Google Groups no longer supports new Usenet posts or subscriptions. Historical content remains viewable.
Dismiss

Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên và Phạm Duy, ai phe't la'c ?

76 views
Skip to first unread message

Ruộng

unread,
Mar 3, 2010, 6:57:48 PM3/3/10
to thanhda...@googlegroups.com, annamit...@googlegroups.com
Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên và Phạm Duy, ai phe't la'c va` ai la`
na.n nha^n ?

FW:
http://www.dutule.com/D_2-222_1-2_4-257_5-9_6-1_15-1/Truong-hop-Nguyen-Tat-Nhien-nhung-ngay-thang-cu.html

Trường hợp Nguyễn Tất Nhiên, những ngày tháng, cũ.

Du Tử Lê.

http://www.dutule.com//images/upload/Article/2010/1/10/633987103928496250_430x470.jpg

Cuối năm 1970, một buổi sáng khi tôi đang ngồi ở chiếc bàn quen thuộc,
kê gần một cây cột của café La Pagode, ở ngã tư đường Tự Do và Lê
Thánh Tôn, Saigòn cũ, với Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh
Phan Anh…thì, một học sinh khẳng khiu, lênh khênh đẩy cửa bước thẳng
vào. Cậu tiến thẳng tới bàn chúng tôi. Không chào hỏi ai, cậu hỏi tôi
có phải là Du Tử Lê. Tôi gật đầu, thoáng nghĩ, có chuyện bất thường?
Thời gian đó, thỉnh thoảng một vài học sinh,sinh viên đi tìm tôi, ở La
Pagode, không phải là chuyện hiếm. Nhưng cậu học trò này, với dáng vẻ
ngơ ngáo, hiển nhiên không phải là học sinh hay, sinh viên ở Saigòn.
Với chiếc quần tây mầu xanh dài, cao trên mắt cá đã ngả màu, trên ngực
áo chemise trắng khâu huy hiệu “Ngô Quyền,” chân đi dẹp Nhật, tay cầm
tờ báo Văn và một cuốn sách nhỏ, cậu là khuôn mặt lạ, xuất hiện lần
thứ nhất.
Mấy người bạn ngồi cùng bàn, im lặng. Tôi đứng dậy, chỉ cậu qua chiếc
bàn trống kê sát khung kính lớn, trông vào đường Tự Do.
Sau khi cậu cho biết cậu tên “Hải,” tôi hỏi cậu uống gì, trong lúc
tiếp tục kín đáo quan sát… Lúc người phục vụ lấy xong “order” đi
khuất, tôi hỏi, ai chỉ Hải tới đây?
Cậu học trò tỉnh lẻ ngập ngừng:
“Em tìm anh đã lâu, viết thư cho báo Văn hỏi xin địa chỉ của anh,
nhưng họ từ chối. Hỏi nơi anh làm việc, họ nói không biết…Sáng nay em
phải tới thẳng toà soạn Văn. Em nói, em từ Biên Hoà lên, cho em gặp
anh. Họ bảo, ‘ông Lê không có ở đây.’ ”
“Ai trả lời câu đó?”
“Cái ông mập, đen, ngồi bàn trong. Không phải ông ngồi bàn ngoài ốm,
cao. Hình như đó là ông Trần Phong Giao.”
Tôi nói, đúng rồi. Đó là ông Trần Phong Giao. Người ngồi bàn ngoài,
ốm, hơi cao là ông Gia Tuấn.
“Nói xong, ông ấy lại cúi xuống làm việc. Coi như không có em. Nhưng
em cứ đứng nguyên. Chập sau, ông ngước lên, lại nhìn em. Ý hỏi em có
còn cần gì nữa không? Em nói, em muốn mua một tờ Văn số mới và, có
cách nào chỉ cho em địa chỉ hoặc, chỗ làm của anh, để em đi tìm anh vì
em ở rất xa, Biên Hoà, chứ không phải ở đây…”
Vừa nói, Hải vừa rất tự nhiên rút một điếu thuốc của tôi, trên bàn,
chấm lửa hút, tựa hơi thuốc giúp cho nhịp tim của cậu dập lại bình
