O*` ma` ha't ba?n tie^'ng ta^y gi` que^n ro^`i ??
Ba^y gio*` tha`nh ba` ngoa.i Nana ma` tuo^?i ba` va^~n co`n son ,
Unbelievable ;)
Here you go http://www.truongxuanucchau.org/letter%20to%20young%20generation%20of%20TX.html
Xin Kính Chào Thân Hữu Trường Xuân!
Dear friends
We are the young people of the so called “second generation” of Truong
Xuan’s family in Australia. Like you who are spread over all the
continents of the world, what we have today, our very own lives, our
achievements, hopes and dreams. Do you ever stop to wonder how we came
to live in these various lucky countries? Countries where freedom is
the fabric of life that enables us to live in peace and to reach for
our hopes and dreams. Do you have any recollections of that fateful
day when we stepped foot and boarded the ship “Truong Xuan” at Kho Nam
Wharf in Saigon on the 30th day of April 1975. This momentous day is
the day we left everything: our loved ones, our homes, our possessions
and ultimately - our very own country of Vietnam in search of freedom.
You like us, were probably only children at the tender ages of may be
five to ten at the time. We were carefree spirits with no attachments
or worries. We were shepherded by our parents, uncles, aunts and
elders to places where we know not.
Our innocence had preserved us from the ugliness of that tumultuous
time. It was only through the courageous actions of our forefathers
that we were saved: from the Captain to the many men and women on the
ship including our very own families who gambled everything to escape
the communist regime to find freedom for all of us. To them - we are
forever indebted for their selfless acts.
As time passes and we are losing the many elders of the “Truong Xuan”
family, many people have expressed a desire to document our journeys
and experiences in a book, hence the making of this book to be called,
“Truong Xuan Memoirs”. The proposed book will encompass the following
segments: the history of our ship, Truong Xuan and the ships that
rescued us, the Clara Maersk and Song An; the voyage in search of
freedom; the days spent in the Hong Kong refugee camps and our
achievements and paths in our adopted countries. This is a valuable
book of historical significance. It would serve as heritage for our
children and their grandchildren and many generations to come. We urge
you to participate in this joint venture and make it a success. We
can’t accomplish it without your help! As the sayings go “Every drop
count” and “together we stand, divided we fall” and for those
Vietnamese buffs “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn
núi cao”. We need you! And we do greatly appreciate your time and
efforts.
Wherever you are, you can write or email relevant pictures and
compositions to us through our website address at www.truongxuanuchau.org.
The compositions can be in English, French, German or Vietnamese.
We urge you to pick up your pens and or laptops wherever you are and
start writing. If you have those wonderful pictures of you and your
families tucked away in your archives somewhere, please dig them out
and forward them to us. This historical book belongs to all of us.
We are all part of its history.
The deadline to send your documents and compositions through is 31st
December 2008.
On behalf of the Committee of “Truong Xuan Memoirs” in Australia
Dr Nguyen Van Bien and Dr Tran Thi Xuan Huong
DÂN SINH-GIAO CHỈ - 10/21/2009 1:20:31 AM
TRƯỜNG XUÂN - TRƯỜNG XUÂN
Tàu Trường XuânGiao Chỉ - San Jose
Tàu Trường Xuân.
Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) /
Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh /
Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai
người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu
tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng,
tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người
khách cuối cùng: Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34
năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và
giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light).
* * *
Có con tầu nằm trên bến đỗ...
Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn
nhất là Vishipcoline của chủ Tàu Trường Xuânnhân Trần đình Trường.
Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước.
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.
Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền
trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra
đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30
năm kinh nghiệm hàng hải.
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị
chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng
Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với
cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được
Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần
này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và
ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái
tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29
tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định
mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.
Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có
lẽ ông cần chừng 300 hay 400 Tàu Trường Xuânhành khách, nhưng chưa có
người nào.
Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30
tháng 4-1975.
Saigon hấp hối
Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm
trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3
mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa
pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các
vị trí quân sự.
Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội
các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài
phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng
thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói
chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ
phía bên này, xin vui lòng ra đi.
Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết
Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội
Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.
Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân
bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu
bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.
Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ
Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ
vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai.
Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ
lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm
đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn
bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng
sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm
ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình,
mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.
Tàu Trường Xuân
MS Clara Maersk (Denmark) Mother and children.
Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những
người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường
Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ
hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra
đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm
trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010.
Trở lại với Trường Xuân
Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập
xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên
đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá
hoại mọi bề.
Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt
Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba
ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề
thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn.
Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân
đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và
sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự
do.
Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát
được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo
nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân
đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo
được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được
bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30
tháng 4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ
và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất
của cuộc đời Trường Xuân.
Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách
Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng
chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “
Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm
khi nào nghe được những lời nói đó.
Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi
tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào.
Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên
3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại
quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên
thành tàu hay là nước mắt biệt ly.
Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ
nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu.
Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong.
Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư
hỏng chỗ kia.
Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ.
Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường
Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu : “Có người rớt
xuống biển.”
Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất
động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra
lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói.
Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1
người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi.
Tại sao ? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000
người.
Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn
sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1
người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của
toàn thể con tàu.
Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của
Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch.
Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường
viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà
kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước
chừng 1,500 đàn bà trẻ con.”
Ra đời giữa trời biển mênh mông
Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ.
Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái
ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng
mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông,
Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một
người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo.
Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào
đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa
qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước
mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi.
Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là
Chiêu Anh.
Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân !
Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám người đến bến tự
do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời
và nối tiếp.
Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách
Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam.
Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một
vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi
xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn
là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả
thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan
Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.
Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang
máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu.
Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân
ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi
theo hành khách của nó.
Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân
biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5
bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai
đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.
Một thế hệ tương lai
Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học
lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó.
Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi
tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại
học ParkTàu Trường Xuânson school of Design, New York. Cô được nhận
vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y
phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San
Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh
kể chuyện mình như sau.
“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống xót.
Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền
trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2
tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng.
Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai
bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ
sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng
Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương
Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân
Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan
Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp
tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ
nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành
để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo
thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu
New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại
Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô
thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng
tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền
nhân sống xót, một Trường Xuân Baby.”
35 năm nhìn lại
Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi
năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu.
Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới
thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.
Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm
ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của
con tàu Ðan Mạch.
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử
giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở
đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù.
Chuyến đi của Trường Xuân
Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen
Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại
Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.
Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển
Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua...
Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại...
Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi...
Giao Chỉ, San Jose
Ðịa chỉ liên lạc: IRCC, Inc. 1445 Koll Circle # 110
San Jose - CA 95112, tel: (408) 392 9923
irc...@yahoo.com giaochi...@sbcglobal.net
Fw: http://phanchautrinhdanang.com/30thang4/Lonchaotruongxuan.htm
Lon cháo Trường Xuân
--------------------------------------------------------------------------------
Mai Tâm
Kính tặng Thuyền Trưởng Tàu Trường Xuân, cụ Phạm Ngọc Lũy và gia
đình.
Xin đốt nén hương lòng cho Thuyền Trưởng Olsen, Thuyền Trưởng Tàu Song
An,
Nhạc Phụ, Nhạc Mẫu, Anh Trần Đình Thăng và những thuyền hữu đã khuất
bóng.
Thân tặng các thuyền hữu Trường Xuân, những người còn lại
trong số 3628 trên con "Tàu Định Mệnh"
và gia đình cùng con cháu.
Mời nghe một đoạn audio về Trường Xuân
và bài ca Con Tàu Định Mệnh của Lam Phương
Nhớ lại 30 năm về trước, ngày 30/4/1975, gia đình bên vợ tôi nhất định
di tản vì là người miền Bắc nên đã biết Cộng Sản như thế nào! Tôi chỉ
đi theo để tiễn đưa vợ (đang có thai mà tôi không biết!) và đứa con
nhỏ mới sắp 10 tháng ra đi, vì tôi đã hứa với phụ thân tôi là sẽ ở lại
nên chẵng chuẩn bị gì hết! Ra đến thương cảng thì gia đình lên tất cả
trên chiếc tàu có tên là Trường Xuân vì gia đình được ông Trường chủ
tàu điện thoại cho biết chiếc tàu đó sẽ ra đi. Xin mở dấu ngoặc là ông
Trường này chính là người đã tặng một triệu Mỹ kim để cứu trợ sau biến
cố 911 ở New York.
