoặc sắp xếp hậu cần cho từng hoạt động bởi các cơ quan liên quan ở tất cả các cấp, có tính đến bầu khí an ninh.” Tuyên bố cũng nghiêm cấm mọi hoạt động di chuyển bên ngoài lãnh thổ giáo phận Kinshasa và các vùng ngoại vi xa xôi của giáo phận.
Thông cáo báo chí này được đưa ra trong bối cảnh các vụ bắt cóc gia tăng kể từ đầu năm 2023. Các thông báo tìm kiếm người mất tích đang tràn ngập trên mạng xã hội ở CHDC Congo gây hiểu lầm và sợ hãi.
Các giáo xứ thay đổi giờ giấc sinh hoạt
Sự mất an toàn này cũng đã khiến một số giáo xứ ở trung tâm thành phố Kinshasa, hầu hết các tín hữu đến từ các thành phố lân cận, phải xem xét lại lịch trình sinh hoạt của họ. Những hoạt động không còn được tổ chức sau 7 giờ tối. Chẳng hạn, tại giáo xứ Thánh Tâm, Cha Christian Ndoki, phó xứ, đã thông báo với các tín hữu rằng “các hoạt động của giáo xứ sẽ kết thúc trước 7 giờ tối, cũng như nhà nguyện sẽ đóng cửa vào thời điểm này.” Cha khuyên các tín hữu khi kết thúc các hoạt động, hãy đi về theo nhóm đi bộ, đi phương tiện giao thông cùng nhau hoặc đi chung xe.
Tại giáo xứ Đức Mẹ Fatima, không có thông báo chính thức nào được đưa ra nhưng các nhà lãnh đạo nhóm đã thực hiện một số biện pháp phòng ngừa. Đây là trường hợp của Onésime Mukandilwa, trưởng của một trong các ca đoàn giáo xứ. “Chúng tôi cố gắng bắt đầu sớm hơn một chút và kết thúc các buổi tập trước thời gian thông thường 30 hoặc 45 phút. Trên hết, chúng tôi mời các thành viên của mình cầu nguyện và cảnh giác, bất kể thời gian nào trong ngày.”
Nhà nước Nicaragua tiếp tục bách hại Giáo hội
Nhà nước tại Nicaragua tiếp tục bách hại Giáo hội Công giáo tại nước này.
![image.png]()
Vụ mới nhất là biện pháp cấm linh mục Juan Carlos Sánchez, cha phó giáo xứ thánh Phanxicô Assisi ở thủ đô Managua, không được về nước sau khi viếng thăm tại Bolivia và Mỹ.
Hôm ngày 09 tháng Bảy vừa qua, bà Martha Patricia Molina, nghiên cứu gia về tình hình nhân quyền và Giáo hội tại Nicaragua, cho biết cha Sanchez đã đến Bolivia để tham dự một lễ truyền chức linh mục, sau đó cha sang Miami bang Florida ở Mỹ để thăm thân nhân. Nhưng khi ra phi trường chuẩn bị đáp máy bay về nước, thì nhân viên hãng máy bay cho biết cha không thể đáp máy bay trở về. Tin này được báo La Prensa ở Nicaragua xác nhận.
Tổng nha di dân và ngoại kiều ở Nicaragua đã cấm hàng chục người Nicaragua, kể cả những người đối lập, tu sĩ, những người tranh đấu nhân quyền và ký giả không được trở về nước.
Tính tới ngày 07 tháng Sáu vừa qua, chế độ Nicaragua đã buộc 77 linh mục, tu sĩ phải rời khỏi nước này, từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tại đây hồi tháng Tư năm 2018, trong đó có Đức cha Silvio Báez, Giám mục Phụ tá Tổng giáo phận thủ đô Managua, các nữ tu và nhiều người nước ngoài.
Tổng thống Iraq rút lại việc công nhận ĐHY Sako là lãnh đạo Giáo hội Công giáo nghi lễ Canđê
Tổng thống Iraq đã hủy bỏ Sắc lệnh 147 do người tiền nhiệm của ông ban hành vào ngày 10 tháng 7 năm 2013, trong đó công nhận việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm Đức Hồng y Louis Raphael Sako làm người đứng đầu Giáo hội Canđê “ở Iraq và trên thế giới” và do đó “chịu trách nhiệm về Tài sản của Giáo hội.” Một nguồn tin của AsiaNews ở Iraq nói rằng chính quyền Iraq đang nhắm vào tài sản của Kitô giáo.
Đức Hồng y Louis Raphael Sako
Trong một thông cáo được đưa ra trong vài ngày qua, Tổng thống Abdul Latif Rashid nhấn mạnh rằng việc rút lại sự công nhận này “không ảnh hưởng đến tình trạng tôn giáo hoặc pháp lý của Thượng phụ Sako” bởi vì ngài được bổ nhiệm “bởi Tòa thánh”. Ông nói thêm rằng Đức Thượng phụ tiếp tục được hưởng “sự tôn trọng và đánh giá cao của tổng thống Cộng hòa với tư cách là Thượng phụ của Giáo hội Canđê ở Iraq và ở thế giới.”
Tuy nhiên, trên thực tế, có lo ngại rằng quyết định của tổng thống cuối cùng sẽ tước bỏ quyền của Đức Thượng phụ quản lý tài sản Giáo hội, là điều từ lâu nằm trong tầm ngắm của Ryan “Canđê” - nhà lãnh đạo Kitô giáo tự xưng - và Lữ đoàn Babylon. Nguồn tin của AsiaNews nhấn mạnh rằng không phải là ngẫu nhiên khi quyết định của Tổng thống Rashid được đưa ra vài ngày sau cuộc gặp giữa chính Tổng thống và Ryan.
Nguồn tin này giải thích: “Những người khác muốn can thiệp, ra lệnh, chiếm đoạt những gì thuộc về Kitô hữu. Trong hơn 100 năm, vị Thượng phụ, sau khi được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm, nhận được sắc lệnh công nhận chức vụ của mình, đầu tiên là từ nhà vua và sau đó là từ tổng thống, trong đó ngài được công nhận là người đứng đầu Giáo hội và là người bảo vệ tài sản của Giáo hội.” Với việc tổng thống rút lại sắc lệnh, Đức Thượng phụ “cuối cùng sẽ mất quyền kiểm soát hợp pháp đối với của cải và tài sản.” Nguồn tin cho biết Đức Hồng y Sako “quyết tâm chiến đấu và đang nghiên cứu kháng cáo tại tòa án để luật pháp thắng thế và công lý được thực thi.”