thường hơn, sau quãng đường dài. Hải tiếp, giọng có phần phàn nàn:
“Ông ấy vẫn cứ nhìn em, không nói. Cũng không nhúc nhích. Tới lúc đó,
em mới chợt nghĩ ra, có thể ông ấy ngại em gây phiền hà anh hay, sao
đó. Em bèn đưa cuốn thơ em có cầm theo đây, cho ổng thấy rằng, em chỉ
muốn gặp anh để tặng anh tập thơ mà thôi.”
Hải đẩy cuốn thơ mỏng, khổ giấy viết thư gấp đôi, bìa đóng kim…về phía
tôi. Nhan đề của cuốn thơ in dạng copy đó là “Thiên Tai.” Chữ lớn,
đậm. Tên tác giả “Hoài Thi Yên Thy” chữ nhỏ, mảnh. Hải tiếp:
“Ông ấy không cầm xem, chỉ lên liếc nhìn. Cuối cùng, ông xoay người
vói tay qua dẫy kệ phía sau, lấy cho em tờ Văn. Ông bảo, không lấy
tiền, ‘cầm về Biên Hoà mà đọc.’ Rồi chỉ đường cho em ra đây. Ông dặn
thêm rằng: ‘Ông DTL mặc đồ lính…Thường ngồi nơi chiếc bàn kê sát cột,
nếu cậu đi vào tiệm café, từ phía đường Lê Thánh Tôn. Nhớ là cửa ở
đường Lê Thánh Tôn chứ không phải Tự Do…’ ”
Những tưởng mục đích của Hải chỉ là muốn trao tận tay tôi, tập thơ.
Khi tôi nhắc Hải nên trở lại Biên Hoà sớm, để đi học thì, Hải cho biết
thêm: Cậu được nghỉ học nguyên ngày. Và, ngập ngừng ngỏ ý nhờ tôi đưa
tập thơ cũng như mấy bài thơ của cậu cho báo Văn.
“Em gửi bài cho Văn bao giờ chưa?” Tôi hỏi.
Hải đáp, có. Nhiều lần. Nhưng Văn không đăng một bài nào.
Cầm lên tập thơ mỏng của Hải, lật vài trang, tôi nghĩ, ngay cái bút
hiệu “Hoài Thi Yên Thy” của cậu, đã tố cáo tính cách văn nghệ học
sinh, thành viên thi văn đoàn tỉnh lẻ rồi! Ngay cai tên, tự nó cũng đủ
khiến những người phụ trách việc chọn thơ cho Văn, không tin tưởng!
Tôi nói ra ý nghĩ của mình với Hải. Tôi bảo, tốt nhất Hải nên chọn tên
thật. Vì cái tên “Hoài Thi Yên Thy” nghe cải lương, học trò. Không
ổn.
Thời gian đó, tại Saigòn cũng như ở các tỉnh, phong trào thành lập thi
văn đoàn được mùa, nhiều như cỏ sau mưa. Tôi biết, có những thi văn
đoàn chỉ một hai người. Thậm chí, một người cũng có thể nghĩ ra tới
hai, ba tên thi văn đoàn khác nhau.
Tôi chờ đợi Hải sẽ tỏ dấu khó chịu trước lời nói thẳng của mình. Nhưng
không. Hải mím môi. Im Lặng. Bất ngờ Hải nói:
“Vậy anh nghĩ cho em một cái tên đi!”
Tôi cho Hải biết, cách tốt nhất là nên lấy tên thật của mình. Hay, dở
gì, nó vẫn là cái tên bố mẹ đặt. Còn đã chọn bút hiệu thì, việc đầu
tiên, bút hiệu đó phải lạ; dù vô nghĩa. Bút hiệu lạ sẽ dễ gây nhiều
chú ý cho người đọc, tôi giải thích.
Nêu bút hiệu và, nghệ danh vài nhà văn, ca sĩ làm thí dụ, tôi nói:
“Đó là những cái tên vô nghĩa. Nhưng trước khi trở thành quen thuộc
thì, nó là những cái tên lạ…” Tôi thêm:
“Có khi nó lạ ở chính sự…vô nghĩa của nó!”
Hải bật cười lớn. Tiếng cười của hải khá đặc biệt. Nó có thể khiến
người chung quanh giật mình. Hải nói ngay:
“Vậy anh nghĩ cho em một cái tên…lạ đi. Không có nghĩa cũng được…”
“Em để vài bữa nữa được không?
Hải năn nỉ:
“Không anh. Em ở tuốt Biên Hoà, lại không có xe, đâu thể chạy lên,
chạy xuống thường xuyên được. Em nói rồi, một cái tên không có nghĩa
