tuan...@gmail.com
unread,Jun 9, 2016, 10:44:41 AM6/9/16You do not have permission to delete messages in this group
Either email addresses are anonymous for this group or you need the view member email addresses permission to view the original message
to
9.6.2016
* Bà Tôn Nữ Thị Ninh còn ôm hận sâu và nhiều ẩn ức
Zing, 1.6.2016
Trong bài viết gửi Zing.vn chiều 1/6, bà Tôn Nữ Thị Ninh tin rằng nếu tuyển công khai FUV có thể tìm được người phù hợp về chuyên môn, kinh nghiệm, và không bị mang tiếng.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh là cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam bên cạnh Liên minh châu Âu (EU) và tại Bỉ, cựu Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam. Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của tác giả, tòa soạn giữ quyền biên tập. Bà Ninh viết:
.
'Lẽ nào nước Mỹ không còn ai ngoài Bob Kerrey?'
Tôn Nữ Thị Ninh
Thời sinh viên, tôi từng tham gia biểu tình ở Paris chống chiến tranh Việt Nam trong những năm 1960-70. Mặt khác, luận án thạc sĩ của tôi là về nhà văn Mỹ William Faulkner.
Và trong gần 30 năm hoạt động đối ngoại, tôi đã xây dựng được những mối quan hệ hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau và bạn bè với đông đảo người Mỹ thuộc nhiều thành phần, từ các nhà ngoại giao như Đại sứ Pete Peterson, những nhóm đã góp phần trực tiếp vào phong trào phản chiến như của John McAuliff và Sally Benson, đến những doanh nhân như Ernie Bower, những cựu chiến binh như Bobby Muller và Thomas Vallely (người mang chương trình Fulbright đến Việt Nam), hay báo chí như Murray Hiebert, giới học thuật nghiên cứu như Walter Isaacson.
Do vậy, tôi không phải là người vì quá khứ mà “ghét” hay ác cảm với người Mỹ. Như hầu hết người Việt Nam, tôi sẵn sàng gạt quá khứ sang một bên để hướng tới tương lai cùng với nhân dân hai nước vì lợi ích chung.
Về phía Việt Nam, giáo dục là một lợi ích có ý nghĩa chiến lược. Do đó tôi ủng hộ và đã có mặt tại buổi trao giấy phép thành lập cho ĐH Fulbright Việt Nam ở TP HCM hôm 25/5. Và như mọi người, hy vọng rằng đây sẽ là một trường góp phần tạo động lực cho nền giáo dục đại học Việt Nam lành mạnh, chất lượng và hội nhập thế giới.
Tuy nhiên, khi biết rằng cựu thượng nghị sĩ Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch của Đại học mới, tôi vô cùng bàng hoàng và không thể hiểu nổi.
Ông Bob Kerrey là người đã trực tiếp tham gia vào cuộc thảm sát thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già tại thôn Thạnh Phong vào tháng 2/1969. Điều này không thể chối cãi và chính ông Kerrey cũng thừa nhận.
Có thể nhìn nhận vấn đề ở nhiều mức độ khác nhau, cả phía Việt Nam và phía Mỹ. Nhưng một điều chắc chắn, sự việc đó là đủ để kết luận Bob Kerrey, nói theo cách nhẹ nhất, hoàn toàn không thể giữ vị trí Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam. Và cũng không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật đó. Vì rằng:
Việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm sát Thạnh Phong tôi không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ.
Tôi biết nhiều trường hợp cựu chiến binh Hoa Kỳ không trực tiếp dính tới các vụ thảm sát hiện sống trên lãnh thổ Việt Nam và góp phần ở các địa phương để giảm thiểu hậu quả chiến tranh như Chuck Searcy với dự án tháo gỡ bom mìn ở Quảng Trị, hay hàng năm về tận nơi để tìm kiếm sự tha thứ của những nạn nhân Mỹ Lai như Billy Kelly (dù không hề tham gia thảm sát nào).