Sự việc này chỉ là hoạt động mới nhất trong một loạt các cuộc tấn công nhằm vào Đức Phượng phụ của Giáo hội Công giáo nghi lễ Canđê ở Iraq.
Bộ phim “Các Phép lạ của Mẹ Têrêsa” được chiếu tại Hoa Kỳ
Thông qua chuỗi rạp Regal Cinemas và nhờ Liên hoan phim Công giáo Quốc tế, bộ phim tài liệu “Các Phép lạ của Mẹ: Bình minh ở Calcutta” được chiếu tại các rạp chiếu phim ở Hoa Kỳ vào thứ Sáu 14/7/2023.
![image.png]()
Bộ phim được thực hiện bởi đạo diễn José María Zavala, người cũng từng phụ trách các bộ phim Công giáo quan trọng. Phim đã được phát hành thành công ở Tây Ban Nha và Châu Mỹ Latinh.
Bộ phim tài liệu thu thập, thông qua lời chứng của những người biết Mẹ Têrêsa, người sáng lập Dòng Thừa sai Bác ái, di sản của tình yêu và sự phục vụ của Mẹ đối với những người nghèo nhất và thiếu thốn nhất.
Thiên Chúa hành động qua các thánh
Phát biểu với hãng tin ACI Prensa hôm 12/7/2023, bà Gaby Jácoba, giám đốc của Liên hoan, nhấn mạnh rằng bộ phim “cho chúng ta thấy món quà mà Chúa ban cho chúng ta qua sự can thiệp của các thánh,” cũng như tác động của Mẹ Têrêsa Calcutta. “Bộ phim này cho chúng ta thấy cách thức Thiên Chúa, khi chúng ta đặt mình trong tay Người, có thể làm và tạo nên một công trình vĩ đại như Dòng Thừa sai Bác ái và tất cả công việc và di sản mà Mẹ Têrêsa, bằng tình yêu và cuộc đời của Mẹ, đã để lại cho nhân loại.”
Cuộc đấu tranh bảo vệ sự sống và các giá trị về gia đình
Bà Jácoba nhấn mạnh rằng bộ phim “Phép lạ của Mẹ Têrêsa: Bình minh ở Calcutta”, cũng đưa người xem “đến cuộc đấu tranh bảo vệ sự sống và các giá trị về gia đình, đồng thời đặt Chúa vào trung tâm cuộc sống của chúng ta.” Bà nhấn mạnh, bộ phim tài liệu “sẽ biến đổi trái tim của bạn, nó sẽ truyền cảm hứng cho bạn, nó sẽ thúc đẩy bạn và trên hết, nó sẽ nâng cao mong muốn của bạn để yêu thương và phục vụ người khác.”
Giám đốc Liên hoan phim Công giáo Quốc tế đã khuyến khích tất cả các giáo phận, giáo xứ, cộng đoàn và gia đình tham dự buổi ra mắt bộ phim tài liệu, đặc biệt là “cuối tuần đầu tiên, rất quan trọng... để bộ phim có thể tiếp tục được biết đến và rất nhiều người có thể xem nó.”
Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời ngày 5/9/1997 và được Đức Thánh Cha Phanxicô phong thánh ngày 4/9/2016.
Tòa Thánh lên án hành vi xúc phạm và phá hủy các biểu tượng và địa điểm tôn giáo
Phát biểu tại phiên họp thứ 53 của Hội đồng Nhân quyền, Đức ông John Putzer, đặc phái viên của Phái đoàn thường trực của Vatican tại Liên Hiệp quốc và các tổ chức quốc tế khác tại Genève, bày tỏ sự lo ngại về vụ đốt kinh Koran vào cuối tháng 6 ở Thụy Điển, kêu gọi không lạm dụng “quyền tự do ngôn luận”, vì đây là cách “nuôi hận thù, bất khoan dung và bạo lực”.
Biểu tình phản đối đốt kinh Koran
Phiên họp thứ 53 của Hội đồng Nhân quyền tập trung về sự gia tăng các hành động hận thù tôn giáo có chủ ý và công khai. Đặc biệt vụ đốt kinh Koran ở Thuỵ Điển vào ngày 28/6.
Trong bài phát biểu, Đức ông Putzer nhắc lại những lời lên án của Đức Thánh Cha về sự xúc phạm này: “Bất kỳ cuốn sách nào được các tác giả coi là thánh thiêng đều phải được tôn trọng vì sự tôn trọng dành cho những người tin vào cuốn sách, và quyền tự do ngôn luận không bao giờ được sử dụng như một cớ để coi thường người khác, và việc cho phép điều này phải bị bác bỏ và lên án”. Đại diện Toà Thánh nói thêm: “Niềm tin tôn giáo là biểu hiện của việc tìm kiếm chân lý, ý nghĩa và mục đích sống của con người. Như thế, cố ý xúc phạm niềm tin tôn giáo, truyền thống và các đồ dùng thánh là một sự tấn công đến nhân phẩm của các tín đồ”.
Mặt khác, theo Đức ông Putzer, cần phải nhận thức đầy đủ hơn về thực tế “những người bất lương thường thực hiện các hành vi bất khoan dung tôn giáo, lạm dụng món quà quý giá là quyền tự do ngôn luận, để kích động phản ứng thái quá”. Do đó, chúng nuôi dưỡng “sự hận thù, bất khoan dung và bạo lực” trong một thế giới vốn đã bị đánh dấu bằng chiến tranh và xung đột, nơi tình huynh đệ là điều cần thiết để xoa dịu những vết thương của thời đại, như Đức Thánh Cha vẫn luôn nhắc lại.
