[CBC,Ba Con Mèo,Ba Trái Táo,Sao Xanh,Mây Trắng]
Nhiều ca sĩ trẻ tên tuổi gắn liền với ban nhạc mà mình thành lập (hay cộng tác).Cũng có ban nhạc nổi tiếng mà không có sự vượt trội nào trong các thành viên.Thường thì những ban nhạc trẻ không bền lâu ,không hẳn bởi già đi,mà do chưa định hình bền vững,nhất là khi các thành viên đến tuổi lập gia đình.Nhưng dù lâu hay mau,còn tồn tại hay là đã rã đám,một số ban nhạc trẻ và các thành viên của nó vẫn còn in bóng trong lòng người hâm mộ nhạc trẻ ngày xưa,thời thập niên 60_70.
Trở
ngược lại thời gian hơn 40 năm trước, khi quân viển chinh Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, bên cạnh “bài ca tự do dân chủ” + … súng ống, những chú Sam còn mang theo vào miền Nam Việt Nam văn hóa lối sống kiểu Mỹ. Với tâm lý chung của đa số giới trẻ ở SG vốn đang quen văn hóa Pháp, thì văn hóa Mỹ là kiểu một văn hóa thực dụng + lối sống thô thiển. Thế nên đa số là dị ứng và khinh thị với những điều đó. Và cũng thế, trong đời sống văn hoá giải trí, nhất là âm nhạc thì tầng lớp SV HS ở Sài Gòn vẫn tiếp tục nghe nhạc Pháp như một kiểu phản kháng lại điều mình khinh thị. Âm nhạc từ những nhóm của Pháp như Les Chaussettes Noires, của Eddie Mitchell và Francoise Hardy vẫn được giới trẻ ưa chuộng và theo đuổi, và với những người chơi
nhạc, nếu có thành lập ban nhạc nghiệp dư thì cũng nặng chất thân Pháp (francophone), cụ thể như các nhóm Les Fanatiques (Công Thành), Les Pénitents (Ngọc Tuấn, Nguyễn Kiên, Trần Văn Phúc, Tuấn Khanh), Les Vampires (Đức Huy, Elvis Phương) toàn lấy tên Tây và hát nhạc Tây;
Sinh hoạt của họ đóng khung trong việc giải trí ngoài giờ học, diễn ngay tại trường hoặc tại Cercle Sportif (Nhà Văn Hóa Lao Động ngày nay). Và cứ thế họ vẫn trung thành với những gì mình chọn lựa cho đến ít năm sau… khi nhạc Mỹ bắt đầu len lỏi được vào đầu óc những chàng trai ấy, và việc này cũng có nguyên nhân đáng bàn.
Nguyên nhân thứ nhất: Thuần túy là chuyên môn, khi tiếp xúc với nhạc Mỹ dân chơi nhạc Sài Gòn chợt nhận ra rằng nhạc pop Pháp chỉ là bản sao của
RockN’Roll Anh - Mỹ mà thôi, và chẳng lẽ ta lại đi sao thêm một lần nữa (!?). Những tinh túy thật sự của nhạc trẻ phải đến từ The Shadows, The Ventures, Elvis Presley và The Beatles…
Nguyên nhân thứ hai: là cơn sốt công nghệ giải trí ở Miền Nam: cô cậu nào mới lớn cũng muốn có việc làm và tiền xài, mà cách dễ dàng nhất đối với những người có năng khiếu là vào chơi nhạc cho các clubs đang thi nhau mọc như nấm.
Như vậy, từ chỗ bị khinh thị, rẻ rúng, nhạc Rock Anh - Mỹ đã len lỏi dần vào nhịp sống của một bộ phận không nhỏ thanh niên miền Nam ngày ấy, và ngay cả bản thân những người chơi nhạc thời ấy cũng không thể lường trước được sự ảnh hưởng to lớn của nó đến bản thân họ và đến thế hệ trẻ ngày nay là
như thế nào, khi mà thế giới cũng bắt đầu lên cơn sốt cùng Rock. (Lịch Sử Rock Việt )
Bích Loan và CBC(
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7,
8)
Giống các ban nhạc gia đình như The Dreamers của nhà Phạm Duy,The Uptight của nhà Lữ
Liên,Ban Bốn Phương của nhà Minh Trang_Dương Thiệu Tước,hay ban The Blue Stars của nhà Nguyên Ngọc_Huyền Nga,
CBC là một ban nhạc gia đình gồm Lân Trống, Bích Ly, Tùng Linh, Bích Loan, Bích Liên, Tùng Vân.CBC xuất hiện vào đầu thập niên 60,lúc còn là những cô cậu bé 10,12 tuổi.
