Hàng năm, cứ mỗi độ gần đến ngày cuối Tháng Tư. Hình như có một
cái điều gì đó thôi thúc tôi, dù vô hình nhưng rất mãnh liệt, nhắc nhở
tôi phải tìm một cách gì, để nói, viết, hay kể lại về cái chết không
phải một, mà là hai người lính, trong hàng ngàn người lính, đã anh
dũng hy sinh trong cuộc chiến, một cuộc chiến đã tàn lụi từ lâu, từ
lâu lắm rồi, mà tôi biết rõ. Nó như là một món nợ tinh thần mà tôi có
trách nhiệm phải trả. Khổ một nỗi, tôi văn thì dốt, mà võ thì nhát,
cầm cây bút lên mà ý tưởng cùn lụt. Chữ nghĩa hạn hẹp, văn vẻ chẳng ra
làm sao! Nhưng không nhẽ, mình lại chẳng làm một việc gì? Mặc dù,
những chuyện này, tôi đã đôi lần kể cho một vài người biết, nhưng
không đủ, nên tôi xin kể ra đây chuyện về hai người lính, mà cả hai
đều đã hy sinh! Các anh đã hy sinh vô cùng hào hùng, trong chiến đấu ở
những ngày cuối Tháng Tư năm 1975.
Theo thiển nghĩ của tôi, chuyện về họ chẳng cần tô son, điểm phấn.
Nét hào hùng tiềm ẩn bên trong cung cách hành xử của các anh khi chiến
đấu chống lại quân thù. Tự nó, đã nói nên tất cả tính hiên ngang, anh
dũng cùng phẩm giá cao cả của những người lính trong Quân Lực Việt Nam
Cộng Hoà. Không cần cường điệu, chỉ ghi lại, nói lên một cách trung
thực, đã làm nổi bật nên hình ảnh của những người lính tuyệt vời. Vinh
quang vĩnh viễn là của họ, do đó tôi xin kể về họ:
Người thứ nhất.
Trần Thanh Tài là con út trong gia đình, có tới hai người anh
làm việc tại xã, ấp. Giả sử như khi đến tuổi đi lính, nếu mà Tài
không thích nhập ngũ, cứ nằm nhà chơi. Cảnh sát có mở cuộc hành quân,
có đi lùng sục, kiểm tra, có gặp mặt, thì do quen biết với các người
anh và cũng do ai cũng biết Tài, vì phần đông cảnh sát ở quận, ở tỉnh,
ít nhiều đều quen biết cả gia đình, chắc cũng chả ai nỡ dám bắt bớ
hay làm gì Tài được. Hoặc nếu như muốn, hai người anh cũng có thể kiếm
cho em một chân làm một công việc gì đó trong xã, ấp, ở nhà mà vẫn hợp
lệ quân dịch.
Thế nhưng không, Tài muốn đi lính. Cản không nổi, cuối cùng, để dung
hòa, ông anh làm Phó xã trưởng, phụ trách an ninh, đã đưa em vào lực
lựơng Nghĩa Quân, đóng ngay trong địa bàn Xã Hố Nai. Vừa thoả mãn dúng
nhu cầu đòi hỏi của người em, lại vì ở gần nhà nên dễ bề coi sóc bảo
bọc nhau. Đã ở Nghĩa Quân, mà còn đóng quân ở cái Xã Hố Nai, lại còn
có anh đỡ đầu nữa thì chắc chắn chữ thọ của người lính là Tài, có đến
99,99 phần trăm là thọ, dù cuộc chiến có kéo dài bao lâu đi nữa cũng
kệ. Cả gia đình và những người quen biết đều nghĩ và yên trí như vậy.
Cũng cần phải nói thêm về binh chủng này một tí, sau năm 1965, theo
nhu cầu, QLVNCH. Thành lập binh chủng Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
thay thế cho lính Bảo An Đoàn và Dân Vệ (còn gọi là lính làng). Nghĩa
Quân được thành lập ở cấp trung đội, được huấn luyện và trang bị vũ
khí, quân trang, quân dụng tương đương với các đơn vị bộ binh, được
kéo ra khỏi thôn ấp, điều động đi khắp vùng trách nhiệm của quận hay
chi khu, được bố trí canh giữ đồn bót, hành quân phối hợp với các đơn
vị bạn và trở thành người lính chuyên nghiệp hơn. Chỉ có chút khác
biệt là họ được ở gần nhà, và chỉ có vậy thôi. Hình ảnh những người
Dân vệ cõng con đi gác, hay vừa gác thôn xóm vừa làm công việc vặt
vãnh trong làng đã biến mất kể từ ngày có các đơn vị Nghĩa Quân. Thế
nhưng người lính Nghĩa Quân có tên Tài thì khác, nó không hẳn là lính,
không ra dân, mà cũng chẳng phải lính kiểng.