gì cũng được…”
Tôi nhìn đồng hồ. Đã hơn 10 giờ. Tôi biết tôi phải có mặt ở chỗ làm
việc, trước 11 giờ, là chậm nhất. Nhưng, Hải không cho tôi cảm tưởng
Hải sẽ buông tha tôi sớm. Như thể, việc tôi phải nghĩ cho cậu một cái
tên là chuyện đương nhiên. Chẳng biết có phải hai chữ “đương nhiên”
thoáng hiện ra, đã dẫn tôi tới hai chữ …“tất nhiên”?
Tôi hỏi Hải:
“Em họ gì?
“Em họ Nguyễn.”
Tôi mượn Hải cây bút, viết ba chữ xuống bìa sau tập “Thiên tai”:
“Nguyễn-Tất-Nhiên.”
Hải cười rộ. (Vẫn tiếng cười có thể làm giật mình, chung quanh.) Tôi
hỏi có hiểu hai chữ “tất nhiên,” Hải gật đầu. Tôi tiếp:
“Tất nhiên là…như thế….Mặc dù “tất nhiên như thế” nào thì chỉ có thời
gian mới trả lời được. Có khi, cuối cùng, câu trả lời mà em sẽ nhận
được, là …tất nhiên một …thiên tai!”
Tới bây giờ, tôi cũng không hiểu bắt nguồn từ động lực nào mà, chẳng
những tôi không dị ứng với cung cách ứng xử tự nhiên, không phép tắc
của người Nam như Nguyễn Tất Nhiên mà, tôi còn chiều ý Nhiên, trước
nhiều bất ngờ, phiền toái Nhiên mang đến cho tôi.
Bất ngờ đầu tiên là, ngay ngày hôm sau (chứ không phải nhiều ngày như
Nhiên nói,) Nhiên tìm tôi ở phòng Báo Chí, cục Tâm Lý Chiến, giữa lúc
tôi đang làm việc. Lần này, Nhiên đưa tôi một xấp thơ viết tay, với
bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên. Nhiên muốn tôi mang ngay ra báo Văn, cho
Trần Phong Giao. Tôi hứa tôi sẽ làm. Nhưng:
“Em về đi. Anh đang phải làm việc. Thêm nữa, không thể có kết quả
ngay. Và, cũng đừng hy vọng, nhiều ở lần gửi này.”
Nhiên đồng ý:
“Nhưng em vẫn chờ anh. Đằng nào anh cũng đi ăn trưa phải không?”
“Em chờ ở đâu?
“Bên kia đường.”
Không biết từ lúc nào mà Nhiên biết bên kia cục Tâm Lý Chiến, ở cuối
đường Hồng Thập Tự, có một quán nhỏ, do một người lính trong cục mở,
cho vợ đứng bán.
Hôm đó, mãi quá trưa tôi mới tạm xong công việc của mình. Những tưởng
khi đi ra, Nhiên sẽ không còn đó. Nhưng tôi nhầm!
Bất ngờ kế tiếp, là sau này, gần như ngày nào Nhiên cũng tìm tôi. Chờ
đợi. Khi ở tiệm café. Khi ngay trong căn phòng nhỏ mà chúng tôi thuê
gần chỗ làm. Với thời gian, Nhiên trở thành một “thành viên” trong gia
đình nhỏ của chúng tôi từ lúc nào, tôi cũng không nhớ nữa.
Khổ nỗi, khi số ngày, đêm Nhiên ở trong căn phòng nhỏ của chúng tôi
gia tăng bao nhiêu, thì số lần mẹ tôi đến thăm chúng tôi, lại giảm đi
bấy nhiêu.
Số là mẹ tôi, vốn là người Bắc thuộc loại cổ xưa. Rất cực đoan! Bà
không chịu nổi Nhiên. Nhất là những lần bà ghé thăm chúng tôi, nếu
Nhiên đang có mặt thì, bao giờ Nhiên cũng giương mắt nhìn mẹ tôi như
muốn hỏi:
“Bà tìm ai?”
Tôi nhắc Nhiên nhiều lần, nên chào mẹ tôi một tiếng. Tôi cũng từng nói
với mẹ tôi rằng, Nhiên là người Nam không quen chào hỏi, chứ không
phải cố tình hỗn láo!
Tuy nhiên, nói cách nào thì, mẹ tôi cũng không chịu nổi Nhiên. Bà
không thể hình dung mỗi lần đi thăm con cháu của bà, là một lần bà