Theo nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 thì: “Trước 30/4/75 có những ban nhạc “thuần” rock như The Black Caps, The Rockin’ Stars, The Interprise, Les Pénitents, The Crazy Dog, CBC… Trong đó The Rockin’ Stars và The Black Caps được xem như những ban nhạc rock đầu tiên của Sài Gòn. CBC cũng xuất hiện khá sớm (khoảng 1962) nhưng thời đó còn là một ban nhạc thiếu nhi chơi rock và khi lớn lên CBC được xem là ban nhạc “đệ nhất kích động nhạc”
thời ấy.[
1]

Ban nhac CBC:Marie,Tùng Linh, Bích Loan,Tùng Vân, Bích Liên,Thanh Tùng.
Điều kỳ lạ là mặc dù danh tiếng đang lên cực đỉnh thì họ bí mật bỏ VN đi năm 1974. Lang thang qua rất nhiều nước xin tị nạn. Có thời kỳ còn được các nhà sư Tây Tạng lưu vong ở Ấn nuôi. Sau này họ quay về sứ quán Mỹ ở Ấn và xin đi Mỹ được.[
1]
Sau đây là gom góp một vài trình diễn của ban nhạc này:
Ban Blue Stars (Sao Xanh)
(
1,
2,
3 )
The Blue Stars với Pauline Ngọc (ngồi,thứ 2 từ trái)
Là ban nhạc nữ đầu tiên của Việt Nam dưới sự dẫn dắt của hai ông bà nhạc sĩ Nguyễn Ngọc và Huyền Nga. Thành viên của ban nhạc này gồm có Minh Trang (tức Bích Câu, lead guitar, con ông bà nhạc sĩ Nguyễn Ngọc – Huyền Nga), Ngọc Lan (organ, cũng là con ông bà Nguyễn Ngọc – Huyền Nga), Ngọc Phượng (Bích Phượng,bass), hai chị em Tường Vân (drums) và Tường Nga (rhythm guitar),các ca sĩ Xuân Thu, Hồng Loan (em của Jo Marcel), Christiane Marbec (Christian Bê)... sau đó tăng cường thêm Bạch La (con nhạc sĩ Hoàng Trọng), Pauline Ngọc... trình diễn khắp nơi trong giới nhạc trẻ cũng như giúp vui cho nhiều club Mỹ tại Tân Sơn Nhất, Long Bình, Biên Hòa...( trong thời kỳ quân đội Hoa Kỳ đến
VN)...
Ban nhạc anh em của the Blue Stars là ban the Black Caps (với Paolo,sau đó,Tuấn Ngọc) cũng do Ô.bà Nguyễn Ngọc_Huyền Nga sáng lập.
Bà Huyền Nga là nhạc sĩ trình diễn với sở trường là đàn Hạ Uy Cầm (Hawaiian guitar).Bà là em nhạc sĩ Văn Thủy (tác giả bản nhạc Dứt Ðường Tơ)
Trong giai đoạn 1960-1970, hệ thống truyền thanh, truyền hình đài Quốc Gia VN phát triển rộng, nữ nhạc sĩ Huyền Nga được mời phụ trách chương trình nữ giới trên đài này, lấy tên là Ban nhạc “Sao Xanh”, và ca hát toàn nhạc VN để phù hợp với chương trình Việt ngữ.[2].
Chính từ ban nhạc Sao Xanh này,thính giả VN thời đó đã quen với Tình Xanh (lời Việt Phạm Duy) của bản Love Is Blue đang thịnh hành. (Bài này trở thành bài nhạc không lời nổi tiếng qua sự trình diễn của ban
nhạc Paul Mauriat).Sau này có nhiều ca sĩ hát lại bài này (như Ngọc Lan, Sơn Tuyền,...),nhưng người ta vẫn không quên nó đã được khai sinh từ The Blue Stars.
Vân (drum), Phượng (Bass), Christiane Lê, Tuyết Hương 3 trái táo, Loan (em Jo Marcel), Câu (guitar lead), Nga (accord).
Xin mời nghe lại bản thu âm nổi tiếng này (mà cũng là bản duy nhất tìm thấy trên mạng):
Tình Xanh với tiếng hát Phương Mai và ban Blue Stars *
Vy Vân_ Tuyết Hương_Tuyết Dung và 3 Trái Táo (The Apple Three)(
1,
2,
3,
4,
5,
6,
7)
Ban tam ca "The Apple Three / Ba Trái Táo" do nhạc sĩ Lê Vũ Chấn của phòng trà Baccara thành lập vào đầu thập niên 70, nguyên thủy gồm có Tuyết Loan, Tuyết Hương và Tuyết Dung. Chỉ một thời gian thì Tuyết Loan rời khỏi ban tam ca và được thay thế với Vy Vân (Vanchus).