Ngày ngày, Tài ở nhà, chạy qua bên nhà máy cưa của ông anh, coi công
việc làm ăn phụ cùng đứa cháu gái. Ít việc thì đi chơi đâu đó, như là
thục bida, chơi bài cào, cát tê gì đó cho hết ngày. Tối đến mới tham
gia canh gác cùng tiểu đội, hay dùng xe nhà chở tiểu đội đi tuần tiểu
trong xã cùng ông anh theo nhu cầu. Buồn buồn, ở nhà ngủ cũng chẳng
sao! Tiểu đội có phải biệt phái, hay tăng cường cho các đơn vị bạn, ở
các xã trong Quận như: Trảng Bom, Bàu Cá, Long Hưng, Long Bình Tân,
Tài chẳng bao giờ phải tham gia. Nghĩa là Tài cứ tà tà làm một người
lính không giống ai như vậy.
Một ngày, đúng ra là vào một đêm, cỡ 4 giờ sáng, Việt Cộng tấn công
vào đồn Cầu Suối Đỉa, nơi đóng quân của trung đội, trong đó có Tài,
cuộc tấn công bất ngờ, làm kinh ngạc nhiều người!! Nhất là Suối Đỉa
nằm ở địa phận Xã Hố Nai. Nơi có tiếng là khu dân di cư chống Cộng số
1. Tài không hề hấn gì, nhưng đơn vị bị thương vong năm Nghĩa Quân
viên. Đơn vị được bổ sung quân số, tổ chức lại, Tài được gửi đi học
khoá chỉ huy với chức vụ Trung đội phó.
Làm phó lúc có lúc không? Tài không chiụ trách nhiệm gì nhiều ở chức
vụ này. Cho nên ông anh không cho Tài giữ chức Trung đội trưởng hay
Tiểu đội trưởng, mà là Trung đội phó, để Tài dễ dàng trong công tác.
Tiểu đội biệt phái đi công tác, không có Tài, trung đội đi, Tài không
muốn, ở nhà cũng được vì có Trung đội trưởng đi rồi. Nói chung, qua sự
bố trí công tác, Tài chẳng phải lo lắng gì nhiều về trách nhiệm của
mình. Chỉ có lo cắt đặt các tiểu đội đi công tác, tăng cường, canh
gác, trực đơn vị và đi họp thay Trung đội trưởng. Tưởng như thế là đời
binh nghiệp của Tài, sẽ kéo dài cho đến ngày giải ngũ, vẫn còn nắm
chắc được hai chữ an toàn.
Sở dĩ tôi hơi dài dòng về Tài một tí là để qúi vị dễ hình dung về anh,
người lính chẳng có gì đặc biệt, anh bình thường như mọi người lính
khác, cũng vui đời, yêu sống, sợ chết như ai, chỉ vì làm trai thời
loạn, anh khoác áo chiến y nhưng chọn ở lại bảo vệ hậu phương, cho
đồng đội anh ngoài tiền tuyến chiến đấu, cũng là công việc của người
lính nhưng nhẹ nhàng và an toàn hơn. Thế mà Tài đã tử trận, tử trận
rất anh dũng, trong chiến đấu vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến,
chống lại cuộc xâm lăng của Cộng quân.
