Chi tiết | Pháp tu khổ hạnh | 12 Hạnh Đầu Đà |
Ăn | Nhịn ăn, ăn rất ít | Ăn ngày 1 bữa |
Mặc | Mặc tối giản. Có khi khỏa thân không mặc quần áo hay dùng lá cây tạm che thân | Sử dụng những miếng vải bỏ đi chắp vá lại thành y. Chỉ dùng 3 y không nhận thêm y thứ 4 |
Hành xác | Bằng nhiều hình thức quái dị: trồng cây chuối, treo thân trên cây, thoa phân bò khắp người, lấy gai làm giường, mùa đông ngủ ngoài trời giá lạnh, mùa hè nằm phơi ra nắng cháy… | Không có *Hành giả Minh Tuệ có thực hành thêm: ăn chay, để đầu trần, đi chân đất (mặc dù không thuộc quy định bắt buộc trong 13 hạnh) |
Khất thực | Không | Đi khất thực hóa duyên từng nhà |
Vệ sinh | Không tắm, sống như súc vật | Có, tuy ít hơn bình thường |
5. Câu chuyện giữa Đức Phật, Tôn giả A nan và Thiên Ma Ba Tuần liên quan đến cái chết của mình:
Đây là đoạn xảy ra trước khi gặp Cunda để thọ dụng:
Khi đức Phật đi đến ngôi tháp Già-ba-La, Ngài bảo Tôn-giả trải tọa-cụ dưới gốc cây để Ngài nghỉ tại đấy, khi Tôn-giả trải tọa-cụ xong, đức Phật an tọa rồi bảo:
- Này A-Nan, người nào thường xuyên tu tập bốn món thần-túc, có thể tùy ý muốn sống đến một kiếp hay hơn một kiếp cũng được. Này A-Nan, Như-Lai đã nhiều lần tu tập bốn món thần-túc này, chuyên chú nhớ mãi không quên. Bởi vậy cho nên Như-Lai tùy ý muốn sống một kiếp hay hơn một kiếp cũng được để diệt trừ sự tăm tối cho đời, đem lại lợi ích cho Người và Trời.
Lúc đó Tôn-giả A-nan-Đà nghe rồi làm thinh không thưa hỏi nói năng chi cả, Đức Phật lại nói lần thứ hai, Tôn-giả vẫn làm thinh; Đức Phật lại nói y như thế lần thứ ba, Tôn-giả cũng vẫn làm thinh, vì lúc đó bị ma si ám, mê man không hiểu để thưa thỉnh, rồi đức Phật bảo:
- Này A-Nan nên biết, nay đã phải thời (đến giờ).
Tôn-giả A-nan-Đà vâng ý chỉ, đứng dậy đảnh lễ rồi lui ra, đến một gốc cây không xa ngồi thiền;
Chỉ trong chốc lát Ma Ba-Tuần đến thưa với Phật (lần 1):
- Sao Ngài chưa sớm vào Niết-Bàn?, nay đã đúng thời rồi, xin Ngài mau diệt độ.
- Thôi, thôi Ba-Tuần, ngươi đừng nói nữa, Ta đã tự biết thời. Như-Lai giờ đây chưa vội vào Niết-Bàn, vì Ta cần đợi các Tỳ-kheo về đông đủ; trong số đó có những đệ tử đã khéo chế ngự được thân tâm, mạnh dạn không khiếp sợ, họ thường sống trong an ổn. Họ không những việc lợi mình đã làm xong, mà còn làm thầy để dẫn dắt kẻ khác, hiện đang truyền bá chính pháp, giảng giải nghĩa lý; nếu họ gặp chủ thuyết ngoại đạo, họ đủ sức đem chính pháp và sự tự chứng ngộ cùng thần biến của mình ra để hàng phục chúng, nhưng mà những đệ-tử ấy chưa về. Lại có những Tỳ-kheo (Tăng), Tỳ-kheo Ni (Ni), Ưu-Bà Tắc (Cư-sĩ Nam), Ưu-Bà Di (Cư-sĩ Nữ) cũng chưa quy tụ; vả lại Ta muốn truyền phạm hạnh một cách sâu rộng, và phổ biến giáo lý giác ngộ cho hàng Trời-Người đều biết và thấy thần biến.