Theo AFP ngày 28/6/2023: Cảnh sát Thụy Điển đã cho phép một số người xé và đốt Kinh Koran bên ngoài một thánh đường Hồi Giáo tại Thủ Đô Stockholm với lý do không có luật pháp nào ngăn cản tự do tư tưởng - mà đốt Kinh Koran hay đốt Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo là biểu hiện của tự do tư tưởng khiến gây nên phản ứng từ một số quốc gia Hồi Giáo khắp các nơi từ Thổ Nhĩ Kỳ, Iraq tới Pakistan và không biết sẽ có cuộc trả thù nào không.
Chúng ta đừng tưởng rằng “tôn giáo nào cũng vậy”. Khác biệt tôn giáo đưa tới khác biệt về lịch sử, văn hóa, đạo đức, lối sống v.v.. cho nên mới có phản ứng từ nhóm người nói trên mà họ là tín đồ Thiên Chúa Giáo. Bài viết “Nguy Cơ Khác Biệt Tôn Giáo” cách đây bốn năm vẫn còn giá trị để chúng ta suy nghĩ hầu tránh xung đột trong một thế giới đa nguyên và đa cực.
Cảnh Giác Với Bạo Lực Tôn Giáo
Vào ngày 21/4/2019 hãng Reuters loan tin, “Hơn 290 người chết và tối thiểu 500 bị thương trong bảy cuộc đánh bom liên tiếp vào ba nhà thờ Thiên Chúa Giáo và bốn khách sạng sang trọng tại miền đông Tích Lan (Sri Lanka) vào ngày hôm nay do nhóm cực đoan Quốc Gia Thowfeek Jamaath thực hiện và đây là cuộc tấn công đầu tiên lớn nhất vào hòn đảo ở Ấn Độ Dương kể từ khi cuộc nội chiến chấm dứt cách đây mười năm. Bảy người đã bị bắt vài giờ ngay sau những cuộc đánh bom mà các viên chức nói rằng một số là những tay đánh bom tự sát. Con số 27 người ngoại quốc chết có các quốc tịch như Hoa Kỳ, Hồi Quốc, Ấn Độ, Trung Hoa và Hà Lan. Nhà cầm quyền đã ban hành lệnh lệnh giới nghiêm tại Thủ Đô Colombo và ngăn chặn tất cả việc chuyển dịch tin tức trên các mạng lưới, kể cả Facebook và WhatsApp để ngăn ngừa việc loan truyền tin tức giả và làm dịu tình hình. Thủ tướng Tích Lan nói rằng không có chỗ cho một hành vi man rợ như vậy tại đây. Trong tổng số dân 22 triệu, Tích Lan có 70% theo Phật Giáo, 12.6% theo Ấn Độ Giáo, 9.7% theo Hồi Giáo và 7.6% theo Thiên Chúa Giáo. Vào năm 2018, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ghi nhận rằng một số tổ chức Thiên Chúa Giáo và nhà thờ báo cáo rằng họ đã bị áp lực phải chấm dứt những buổi hội họp, hành lễ sau khi chính quyền liệt kê đây là những cuộc tụ họp trái phép.”
Bạo lực vì khác biệt tôn giáo đang là vấn nạn toàn cầu như: Tại Iraq, Syria, A Phú Hãn các cuộc đánh bom tự sát diễn ra hằng ngày do xung đột giáo phái của Hồi Giáo. Rồi xung đột triền miên đưa tới nhiều cuộc thảm sát giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo khắp Phi Châu, Pakistan và Bangladesh. Tại Phi Luật Tân, xung đột giữa chính phủ và nhóm vũ trang Hồi Giáo kéo dài đã mấy chục năm nay. Tại nam Thái Lan, các nhóm vũ trang Hồi Giáo vẫn còn hoạt động âm ỉ chống lại chính quyền. Cuộc xung đột giữa tín đồ Phật Giáo và người Hồi Giáo Rohingya tại Miến Điện. Mới đây vào ngày 15/3/2019, một thanh niên Da Trắng 26 tuổi đã nổ súng tại một nhà thờ Hồi Giáo ở Tân Tây Lan giết chết 49 người chết và làm 20 người bị thương. Và ngày nay tới Tích Lan…và sẽ còn những vụ thảm sát dài dài như thế này nữa.
Theo nghiên cứu của PEW, “Trong năm 2018, hơn một phần tư thế giới đã phải chịu đựng những biến cố lớn về hận thù có động cơ thù ghét tôn giáo, bạo động của đám đông có liên hệ tới tín ngưỡng, khủng bố và xâm phạm phụ nữ vì họ vi phạm sự ngăn cấm của giáo điều tôn giáo.” (Pew, in 2018 more than a quarter of the world's countries experienced a high incidence of hostilities motivated by religious hatred, mob violence related to religion, terrorism, and harassment of women for violating religious codes.)
Hiện nay thế giới đang có sự tranh giành khốc liệt về quyền lực chính trị và cải đạo giữa các tôn giáo. Lịch sử chứng tỏ rằng khác tôn giáo là khác tất cả. Khác tôn giáo là khác biệt về lịch sử, văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, văn chương, truyền thống dân tộc, cơ cấu tổ chức xã hội, nề nếp gia đình, lễ nghi và cả tư tưởng và cách suy nghĩ. Một quốc gia sẽ thay đổi hoàn toàn khi từ tôn giáo này chuyển qua tôn giáo khác. Thí dụ, một quốc gia Hồi Giáo chuyển qua Thiên Chúa Giáo thì tất cả những người có công đàn áp, tiêu diệt Hồi Giáo sẽ trở thành anh hùng dân tộc và sẽ được phong thánh. Ngược lại, một quốc gia Thiên Chúa Giáo chuyển qua Hồi Giáo thì tất cả những người có công tiêu diệt Thiên Chúa Giáo cũng sẽ trở thành các anh hùng và sẽ được phong thánh.