Bob Kerrey quan niệm giữ vị trí lãnh đạo ĐH Fulbright góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai bên. Tuy nhiên, như ông đã trả lời Financial Times (Anh) cách đây 1-2 ngày, ông sẵn sàng từ chức, nếu sự tham gia của ông có thể tổn hại đến dự án.
Tôi nghĩ, không cần chần chừ hơn nữa, nếu ông rời vị trí ngay bây giờ như ông tuyên bố “sẵn sàng” thì cử chỉ đó là cử chỉ tự trọng và sẽ được người Việt Nam đánh giá cao. Thiết nghĩ, nhiều người Mỹ sẽ đồng tình với quyết định đó của ông.
Tôi biết rằng vài người liên quan trực tiếp đến dự án công khai khẳng định rằng Bob Kerrey là người “hoàn toàn phù hợp” để giữ vị trí lãnh đạo đó. Tôi xin hỏi, lẽ nào nước Mỹ không còn ai có thể vận động vốn cho trường ĐH Fulbright Việt Nam ngoài Bob Kerrey?
Nếu nhóm dự án thực hiện việc lựa chọn vị trí chủ tịch trường Fulbright Việt Nam với nhiều ứng viên một cách công khai, thì tôi tin chắc là đã có thể tìm được người phù hợp về mặt chuyên môn và kinh nghiệm, nhưng tên tuổi không bị mang tiếng như vị này. Sẽ là một vết đen không thể xoá sạch khỏi sự ra đời của trường đại học danh giá như ĐH Fulbright Việt Nam nếu đây là chủ tịch sáng lập của ĐH này. Những người bạn Mỹ mà tôi có trao đổi hai hôm nay cùng chia sẻ quan điểm như thế.
Nếu phía Mỹ khăng khăng giữ quyết định của mình, thì đối với tôi, không còn có thể coi đây là một dự án chung như nhóm sáng lập vẫn khẳng định. Vì rằng như trong một cuộc hôn nhân, hai bên cần phải lắng nghe, tôn trọng cảm xúc và suy nghĩ của nhau.
Tôi tin rằng, sự điều chỉnh đó không những không ảnh hưởng đến quan hệ hai nước đang tiến triển tốt đẹp. Ngược lại, việc này sẽ đặt hợp tác Việt - Mỹ trong khuôn khổ ĐH Fulbright Việt Nam trên một nền tảng, khởi điểm bình đẳng, lành mạnh và vững bền.
TỄU Blog: Thưa bà TÔN NỮ Thị Ninh, ngay cả người cộng sản, nếu họ cũng nghĩ như bà, thì một người gốc hoàng tộc như bà cũng không thể để cho đi ăn học, rồi tung tăng khắp nơi như vậy, bà nhé!
Bà đang nói với "động cơ" gì vậy!? Bà bảo "khi biết rằng cựu thượng nghị sĩ Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch của Đại học mới, tôi vô cùng bàng hoàng và không thể hiểu nổi" ư? Chúng tôi đã từng bàng hoàng khi đọc những phát biểu của bà trước đây, nhưng giờ chúng tôi cũng đã khoan dung rồi đấy, khép lại rồi đấy!
Minh Phuong Nguyen bình luận:
Bà Tôn Nữ Thị Ninh: "Tôi nghĩ, không cần chần chừ hơn nữa, nếu ông [Bob Kerrey] rời vị trí ngay bây giờ như ông tuyên bố “sẵn sàng” thì cử chỉ đó là cử chỉ tự trọng và sẽ được người Việt Nam đánh giá cao. Thiết nghĩ, nhiều người Mỹ sẽ đồng tình với quyết định đó của ông".