Ma Ba-Tuần thưa (lần 2):
- Khi xưa, Ngài ở bên bờ sông Ni-Liên-Thuyền thuộc xứ Uất-Tỳ-La, và lúc ở dưới gốc cây A-du-Ba-Ni-câu-Luật khi Ngài mới thành đạo Chính-Giác, những lúc ấy tôi đã đến thỉnh Ngài nên vào Niết-Bàn; nay đã đúng lúc rồi, vậy xin Ngài hãy mau mau diệt độ.
Đức Phật lại trả lời:
- Thôi, thôi, Ba-Tuần, Ta tự biết thời, Như-Lai chưa vội vào Niết-Bàn, mà cần đợi các đệ-tử trở về, và cho đến hàng Trời-Người đều biết và thấy được thần biến, Ta mới nhập diệt.
Ma Ba-Tuần lại thưa (lần 3):
- Thưa Ngài, nay các đệ-tử của Ngài đã nhóm họp, và cho đến hàng Trời - Người đã thấy thần biến, nay đã đúng lúc rồi, sao Ngài chưa diệt độ?
Đức Phật bảo:
- Thôi, thôi, Ba-Tuần, Ta tự biết thời, còn không bao lâu nữa, sau ba tháng này, Ta sẽ ở nơi sinh quán đời trước của Ta, giữa cây Long-Thọ, trong rừng Ta-La thuộc xứ Câu-thi-La mà nhập Niết-Bàn.
Lúc ấy Ma Ba-Tuần nghĩ: “Phật không bao giờ đổi ý, không bao giờ nói dối, và chắc chắn là Ngài sẽ diệt độ”, nên vui mừng nhảy nhót rồi biến mất.
Sau khi Ma Ba-Tuần biến đi không lâu, đức Phật nhập định Ý-tam-Muội mà xả bỏ tuổi thọ; ngay lúc đó cõi đất rung động mạnh, nhân dân cả nước đều kinh sợ, lông tóc dựng ngược....
Sáng hôm sau, đức Phật bảo Tôn-giả A-nan-Đà đến Hương-Pháp nhóm họp hết thảy các Tỳ- kheo chung quanh vùng đến giảng đường Hương-Pháp. Tại đấy, đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
- Ta do những Pháp sau đây mà tự chứng ngộ thành bậc Chính-Đẳng Chính-Giác, đó là: “Bốn Niệm-Xứ, Bốn Ý-Đoạn, Bốn Thần-Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bẩy Giác-Chi, và Tám Chính-Đạo”. Vậy các thầy hãy ở trong giáo-pháp ấy siêng năng tu học, cùng nhau hưng say (hưng thịnh say sưa) phát triển. Các thầy hãy khéo thụ trì tùy theo trường hợp mà tu hành, tại sao vậy?, vì không bao lâu nữa, Như-Lai, sau ba tháng sẽ nhập Niết-Bàn.
Các Tỳ-kheo nghe Phật nói như thế, hết sức sửng sốt kinh hoàng, hoang mang tột độ, gieo mình xuống đất, giậm chân đập tay, cất tiếng kêu than: “Tại sao đức Thế-Tôn diệt độ quá sớm? Tại sao con mắt thế-gian diệt mất quá mau? Tại sao đức Thế-Tôn bỏ chúng con bơ vơ? Chúng con sẽ không còn nhìn thấy đức Thế-Tôn nữa. Chúng con sẽ mất đức Thế-Tôn mãi mãi v.v.”
Có Tỳ-kheo thương cảm lăn lóc, cũng như rắn bị chém đứt làm hai, quằn quại, run rẩy, ngẩn ngơ, không còn biết gì cả.
Một lúc trôi qua như thế, đức Phật bảo:
- Các thầy hãy dừng cơn bi lụy, chớ ôm lòng sầu muộn, vì từ Trời, Đất cho đến chư Thiên, Người, Vật, không một cái gì là không thành trụ hoại diệt (sinh ra, phát triển, biến dạng, diệt mất), không một sinh vật nào sinh ra mà không chết đi. Nếu các thầy muốn cho các pháp hữu vi không biến dịch thì không được. Hơn nữa trước đây Ta đã từng giảng rằng: “Ân ái là vô thường, nếu có xum họp ắt phải có chia lìa, nhất là thân này không phải của ta, mạng sống không tồn tại mãi mãi được”.