Trong cùng một quốc gia, nhưng khác tôn giáo có thể trở thành “một quốc gia trong lòng một quốc gia”. Do đó một quốc gia có tôn giáo truyền thống đa số, chống lại một tôn giáo thiểu số ở trong nước, đang là một nhu cầu lúc công khai, lúc ngấm ngầm trên quy mô toàn thế giới để bảo vệ sự thống nhất và bản sắc dân tộc. Cho nên “Hòa đồng tôn giáo” chỉ là khẩu hiệu tuyên truyền và không bao giờ đạt thành. Liệu một tôn giáo thiểu số trong lòng một dân tộc có chấp nhận “thực tế “ của mình và sống hòa nhập với phong tục tập quán của đa số và chấp nhận sự lãnh đạo của đa số không? Không giải quyết được vấn đề này thì không thể nói tới “Hòa đồng tôn giáo.”
Tuy nhiên vấn đề không phải là vô vọng. Vấn nạn có thể giải quyết được nếu lãnh đạo các tôn giáo biết dạy dỗ tín đồ của mình:
- Nếu mình là tôn giáo thiểu số thì phải chấp nhận sống hòa thuận trong lòng dân tộc và không có tham vọng bành trướng để nắm lấy chính quyền. Thí dụ: Một cộng đồng thiểu số Thiên Chúa Giáo trong lòng một quốc gia mà đa số là Phật Giáo hay Hồi Giáo thì họ phải được giảng dạy là phải sống hòa thuận trong lòng dân tộc đó. Ngược lại thiểu số Phật Giáo và Hồi Giáo trong lòng một dân tộc đa số là Thiên Chúa Giáo hay Tin Lành cũng phải được giảng dạy để sống nhu thuận trong lòng quốc gia đó.
- Nếu mình là tôn giáo đa số thì không được kỳ thị, đàn áp tôn giáo thiểu số và phải coi họ như anh em một nhà.
- Phải giải trừ quan niệm hống hách cho rằng tôn giáo của mình, phong tục tập quán của mình là tối thượng, là tuyệt đối đúng. Chẳng hạn, người Âu Châu phải thấy rằng rằng quan điểm tự do luyến ái và tự do phô bày thân thể của phụ nữ có thể sai. Và buộc phụ nữ phải trùm kín mặt, không cho phụ nữ làm việc ngoài đời như Hồi Giáo cũng có thể sai.
- Các giáo sĩ phải chấm dứt thuyết giảng về những vấn đề chính trị tại nơi thờ phượng. Chuyện chính trị là chuyện của thế tục, không phải chuyện của tôn giáo. Phải ban hành đạo luật tách biệt tôn giáo với chính quyền (Separation of State and Church) như ở Hoa Kỳ. Tại Pháp, theo đạo luật tôn giáo năm 1905, một linh mục sẽ bị phạt tù nếu nói xấu chính quyền trên bục giảng của nhà thờ và linh mục không được phép làm lễ cưới cho đôi trai gái nếu họ chưa chính thức ký giấy kết hôn trước hộ lại.
- Vai trò của chính quyền cực kỳ quan trọng. Chính quyền phải có một hệ thống an ninh hữu hiệu để ngăn chặn, triệt phá những âm mưu bạo động phát xuất từ bất cứ tôn giáo nào. Và nhất là lãnh đạo không được có những hành động, tuyên bố kỳ thị tôn giáo.
Hiện nay hai chủ nghĩa “White Supremacy” (Da Trắng Là Ưu Việt ) và “Islamism” (Hồi Giáo Cực Đoan) đang gây thảm họa cho nhân loại. Cuối cùng thì lòng người, giáo sĩ, giáo lý là quan trọng nhất. Vì tôn giáo cực đoan sẽ đẻ ra giáo sĩ cực đoan, giáo sĩ cực đoan sẽ khích động tín đồ. Tín đồ cực đoan sẽ gây bạo loạn xã hội. Còn tôn giáo hiền lành đẻ ra giáo sĩ hiền lành. Giáo sĩ hiền lành thuyết giảng những điều tốt lành. Tín đồ hiền lành sẽ không gây bạo động và giết hại tín đồ các tôn giáo khác. Đó là “chuỗi nhân duyên” luân chuyển như một bánh xe. Muốn giải quyết mối liên hệ Nhân-Quả này phải dứt khoát chặt đứt một mắt xích nào đó. Nói suông thì…đâu vẫn hoàn đó, bạo lực và thù ghét vẫn tiếp tục sống khơi khơi trên cõi Ta Bà này cho đến ngày tận thế.
Hiện nay, tại Âu Châu - là những xứ tôn thờ “tự do tín ngưỡng” và họ đã ban hành lệnh trừng phạt, cấm vận nếu họ nhận thấy quốc gia nào vi phạm lý tưởng tự do tín ngưỡng. Thế nhưng tại sao hận thù chống lại Do Thái Giáo và Hồi Giáo lại gia tăng khắp Âu Châu? (Hostilities against Muslims and Jews also increased across Europe. PEW). Nguyên do là vì Hồi Giáo đã lấn quá sâu vào xã hội của họ và có nguy cơ Âu Châu không còn là Âu Châu nữa, tức bản sắc “Âu Châu Thiên Chúa Giáo” lâm nguy. Còn người Do Thái bị thù ghét là vì họ nắm giữ tất cả hệ thống tài chính tại đây, từ đó ảnh hưởng tới chính trị. Do đó, dùng lý tưởng để phê phán họ thì chúng ta đúng. Nhưng đối diện với thực tế “bảo vệ bản sắc dân tộc” thì chúng ta có thể là người “mơ ngủ”.
Nói chung, trước bối cảnh vô cùng phức tạp của thế giới ngày hôm nay, từng giây từng phút chúng ta phải cảnh giác với bạo lực và hận thù phát xuất từ tôn giáo. Bạo lực phát xuất từ tôn giáo đem lại hậu quả vô cùng thảm khốc. Chiến tranh, dù là “thế chiến” vẫn có hòa bình và sau chiến tranh sẽ không còn thù hận. Nhưng chiến tranh tôn giáo thì kéo dài vô tận, năm, mười thế kỷ thù hận vẫn chưa chấm dứt và “nghiệp” sẽ đổ dồn lên đầu nhiều thế hệ mai sau.