Tôi không rõ động cơ gì khiến bà Ninh muốn BK "không chần chừ gì nữa" rời bỏ vị trí này. Trong bài viết, bà nhấn mạnh:"tôi không phải là người vì quá khứ mà “ghét” hay ác cảm với người Mỹ. Như hầu hết người Việt Nam, tôi sẵn sàng gạt quá khứ sang một bên để hướng tới tương lai cùng với nhân dân hai nước vì lợi ích chung". Thực ra, tôi không nghĩ bà đã sẵn sàng gạt bỏ qúa khứ. Trái lại, bà đã khơi mào cho các phản biện chống lại BK và FUV. Tôi cho rằng/đoán rằng (ý kiến cá nhân của tôi) có thể là động cơ cá nhân. Tôi còn nhớ bà Ninh đã sang California để tìm sự ủng hộ, đầu tư cho trường Trí Việt của bà, và bà đã bị tẩy chay. FUV có thể là đối thủ cạnh tranh của bà chăng? Nhiều điều bà viết trong bài chưa đủ sức thuyết phục đối với tôi, ví dụ bà cho rằng "Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ" - đây là ý kiến chủ quan, cảm tính của riêng bà thôi. Cám ơn bà đã đưa ra ý kiến trái chiều. Và việc đưa ra nhiều ý kiến, tôi thấy rất hay cho khởi đầu của FUV.
4 nhận xét :
Nặc danh 09:43 Ngày 04 tháng 06 năm 2016
Tôn nữ thị Ninh là ai ?=> một người đã quên đi dòng tộc tổ tiên mình!
h 10:04 Ngày 04 tháng 06 năm 2016
Bà Ninh này lão hóa rồi ! Nơ Ron não dần dần tiêu hủy nên có triệu chứng TEO NÃO . Một Nguyên Đặc mệnh toàn quyền mà có những ý kiến như trên ...! Thì đất nước của Tôi ơi ! Không CÒI CỌT sao được .???
Nặc danh10:08 Ngày 04 tháng 06 năm 2016
Thưa bà Ninh, tôi hỏi bà thế những người lính bắc Việt, người lính mặt trận giải phóng miền Nam giết những người quốc gia (thực tế là Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia độc lập), những vụ khủng bố giết hại lính Mỹ, những trận nã pháo vào trường học Cai Lậy thì bà bào chữa thế nào, những Võ Thị Sáu, Võ Thị Thắng thực hiện đánh bom không thành thì có gọi là khủng bố không??? Xương máu con người dù ở phía nào cũng cần được ghi nhận, nói như ông OBama thì dù là người lính Mỹ hay người lính Việt Nam Cộng Hòa hay người lính Bắc Việt đều ngã xuống vì đất nước của họ điều đó phải được những người sống hôm nay ghi nhận và học lấy bài học Lớn: đối thoại tốt hơn chiến tranh bà ạ.
Nhưng người ôm hận như bà hoặc vì quyền lợi riêng mà hết lần này đến lần khác gạt bỏ cơ hội để Việt Nam thay đổi vươn lên thành một đất nước giàu mạnh, nhân dân được sống trong xã hội dân chủ, tương thân tương ái, chủ quyền quốc gia được tôn trọng. Nhưng người như bà hoặc bè đảng của bà đã đánh mất không những cơ hội phát triển đất nước mà còn chủ quyền đất nước vào tay ngoại bang, tội đó lớn lắm, lịch sử công bằng lắm. Tôi tự hỏi liệu hậu thế sau này có ai biện minh cho đảng cộng sản của bà và bà như hậu thế đã biện minh cho dòng họ nhà bà, dòng họ Nguyễn về tội bán nước không, tội tin là không.
Và một điều nữa, tôi thực sự thất vọng về một người mang danh dòng họ hoàng tộc, được ăn học, đi đây đi đó mà đầu óc u mê hủ lậu không thoát khỏi cái suy nghĩ của bọn bần cố nông 1954.