Nghe tin Tài tử trận! Làm mọi người sửng sốt và ngạc nhiên, người ta
không ngạc nhiên về việc Tài tử trận, mà người ta ngạc nhiên là tại
sao vào những phút cuối cùng ấy Tài lại không bỏ đồn? Không bỏ đồn, mà
anh còn ở lại chiến đấu, anh tử thủ? Đành rằng trong chiến tranh,
người lính tử trận là chuyện bình thường, rất bình thường, vì ai mà
tránh khỏi hòn đạn, mũi tên! Nhưng cái chết của Tài thì hơi khác, vì
những ngày cuối Tháng Tư, hay nói cho đúng hơn là những ngày cuối của
cuộc chiến. Nhiều đơn vị trong Quân đội, chỉ nhận đựơc lệnh rút lui,
không còn tác chiến, nên có nhiều người lính, đánh nhau đâu mải tận
miền Trung vẫn rút về đến Sài gòn nguyên vẹn. Thế mà trong khi đơn vị
Tài đóng quân ở một nơi an toàn tuyệt đối, lại là một đơn vị chưa có
bao giờ tác chiến, người ta hay nói đó là thứ lính cầu an, lính kiểng,
lính chết nhát và nghĩ rằng: Các đơn vị như vậy chắc địch chưa đến đã
bỏ đơn vị mà chuồn, chứ đánh đấm gì nổi, nhất là những ngày sôi động
của tháng 4 năm 75, và người ta đã lầm.
Khi Sư Đoàn 18 bộ binh rút khỏi Xuân Lộc, Long Khánh. Các Chi Khu
Định Quán, Kiệm Tân di tản, ngả ba Dầu Giây bị cắt, đơn vị đóng quân ở
ngã ba Sông Thao, Bàu Hàm, Hưng Lộc rút đi và cuối cùng Yếu Khu Trảng
Bom không còn, thì Đồn Cầu Suối Đỉa trở thành tiền đồn cuối cùng còn
lại của Miền Nam trên Quốc lộ 1 vào thời điểm ấy. Tiền đồn mỏng manh
ấy lại được trấn giữ bởi Trung Đội BHA-20, một trung đội Nghĩa Quân,
quân số chưa tới 30 người! So với cuộc chiến quy mô, 30 tay súng chẳng
làm đựơc gì nếu như không có sự trợ lực của các đơn vị bạn! Vậy mà mấy
ngày trước, đơn vị phải chứng kiến hàng chục, hàng trăm ngàn người, cả
dân lẫn lính, lũ lượt di tản đi ngang qua đồn, nơi đơn vị có nhiệm vụ
giữ gìn an ninh và hướng dẫn các đơn vị bạn về các vị trí trú quân
mới. Do đó, các anh cũng được chứng kiến biết bao những khuôn mặt, lo
âu có, thất thần có, hoảng sợ có và cả căm phẫn cũng có! Nhưng hôm
nay, thì những khuôn mặt đó đã thưa thớt dần, hay nói cho chính xác là
không còn ai nữa. Trước mặt đơn vị giờ vắng hoe, dân chúng sống gần
đồn sợ giặc Cộng. đã bỏ làng xóm đi hết, các đơn vị bạn không còn, đơn
vị anh thật lẻ loi, tuy cánh quân Bắc Việt chưa tới, nhưng một vài
đơn vị địa phương Cộng Sản đang từ từ áp sát.
Trung Đội Trưởng Thụy lấy cớ về Phân Chi Khu họp, giao Trung đội lại
cho Tài chỉ huy. Tài có cho anh em rút khỏi đồn lúc này chắc cũng
chẳng còn ai phản đối, chẳng ai khiển trách, vì chung quanh đơn vị
anh, không còn đơn vị bạn nào có thể yểm trợ hay tiếp cứu cho đơn vị
anh được nữa! Tiểu Đoàn 6 TQLC. Đựơc bố trí trấn ngang từ Trường Bộ
Binh Long Thành qua đến QL1, cũng còn nằm cách sau anh đến 2 km. Tình
thế như vậy mà Tài đã không cho anh em rút đi. Ai cũng thắc mắc về
quyết định này của anh, tại sao anh lại không cho anh em rút? Thuộc
cấp của anh ai cũng lo lắng, nhưng vẫn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh
lệnh cấp chỉ huy. Họ vẫn vững vàng tay súng tại các vị trí chiến đấu.
Anh bố trí một tiểu đội giữ đường vào Ấp Tân Bắc, hợp cùng lực lượng
Nhân dân Tự vệ, bảo vệ cho anh nếu như đơn vị phải rút khỏi đồn. Còn
lại anh và đơn vị sẵn sàng trong tư thế tác chiến. Không cần lệnh anh
vẫn tử thủ.