Lúc chúng tôi đến là khoảng 9-10 giờ sáng và tàu còn trống trơn, nhưng
vừa đem hành lý lên, tìm chổ cho gia đình xong thì súng nổ rền trời,
người như thác lũ trên đường lộ và ào ào lên tàu. Mười năm sau đó tôi
nhớ lại cảnh này và làm bài thơ nhớ phụ thân có đoạn sau đây để ghi
lại tâm trạng của một người ra đi bất đắc dĩ:
"Mười năm trước đây con xuống tàu
"Tiển vợ và con... về phương nào ?!!!
"Con hứa với ba: con ở lại
"Cha mẹ già em dại bỏ đành sao ?
"Con tàu rỉ sét đứng im rơ
"Thiên hạ ùn lên như vỡ bờ
"Vợ yếu con thơ xa không nỡ
"Chân dính trên boong lòng ngẫn ngơ
"Ruột thắt từng cơn lòng nát tan
"Ra đi không nở, ở không đành !...."
(Khóc ba, 30/04/1985)
Lên tàu Trường Xuân về sau còn có gia đình một đồng nghiệp, chị NTM,
chị đã chuyển bụng sanh đẽ ngay trên tàu, trong khoãng 2 mét vuông
ngay giữa 4000 thuyền nhân, chẳng có một sự vệ sinh tối thiểu nào mà
vẫn mẹ tròn con vuông!
Con Tàu đã cứu được gần 4000 người này đã không được chuẩn bị gì hết!
Từ máy hư không nổ, sau khi mở giây neo thì trôi nổi theo dòng nước
trên sông Sàigon, phải ráng sửa chữa cho máy nổ để rời được bến, rồi
hư bánh lái, chết máy tới, chết máy lui, leo lên bờ mắc cạn lúc chưa
ra tới biển, kẹt lưới đánh cá v.v... cho tới cuối cùng nước vô là...
hết thuốc chữa!
Nhờ trời là trong lúc trôi theo dòng, một đầu còn cột dây nên tàu đã
tự động... quay lại thành ra... đúng hướng!
Chạy được một đoạn thì chết máy, không còn điều khiển được nên con tàu
đâm vào bờ và mắc cạn, lại nhờ trời đất xui khiến cho con tàu loại kéo
(remorqueur) tên là Song An đi ngang và vị thuyền trưởng tàu này đã
lôi tàu Trường Xuân khỏi chổ mắc cạn, còn kéo dùm luôn ra tới biển.
Thuyền Trưởng Tàu Song An đã qua đời khi trở về lại Sàigon!
Sau mấy ngày thiếu ăn thiếu uống, ăn ở thì chật hẹp như nêm, chẵng mấy
ai có chổ vừa đủ để nằm hay ngồi dang thẳng chân ra được, máy tàu lại
trục trặc hoài, không biết rồi sẽ ra sao, vì vậy trên tàu đã có triệu
chứng bi đát chán nãn, một người đã tự sát bằng súng ngay giữa 4000
người, máu và óc văng tung toé. Một thuyền nhân khác đã hăm dọa tôi để
lấy thùng nước dành pha sữa cho cháu nhỏ chưa tới 10 tháng. Do đó tôi
đã phải chuẩn bị một con dao găm trong người. Trong đầu tự nhủ là khi
có biến thì nhất định là phải hạ thủ trước! Tình hình sẽ rối loạn nếu
thêm tin nước tràn vào tàu được mọi người biết! Trong khi tàu bị nước
tràn vô, chỉ có vài mươi thanh niên đứng thành hàng từ phòng máy lên
đến boong tàu mà chuyền từng sô để vét nước đổ... ra biển. May thay
không lâu sau thì tàu Clara của Đan Mạch đã đến cứu. Tôi đã nhờ nhà
tôi (vì tôi nói tiếng Anh rất dở) đem tặng con dao cho cố thuyền
trưởng Olsen của tàu Đan Mạch, thay vì liệng xuống biển với tất cả võ
khí. Con dao găm này là của một người lính thượng tặng hồi xưa khi tôi
đi theo trực thăng lên thăm một tiền đồn ở Pleiku. Họ rèn bằng thép từ
nhíp xe hơi, xong cột vào một cành cây tươi chẻ đôi, rồi để cây phát
triển chung quanh dính lại thành cán dao.