Nặc danh10:09 Ngày 04 tháng 06 năm 2016
Bà Tôn Nữ thị Ninh à, bà hành động theo cái kiểu "double standard" như này là bà quá giả dối. Bây giờ cứ cho là ông Bob Kerry đã tàn ác trong quá khứ đi nên không xứng đáng làm chủ tịch của đại học Fulbright. Ông ta đã giết bao nhiêu người? Thì bà nghĩ thế nào và so sánh thế nào về việc các lãnh đạo cộng sản VN đã chủ trương "đánh Mỹ dùm cho Trung quốc và Liên Sô (Lê Duẩn)", để đưa đến cái chết của nhiều triệu người Việt Nam trên cả hai miền Nam Bắc. Đó là chưa kể đến việc nhà nước CSVN 'đấu tố, cải cách ruộng đất' giết hàng trăm ngàn người. Và sau đó là giêt chóc tù đày trong vụ 'Trăm hoa đua nở', 'Vụ án xét lại', chưa kể tới 'thảm sát Mậu Thân 1968' ở miền Nam, và không đếm xuể những pháo kích, đặt mìn mọi nơi, đặt chất nổ ở Sài Gòn để khủng bố toàn cõi miền Nam trong suốt thời kỳ sau 1954 cho tới 1975. Sau những việc tàn ác như tôi vừa kể, nhà nước Hà Nội vẫn vinh quang và vẫn làm lãnh đạo toàn diện đất nước đúng không bà? Hơn thế, họ còn được tạc tượng đài vô số khắp mọi nơi để nhân dân thờ phượng. Tôi cảm thấy cái học của bà cũng như cái học của gã Ponpot Campuchia, có bằng cấp từ một nước dân chủ, nhưng khi về nước thì bà và ông này lại muốn, hay lại đồng ý với việc áp đặt vào chính dân tộc mình những chính sách thảm khốc tàn ác. Tôi đồng ý ông Bob Kerry ác thật, nhưng nếu vì ông ta ác mà bà đòi loại trừ ông ta khỏi chức chủ tịch Fulbright thì quan điểm đó của bà cũng phải được áp dụng một cách công bằng cho những tên đồ tể khác.
Thưa bà Ninh, bà làm được vậy thì tôi cho rằng bà là người có nhân cách.
* Tôn Nữ Thị Ninh, đại biểu xuất sắc của trí thức xã hội chủ nghĩa
Trần Trung Đạo, 9.6.2016
Khi phê bình đảng CS, có người mạnh miệng nhận xét "Đảng CS thực tế chỉ là một đảng Mafia". Ý nói đảng CS chỉ là tổ chức tội ác giết người cướp của trên một tầm vóc quốc gia chứ chẳng còn ý thức hệ CS như thời Liên Xô chưa tan rã. Thật ra, nói vậy không đúng và nếu có cũng chỉ một góc cạnh "giết người cướp của". Nếu đảng CS là đảng Mafia thì đã sụp đổ lâu rồi.
Định nghĩa đúng nhất cho trường hợp chế độ CS Trung Cộng và Việt Nam là định nghĩa của giáo sư sử học Roderick Macfarquhar, thuộc đại học Harvard khi ông gọi là chủ nghĩa CS hiện nay là một loại chủ nghĩa Lenin không có Marx.
Chủ nghĩa Lenin do hai bộ phận cấu thành (1) một nhà nước chuyên chính sắt máu và (2) tuyên truyền lý luận tư tưởng tinh vi.
Bộ phận nhà nước chuyên chính rất rõ nét và gần như ai cũng thấy, nhưng đảng CS không tồn tại chỉ bằng nhà tù sân bắn mà còn được che chở bằng một hàng rào lý luận tuyên truyền vô cùng tinh vi thâm độc. Tuyên truyền là cột xương sống của chế độ CS. Như người viết đã có dịp trình bày trong những bài trước, sau cách mạng CS Nga 1917, công việc đầu tiên Lenin là thành lập cơ quan tuyên truyền Agitprop và trong giai đoạn đầu còn do chính ông ta đích thân lãnh đạo. Tại Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm 1921 chỉ bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên đó chịu trách nhiệm tuyên truyền.
Tầng lớp "trí thức xã hội chủ nghĩa"
Bộ máy tuyên truyền sẽ không chạy được nếu thiếu đi một tầng lớp có học, có địa vị xã hội tự nguyện làm xăng nhớt. Thành phần đó gọi chung là "trí thức xã hội chủ nghĩa".