Toán quân tiền sát địch đã xuất hiện, chúng đã bắn lẻ tẻ từ xa nhắm
vào đơn vị. Làm như chúng coi thường không muốn đánh, mà chỉ có ý bắn
hù dọa. Ý đồ của chúng là làm cho đơn vị anh mất tinh thần, hoảng sợ
mà tự ý bỏ chạy. Nhưng không, Tài không chạy và cũng không cho đơn vị
bỏ đi, lại còn chờ cho địch đến gần hơn. Chúng chạy lờ ngờ thấp thoáng
trước mặt, coi thường tất cả. Chúng nghĩ giờ này như không còn đơn vị
nào của ta còn dám chống trả hay cản trở bước tiến chúng nữa. Khiến
Tài cũng có chút tự ái của người lính, anh vẫn ra lệnh bắn trả, riêng
anh với cây M 79. Anh thoăn thoắt đổi vị trí để dễ nhắm vào các nơi
khả nghi để bắn. Anh đã gây thương vong cho địch và làm chậm lại bước
tiến quân của chúng.
Một mặt anh cũng báo về Phân Chi Khu xin chỉ thị cấp trên và cũng xin
yểm trợ cho đơn vị. Trong khi đó, địch sau một vài đợt tấn công thăm
dò không có kết quả, chúng rất tức tối, vì gặp phải sự chống đối của
một đơn vị mà chúng coi thường nhất! Giờ địch mới hiểu là lực lượng
điạ phương của chúng không thể hoàn thành nhiệm vụ nhổ chốt Cầu Suối
Đỉa. Nên chúng phải đợi quân tăng viện và cả súng nặng, đồng loạt mở
cuộc tấn công áp đảo. Trước hỏa lực quá mạnh của địch, không có pháo
yểm trợ, đơn vị khó lòng chống trả, trên cũng không thể gửi quân yểm
trợ, và cho lệnh tùy tình hình, không giữ đựơc có thể bỏ đồn. Lúc này
Tài thấy nhiệm vụ cầm chân địch đã hoàn thành, anh mới cho anh em rút.
Anh dùng súng M 79 bắn chặn yểm trợ cho anh em. Khi chỉ còn lại mấy
tay súng chót sắp rút ra khỏi đồn, anh vừa bắn, vừa ra lệnh và đôn đốc
anh em rời vị trí. Còn riêng anh vẫn nghi binh chạy qua chạy lại các
hầm để bắn. Cuối cùng, một trái B 40 bay tới trúng nơi hầm trú ẩn của
anh, hầm xập và Tài đã hy sinh! Lúc ấy là 12 giờ trưa ngày 27 tháng 4
năm 1975. Cái chết của anh không có gì đặc biệt, nhưng nhờ sự chiến
đấu ấy mà cộng quân bị chậm lại mấy tiếng đồng hồ, không tiến được qua
cầu, nơi đơn vị anh có trách nhiệm trấn giữ. Và chúng chỉ qua được sau
khi anh đã anh dũng hy sinh.
Người thứ nhì.
Khác với Tài, người thứ hai tôi xin kể ra đây, tôi mù tịt về anh, về
đời tư của anh, cả cái tên anh để vinh danh anh tôi cũng không biết
nốt! Chỉ biết anh mang cấp bậc Trung Úy Thiết giáp, đơn vị thuộc Lữ
đoàn 3 (?). Liền sau khi đồn Suối Đỉa sắp mất thì đơn vị anh được điều
động về, thế vào chỗ trống. Với một chiếc M 48 và 2 chiếc M 113. Anh
cho bố trí đơn vị cách Cầu Suối Đỉa chừng hai trăm mét, nằm trong Ấp
Tân Bắc, hai chiếc M 113 bảo vệ cho chiếc M 48 chỉa súng nhắm sẵn vào
con đường độc đạo, chạy từ cầu Suối Đỉa lên. Chỗ này đặc biệt là một
sườn đồi dốc đứng, khi làm đường số 1, người ta đã phải xẻ đồi thấp
xuống để cho đường thoai thoải, đúng độ dốc mà xe cộ có thể chạy lên
được. Do đó, mà nó giống như một cái khe. Xe nào muốn đi về Biên Hoà,
Sài Gòn đều phải bắt buộc đi qua đoạn đường này, không có con đường
nào khác thay thế được. Từ dưới dốc đi lên chừng hơn 100 mét có một
khúc quẹo nhẹ. Anh cho chiếc M 48 nằm trong lề đường chuẩn bị tư thế
sẵn sàng chiến đấu nếu xe tăng địch tiến vào khu vực tử địa do anh quy
định.