Rồi Ngài nói tiếp:
- Ta sở dĩ khuyên bảo như thế vì tối hôm qua Thiên-Ma Ba-Tuần đã đến thỉnh Ta nhập Niết-Bàn ba lần, tới lần thứ ba Ta đã chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, và sau đó Ta đã xả bỏ tuổi thọ rồi.
Bấy giờ Tôn-giả A-nan-Đà đứng dậy, quỳ gối phải, chắp tay thưa:
- Cầu mong đức Thế-Tôn thương xót chúng-sanh, hãy sống thêm một kiếp, không nên diệt độ sớm, để làm lợi ích cho Trời và Người.
Khi ấy đức Phật im lặng không đáp, Tôn-giả A-nan-Đà thưa thỉnh lần thứ hai, đức Phật cũng vẫn im lặng, Tôn-giả thưa thỉnh lần thứ ba, lúc ấy đức Phật mới nói:
- Này A-Nan, thầy ba lần làm phiền Ta, Thầy đã đích thân nghe từ Như-Lai nói là người nào tu tập bốn pháp như-ý-túc một cách chuyên chú không quên, nên tùy ý muốn kéo dài mạng sống trong một kiếp hay hơn một kiếp cũng được. Như-Lai đã tu tập bốn pháp như-ý-túc một cách chuyên chú không quên, có thể tùy ý kéo dài tuổi thọ trong một kiếp hay hơn một kiếp, Thầy đã được Ta nhắc đi nhắc lại tới ba lần như thế; tại sao lúc ấy thầy không thỉnh cầu Như-Lai sống một kiếp hay hơn một kiếp? Nay thầy mới nói há không trễ muộn hay sao? Ta ba lần hiện tướng, thầy ba lần làm thinh. Sau đó không lâu, Thiên-Ma tới, thỉnh cầu Ta nhập Niết-Bàn ba lần, Ta đã hứa với Thiên-Ma, và Ta đã xả bỏ tuổi thọ tối hôm qua; một khi đã xả bỏ, nhổ bỏ, mà muốn cho Như-Lai hành động trái với lời nói của mình sẽ không bao giờ có sự kiện ấy.
* Ở trên đây ta thấy có Đức phật ngỏ ý muốn sống thêm cho trọn kiếp hay hơn một kiếp (kalpa: vô số năm đếm không xuể, xấp xỉ: 10^14 năm) nhưng bị sức ép bị hay ngăn trở bởi:
1/ Thiên Ma Ba Tuần thúc giục Phật sớm diệt độ và lời hứa của Ngài:5. Câu chuyện giữa Đức Phật, Tôn giả A nan và Thiên Ma Ba Tuần liên quan đến cái chết của mình:
Đây là đoạn xảy ra trước khi gặp Cunda để thọ dụng:
Khi đức Phật đi đến ngôi tháp Già ba La, Ngài bảo Tôn giả trải tọa cụ (“niṣidana”: là tấm vải nhỏ để trải ra ngồi thiền, có chỗ dịch là võng) dưới gốc cây để Ngài nghỉ tại đấy, khi Tôn giả trải tọa cụ xong, đức Phật an tọa rồi bảo:
- Này A-Nan, người nào thường xuyên tu tập bốn món thần túc, có thể tùy ý muốn sống đến một kiếp hay hơn một kiếp cũng được. Này A Nan, Như Lai đã nhiều lần tu tập bốn món thần túc này, chuyên chú nhớ mãi không quên. Bởi vậy cho nên Như-Lai tùy ý muốn sống một kiếp hay hơn một kiếp cũng được để diệt trừ sự tăm tối cho đời, đem lại lợi ích cho Người và Trời.
Lúc đó Tôn giả A nan Đà nghe rồi làm thinh không thưa hỏi nói năng chi cả, Đức Phật lại nói lần thứ hai, Tôn giả vẫn làm thinh; Đức Phật lại nói y như thế lần thứ ba, Tôn giả cũng vẫn làm thinh, vì lúc đó bị ma si ám, mê man không hiểu để thưa thỉnh, rồi đức Phật bảo:
- Này A-Nan nên biết, nay đã phải thời (đến giờ).