Đào Văn Bình
Đạo Thiên Chúa hay Đạo Công Giáo? – Hãy biệt phân biệt cho chính xác
Trong thực tế, nhiều người đã lầm lẫn khi dùng cụm từ “Đạo Thiên Chúa” hay "Thiên Chúa Giáo" để chỉ Đạo Công Giáo (Catholicism), tức là Đạo thánh mà chính Chúa Kitô đã rao giảng và thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Tông Đồ như phương tiện để loan truyền và mang ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi dân mọi nước cho đến ngày mãn thời gian. Đó là Đạo cứu rỗi mời gọi mọi người đón nhận để được sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trong Vương Quốc tình yêu của Ngài.
Xét về từ ngữ (terminology) thì danh xưng Đạo Thiên Chúa nghe có vẻ hợp lý vì mục đích tôn thờ Thiên Chúa là Chủ tể vạn vật và vũ trụ. Nhưng nếu đi sâu vào nội dung thần học, thì danh xưng này không phân biệt rõ đối tượng và mục đích tôn thờ của các tín hữu có cùng niềm tin vào Thiên Chúa (God) nói chung và Chúa Cứu Thế Giêsu nói riêng. Các tín hữu này hiện đang phân tán trong các Giáo Hội, hay Đạo, có danh xưng khác nhau như sau:
1. Do Thái Giáo (Judaism)
Do Thái Giáo, hay còn gọi là Đạo Maisen (Mosaic Religion), là Đạo tôn thờ Thiên Chúa Yahweh, là Cha của các Tổ Phụ Abraham, Isaac và Israel (Jacob). Ngài cũng là Đấng, qua tay ông Maisen, đã giải phóng cho dân Do Thái thoát ách thống khổ bên Ai Cập và mang họ vượt Biển Đỏ trở về quê hương an toàn. Và cũng qua trung gian ông Maisen, Thiên Chúa đã truyền cho dân Do Thái và cho cả nhân loại ngày nay Mười Điều Răn như giao ước phải thi hành để được chúc phúc và được sống với Thiên Chúa là tình thương. 
Tín hữu Do Thái thuộc Đạo này cho đến nay vẫn chỉ tôn thờ một Thiên Chúa Yahweh độc nhất mà thôi (monotheism). Họ không có ý niệm gì về một Thiên Chúa Ba Ngôi (The Holy Trinity) vì họ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, đã xuống thế làm Người để cứu chuộc nhân loại. Họ cũng không biết gì về Chúa Thánh Thần, mặc dù Kinh Thánh Cựu Ước có hé mở chút ánh sáng về Ba Ngôi Thiên Chúa qua trình thuật Ba người khách lạ đến thăm ông Abraham và được ông niềm nở đón tiếp dù không biết họ là ai (x. Stk 18:1-15).
Cũng vì không nhìn nhận Chúa Cứu Thế Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa và Phúc Âm của Người, nên Kinh Thánh của Do Thái Giáo chỉ có phần Cựu Ước mà thôi.
2. Công Giáo La Mã (Roman Catholicism)
Công Giáo La Mã, chính là Kitô Giáo, tức là Đạo Cứu Rỗi do Chúa Kitô khai sinh với việc Người xuống trần gian làm Con Người, đi rao giảng Tin Mừng, chữa lành và cuối cùng, chết trên thập giá để hoàn tất công cuộc cứu chuộc cho loài người khỏi chết vì tội. Đạo Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi cùng một bản thể (substance) và uy quyền như nhau. Thiên Chúa của Đạo Công Giáo là Thiên Chúa của Chúa Kitô (Christian God) và cũng là Thiên Chúa của các Tổ Phụ Do Thái. Do đó, Kinh Thánh của Giáo Hội Công Giáo gồm cả hai phần Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), với tổng cộng 72 Sách Thánh mà Giáo Hội Công Giáo dạy tín hữu phải đọc để nuôi dưỡng đời sống đức tin nhờ nghe Lời Chúa để biết sống theo đường lối của Người.
3. Chính Thống Giáo
Chính Thống Giáo là Nhánh Kitô Giáo Đông Phương (Eastern Orthodox Churches) đã tách ra khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ năm 1054 vì một số bất đồng về tín lý, phụng vụ và quyền bính. Cho đến nay, nhánh này vẫn chưa hiệp nhất trọn vẹn được với Giáo Hội Công Giáo La Mã dù cả hai bên đã có nhiều thiện chí và cố gắng để xích lại gần nhau. Công Giáo và Chính Thống đều có chung nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession) nên có chung các bí tích hữu hiệu như nhau, mặc dù vẫn chưa thể hiệp nhất được vì một trở ngại duy nhất là vấn đề quyền bình của Đấng thay mặt Chúa Kitô để cai trị Giáo Hội. Đó là quyền bính của Đức Thánh Cha, cũng là Giám Mục Rôma, mà anh em Chính Thống chưa công nhận.
4. Tin Lành (Protestantism)
Tin Lành là Nhánh Kitô Giáo đã ly khai khỏi Công Giáo và Chính Thống Giáo sau những cuộc cải cách (reformations) do Martin Luther chủ xướng tại Đức năm 1517, lan qua Pháp với John Calvin, Thụy Sĩ với Ulrich Zwingli. 
Nhưng chính nội bộ nhánh này sau đó cũng đã phân chia thành hàng ngàn các nhánh nhỏ khác nhau như Baptists, Methodists, Lutherans, Presbyterians, Episcopalians, Pentecostals, Quakers, Church of Christ .v.v Họ cũng tôn thờ một Thiên Chúa và tin Chúa Kitô là Cứu Chúa (Savior), cũng như lấy Kinh Thánh làm nền tảng cho niềm tin và sứ vụ giảng dạy (Preaching ministry), nhưng khác biệt với Công Giáo và Chính Thống Giáo về nhiều điểm căn bản liên quan đến thần học, bí tích, phụng vụ, quyền bính và Kinh Thánh (Họ giải thích Kinh Thánh theo cách hiểu riêng của họ). Thêm vào đó, cũng như Chính Thống Giáo, các nhánh Tin lành đều không công nhận vai trò và quyền bính tối cao của Đức Giáo Hoàng La Mã. Một điểm quan trọng nữa cần nói thêm là các nhánh Tin lành này đều không có nguồn gốc Tông Đồ (Apostolic succession), nên họ không có các bí tích như Công Giáo và Chính Thống, trừ phép Rửa mà đa số họ có.