Bố trí xong đơn vị trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, anh dẫn theo vài
người lính đi quan sát địa thế, cùng tuần tra chung quanh nơi đơn vị
đóng quân, định sẵn các kế hoạch tác chiến cho mọi tình huống, cắt đặt
cho anh em canh gác, nấu ăn, nghỉ ngơi, xong đâu vào đấy, anh trở về
xe ngồi hút thuốc nói chuyện cùng anh em binh sĩ.
Đang trong lúc chờ và đợi địch đến, anh nhận được lệnh trên, yêu cầu
đơn vị anh di chuyển về vị trí khác, đây không biết là lần anh nhận
lệnh di chuyển thứ bao nhiêu? Trong suốt hơn một tháng trời qua, đơn
vị anh đã được điều động đi khắp nơi trong lãnh thổ của Quân Đoàn 3.
Đi nhiều đến độ chiếc M 48 đã quá thời gian bảo trì mà chưa được đưa
về quân xưởng bảo trì. Nhận được lệnh, anh hơi bất bình với cấp trên,
tình hình chiến sự hết sức sôi động, mà đơn vị anh, thực sự chưa được
đánh trận nào! Địch lại đang áp sát hậu cứ liên đoàn, chỗ anh đóng
quân hiện thời chỉ cách hậu cứ có hơn 3 km chứ mấy? Đúng lúc đó Trưởng
xa M 48 báo cáo chiếc xe không nổ máy được, không có thời gian để sửa
chữa, anh cho lệnh phá hủy những vũ khí và các thiết bị quan trọng
trong xe, mình anh lấy theo 3 cây M 72, rồi ra lệnh cho anh em theo
hai chiếc M 113 di chuyển, anh ở lại, với một quyết định riêng cho
mình, mặc cho anh em binh sĩ dưới quyền năn nỉ mấy, anh cũng không
theo đơn vị di chuyển. Anh ở lại đơn độc chiến đấu với địch. Có một cụ
già ở gần đó, vì già không đủ sức để bỏ đi, nên phải ở lại coi nhà, đã
chứng kiến được từ khi đơn vị anh mới đến cho mãi đến lúc này, thấy
vậy mới ra góp ý:
“Trung úy ơi, cơ trời vận nước, thời thế đã như vậy rồi, thôi Trung úy
đi với anh em đi. Sống chết có nhau, với lại anh em binh sĩ cũng cần
phải có người chỉ huy nữa chứ, Trung úy nghe tôi đi, mình chẳng còn đủ
thì giờ để cứu vãn được tình hình nữa đâu.’’
Nghe thế anh điềm đạm trả lời cụ:
“Cám ơn cụ đã khuyên cháu, cụ cứ an tâm về nghỉ, cháu đã biết, cháu
phải làm gì rồi.’’
Chờ cụ già đi khỏi anh vác súng đi đến đầu khe dốc ngồi, kéo mấy cây M
72 ở vị trí sẵn sàng và bình tĩnh ngồi hút thuốc chờ địch. Cụ già về
nhà nhưng cứ băn khoăn mãi về người sĩ quan thiết giáp ấy, nên cứ để
tâm theo dõi xem anh ta làm gì, sẽ làm gì? Do đó, mà cụ đã được chứng
kiến hành động hào hùng, mưu lược, dũng cảm, anh hùng của Người Sĩ
Quan ấy.
Cỡ hơn hai giờ sau, nghe như có tiếng xích sắt của bánh xe tăng địch,
từ phía bên kia cầu vọng lại, chúng thận trọng chạy chậm qua cầu dọ
dẫm, thấy không có gì khả nghi, chúng ra lệnh đoàn xe tiến tiếp. Vừa
chạy đến đầu khúc quẹo, chiếc T 54 đi đầu thấy chiếc M 48 chĩa nòng
súng nhắm thẳng vào mình, lọt vào kế nghi binh của anh, nó thắng lại,
chưa kịp báo cáo hay phản ứng gì, thì một trái M 72 ở khoảng cách rất
gần, nhắm nó phóng ra, không thể nào trật nổi, làm nó nổ tung bốc
cháy, Là một sĩ quan thiết giáp, anh biết rất rõ những điểm yếu của
từng loại chiến xa địch, do đó khi anh bắn lại ở khoảng cách gần như
vậy, hỏi làm sao chúng có thể thoát nổi?