Tôn-giả A-nan-Đà vâng ý chỉ, đứng dậy đảnh lễ rồi lui ra, đến một gốc cây không xa ngồi thiền;
Chỉ trong chốc lát Ma Ba-Tuần đến thưa với Phật (lần 1):
- Sao Ngài chưa sớm vào Niết bàn? nay đã đúng thời rồi, xin Ngài mau diệt độ.
- Thôi, thôi Ba Tuần, ngươi đừng nói nữa, Ta đã tự biết thời. Như Lai giờ đây chưa vội vào Niết bàn, vì Ta cần đợi các Tỳ kheo về đông đủ; trong số đó có những đệ tử đã khéo chế ngự được thân tâm, mạnh dạn không khiếp sợ, họ thường sống trong an ổn. Họ không những việc lợi mình đã làm xong, mà còn làm thầy để dẫn dắt kẻ khác, hiện đang truyền bá chính pháp, giảng giải nghĩa lý; nếu họ gặp chủ thuyết ngoại đạo, họ đủ sức đem chính pháp và sự tự chứng ngộ cùng thần biến của mình ra để hàng phục chúng, nhưng mà những đệ tử ấy chưa về. Lại có những Tỳ kheo (Tăng), Tỳ kheo Ni (Ni), Ưu Bà Tắc (Cư sĩ Nam), Ưu Bà Di (Cư sĩ Nữ) cũng chưa quy tụ; vả lại Ta muốn truyền phạm hạnh một cách sâu rộng, và phổ biến giáo lý giác ngộ cho hàng Trời-Người đều biết và thấy thần biến.
Ma Ba-Tuần thưa (lần 2):
- Khi xưa, Ngài ở bên bờ sông Ni LiênThuyền thuộc xứ Uất Tỳ La, và lúc ở dưới gốc cây A du Ba Ni câuLuật khi Ngài mới thành đạo Chính-Giác, những lúc ấy tôi đã đến thỉnh Ngài nên vào Niết bàn; nay đã đúng lúc rồi, vậy xin Ngài hãy mau mau diệt độ.
Đức Phật lại trả lời:
- Thôi, thôi, Ba Tuần, Ta tự biết thời, Như Lai chưa vội vào Niết bàn, mà cần đợi các đệ tử trở về, và cho đến hàng Trời Người đều biết và thấy được thần biến, Ta mới nhập diệt.
Ma BaTuần lại thưa (lần 3):
- Thưa Ngài, nay các đệ-tử của Ngài đã nhóm họp, và cho đến hàng Trời - Người đã thấy thần biến, nay đã đúng lúc rồi, sao Ngài chưa diệt độ?
Đức Phật bảo:
- Thôi, thôi, Ba Tuần, Ta tự biết thời, còn không bao lâu nữa, sau 3 tháng này, Ta sẽ ở nơi sinh quán đời trước của Ta, giữa cây Long Thọ, trong rừng Ta La thuộc xứ Câu thiLa mà nhập Niết bàn.
Lúc ấy Ma Ba Tuần nghĩ: “Phật không bao giờ đổi ý, không bao giờ nói dối, và chắc chắn là Ngài sẽ diệt độ”, nên vui mừng nhảy nhót rồi biến mất.
Sau khi Ma Ba-Tuần biến đi không lâu, đức Phật nhập định Ý-tam-Muội mà xả bỏ tuổi thọ; ngay lúc đó cõi đất rung động mạnh, nhân dân cả nước đều kinh sợ, lông tóc dựng ngược....
Sáng hôm sau, đức Phật bảo Tôn-giả A-nan-Đà đến Hương Pháp nhóm họp hết thảy các Tỳ kheo chung quanh vùng đến giảng đường Hương Pháp. Tại đấy, đức Phật dạy các Tỳ kheo:
- Ta do những Pháp sau đây mà tự chứng ngộ thành bậc Chính Đẳng Chính Giác, đó là: “Bốn Niệm Xứ, Bốn Ý Đoạn, Bốn Thần Túc, Bốn Thiền, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác Chi, và Tám Chính Đạo”. Vậy các thầy hãy ở trong giáo pháp ấy siêng năng tu học, cùng nhau hưng say (hưng thịnh say sưa) phát triển. Các thầy hãy khéo thụ trì tùy theo trường hợp mà tu hành, tại sao vậy?, vì không bao lâu nữa, Như Lai, sau 3 tháng sẽ nhập Niết bàn.