5. Anh Giáo (Anglicanism)
Anh Giáo, tức nhóm Kitô Giáo đã tách khỏi Công Giáo La Mã vì sự bất mãn liên quan đến vấn đề hôn nhân của Vua Henry VIII trong thế kỷ XVI. Vua Henry này đã tuyên bố ly khai khỏi Công Giáo La Mã và tự phong làm thủ lãnh nhánh ly khai này. Nhóm này có tên chung là Anglican Communion, tức là Anh Giáo, hoàn toàn khác với Giáo Hội Anh Quốc (The Church of England) là Giáo Hội Công Giáo của nước Anh hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo La Mã (Rome). 
Lãnh đạo Anh giáo gặp Đức Thánh cha Phanxicô
Nhưng cách nay hơn mười năm, một biến chuyển mới trong liên hệ giữa Anh Giáo và Giáo Hội Công Giáo, là có một nhóm khá đông các tín hữu Anh giáo cùng với giáo sĩ của họ, đã xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Để đón mừng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm cựu Anh Giáo này, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16, ngày 09-11-2009, đã cho công bố Tông Thư "Anglicanorum coetibus" (Các tín hữu Anh Giáo) theo đó, Tòa Thánh cho phép thiết lập các Giáo Hạt tòng nhân trong ranh giới của một số Giáo Phận Công Giáo ở Anh Quốc và xứ Wales để cho các cựu tín hữu Anh giáo được cử hành các nghi thức phụng vụ và bí tích theo nghi thức của truyền thống Anh Giáo đã được Tòa Thánh phê chuẩn.
Ngày 15-1-2011, ba cựu giám mục Anh giáo đã được tấn phong linh mục Công Giáo tại Thánh Đường Westminster, Luân Đôn. Và một trong ba tân linh mục này, cha Keith Newton, đã được cử làm Quản hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, một Quản hạt tòng nhân đầu tiên mới được thành lập ngày 15-1 vừa qua để đón nhận các cựu tín hữu Anh Giáo gia nhập Giáo Hội Công Giáo.
Sở dĩ có việc truyền chức cho các cựu giám mục Anh Giáo là vì Giáo Hội Công Giáo không công nhận Anh Giáo có bí tích Truyền Chức hữu hiệu, nên các cựu linh mục và giám mục Anh Giáo, nếu muốn, đều phải xin thụ phong linh mục Công Giáo trước và sau này, có thể có linh mục được chọn làm giám mục Công Giáo.
Lại nữa, vì Anh Giáo cho các linh mục và giám mục của họ kết hôn, nên sau khi được thụ phong linh mục Công giáo, họ vẫn được phép tiếp tục sống với vợ con.
6. Đạo Hồi (Islam)
Ngoài ra, còn phải kể thêm một tôn giáo lớn nữa, cũng tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Đấng Allah. Đó là Đạo Hồi, do Muhammad sáng lập vào năm AD622.
![image.png]()
Từ ngữ Islam trong tiếng Ả Rập, có nghĩa là “Tuân phục ý muốn của Thiên Chúa = (Submission to the will of God)” nhưng Đạo này khác xa Đạo Do Thái, Công Giáo và các Nhánh Kitô Giáo nói trên về nhiều mặt. Thí dụ họ chỉ coi Chúa Giêsu là một người thường, một tiên tri như Abraham, Moses, Noah v.v và kinh thánh của họ là kinh Koran.
Như vậy, không có đạo nào gọi là Đạo Thiên Chúa (Deism) đúng nghĩa với danh xưng này cả vì trong thực tế, tất cả các Nhánh hay Đạo mang các danh xưng riêng biệt trên đây đều tôn thờ Thiên Chúa (God). nhưng với nội dung thần học khác nhau, kể cả khác biệt về phương thế thể hiện sự tôn thờ đó (Liturgy).
Nói khác đi, các Nhánh Kitô giáo và Do Thái giáo nói trên, tuy cùng tôn thờ Thiên Chúa, nhưng rất khác nhau về quan điểm thần học, bí tích, phụng vụ, mục vụ và quyền bình. Do đó, không thể gọi Đạo Công Giáo là Đạo Thiên Chúa cách chung được vì như vậy, sẽ lẫn lộn với các đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa nhưng khác nhau về nhiều điểm như đã nói trên đây.
TẠI SAO PHẢI GỌI KITÔ GIÁO LA MÃ LÀ ĐẠO CÔNG GIÁO? 
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhớ lại từ đầu Thiên Chúa (God) chỉ tỏ mình ra cho dân Do Thái và chọn dân này làm dân riêng mà thôi: “Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta” (Xh 19:5).
Như thế, trước khi Chúa Giêsu xuống thế làm Con Người, chỉ có dân Do Thái được biết Thiên Chúa Yahweh là Cha các Tổ Phụ của họ, là Đấng đã giải phóng họ và ban cho họ Mười Điều Răn làm Giao ước (Covenant) mà thôi. Ngoài Dân Do Thái ra, các dân khác đều là dân ngoại (gentiles) vì không biết Thiên Chúa Yahweh của dân Do Thái.
Nhưng sau khi Chúa Giêsu giáng sinh ở Bethlehem, Chúa đã tỏ mình ra cho các dân ngoại qua ánh sao lạ ở Phương Đông, mời gọi ba đạo sĩ dân ngoại đầu tiên đến thờ lạy Chúa (x. Mt 2:1-12). Sự kiện này đã nói lên nét phổ quát (universality) của ơn cứu độ. Nghĩa là ơn này được dành cho hết mọi dân tộc, không chỉ riêng cho dân Do Thái. Vì thế, trước ngày về trời Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông Đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19). 
Đây là lý do vì sao Đạo của Chúa Kitô (Christianity) được gọi là Đạo Công Giáo vì mục đích phổ quát của ơn cứu độ mà Chúa đã mang đến cho nhân loại qua Hy Tế thập giá của Người. Vì thế từ ngữ “Công giáo” ở đây có nghĩa là chung, là phổ quát (universal), dành cho hết moi người không phân biệt màu da, tiếng nói và văn hóa.