Trước khi viết tiếp, người viết xin dừng lại ở đây để bày tỏ lòng biết ơn dành cho những trí thức chân chính và xứng đáng được kính trọng. Họ là những người có trình độ văn hóa giáo dục cao, những văn nghệ sĩ đang công khai hay âm thầm tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, tốt đẹp, tự do và dân chủ trong điều kiện và hoàn cảnh riêng của họ. Họ không thuộc thành phần mà người viết sắp bàn.
Thành phần "trí thức xã hội chủ nghĩa" chia sẻ ba đặc điểm chung: (1) có học, khoa bảng (2) chủ nghĩa cơ hội, (3) bồi bút, uốn lưỡi bảo vệ đảng trung thành.
Một đại biểu xuất sắc trong tầng lớp này và có đủ ba đặc điểm vừa nêu là bà Tôn Nữ Thị Ninh.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh thỏa mãn đặc điểm thứ nhất dễ dàng vì bà thuộc thành phần khoa bảng, mang họ hoàng tộc. Phần lớn thời tuổi trẻ của bà lớn lên dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa và được đi du học tại các trường nổi tiếng tại Pháp, Anh. Bà về nước dạy đại học Sư Phạm Sài Gòn và từng là Phó Ban Anh Ngữ của trường.
Trong thời gian ở Pháp, bà Ninh quen biết các thành viên của phái đoàn CS "Chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam" và phụ giúp công việc phiên dịch tại những buổi gặp gỡ không chính thức của họ. Như bà kể lại trong bài báo Paris: 'Vườn ươm' lực lượng, bà "không được chứng kiến các cuộc đàm phán chính thức", phần lớn những gặp gỡ đều qua trung gian của các "hội yêu nước" và được bà Nguyễn Thị Chơn, vợ ông Trần Bạch Đằng, "bồi dưỡng chính trị". Thành phần có học nhưng bị lá bùa "độc lập, tự do" của CS mê hoặc tại Pháp thời đó rất nhiều như bà thừa nhận với phóng viên Hoàng Thi trên báo Nhân Dân "tại Pháp, tôi đã tham gia phong trào phản chiến đang diễn ra rất sôi nổi nơi đây".
Sau 30-4-1975, bà Tôn Nữ Thị Ninh cũng chỉ sinh hoạt trong "Hội trí thức yêu nước" như phần lớn các nhà giáo, văn nghệ sĩ thuộc "thành phần thứ ba" ở Sài Gòn. Thành phần này, trong đó có bà, được đảng thưởng công bằng chuyến "tham quan" các nước CS như Lý Quí Chung kể lại trong hồi ký của ông ta.
Đường công danh dưới chế độ CS của bà Ninh chỉ thật sự bắt đầu khi tình cờ gặp ông Xuân Thủy năm 1978. Từ đó, trong giai đoạn giao thời đảng đang cần người có khả năng giao tiếp với thế giới mà họ chưa từng biết qua, và bà nắm lấy cơ hội. Không giống như những người CS theo đuổi mục đích CS, vào tù ra khám hiến thân cho canh bạc của cuộc đời họ, bà chỉ là một kẻ cơ hội chủ nghĩa.
Hai đặc điểm, khoa bảng và chủ nghĩa cơ hội nói trên, dù không mấy tốt đẹp, cũng chỉ có tính cách cá nhân và không phải là tội ác, đặc điểm bồi bút trung thành và uốn cong ba tấc lưỡi để bảo vệ đảng CS của bà Ninh mới thật sự là một tội ác trí thức vì đã gây tác hại đến nhiều người. Dưới đây là vài ví dụ chứng minh bà Ninh bẻ cong ngòi bút.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh và nguyên tắc dân chủ kiểm soát và cân bằng (checks and balances)
Trong Tạp Chí Cộng Sản số tháng 6, 2007, bà Tôn Nữ Thị Ninh viết về tình trạng tham nhũng tại Việt Nam: "Cần có một cơ chế "đối trọng" (phương Tây gọi cơ chế này là checks and balances). Đối trọng của ta là trong phạm vi chế độ, là sự kiểm tra giám sát của các đoàn thể quần chúng, chứ không phải là đối trọng về chính trị. Quốc hội có vai trò, tư pháp cũng phải độc lập, đoàn thể phải vào cuộc, nếu không hệ thống chính trị của ta sẽ không có cơ chế tự điều tiết."