Các Tỳ kheo nghe Phật nói như thế, hết sức sửng sốt kinh hoàng, hoang mang tột độ, gieo mình xuống đất, giậm chân đập tay, cất tiếng kêu than: “Tại sao đức Thế Tôn diệt độ quá sớm? Tại sao con mắt thế gian diệt mất quá mau? Tại sao đức Thế Tôn bỏ chúng con bơ vơ? Chúng con sẽ không còn nhìn thấy đức Thế Tôn nữa. Chúng con sẽ mất đức Thế Tôn mãi mãi v.v.”
Có Tỳ kheo thương cảm lăn lóc, cũng như rắn bị chém đứt làm hai, quằn quại, run rẩy, ngẩn ngơ, không còn biết gì cả.
Một lúc trôi qua như thế, đức Phật bảo:
- Các thầy hãy dừng cơn bi lụy, chớ ôm lòng sầu muộn, vì từ Trời, Đất cho đến chư Thiên, Người, Vật, không một cái gì là không thành trụ hoại diệt (sinh ra, phát triển, biến dạng, diệt mất), không một sinh vật nào sinh ra mà không chết đi. Nếu các thầy muốn cho các pháp hữu vi không biến dịch thì không được. Hơn nữa trước đây Ta đã từng giảng rằng: “Ân ái là vô thường, nếu có xum họp ắt phải có chia lìa, nhất là thân này không phải của ta, mạng sống không tồn tại mãi mãi được”.
Rồi Ngài nói tiếp:
- Ta sở dĩ khuyên bảo như thế vì tối hôm qua Thiên Ma Ba Tuần đã đến thỉnh Ta nhập Niết bàn ba lần, tới lần thứ ba Ta đã chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, và sau đó Ta đã xả bỏ tuổi thọ rồi.
Bấy giờ Tôn giả A nan Đà đứng dậy, quỳ gối phải, chắp tay thưa:
- Cầu mong đức Thế-Tôn thương xót chúng sanh, hãy sống thêm một kiếp, không nên diệt độ sớm, để làm lợi ích cho Trời và Người.
Khi ấy đức Phật im lặng không đáp, Tôn giả A nan Đà thưa thỉnh lần thứ hai, đức Phật cũng vẫn im lặng, Tôn giả thưa thỉnh lần thứ ba, lúc ấy đức Phật mới nói:
- Này A Nan, thầy ba lần làm phiền Ta, Thầy đã đích thân nghe từ Như Lai nói là người nào tu tập bốn pháp Như ý túc một cách chuyên chú không quên, nên tùy ý muốn kéo dài mạng sống trong một kiếp hay hơn một kiếp cũng được. Như-Lai đã tu tập bốn pháp Như ý túc một cách chuyên chú không quên, có thể tùy ý kéo dài tuổi thọ trong một kiếp hay hơn một kiếp, Thầy đã được Ta nhắc đi nhắc lại tới ba lần như thế; tại sao lúc ấy thầy không thỉnh cầu Như-Lai sống một kiếp hay hơn một kiếp? Nay thầy mới nói há không trễ muộn hay sao? Ta ba lần hiện tướng, thầy 3 lần làm thinh. Sau đó không lâu, Thiên Ma tới, thỉnh cầu Ta nhập Niết bàn 3 lần, Ta đã hứa với Thiên Ma, và Ta đã xả bỏ tuổi thọ tối hôm qua; một khi đã xả bỏ, nhổ bỏ, mà muốn cho Như Lai hành động trái với lời nói của mình sẽ không bao giờ có sự kiện ấy.
* Ở trên đây ta thấy có Đức phật ngỏ ý muốn sống thêm cho trọn kiếp hay hơn một kiếp (kalpa: rất nhiều năm, xấp xỉ: 10^14 năm, mức thọ mệnh dài nhất trong tiểu kiếp là 84.000 tuổi) nhưng bị sức ép bị hay ngăn trở bởi:
1. Thiên Ma Ba Tuần thúc giục Phật sớm diệt độ và Ngài đã hứa...:
Thiên ma Ba Tuần là Ma Vương trú ngụ và cai quản cõi Trời thứ sáu - cõi Trời Tha Hóa Tự Tại (cõi Trời cao nhất trong cõi Trời Dục Giới).