phải gặp một thằng nhỏ giương mắt hỏi bà “muốn tìm ai?!”
Ngoài thói quen nhìn mẹ tôi như “tra khảo,” Nhiên còn là người cực kỳ
bừa bãi. Những khi bận làm…thơ, Nhiên dùng hết tất cả 5 chiếc phin pha
café có sẵn trong nhà, xong vứt chúng vào bồn rửa mặt. Tàn huốc lá và
“bản thảo,” những tờ giấy viết nháp của Nhiên thì…khỏi nói. Nhiên
không chỉ vung vãi khắp bàn viết của tôi mà, còn phủ…đầy sàn gạch…
Nhiều lần mẹ tôi nói, bà rất ngứa mắt! bà đi thăm con cháu chứ không
phải để “hầu” cái ông “đầu gối cao quá mang tai” kia.
Chẳng là, khi làm thơ, Nhiên thường ngồi co một trên trên ghế. Thỉnh
thoảng Nhiên cũng co cả hai chân, như kiểu ngồi nước lụt. Mà, chân của
Nhiên thì dài thật!
Cũng lại là một bất ngờ nữa, với tôi (dù chưa phải là bất ngờ sau
cùng!) - - Khi một hôm Nhiên ngỏ ý nhờ tôi chuyển thơ của Nhiên cho
nhạc sĩ Phạm Duy, phổ nhạc. (Trước đó, Nhiên cũng đã có một bài thơ do
Nguyễn Đức Quang soạn thành ca khúc. Đó là bài “Vì tôi là linh mục.”
Nhưng không ai biết. Có thể nó không hay, ít được hát?)
Thời gian kể từ đầu năm 1970 tới giữa năm 1974, với sự đồng ý của
Thành “Hiện Đại,” tôi là người xuất bản gần như tất cả những tập nhạc
của họ Phạm. Ngay tập “Ngày đó chúng mình” của ông, tôi cũng là người
tái bản, khi ông ngỏ ý muốn được in lại. Thuở đó, hai hoạ sĩ tôi nhờ
trình bày bìa các tập nhạc nhiều nhất là Hồ Thành Đức và Nguyên Khai.
(Cả hai người này, hiện cư ngụ tại quận hạt Orange County .)
Vì công việc đòi hỏi, tôi thường phải liên lạc với nhạc sĩ Phạm Duy.
Sự gặp gỡ của chúng tôi, không chỉ là chuyện bản quyền mà, còn là nhu
cầu thoả thuận với nhau, trong việc chọn lựa các bản nhạc cho từng chủ
đề hoặc, chia đều những bản nhạc “ăn khách” cho nhiều tuyển tập khác
nhau.
Một buổi tối, tôi đến gặp họ Phạm ở cư xá Chu mạnh Trinh, Phú Nhuận.
Sau khi giao cho ông bản lay out một tập nhạc mới (để ông dò lại phần
nốt nhạc, trước khi bỏ in;) tôi đưa ông cuốn thơ “Thiên Tai” của
Nguyễn Tất Nhiên. Nhờ ông, nếu được, phổ nhạc hộ một bài cho Nhiên.
Tôi kể thật với ông rằng, từ nhiều tháng qua, Nhiên mơ ước một lần có
thơ đăng trên tạp chí Văn. Nhưng tôi không giúp được. Tôi thất bại.
Lần nào Trần Phong Giao cũng bảo tôi, thơ học trò. Không đăng được. Có
lần họ Trần còn nói thẳng với tôi rằng:
“Mày đừng đưa thơ thằng này cho tao nữa. Thơ của nó không thích hợp
với báo Văn…”
Nhạc sĩ Phạm Duy nhận lời. Tôi biết, ngoài những bài thơ chọn để phổ
nhạc, ông còn có tài phổ nhạc bất cứ một bài thơ nào, nếu tác giả tìm
đến, nhờ cậy, và trả tiền đúng giá. Vấn đề còn lại, như phổ biến, in
ấn… thuộc về nhà thơ đó. Ông hoàn toàn “vô can.”
Ba ngày sau, trong một lần gặp lại nhau vì công việc, nhạc sĩ Phạm Duy
cho biết, ông đã phổ gần xong, bài “Thà như giọt mưa.” Ông nhờ tôi
nhắn Nhiên lên gặp ông. Trước khi tôi về, ông nói, nán lại chút, để
ông hát thử cho nghe. Những chỗ chưa có ca từ thì ông “ư…ư…” Hát xong,
ông cười, bảo, kinh nghiệm của ông, cho biết nó sẽ là một bản nhạc “ăn