Vy VânSau khi Ba Trái Táo chia tay nhau mỗi người một ngả thì Vy Vân vẫn tiếp tục hoạt động với tính cách độc lập cho đến khi rời khỏi Việt Nam vào năm 75 cùng với con gái là nữ ca sĩ
Phi Phi sau này.
[
1].
Tại San Jose Vy Vân đã từng đứng ra khai thác một vũ trường lấy tên là Baccara trong một thời gian và đã từng thực hiện riêng cho mình một số băng nhạc. Trong băng nhạc đầu tiên Tiếc Một Người, Vy Vân đã trình bày một số nhạc phẩm Việt Nam xen kẽ với những nhạc phẩm lời Anh
và Pháp đã đưa tên tuổi cô đến với thính giả như If You Go Away, Without You và Demain Tu Te Maries. Sau đó là một số băng nhạc và CD khác được tung ra thị trường như You Don't Have To Say You Love Me, Làm Sao Quên Được Tình Yêu và I'll Be There,... [1].

Vy Vân để lại khá nhiều bản thu âm [
2]:
Mỹ Hoà vào thập niên 70 có giọng hát khá trong ấm, cách dàn trải làn hơi đâu vào đó nên không có chổ nào hao hụt.Vả lại, cô thường lựa những bản hát nằm trong âm vực của giọng hát cô như "Bao Giờ Biết Tương Tư" của Phạm Duy, "Ngày Về" của Hoàng Giác, "Trở Về" của Châu Kỳ. Nếu gặp chỗ lên hơi cao, lọt ra ngoài âm vực giọng hát cô chút ít, cô cố gắng dùng làn hơi ở bụng để hát lớn tiếng, dù tiếng có hơi gắt đi nữa, chớ cô không tét qua giọng mái, hoặc nhốt sâu giọng hát trong cuống họng rồi rít lên the thé.
Giọng hát của Mỹ Hoà là một giọng trong trẻo, không có gì đặc biệt, như một số đông rất phồn thịnh các giọng ca nữ khác.Nhưng đặc biệt chăng mỗi khi hát bằng giọng ngực, giọng cô trở nên khào khào,đặc sánh như mật ong và cực kỳ nồng ấm.Thường thì nếu dùng giọng ngực không nhuần nhuyễn,người ca sĩ dễ làm cho khán thính giả cảm thấy mệt nhọc và ran ran ở lồng ngực mình.Mỹ Hoà hát giọng ngực thật lưu loát, làm cho khán thính giả cảm thấy thoải mái.Đã vậy, chuỗi ngân của cô khi hát bằng giọng trong trẻo khá điêu luyện, khá khít khao và đều đặn.Nhưng khi cô hát bằng giọng ngực thì chuỗi ngân thêm dài,thêm rập rờn óng ả,như những đợt sóng
hồ thu lớp lớp giạt vào bờ (
HTAn)[
1]
Mỹ Hòa xinh xắn, duyên dáng, giỏi trang điểm, dù cô có làn da hơi ngăm đen nhưng cô có nét tươi trẻ nồng mặn qua màu sắc trang điểm tươi thắm.
Mỹ Hòa trong những năm đầu ở Paris vừa hát tân nhạc vừa đóng tuồng cải lương. Trong vở “Nỗi Oan Thị Kính”, cô thủ vai Thị Mầu, ghi một điểm son lộng lẫy trong kịch giới ở hải ngoại. Trong các vở tuồng cải lương khác của Trần Trung Quân, cô đóng vai thương rất nghề, ai ngờ khi đóng vai lẳng cô rất thao túng.
Mỹ Hòa vào thập niên 70 có giọng hát khá trong ấm, cách dàn trải hơi đâu vào đó nên không có chỗ nào hao hụt. Vả lại, cô thường lựa những bài hát nằm trong âm vực của giọng hát cô như “Bao Giờ
Biết Tương Tư” của Phạm Duy, “Ngày Về” của Hoàng Giác, “Trở Về” của Châu Kỳ. Nếu gặp chỗ lên hơi cao, lọt ra ngoài âm vực giọng hát cô chút ít, cô cố gắng dùng làn hơi ở bụng để hát lớn tiếng, dù tiếng có hơi gắt đi nữa, chớ cô không tét qua giọng mái, hoặc nhốt sâu giọng hát trong cuống họng rồi rít lên the thé.