Hẳn nhiên, với trình độ giáo dục cao và tiếp cận nhiều với sinh hoạt chính trị dân chủ u Châu trước đây, bà Ninh biết rõ khái niệm kiểm soát và cân bằng (checks and balances) nhằm sự kiểm soát lẫn nhau để giữ sự cân bằng và công bằng giữa các ngành trong các chế độ dân chủ pháp trị. Nguyên tắc này ra đời nhằm giới hạn quyền hành của chính phủ (hành pháp) thường rất dễ bị lạm dụng. Sự đối trọng giữa các ngành trong cơ chế chính trị chỉ hữu hiệu khi các ngành đó có được sự độc lập về quyền hạn và trách nhiệm. Một sinh viên lấy lớp chính trị học nhập môn cũng nắm vững định nghĩa căn bản đó.
Thế nhưng bà uốn cong định nghĩa "checks and balances" giữa các ngành trong chế độ dân chủ pháp trị thành một khái niệm giữa quần chúng (không có tiếng nói) và nhà nước (nắm hết quyền lực). Tại Việt Nam ai đối trọng với ai, ai kiểm soát ai và ai cho phép tạo nên sự cân bằng quyền lực trong hệ thống chính trị bị chỉ đạo bởi một đảng duy nhất là đảng Cộng sản?
Một người có hiểu biết căn bản nào cũng trả lời được, dưới chế độ CS không ai, không một tập thể, không một thành phần nhân dân nào đứng trên quyền lực của đảng CS. Thời gian 2006 bà Ninh là "Đại biểu Quốc hội" đơn vị Vũng Tàu và hơn ai hết bà biết chức "Đại biểu Quốc hội" của bà chẳng phải do người dân Vũng Tàu nào tự nguyện bầu bà lên mà chỉ là hư danh do đảng CS trả công cho bà.
Bà Tôn Nữ Thị Ninh chống đối Bob Kerrey
Theo phóng sự điều tra của Gregory L. Vistica trên New York Times phát hành ngày 25 tháng Tư, 2001, vào đêm 25 tháng Hai, 1969, đội SEALs (đơn vị đột kích tinh nhuệ của hải quân Mỹ viết tắt của chữ Sea, Air and Land Teams) dưới quyền chỉ huy của Trung Úy Bob Kerrey, 25 tuổi, tiến vào làng Thạnh Phong với mục đích tiêu diệt một phiên họp của Việt Cộng với sự tham gia của một lãnh đạo quân sự. Sau khi thanh toán mục tiêu thứ nhất bằng dao để khỏi lộ mục tiêu, đơn vị SEALs bị trong làng bắn ra. Với tin tức tình báo nhận được, đội SEALs đinh ninh một phiên họp của lãnh đạo CS cao cấp đang diễn ra và đã bắn trả quyết liệt. Đừng quên, lúc đó đã sau 9 giờ tối trong một đêm không trăng tại ngôi một làng hẻo lánh tối tăm chứ không phải trưa ban ngày giữa đồng rộng hay đường lớn để có thể nhận diện dễ dàng. Bob Kerrey kể lại ông ta không thấy ai hết. Khi phản công chấm dứt, toán SEALs tiến vào các chòi lá và hình ảnh mà Bob Kerrey sẽ nhớ đến giờ chết là không có một chỉ huy Việt Cộng nào mà chỉ toàn là thường dân, đàn bà và trẻ con bị giết. Tuy nhiên, Gerhard Klann, một đội viên SEALs dưới quyền Kerrey kể khác rằng trong chòi lá thứ nhất không chỉ có đàn ông mà còn có đàn bà và trẻ em, và chính Bob Kerrey không những ra lịnh mà còn tham gia vào việc giết những người trong chòi lá thứ nhất. Lời kể của Klann trùng hợp với kể của nhân chứng Việt Nam Pham Tri Lanh. Bob Kerrey không đồng ý với Klann nhưng nhận lỗi lầm với tư cách chỉ huy. Các đội viên khác có người ủng hộ lời kể của Bob Kerrey và có người từ chối trả lời. Nói chung các lời kể rất rời rạc, trước sau không thống nhất. Kerrey nhắc lại nhiệm vụ chính của các toán SEALs là tiêu diệt một mục tiêu được giao phó và nhiệm vụ của đội SEALs vào làng Thạnh Phong đêm đó là tiêu diệt chứ không phải bắt tù binh.