khách.”
“Tôi nghĩ, tụi trẻ sẽ thích lắm, với cái ‘triết lý nôm na’… “Có còn
hơn…không. Có còn hơn…không” này.
Ngay hôm sau, Nhiên từ Biên Hoà về, “bay” thẳng đến nhà họ Phạm.
Bản nhạc ra đời với những chi tiết không hề có trong bài thơ. Cụ thể
như câu “Khiến người tên Duyên đau khổ muôn niên,” cùng nhiều câu
khác.
Đó là phần lời thêm vào do nhạc sĩ viết, căn cứ vào những gì Nhiên
kể.
Đúng như nhạc sĩ Phạm Duy tiên đoán, chỉ trong một thời gian rất ngắn,
bản nhạc đã trở thành “top hit.”
Về khả năng “bắt mạch thị trường,” các nhạc sĩ thời đó, đã “bầu” nhạc
sĩ Phạm Duy là “Vua của các vua.” Nên không ai ngạc nhiên, khi thấy họ
Phạm liên tiếp phổ thêm một số thơ của Nguyễn Tất Nhiên, như “Hai năm
tình lận đận,” “Em hiền như ma Sơ”…
Qua những ca khúc vừa kể, một sớm một chiều, Nguyễn Tất Nhiên nổi
tiếng khắp nơi - - Như một hiện tượng, chưa từng xẩy ra. Ngược hẳn với
sự “yên ắng” của các diễn đàn văn học: Không một bài thơ nào của
Nhiên, xuất hiện.
Sự nổi tiếng mau chóng và ồn ào này, đưa Nhiên tới việc được Đinh Tiến
Luyện, Phạm Chu Sa ở tuần báo “Tuổi Ngọc” (của Duyên Anh) xin thơ.
Sự “bộc phát” giao thiệp của Nhiên, từ cá I “gốc” là toà soạn Tuổi
Ngọc, đã dẫn tới những bất ngờ khác cho tôi. Đó là sự kiện, Nhiên đem
về nhà, giới thiệu với tôi, rất nhiều người bạn mới của Nhiên! Khi thì
đó là Vũ Hữu Định, Phạm Chu Sa. Khi thì Nguỵ Ngữ, Nguyễn Đăng Hà. Lúc
thì Hoàng Yên Trang, Hạc Thành Hoa (về từ Sa Đéc.) Khi thì Bùi Thuận,
Vũ Hà Du, về từ Vũng Tầu…
Căn phòng nhỏ xíu của chúng tôi, nhiều ngày không đủ chỗ ngồi cho
Nhiên và các bạn của Nhiên.
Năm 1972, khi nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng thay thế nhà văn Trần Phong
Giao trong vai trò Thư ký toà soạn Văn, Nguyễn Tất Nhiên lại nhờ tôi
đưa bài cho Văn. Tôi cũng kể thật với Hoàng về ước mơ của Nhiên, ít
nhất một lần, thấy thơ mình được đăng trên Văn. Ông nhận lời giúp.
Sau khi Nguyễn Tất Nhiên mất ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại miền nam
California (*), nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng (hiện cư ngụ tại thành phố
San Jose,) đã kể lại chuyện này, trong một bài viết có tính cách tưởng
niệm Nguyễn Tất Nhiên.
Nhưng, khi nhà văn Mai Thảo, thay thế Nguyễn Xuân Hoàng, trông nom bài
vở tạp chí Văn thì, Mai Thảo lại có cùng quan điểm với Trần Phong
Giao...
Để chấm dứt bài viết này, tôi muốn bước nhanh tới cái mà, tôi tạm gọi
là “bất ngờ cuối cùng,” xẩy ra một buổi trưa ở phòng Báo Chí, cục Tâm
Lý Chiến, Saigòn đầu năm 1974.
Đó là khi tôi được mời qua phòng làm việc của Trung tá Nguyễn Đạt
Thịnh, (hiện cư ngụ tại Houston , Texas ,) trưởng phòng Báo Chí mà,
tôi là nhân viên.
Ông kể, nhạc sĩ Phạm Duy mới gặp ông, cho biết, Nguyễn Tất Nhiên đòi
Phạm Duy phải đưa cho Nhiên 1 triệu đồng. Nhiên cần tiền mua một chiếc
xe Honda, đi học. Nếu không, Nhiên sẽ nhờ luật sư đưa họ Phạm ra toà.