Thuyền trưởng Olsen đã cho tôi một chiếc áo sơ mi ngắn tay và một đôi
giày cũ của ông mà tôi phải cắt phía sau để làm dép mới đi đỡ được...
Khi lên bờ tôi chỉ có như vậy trên người, với cái quần dài chà lết đã
mấy ngày! Thuyền trưởng Olsen hiện nay cũng không còn nữa!...
Trên tàu Trường Xuân tôi chỉ giúp có một chuyện là tình nguyện
trong ê-kíp thanh niên bơm hơi ép vào bình chứa để đủ sức đẩy "piston"
làm nổ máy tàu vì không có cách nào khác! Coi vậy mà rất nặng nề, hai
người đứng hai bên ôm cái cần sắt, lắc qua lại để bơm, dù là thanh
niên nhưng chỉ độ 5 phút là mệt bở hơi tai nên phải thay phiên nhau,
hai người một đứng xếp hàng chờ sẵn sàng. Sau nhiều lần bơm quá mệt,
trong hầm máy lại nóng nên tôi lên boong chổ gần phía lái tàu ngồi
nghĩ nên thấy được cảnh người rớt xuống biển.
Anh ta rớt từ đằng trước tàu nên tôi không biết vì lý do nào? Chỉ thấy
lao nhao, rồi có người liệng cho anh một cái phao có giây cột. Khi kéo
lên khoãng giữa thành tàu thì đứt hay sút giây nên anh bị rơi lại
xuống biển, anh choàng phao vào người, lúc đó chỉ mặc có cái quần đùi,
nổi trôi trên sóng nước, quơ 2 tay lên cao, la lên liên tục "cứu tôi
với! cứu tôi với...!" một cách vô vọng, càng lúc càng xa, càng nhỏ dần
vì con tàu cứ từ từ lạnh lùng tiếp tục đi, tới lúc anh và phao chỉ còn
là một chấm nhỏ rồi sau cùng không còn thấy gì nữa!
Lúc đó đã quá mệt và đói khát nên lòng tôi cũng lạnh lùng như con tàu,
mà tôi nghĩ là phần đông đều có tâm trạng như vậy! Chỉ về sau, từ tiềm
thức cảnh này lại hiện ra trong ác mộng làm tôi suy nghĩ lại mà thấy
hãi hùng.
Trong lúc đó, sau khi biết tin có người rớt xuống biển, thuyền trưởng
Phạm Ngọc Lũy đã lấy ngay một quyết định: quay tàu lại cứu! Dầu chưa
chắc đã ra khỏi hải phận Việt Nam hay ngoài tầm theo đuổi của tàu việt
cộng, máy tàu lại cứ hư tới hư lui! Bao nhiêu người phản đối vì theo ý
nghĩ của số đông thuyền nhân, hy sinh 4000 người để mạo hiểm cứu một
người là một chuyện... "ruồi bu"...
Giữa biển cả mênh mông không bờ bến để làm chuẩn, quay 180 độ lại tìm
người là một chuyện rất khó về phương diện kỷ thuật hải hành, trời đã
về chiều gần tối rồi, người rớt xuống biển không còn thấy bóng dáng,
lại phải trở lại gần nơi mà mình đang tìm cách trốn chạy cho nhanh.