Sau khi bị thương và giải ngũ về nhà, Kerrey kể lại thảm sát Thạnh Phong cho mẹ nghe và mẹ ông ta khóc.
Với nhiều người khác, biến cố là một tai nạn giết lầm, đổ thừa cho tình báo, cho cấp chỉ huy, cho chiến tranh và rồi ăn ngon ngủ kỷ. Nhưng với Bob Kerrey, lương tâm ông bị cắn rứt và đã làm rất nhiều trong lãnh vực giáo dục để xoa dịu vết thương giữa hai dân tộc cũng như đau đớn tinh thần của riêng ông. Với kinh nghiệm chín năm làm chủ tịch của New School University ở New York, ông hy vọng sẽ áp dụng những vốn liếng đó vào việc lãnh đạo Fulbright University Vietnam và nâng trường lên đẳng cấp quốc tế. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng nhấn mạnh yếu tố chuyên môn kết hợp với tình cảm cá nhân trong diễn văn đầy tinh thần hòa giải của ông khi giới thiệu Fulbright Vietnam. Bob Kerrey với kinh nghiệm lâu năm trong ngành giáo dục, một cựu Thượng Nghị Sĩ, cựu ứng cử viên tổng thống, nhà chính trị có quan hệ rộng rãi với chính giới Hoa Kỳ và gắn bó tinh thần với Việt Nam xứng đáng để lãnh đạo Fulbright University Vietnam.
Thay vì thuận theo tinh thần hòa giải được khơi dậy trong diễn văn của Ngoại trưởng John Kerry và mở rộng hơn cánh cửa giáo dục cho các thế hệ Việt Nam, máu cơ hội "chống Mỹ cứu nước" trong bà Tôn Nữ Thị Ninh sôi sục lên và bà phán: "Ông Bob Kerrey là người đã trực tiếp tham gia vào cuộc thảm sát thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già tại thôn Thạnh Phong vào tháng 2/1969. Điều này không thể chối cãi và chính ông Kerrey cũng thừa nhận. Có thể nhìn nhận vấn đề ở nhiều mức độ khác nhau, cả phía Việt Nam và phía Mỹ. Nhưng một điều chắc chắn, sự việc đó là đủ để kết luận Bob Kerrey, nói theo cách nhẹ nhất, hoàn toàn không thể giữ vị trí Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam. Và cũng không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật đó."
Khi nhắc đến câu "không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật", không biết bà có nhìn quanh thử mình đang sống ở đâu không. Bà đang sống trong một đất nước mà nơi đó sự thật chỉ là chiếc bánh tuyên truyền rẻ tiền và hư thối đến nỗi một đứa bé đói khát cũng không thèm cầm lấy. Chắc bà không lạ gì những nhãn hiệu "Nhà Xuất bản Sự Thật", "Báo Sự thật," v.v...
Nếu bà thật sự quan tâm đến sự thật và căm ghét những kẻ đã giết dân vô tội, hãy về Huế một lần trong dịp Tết để hỏi thăm đồng bào Huế của bà những ai là kẻ giết người và những ai là người có thân nhân bị giết, không phải 24 người mà nhiều ngàn người. Những kẻ chôn sống nhiều ngàn dân Huế không nói tiếng Anh như Bob Kerrey mà có một giọng nói rất giống bà.
Nếu bà quan tâm đến sự thật hãy tìm đến các "Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân" và hỏi họ đã giết bao nhiêu "Mỹ Ngụy" còn mặc tả ở nhà hàng Mỹ Cảnh, bao nhiêu mái đầu xanh ở rạp hát Kinh Đô, bao nhiêu em bé chết trong tay còn ôm cặp ở tiểu học Cai Lậy v.v.. Hàng ngàn cuộc thảm sát do CS gây ra trên đất nước Việt Nam đang cần được đưa ra dưới ánh sáng sự thật và công lý.