Như vậy từ ngữ “công giáo” (catholicam = catholique = catholic…..) không hề có nghĩa là công cộng (public) như có người không hiểu biết gì, nhưng đã có ác ý dịch ẩu Đạo Công Giáo sang tiếng Anh là Public Religion. Dịch như vậy cũng tương tự như người mới học tiếng Anh đã tự ý dịch nước đá (ice) là “water stone”!
Cũng vậy, nếu biết tiếng Anh đủ và có đọc sách vở viết bằng Anh ngữ về các thuật ngữ (terms) của Kitô Giáo, thì tội tổ tông, người Anh Mỹ gọi là Original sin, người Pháp gọi là Péché originel, người Tây Ban Nha gọi là Pecado original, chứ không ở đâu có từ ngữ “father’s sin” để chỉ tội tổ tông cả. Dịch kiểu này thì người Anh Mỹ không thể nào hiểu đúng ý của người dịch được.
Tóm lại, danh xưng phải chính xác về các vấn đề tôn giáo để tránh hiểu lầm hay xuyên tạc mục đích. Cụ thể, Đạo Công Giáo (Catholicism) là Đạo mà chính Chúa Giêsu đã khai sinh và giảng dạy để mang ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho mọi người thành tâm thiện chí muốn đón nhận để được cứu rỗi và sống đời đời. Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội duy nhất do Chúa Kitô đã thiết lập để tiếp tục rao giảng và chuyển chở ơn cứu độ đó đến cho những ai muốn tiếp nhận. Giáo Hội này được đặt dưới quyền lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng là Người duy nhất nối tiếp Sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa Kitô, với sự hiệp thông và vâng phục trọn vẹn của các Giám mục trong toàn Giáo Hội.
Đó là những nét đại cương để phân biệt Đạo và Giáo Hội Công Giáo với các Đạo cùng tôn thờ Thiên Chúa, nhưng đang hoạt động bên ngoài Giáo Hội Công Giáo.
Hướng dẫn đạo đức mới được Vatican phê duyệt: lấy nhân loại làm tập chú cho các đổi mới kỹ thuật
Theo Kevin J. Jones của hãng tin CNA, Một sách hướng dẫn đạo đức mới, dành cho ngành kỹ nghệ kỹ thuật và doanh nghiệp lớn được ra mắt với sự cộng tác của cơ quan giáo dục và văn hóa của Vatican, lên tiếng khuyên “đừng xây dựng tương lai một cách tồi tệ”.
![image.png]()
Cuốn hướng dẫn dày 140 trang, tựa là “Đạo đức trong thời đại công nghệ gián đoạn: Lộ trình hoạt động” cho biết các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI) và giám sát kỹ thuật số có những hậu quả đối với toàn xã hội loài người. Điều này có nghĩa là ngành kỹ nghệ kỹ thuật và doanh nghiệp lớn không thể bỏ qua mối quan tâm của con người và lý luận đạo đức về công việc, sản phẩm và dịch vụ của chúng.Cuốn hướng dẫn được công bố bởi Viện Kỹ thuật, Đạo đức và Văn hóa (ITEC) tại Đại học Santa Clara của tiểu bang California, một học viện Dòng Tên. Nó bao gồm một ghi chú giới thiệu của Đức Cha Paul Tighe, thư ký xuất thân từ Ái Nhĩ Lan của Bộ Văn hóa và Giáo dục.Đức Cha Tighe đã viết trong cuốn sách, “Đối với một số người, có thể là một ngạc nhiên khi phát hiện ra sự tham gia của Vatican vào dự án này, nhưng cuối cùng nó là kết quả của các cuộc hội ngộ - 'các cuộc gặp gỡ', như Đức Giáo Hoàng Phanxicô thích gọi - giữa Vatican và thế giới kỹ thuật.”Thánh bộ của Đức Cha Tighe là cơ quan của Vatican được giao nhiệm vụ khai triển các giá trị nhân bản trong bối cảnh Kitô giáo để thúc đẩy tinh thần môn đệ Kitô giáo.Ngài cho biết cuốn hướng dẫn này là kết quả của “mong muốn cổ vũ một cuộc đàm luận toàn diện giữa lĩnh vực kỹ thuật và cộng đồng nhân bản rộng lớn hơn mà tương lai của nó sẽ được định hình theo nhiều cách bởi các quyết định của những người đang quản lý sự đổi mới. Đây là một cuộc đàm luận phải bao gồm những người thuộc các quốc tịch khác nhau, các nền văn hóa khác nhau và các tín ngưỡng khác nhau và không có tín ngưỡng nào, để chúng ta cùng nhau học cách xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người.”Cuốn hướng dẫn này dành cho các doanh nghiệp tập đoàn. Nó đưa ra các đề xuất cụ thể về các vấn đề kỹ thuật như trí tuệ nhân tạo, máy học, mật mã hóa, an toàn, quyền riêng tư dữ kiện và giám sát kỹ thuật số. Nó cũng cung cấp một lộ trình hoạt động để bảo đảm cho các kỹ thuật mới được điều chỉnh phù hợp với các nguyên tắc và thông lệ đạo đức.Trong một tuyên bố ngày 28 tháng 6, Đại học Santa Clara cho biết cuốn hứơng dẫn đạo đức này là ấn phẩm đầu tiên của Viện Kỹ thuật, Đạo đức và Văn hóa, bản thân nó là một sáng kiến mới của Trung tâm Đạo đức Ứng dụng Markkula của Đại học Santa Clara. Bản thân học viện được phát triển với sự hỗ trợ của Bộ Văn hóa và Giáo dục của Vatican. Cuốn hướng dẫn của ITEC nhằm mục đích thúc đẩy suy nghĩ sâu sắc hơn về việc kỹ thuật tác động ra sao đến nhân loại bằng cách tập hợp các nhà lãnh đạo từ doanh nghiệp, xã hội dân sự, học thuật, chính phủ và các truyền thống tôn giáo.Cuốn hướng dẫn của ITEC cho biết trong phần giới thiệu “Nếu chúng ta xây dựng tương lai một cách tồi tệ, chúng ta sẽ sống trong một thế