Giọng hát của Mỹ Hòa là một giọng trong trẻo, không có gì đặc biệt, như một số đông rất phồn thịnh các giọng ca nữ khác . Nhưng đặc biệt chăng mỗi khi hát bằng giọng ngực (son de poitrine), giọng cô trở nên khào khào, đặc sánh như mật ong và cực kỳ nồng ấm. Thường thì nếu dùng giọng ngực không nhuần nhuyễn, người ca sĩ dễ làm cho khán thính giả cảm thấy mệt nhọc và ran ran ở lồng ngực mình. Mỹ Hòa hát
giọng ngực thật lưu loát, làm cho khán thính giả cảm thấy thoải mái. Đã vậy, chuỗi ngân của cô khi hát bằng giọng trong trẻo khá điêu luyện, khá khít khao và đều đặn. Nhưng khi cô hát bằng giọng ngực thì chuỗi ngân thêm dài, thêm rập rờn óng ả, như những đợt sống hồ thu lớp lớp giạt vào bờ.
Ở ngoài đời, trong cuộc hội họp bạn thân, Mỹ Hòa ưa làm vẻ lẳng lơ để chọc cười mọi người. Nhưng ở chỗ trang nghiêm, cô hành xử nói năng rất điềm đạm và mực thước. Cũng vậy, khi ca tân nhạc, cô không hề ưỡn ẹo để phô trương mắt liếc có đuôi, môi cười nhoẻn nụ, không uốn éo giọng hát, không ỏn thót giọng hát theo điệu nhỏng nhẽo của các cô đào lẳng đóng các vai Đắc Kỷ, Bao Tự, Ly Cơ, Hoàng Phủ Phi Giao…
Mỹ Hòa
hát nhạc Pháp rất hay, nhất là bài “Les Feuilles Mortes”của Joseph Kosma (lời của thi sĩ Jaques Prévert). Những bản nhạc Pháp nổi tiếng vào thập niên 50, 60 như “La Vie En Rose”, “Ombres Sous Les Mers”, “Le Gitan”, “Bambino”, “Histoire d’Un Amour” đều được Mỹ Hòa diễn tả rất khởi hứng.
Với tài năng đa dạng, Mỹ Hòa còn ngâm thơ, nhưng chỉ ngâm trong các buổi ra mắt sách của các văn nhân thi sĩ hay trong các cuộc họp bạn mà thôi. [
HTAn (
3)]
Uyên Ly_Kim Anh
Lúc đầu, nữ ca sĩ Mỹ Hòa làm trưởng ban Tam Ca Ba Con Mèo (mèo chúa). Sau đó Mỹ Hòa rút lui chỉ còn lại Uyên Ly và Kim Anh. Cho nên Uyên Ly nhảy lên chức mèo chúa và kiếm được Minh Xuân thay chỗ cho mình.
Uyên Ly và Kim Anh là em gái nữ ca sĩ Minh Tuyết. Kim Anh này không phải là cô Kim Anh gốc Tàu nổi tiếng nhờ hát bài “Mùa Thu Lá Bay”. Uyên Ly cao lớn, làn da mặt tuy không mịn nhưng đường nét trên khuôn mặt khá thanh tú và thật hài hòa. Cô cao lớn, có thể mặc minijupe rất đẹp, nhưng cô lại thích mặc maxi hơn. Chiếc maxi làm cho mái tóc buông xõa cô có nét huyền hoặc hơn. Kim Anh thấp hơn Uyên Ly, đẹp vừa phải và có vẻ hiền lành nhẫn nhục.
Khi ra hải ngoại, Uyên Ly trở thành vợ của Sĩ Phú.
Cả ba Sĩ Phú, Uyên Ly, Kim Anh có hát chung một băng nhạc. Nói chung, giọng của hai chị em khi hát loại nhạc cây nhà lá vườn tuy không có gì đặc sắc nhưng có nề nếp, không uốn vặn, không tung những trò quái chiêu như Thanh Thúy. Cho nên kẻ khó tính vốn ưa trò vạch lá tìm sâu cũng khó tìm chỗ mà chê giọng của họ.[HTAn(
3)]
Băng nhạc mà HTAn nói chính là album
Chiều Bên Giáo Đường,mà tôi đã giới thiệu trong bài viết về
Sĩ Phú
[Uyên Ly_Kim Anh_Minh Xuân]
Minh Xuân là thành viên của ban 3 Con Mèo (The Cat's Trio) sau khi con Mèo đầu đàn Mỹ Hòa tách khỏi ban này. Cô thành công nhờ tiếng hát vững vàng và trong sáng.