Bob Kerrey có lỗi với ai?
Bà Ninh phát biểu bằng một giọng trịch thượng và hằn học "Việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm sát Thạnh Phong tôi không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ". Việc bà "không thể biết" là tại bà kém thông tin nhưng cựu TNS Bob Kerrey hay Ngoại trưởng John Kerry không cần phải báo cho bà biết.
Người viết không binh vực cho Bob Kerrey. Bob Kerrey dù trực tiếp ra tay, ra lịnh hay không vẫn là người có lỗi. Nhưng ông ta chỉ có lỗi với nhân dân Việt Nam, với thân nhân những người bị toán SEALs của ông giết chứ không có lỗi gì với đảng CS và nhà nước CS mà bà Ninh đang cung phụng. Dước các chế độ dân chủ, vai trò, chức năng và sự phân định giữa nhân dân và chính phủ rõ ràng chứ không đánh lận con đen đảng cũng chính là dân tộc, đảng cũng chính là tổ quốc như dưới chế độ CS.
Một lỗi lầm của Bob Kerrey trong chiến tranh không làm cuộc chiến bảo vệ tự do của miền Nam mất đi chính nghĩa và cũng không giúp đảng CSVN có chính nghĩa.
Hôm 27 tháng Năm vừa qua, trong chuyến viếng thăm Hiroshima, Nhật Bản, TT Barack Obama bày tỏ lòng thương tiếc đối với nạn nhân bom nguyên tử của Mỹ và cảm tình đối những người sống sót nhưng ông không xin lỗi. Cuộc chiến chống Phát Xít Nhật là cuộc chiến chính nghĩa. Những kẻ phải chịu trách nhiệm cho điêu tàn của nước Nhật và chết chóc của nhân dân Nhật là lãnh đạo chế độ quân phiệt Phát Xít Nhật thời đó chứ không phải Mỹ.
Tương tự, trong lúc không thể so sánh nỗi đau bằng một nỗi đau, thảm sát Thạnh Phong cũng phải được nhìn từ nguyên nhân đến hậu quả của cả cuộc chiến Việt Nam.
Cái chết của 24 người dân làng Thạnh Phong, phân tích cho cùng, cũng không khác gì cái chết của năm ngàn người dân Huế, của 32 học sinh trường tiểu học Cai Lậy, của 13 cô gái Thanh niên Xung phong ở Ngã Ba Đồng Lộc, của Nguyễn Văn Thạc, của Đặng Thùy Trâm, của bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc và nói rộng hơn của ba triệu người dân Việt khắp hai miền do âm mưu Bolshevik hóa Việt Nam bằng bạo lực của đảng CS.
Chủ trương CS hóa Việt Nam đã được in đậm trong cương lĩnh đầu tiên của đảng CS từ 1930 chứ không phải sau khi Mỹ đổ bộ xuống Đà Nẵng 1965. Dù Mỹ có đến hay không thì mục tiêu tối hậu của đảng CSVN vẫn không thay đổi. Bà Ninh hãy trả lời giùm câu hỏi "Nếu đảng CSVN không chủ trương thôn tính miền Nam bằng võ lực thì thảm sát Thạnh Phong có xảy ra không?"
Thành phần "trí thức xã hội chủ nghĩa" như bà Tôn Nữ Thị Ninh chẳng những không đóng góp được gì vào việc làm thăng tiến xã hội, thúc đẩy nhanh hơn cuộc cách mạng tự do và nhân bản đất nước, giúp đưa dân tộc chúng ta vượt qua những bế tắc tư tưởng và chính trị để hội nhập vào dòng thác tiến bộ của nhân loại, mà với khả năng bồi bút, uốn cong ba tấc lưỡi, thành phần này đã trở thành bức tường chắn ngang tiến trình khai phóng đất nước và đó là một tội ác.