Sau đó, Trung tá Thịnh thuật lại lời của nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng,
tôi là người “gây hoạ” cho ông. Bởi vì, nếu tôi không năn nỉ ông phổ
nhạc thơ của Nhiên, thì đã không có vụ đòi tiền này. Chưa kể, ngoài
phần nhạc, chiếm 50% một ca khúc, của Phạm Duy; ông còn là người viết
thêm nhiều câu không có trong nguyên bản bài thơ. Điều đó có nghĩa,
ngay ở phần ca từ, ông cũng đã chiếm tới 25%. Tóm tắt, mỗi ca khúc phổ
từ thơ Nguyễn Tất Nhiên, phần của Phạm Duy là 75%. Phần Nguyễn Tất
Nhiên chỉ có 25%. Chưa kể:
“Nếu không có Phạm Duy thì ai biết Nguyễn Tất Nhiên là ai?!”
Đấy là câu hỏi nhạc sĩ Phạm Duy nhờ trung tá Thịnh chuyển cho tôi, để
tôi chuyển cho Nhiên.
Người xếp trực tiếp của tôi kết luận:
“…Đã không phải trả tiền cho nhạc sĩ thì thôi, nay lại đòi tiền bản
quyền thì…đó điều có phần quá đáng…”
Kết thúc câu chuyện, trung tá Nguyễn Đạt Thịnh muốn tôi thuyết phục
Nhiên, huỷ bỏ vụ đe doạ kiện cáo. Nhạc sĩ Phạm Duy đồng ý sẽ đưa Nhiên
một khoản tiền, ít hơn con số đòi hỏi. Như một quà tặng chứ không phải
là chia tiền tác quyền…
Trước khi trả lời, tôi hỏi trung tá Nguyễn Đạt Thịnh rằng:
“Thưa Trung tá, tôi nghĩ không biết có đúng không rằng, chuyện này nằm
ngoài công việc của phòng Báo Chí?”
Ông gật đầu:
“Đúng. Chuyện này nằm ngoài công việc của phòng. Nhưng tôi thấy anh
Nguyễn Tất Nhiên đó, đối xử với ông Phạm Duy như thế, có phần không
đúng. Và, tôi cũng nghĩ như ông Phạm Duy, anh là người duy nhất có thể
can thiệp. Vì thế mà ông ấy tìm đến đây.…”
Tôi cũng gật đầu:
“Vâng. Thưa trung tá, nhưng đó là việc riêng giữa cá nhân tôi với ông
Phạm Duy và Nguyễn Tất Nhiên…”
“Nhưng ý anh ra làm sao?” Trung tá Thịnh sốt ruột, hỏi.
Tôi đáp:
“Xin trung tá nói hộ với nhạc sĩ Phạm Duy rằng, ông ấy nên đưa Nguyễn
Tất Nhiên số tiền mà Nhiên nó đòi. Nếu không, tôi cũng sẽ đứng về phía
nó!”
Hôm nay, khi viết những dòng chữ này, nhớ lại, phản ứng của mình, tôi
thấy, ít nhiều bắt nguồn từ tự ái! Phản ứng tâm lý tức thời của tôi
lúc đó là, tại sao nhạc sĩ Phạm Duy không nói chuyện thẳng với tôi mà
lại nói qua ông xếp của tôi, như một “áp lực” hay “doạ nạt!” Tới thời
điểm đó, giao tình giữa tôi và họ Phạm vẫn tốt đẹp.
Tuy nhiên, cuối cùng, dường như nhạc sĩ Phạm Duy đã trả cho Nhiên một
khoản tiền…Tôi không biết, cũng không hề hỏi con số. Nhưng tôi nghĩ,
nhiều phần, là con số không nhỏ.
Tôi dùng hai chữ “dường như’ vì kể từ khi chúng tôi dọn nhà về Làng
Báo Chí, phía bên kia cầu Xa Lộ (trước khi vụ Nhiên đòi chia bản quyền
trở thành ồn ào,) Nhiên rất ít tìm tôi.
Trước 30 tháng 4 - 1975, tôi có gặp lại Nhiên một lần, ngay trước
phòng Báo Chí, cục Tâm Lý Chiến. Nhiên đến tìm tôi, với chiếc xe
Honda, còn rất mới.
Du Tử Lê,
( Calif. Nov. 09)
Chú thích:
(*) Nguyễn Tất Nhiên tên thật Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30 tháng 5
năm 1952, tại quận Đức Tu, tỉnh Biên Hoà. ___