Sau trái đạn đầu tiên với kết quả đó, những chiếc chạy sau hoảng sợ,
ngưng và lùi lại xa nghe ngóng. Cỡ 10 phút sau thấy im chúng lại cho
lệnh một chiếc T 54 tiến lên, cũng đúng vị trí chiếc thứ nhất, chiếc T
54 cũng lập lại y hệt với sự cẩn thận hơn, chúng vừa chuẩn bị bắn
chiếc M 48 hư, thì không còn kịp nữa, trái M 72 đã nổ ngay phần hiểm
của chiếc xe khiến cho nó cháy theo. Không như lần trước bị bắn bất
ngờ, lần này chúng đã chuẩn bị sẵn, phái tiếp một chiếc T 54 tiến lên
nấp theo 2 chiếc xe đã cháy để bắn trả, nhưng vô ích thôi, vì linh hồn
của chiếc M 48 đang ở trên đầu nó chờ đợi sẵn, và đã đưa nó theo cùng
số phận của hai chiếc đi đầu.
Kể như lúc này anh có thong thả bỏ đi cũng còn kịp chán, vì địch bị
một vố rất nặng, chưa làm ăn gì được mà cỡ chưa tới nửa giờ đồng hồ,
chúng bị mất đến 3 chiếc xe tăng, phải mất bao công lao chúng mới còn
giữ và đưa lọt được qua bao chiến trường từ miền Bắc vào. Giờ thì địch
rất hoảng sợ, chúng gặp phải những người lính ngoan cố, chúng rút về
bên kia cầu, cho bố trí đội hình, đợi bọn bộ binh đến tháp tùng, mở
rộng hàng ngang. Lùng sục mới dám tiến lên. Trong khi đó anh vẫn ung
dung ngồi rút thuốc ra hút, sau vài điếu, anh đứng dậy sửa lại quân
phục, sau đó rút khẩu Colt 45 đã nạp đạn sẵn, tỉnh bơ đưa lên đầu anh
bóp cò, anh đã hiên ngang tìm cái chết, để đền nợ nước, chứ nhất định
không để lọt vào tay giặc.
Phải đến nửa giờ sau đó, địch thận trọng cho bộ binh tiến đến gần
chiếc M 48. Chúng quan sát thấy chiếc xe nằm bất động, không có biểu
hiệu gì là nó vừa bắn cháy của chúng đến 3 chiếc tăng. Cùng lúc có
toán quân báo cáo, có một tên Trung úy (ngụy) nằm chết, trong tay hắn
còn cầm khẩu súng lục, và bên cạnh hắn có 3 cái võ M 72, chỗ hắn nằm
ngay bên trên đỉnh đồi, chỗ 3 chiếc tăng bị bắn cháy. Khỏi phải nói,
bọn chỉ huy tức tối vô cùng, chúng đã lôi xác anh ra đường hèn hạ trả
thù ngay cả với xác chết.
Chuyện về người lính thiết giáp ở trên do người dân ấp Tân Bắc, Hố nai
kể lại. Ông kể cho tôi nghe, không biết bao nhiêu lần? Sau mỗi lần kể,
ông vừa chép miệng, vừa gật gù thán phục, miệng cứ khen tuyệt! tuyệt!
và cứ tiếc mãi về anh, người sĩ quan mưu lược, dũng cảm cùng ước ao:
Giá như tôi biết viết thành truyện, để viết kể lại được câu chuyện này
với mọi người thì hay biết mấy!!
Cụ Trùm ơi, hôm nay tôi thay cụ kể lại đây, chắc là cụ không còn được
đọc nữa, nhưng chẳng sao, đã có nhiều người đọc thay cụ, để vinh danh
anh, người anh hùng mà cụ đã kể cho tôi rất nhiều lần, chắc hẳn câu
chuyện về anh đã nằm sâu trong tâm khảm của cụ biết bao ngày qua, kể
từ ngày mất nước cụ nhỉ?
Hai câu chuyện trên tôi vừa kể rất thật, vì bạn đọc nào ở Hố Nai, chắc
chắn cũng ít ra biết, hoặc nghe danh đến ông Trần Thu Lương, Phó Xã
Trưởng phụ trách an ninh của Xã Hố Nai, và Tài là em ruột của ông,
nhất là những người đã sống ở các ấp gần cầu Suối Đỉa, chắc ai cũng
biết đến Tài.