Bao nhiêu yếu tố đó vẫn không làm sờn lòng người thuyền trưởng, dầu
ông cũng đã mỏi mệt, đói khát và lo lắng mấy ngày qua!
Cuối cùng, sau khi cứu được người, ai nấy cũng hoan hô vổ tay. Từ đó
tình nhân ái trở lại trong mọi tấm lòng. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy
nói gì ai cũng nghe. Mầm hổn loạn đương nhiên bị hũy diệt. Niềm hy
vọng đã trở lại và tất cả đã được cứu sống trong trật tự, dầu khi đó
tàu đã bị vô nước rất nhiều, có triển vọng chìm xuống biển sâu!
Trên đây chính là ý nghĩa của câu nói mà các thuyền nhân Trường Xuân
nên biết:
"Tôi quay tàu trở lại cứu một người rơi xuống biển là... ĐỂ CỨU 4000
người trên tàu!"
(Thuyền Trưởng tàu Trường Xuân, Phạm Ngọc Lũy)
Khi hay tin hãng Asia đã có dự án làm một video cho thuyền nhân, tôi
đã kể lại chuyện này cho MC Việt Dzũng nghe để thêm vào chương trình
nhưng tiếc là đã trể! Asia lúc đó được BS Nguyễn Đình Bảng bằng lòng
cho quay lại cuộn film 8mm thâu ảnh trong chuyến hải trình Trường
Xuân. Đó là cuốn phim duy nhất và đặc biệt nhờ BS Bảng có đem theo máy
quay phim. Và trong lúc sắp hổn loạn ông đã bị nhiều thuyền nhân vu là
quay phim... tài liệu cho việt cộng (!!!?) và có thể bị ăn đòn oan
mạng không biết lúc nào!
Trên tàu Trường Xuân, sáng ngày 1 tháng năm 1975, sau bao lần thay
phiên đi bơm dưới hầm máy, vừa đói vừa mệt lã người (không khát lắm vì
khi bơm máy gặp ông bếp của tàu cho uống nước cả nữa ấm), tôi nằm đại
xuống sàn ca-bin, vì lên tàu đầu tiên nên đã dành được chổ ca-bin cho
nhà tôi và cháu bé, tuy tránh được mưa gió nhưng rất nóng và ngộp. Tôi
để đứa con trai nằm xấp ngủ trên bụng mình, cho nhà tôi được nghĩ ngơi
đôi chút. Rồi cũng ngủ thiếp đi lúc nào không hay, cho đến lúc thằng
nhỏ quậy đánh thức dậy thì trời đã sáng từ lâu. Sau khi phụ lo pha
sửa cho con xong thì mới thấy đói bụng. Nhìn phía bếp núc thấy người
ta đang lăng xăng, vo gạo thổi cơm, gần cả chục người đang chờ trước
bếp. Mấy cái nồi trên bếp tuy to tướng như ngày giỗ, nhưng tôi hiểu là
nếu chia đều cho tất cả đàn bà và con nít cũng không thấm thía vào
đâu! Còn chờ tới họ dư để cho mình chắc còn lâu... Vừa mệt vừa đói
chịu sao cho thấu! Chẳng thà như các người khác ở trên boong không
thấy thì còn nhịn nổi, chớ mèo đói mà có miếng mỡ trước mặt thì...
chắc chết...!
Phải nghỉ ra một kế!
Dòm chung quanh thấy có vài người khui mấy hộp sữa đặc hiệu con chim,
dùng xong còn dư khá nhiều dưới đáy lon, tôi xin được hai cái như vậy.