Ruộng

unread,
Mar 3, 2010, 7:05:54 PM3/3/10
to thanhda...@googlegroups.com, annamit...@googlegroups.com
Trả lời bài viết của Du Tử Lê về nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên
Thursday, January 28, 2010 http://nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=107571

(*) Tác giả là vợ cũ của nhà thơ quá cố Nguyễn Tất Nhiên. Tựa bài do
tòa soạn đặt.


Bài lên tiếng


Nguyễn Thị Minh Thủy


Cách đây không lâu, một người bạn có kể cho tôi nghe là nhà thơ Du Tử
Lê đã tuyên bố ở đâu đó rằng bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên của tác giả
“Thà Như Giọt Mưa” là do ông đặt ra cho người thi sĩ quá cố này. Tuy
sự kiện này tôi chưa bao giờ được nghe chính anh Nguyễn Tất Nhiên kể
lại trong suốt thời gian chung sống, tôi cũng không lấy gì làm bận
lòng về tính khả tín của nó. Tôi nghĩ chẳng qua đây chỉ là một trong
số những giai thoại văn chương nào đó mà ông Du Tử Lê, bậc thầy của
chữ nghĩa, cha đẻ của nhiều thuật ngữ thi ca độc đáo như “tan theo
ngày nắng vội,” “khi tôi chết hãy mang tôi ra biển,” “ở chỗ nhân gian
không thể hiểu,” kể lại trong lúc trà dư tửu hậu để, hoặc lý thú hóa
một mối duyên thi văn, hoặc phong phú hóa kho tàng đào tạo tên tuổi
của ông, vân vân. Tính thật hư của sự kiện dù sao cũng chỉ trong vòng
tương đối mà thôi, hơn nữa chấp làm gì một việc đặt tên trong quá khứ
khi cuộc sống trước mặt có quá nhiều chuyện để đối phó và suy tư.

Thế nhưng sau khi đọc bài viết của ông Du Tử Lê đăng trên giai phẩm
Xuân Canh Dần của Nhật Báo Người Việt, dưới tựa đề “Trường Hợp Nguyễn
Tất Nhiên, Những Ngày Tháng Cũ,” tôi thật sự ngạc nhiên và cảm thấy
cần phải xét lại thái độ im lặng trước giờ. Một cái gì đó thôi thúc
tôi lên tiếng, một lần này thôi, dù biết rằng “lời thật” của tôi có
thể sẽ làm “mất lòng” một bậc đàn anh văn nghệ vĩ đại của người chồng
cũ đã khuất của mình.

Tại sao có sự thôi thúc này? Phải chăng bởi vì nội dung của bài viết
có liên quan đến một người đã chết, nghĩa là một kẻ không thể tự mình
lên tiếng để công nhận hoặc phủ nhận, hay bổ túc những phần trăm sự
thật mà tác giả đã vô tình (hoặc cố ý) bỏ sót? Cho dù tôi không biết
hết một trăm phần trăm sự thật, ít ra sự trình bày của tôi hôm nay
cũng thắp lên được một ánh lửa khiêm tốn giữa bóng đêm dày đặc kín
bưng. Tôi cũng xin khẳng định rằng việc lên tiếng này không hề xuất
phát từ tình cảm bất bình khi thấy suốt một bài viết dài, thi sĩ Du Tử
Lê chẳng ghi nhận nét độc đáo nào đó trong sự nghiệp thi ca của một
nhà thơ khác được lấy nửa dòng. Chuyện ông khen hay không khen thơ
Nguyễn Tất Nhiên thật sự không quan trọng đối với tôi, cho dù không ai
không biết Du Tử Lê là một tên tuổi nổi tiếng trên văn đàn hiện nay.

Ðể tránh làm mất thì giờ, tôi xin đi thẳng vào vấn đề. Trong bài viết
vừa dẫn, ông Du Tử Lê cho rằng chính ông đã đặt bút hiệu Nguyễn Tất
Nhiên cho chàng “thi sĩ tỉnh lẻ” này ngay ngày đầu tiên gặp gỡ vào một
buổi sáng cuối năm 1970 tại quán cà phê La Pagode Sài Gòn, khi cậu học
trò nhà quê này lặn lội lên thành diện kiến đàn anh để tặng cuốn
“Thiên Tai,” một tập thơ mà cậu ta vừa mới in ra.

Theo nguyên văn lời kể của ông Du Tử Lê, “Nhan đề của cuốn thơ in dạng


copy đó là “Thiên Tai.” Chữ lớn, đậm. Tên tác giả “Hoài Thi Yên Thy”

chữ nhỏ, mảnh.” (sic) Vì thấy Hải (tên thật của Nguyễn Tất Nhiên) tha
thiết với chuyện được đăng thơ trên tạp chí Văn (lúc ấy do ông Trần
Phong Giao trông coi) mà gửi hoài không được toại nguyện, nhà thơ Du
Tử Lê, vốn lão luyện trong chốn trường văn trận bút, đã thấy ngay vấn
đề: “Cầm lên tập thơ mỏng của Hải, lật vài trang, tôi nghĩ, ngay cái


bút hiệu ‘Hoài Thi Yên Thy’ của cậu, đã tố cáo tính cách văn nghệ học

sinh, thành viên thi văn đoàn tỉnh lẻ rồi! Ngay cái tên, tự nó cũng đủ


khiến những người phụ trách việc chọn thơ cho Văn, không tin

tưởng!” (sic)