giới tồi tệ,”. Nó nhận định rằng nhiều sản phẩm và dịch vụ đang tích hợp các kỹ thuật mới xuất hiện với rủi ro đạo đức cần được giảm thiểu.Cuốn hướng dẫn nhằm mục đích trở thành tài liệu tham khảo cho nhiều đối tượng độc giả: giám đốc điều hành kinh doanh cấp cao, cố vấn pháp lý doanh nghiệp, người vận động cho đạo đức kỹ thuật, giám đốc điều hành và quản trị viên các nguồn lực con người, giám đốc điều hành và quản trị viên có nhiệm vụ giám sát sản phẩm và chu kỳ phục vụ sự sống.Các đồng tác giả của cuốn hướng dẫn này là Brian Patrick Green, giám đốc Đạo đức Kỹ thuật tại Trung tâm Markkula; José Roger Flahaux, cựu giám đốc kỹ thuật; và Ann Gregg Skeet, giám đốc cấp cao về đạo đức lãnh đạo tại Trung tâm Markkula.Green cho biết trong một tuyên bố hôm thứ Tư: “Chúng tôi rất vui mừng được cung cấp tài nguyên này cho các tổ chức đang cố gắng điều chỉnh những tiến bộ kỹ thuật của họ theo các nguyên tắc đạo đức. Ông nói rằng các tổ chức có thể “xây dựng niềm tin, thúc đẩy đổi mới và tạo ra tác động xã hội tích cực” bằng cách tích hợp các xem xét đạo đức.Lời giới thiệu của Đức Cha Tighe mô tả sách hướng dẫn này như kết quả của “sự hợp tác phần nào khó xảy ra” giữa Trung tâm Markkula, các chuyên gia kỹ thuật và quản trị, và Trung tâm Văn hóa Kỹ thuật số thuộc Bộ Văn hóa và Giáo dục.Vị giám mục này suy nghĩ về các cuộc gặp của ngài với các đại diện có kinh nghiệm của Thung lũng Silicon, bao gồm cả những người liên quan đến trí tuệ nhân tạo và máy học. Ngài nói rằng ngài có ấn tượng trước “mong muốn duy trì các tiêu chuẩn đạo đức cao cho bản thân và cho ngành của họ.” Nhiều sáng kiến của ngành kỹ nghệ kỹ thuật nhằm mục đích bảo đảm để kỹ thuật phục vụ nhân loại, “lấy con người làm trung tâm”, “cởi mở” và “có đạo đức trong thiết kế”.Đức Cha Tighe viết: “Mong muốn duy trì các tiêu chuẩn đạo đức này phản ảnh cả cam kết nội tại để làm điều tốt và sự ác cảm thực tiễn đối với nguy cơ thiệt hại về uy tín và tổn hại thương mại lâu dài”.Ngài nói thêm: “Điều thực sự đáng chú ý là mức độ đồng thuận đã xuất hiện trong việc xác định các giá trị đạo đức sẽ định hướng cho nghiên cứu và phát triển kỹ thuật”. Trong số nhiều tổ chức và công ty khác nhau, ngài nhìn thấy các giá trị chung như “bao gồm, minh bạch, an toàn, công bằng, quyền riêng tư và độ tin cậy” là trọng tâm của cả việc đổi mới kỹ thuật lẫn các tuyên bố về giá trị của tổ chức.Ngài nói rằng cuốn hướng dẫn này công nhận sự đa dạng về niềm tin và các giá trị của những người làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật và “kêu gọi những lý tưởng và giá trị nhân bản căn bản có thể và đã có được sự chấp nhận chung.”Theo quan điểm của Đức Cha Tighe, cuốn hướng dẫn đạo đức này xuất phát từ mong muốn giúp “các giám đốc điều hành có động lực cao và có thiện chí” đưa các nguyên tắc chung đó vào nền văn hóa công ty và ngành kỹ nghệ của họ. Nó nhằm nhận diện việc làm cách nào để bảo đảm “việc tập chú nhất quán và có chủ ý vào đạo đức” trong quá trình ra quyết định và hoạt động của công ty. Nó cũng là một công việc đang được tiến hành và sẽ được cập nhật và mở rộng dựa trên phản hồi từ những người tham khảo và sử dụng nó.Cuốn hướng dẫn cung cấp một khuôn khổ bao quát cho tư tưởng đạo đức.Nó nêu làm “nguyên tắc nền tảng” ý tưởng cho rằng các hành động của chúng ta là “vì lợi ích chung của nhân loại và môi trường.” Nó phác thảo bảy nguyên tắc hướng dẫn để giúp áp dụng nguyên tắc gốc này: tôn trọng phẩm giá và quyền con người; thúc đẩy hạnh phúc con người; đầu tư cho con người; thúc đẩy công lý, tiếp cận, đa dạng, công bằng và hòa nhập; nhìn nhận rằng “Trái đất là dành cho tất mọi sự sống”; trách nhiệm giải trình; và tính minh bạch và khả thể giải thích được.Trong phần kết luận, cuốn hướng dẫn của ITEC cho biết, “Đạo đức là theo đuổi điều tốt và tránh làm điều sai trái. Đó là việc phải sống cuộc sống của mình và chung sống với những người khác ra sao theo cách cuối cùng mang lại lợi ích cho mọi người. Đạo đức mang lại lợi ích cho tổ chức, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, mang lại lợi ích cho mọi người và mang lại lợi ích cho môi trường. Nhưng một lần nữa, đạo đức không thể làm được gì nếu con người không hiện thân nó trong cuộc sống của chính họ.”Mặc dù các doanh nghiệp không thể tự mình tạo nên một xã hội có đạo đức, nhưng cuốn hướng dẫn này cho biết, “họ cũng không được tự do trốn tránh thực hiện phần của mình.”Trong số các nội dung khác của cuốn hướng dẫn, có một phụ lục tóm tắt cách Microsoft, IBM và Google tiếp cận các nguyên tắc và đạo đức trí tuệ nhân tạo.Sổ tay có sẵn trên trang mạng của ITEC [Viện Kỹ thuật, Đạo đức và Văn hóa], https://www.scu.edu/institute-for-technology-ethics-and-culture/.
![image.png]()
![image.png]()