Còn chiếc M 48, sau ngày 29 tháng Tư, tại Ấp Tân Bắc, ngay tại quán
thịt cầy ông Ba Kiệm, ai có dịp đi ngang qua khu vực này đều đã nhìn
thấy nó, sau đó đến gần 1 năm, chúng mới cho dời đi. Còn 3 chiếc tăng
của địch chúng cho kéo dấu vào khu vực đường cây Mít Nài, bên trong
sau Ấp Tân Bình. Dân ở đó ai cũng biết, và chính tôi cũng tận mắt nhìn
thấy.
Những dòng chữ thô thiển này, được viết hôm nay là nhằm để vinh danh
đến các anh, những người trai hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã
anh dũng hy sinh trong chiến đấu, trên các mặt trận, ở khắp mọi miền
đất nước, để bảo vệ Miền Nam Tự do. Và tôi người chỉ làm cái công việc
kể lại cho mọi người cùng biết về những tấm gương chiến đấu hào hùng
của các anh, mà tôi biết rất rõ, như một nén hương lòng thành kính nhớ
đến các anh, và viết được nó ra rồi thì tâm hồn tôi nhẹ nhõm, như là
vừa trả xong món nợ, món nợ mà tôi đã thiếu các anh từ khi tôi được
biết các chuyện này.
Melbourne, Ngày 30 Tháng 1 Năm 2002.
MX Trần Văn Minh.
Ghi chú: Bài này, Tháng Tư Năm 2006, trong loạt bài kỷ niệm Tháng Tư,
đã được ông Quốc Việt phát thanh trên Đài SBS chương trình phát thanh
toàn quốc của Úc châu. Sau đó, vào Năm 2007. Tôi gửi bài này để đăng
trên Báo Người Việt tại Mỹ, và gia đình của người sĩ quan thiết giáp
đã nhận ra nhân vật trong câu chuyện trên giống với thân nhân của
mình, và gia đình đã liên lạc với tác giả bài viết và kể lại như sau:
Gia đình hiện sống tại Califonia nơi có tòa báo Người Việt, nhưng lại
không đọc báo Người Việt, con gái cụ sống ở New York, vì sống xa người
nhà nên lại mua Báo Người Việt dài hạn, nhờ đó chị đã tình cờ đọc được
chuyện trên, người nhà đã kể lại như sau:
28 Tháng Tư, Năm 1975. Gia đình cụ sống tại Ngã Ba Hàng Xanh, cứ ngóng
tin người con trai là trung úy Lê Văn Cao, tốt Nghiệp Trường Võ Bị
Quốc Gia Đà Lạt Năm 1972 và về phục vụ trong binh chủng Thiết giáp.
Bỗng thấy đoàn xe của đơn vị anh đi qua, người lính trên xe là thuộc
cấp của anh thấy người nhà anh nên báo tin anh bị thương nặng, không
về theo đơn vị được, xe chạy qua, tiếng được tiếng mất, người em anh
lấy xe Honda đuổi theo hỏi cho rõ ràng hơn, nên được kể là anh bắn
cháy 3 chiếc T 54 của Việt Cộng, rồi bị thương nặng, không kịp tải
thương.
Nghe được như vậy, gia đình cứ lo đi đến các bịnh viện để tìm xem anh
có được mang về nhà thương nào cứu chữa hay không? Sau Ngày 30 Tháng
Tư, trên đường đi Long Khánh, khi đi qua chiếc xe tăng M 48. Cụ Lê Văn
lần nào cũng xuống dò tin tức con, bên đường một ngôi mộ còn mới với
cây thánh gía mà dân chúng đã chôn cất người sĩ quan ấy có hàng chữ
Nguyễn Văn Cao. Thấy khác họ, cụ đã không nhận là con mình, để từ đó
đến nay, hơn 30 năm đã trôi qua, cụ vẫn còn ngóng tin người con trai
yêu dấu của mình, và hôm nay, đọc được chuyện này, cụ đã nhớ lại ngôi
mộ xưa của con, mà nay ở quá xa, lại do tuổi già sức yếu, không thể về
để tìm mộ con được.. Nhờ đó mà tôi biết người sĩ quan hào hùng này tên
là Trung úy Lê Văn Cao. Dân Võ bị Đà Lạt ra trường Năm 1972.