Đây là nhận xét của ông Hồ Trường An:
Bên quê nhà, tôi gặp Minh Xuân ở phòng trà Queen Bee. Cô mặc minijupe thật xinh, dù cặp đùi cô không dài lắm. Mặt cô tròn, không đẹp, nhưng trông mũm mĩm dễ thương. Hôm đó tôi cùng ký giả Trần Quân, nhà thơ nữ Hoàng Hương Trang ngồi chung quanh chiếc bàn trước bục ca. Minh Xuân khi vừa tới phòng trà Queen Bee là đến chào Trần Quân. Cô trang điểm thật lòe loẹt. Ngồi gần cô, tôi hơi nhức mắt với màu son phấn quá nóng gắt như thế. Nhưng khi cô lên bục ca, cô đẹp hẳn nhờ màu sắc trang điểm khắc phục ánh đèn ấy.
Lần sau cô cùng Anh Khoa, Connie Kim hát trong buổi họp mặt của các sĩ quan xuất thân trường Võ Bị Đà Lạt. Lần này cũng như lần trước, cô không làm cho tôi chú ý lắm. Nhưng khi cô hát thâu băng bài “Mặt Trời Đen” thì tôi bị tiếng hát cô chinh phục ngay. Tiếng hát cô khàn đặc gợi nên hình ảnh chất mực Long Tể, mực Huy Châu bôi lấp đi màu sắc trữ tình của cảnh mộng cảnh thơ, xóa nhòa màu sắc diễm lệ thời đại hoàng kim trong chuyện thần thoại La Hy. Bài hát đã trác tuyệt, lại được giọng hát độc đáo kỳ diệu của cô diễn tả thì còn sự xứng hợp nào bằng ! Đó có khác nào một khung gỗ chạm trổ tinh xảo để lồng một bức tranh có giá trị cao. [HTAn/
3]
Tuy không sáng tác nhạc thuần Việt như ban Phượng Hoàng của Nguyễn Trung Cang,Lê Hựu Hà ,Mây Trắng là một trong các ban nhạc trẻ đầu tiên dùng tên Việt hoá mà một số bài do thành viên trong ban đặt lời (
Lá Xanh Mùa Hè,
Mộng Phiêu Du,
Tiếc Thương,
Khi Nào Khi Nào,
Tình Thiên Lý,...). Thành phần trong ban này gồm có
Tuấn Dũng,
Trung Hành,
Cao Giảng ... Nghệ thuật trình bày hợp ca của ban nhạc này rất thu hút lớp khán thính giả trẻ thời ấy.
Rõ ràng là các giọng ca trẻ (ngày đó) khi hát nhạc Việt thì không thể sánh được với những "sao" Thái Thanh,Lệ Thu,Khánh Ly,Hà Thanh,Thanh Thúy,...,nhưng với nhạc ngoại quốc lời Việt,họ không có đối tượng để so kè.Nhạc ngoại quốc lời Việt thường là những bản nhạc thịnh hành đã qua tuyển chọn của người thưởng ngoạn,nên dù gì phần nhạc đã được đảm bảo.Phần ca từ bằng lời Việt ,tuy không đóng vai trò quan trọng (có khi chỉ là "ghép"lời như bản
Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu của Nam Lộc chẳng ăn nhập gì
với bài nhạc gốc -
Tell Laura I Love Her,hay
Dưới Trăng của Phạm Duy trên nền nhạc bài
Moon River),nhưng cũng góp phần đưa giai điệu một bài nhạc ngoại tới gần giai điệu của một bài nhạc Việt.
Ngày nay nhạc trẻ cũng có ảnh hưởng từ văn minh,văn hóa thế giới,nhưng buồn thay,hình như các bạn trẻ của ta chỉ học được những cái dở hơi của nhạc Hàn,nhạc Tầu!Cũng ái mộ thần tượng,cũng có fan club,nhưng không biết chọn thần tượng,và lập fan club cũng chỉ là do đua đòi,vì vậy khi nghe lại những bản nhạc "trẻ " (xưa),người ta có cảm tưởng nền âm nhạc Việt (nay) chẳng những không khá lên,mà có chiều hướng thụt lùi.Càng buồn hơn khi những người có trách nhiệm và thế hệ đàn anh hình như chẳng quan tâm gì đến tương lai u ám đó ,mà cứ để kệ đàn em thao túng,như một sự bất lực,hay tệ hơn ,một thái độ "mackeno".Nửa thế kỷ sau,có người nào
đó viết hoài cổ (như tôi),liệu họ sẽ viết gì về giai đoạn bây giờ?