Vét tất cả sữa dư vào một lon. Lon kia thì cho nước vào hơn phân nữa
cầm đi thẳng lại bếp, qua mặt tất cả mấy người đang đợi. Thấy ai cũng
có nồi niêu, mình chỉ có cái lon sữa bò, họ thấy tội nghiệp nên nhích
cái nồi qua chút xíu cho tôi dùng ké ngọn lửa liếm khoãng một phần tư
dáy lon. Nhưng vì ngọn lửa gaz rất mạnh nên nước sôi thật lẹ. Khi đó
người đang nấu cơm mở nắp ra thăm chừng xem cạn chưa và xới cho đều,
sẳn dịp tôi xin luôn một muổng to cơm gần chín đó cho vào lon. Cái nồi
thì quá to lại đầy cơm, cái lon sữa bò thì quá nhỏ nằm kế bên giống
như cái chòi rách nằm cạnh cái vi-la vậy, ai nở lòng nào mà từ chối!
Vì vậy hơn mười phút sau là tôi có một lon cháo vừa đặc vừa khá
nhuyễn. Cám ơn tất cả mọi người xong tôi trở về chổ (tôi còn đọc được
những ánh mắt thương hại nhìn vào cái lon cháo nhỏ nhoi đó).
Hai vợ chồng trộn phần sữa đặc vào cháo, chia nhau ăn, nuốt tới đâu là
khỏe tới đó như là thuốc tiên vậy! Từ cha sanh mẹ đẻ cho tới giờ, tôi
chưa từng bao giờ ăn được cái gì ngon hơn vậy! Nhìn trở lại mấy người
đang cầm nồi chờ tới phiên để nấu, chợt thấy thương hại họ...
Thay lời kết: Trên đây chỉ là những đoản văn đã được viết từ lâu, nay
được xào nấu lại và thêm chút gia vị để nhớ lại một vài kỷ niệm khó
quên 30 năm về trước. Theo thông thường thì Nhóm Trường Xuân cũmg sẽ
"ra" một tờ Đặc San như hồi năm 1985, để kỷ niệm 30 năm chuyến đi khó
quên này. Nhưng dù khó quên thì cuộc hải trình cũng chỉ kéo dài có vài
ngày, ai viết gì được cũng đã viết ra hết rồi. Có làm một Đặc San như
vậy cũng là một chuyện đáng làm, nhưng chỉ mình làm mình xem với nhau
giữa thuyền hữu chớ không còn gì có thể hấp dẫn độc giả khác được nữa!
Trái lại, hy vọng mỗi cây viết Trường Xuân, mỗi nơi trên thế giới,
trong phạm vi sinh hoạt của cá nhân mình, đốt lên một nén hương lòng,
kể lại cho chung quanh, cho các đồng nghiệp và bạn bè thân thuộc nghe
vài chuyện trên Tàu. Được như vậy sự phổ biến sẽ rộng rãi hơn, nhất là
nhắc lại câu nói bất hủ kể trên của vị Thuyền Trưởng ân nhân rất đáng
cho mọi người thông hiểu và cảm phục:
"Tôi quay tàu trở lại cứu một người rơi xuống biển là... ĐỂ CỨU 4000
người trên tàu!"
(Thuyền Trưởng tàu Trường Xuân, Phạm Ngọc Lũy)
mời xem : Trang nhà TRƯỜNG XUÂN http://www.saigonline.com/truongxuan/index.php
Kính chào thân ái,
Mai Tâm
(kỹ niệm 30 năm di tản)
ca? nga`y cu+' email ddi ro^`i email la.i ... ro^'t cuo^.c la.i tha^'y
mi`nh qua' ba^'t lu+.c ...
still ... can't stop fighting, can we???
peace to you ...
peace to all ...
and peace to me ...
nite ...
nn
On Jan 17, 12:42 am, "Dr. Tri" <dangtrivalang...@gmail.com> wrote:
> Nho*' la.i ho^`i ddo' na(m a^'y co^ Nana co`n ma(.c qua^`n thu?ng
> ddi't ma` le^n sa^n kha^'u
> ha't ti?nh queo .. :))))
>
> O*` ma` ha't ba?n tie^'ng ta^y gi` que^n ro^`i ??
> Ba^y gio*` tha`nh ba` ngoa.i Nana ma` tuo^?i ba` va^~n co`n son ,
> Unbelievable ;)
>
> Here you gohttp://www.truongxuanucchau.org/letter%20to%20young%20generation%20of...