Và ông, với thiện ý giúp đỡ, đã không nề hà “nói ra ý nghĩ của mình


với Hải. Tôi bảo, tốt nhất Hải nên chọn tên thật. Vì cái tên Hoài Thi

Yên Thy nghe cải lương, học trò. Không ổn.” (sic)

Ngoài sự chờ đợi của ông Du Tử Lê, cậu Hải không chút gì cảm thấy khó
chịu. Và sau khi được ông thuyết giảng về yếu tính để thành công trong
việc chọn bút hiệu, như “việc đầu tiên, bút hiệu đó phải lạ, dù vô
nghĩa,” vân vân, “Hải nói ngay: Vậy anh nghĩ cho em một cái tên... lạ
đi. Không có nghĩa cũng được.” (sic) Và cậu ta còn nài nỉ ông Du Tử Lê
phải làm điều đó ngay lập tức chứ không thể chờ, cho dù chỉ vài bữa,
vì “em ở tuốt Biên Hòa. Lại không có xe, đâu có thể chạy lên chạy
xuống thường xuyên được.” Thế rồi, như một chuyện thần thoại, hai chữ
“tất nhiên” thành hình trong đầu ông và ông “mượn Hải cây bút, viết ba
chữ xuống bìa sau tập “Thiên Tai”: Nguyễn-Tất-Nhiên.” (sic)

Ðọc tới đây thì tôi thấy ngay một điều gì đó không ổn. Vào khoảng gần
cuối năm 1970, lúc tôi đang học lớp Ðệ Tam (lớp 10 bây giờ) thì anh
Nhiên có xin phép thầy hiệu trưởng mang tập thơ Thiên Tai, với bút
hiệu Nguyễn Tất Nhiên hẳn hòi, vào từng lớp để bán vì tập thơ in xong
mà tác giả chưa chạy đủ tiền để trả cho nhà in. Chi tiết này cũng được
nhà báo Hà Tường Cát, vốn là thầy dạy của chúng tôi tại trường Trung
Học Ngô Quyền, kể lại trên một bài viết được đăng báo vài ngày sau khi
anh lìa đời. Cũng qua bài “Vài Kỷ Niệm Về Nguyễn Tất Nhiên” (nhật báo
Người Việt, số 2481 ngày 8 Tháng Tám, năm 1992), tôi mới biết thêm là
hình bìa tập Thiên Tai do Ðinh Cường vẽ chính là “công” của thầy Cát
(vì đối với giới học trò làm thơ như chúng tôi lúc đó, có hình bìa
Ðinh Cường là một điều rất đáng nể, rất “ngầu,” nghĩa là một ấn tượng
rất khó quên!). Vì thời cuộc, tập Thiên Tai đến nay hầu như không còn
nữa nhưng không hẳn đã tuyệt bản. Nhà thơ Nguyễn Hoàng Nam, em trai
của anh Nhiên, đã may mắn còn giữ được một bản và giúp tôi gửi đến độc
giả bản sao bìa trước và bìa sau của cuốn thơ này, như một di vật của
người quá cố. Nếu vì một lý do nào đó, độc giả không coi được hình bìa
thì xin mời vào trang nhà của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền để
tham khảo (ngo-quyen.org).

Sự thật đã rõ ràng như thế, thì chỉ có một cách để bào chữa cho ông Du
Tử Lê là: Rất có thể thời điểm gặp gỡ là một buổi sáng định mệnh nào
đó vào cuối năm 1969 hay đầu năm 1970 (chứ không thể nào là cuối năm
1970) và tập thơ mà cậu học trò tên Hải tặng cho nhà thơ Du Tử Lê lúc
ấy chỉ là... bản nháp! (Nói là nói cho vui vậy thôi, chứ ai cũng biết,
vào thời gian ấy tại Việt Nam, kỹ thuật in ấn dĩ nhiên rất khác xa so
với bây giờ.)

Và cũng rõ ràng như thế, thì một câu hỏi phải được đặt ra: Tại sao ông
Du Tử Lê lại hạ bút viết như đinh đóng cột về một sự kiện mà ông không
nhớ rõ như vậy?

Như tôi đã thưa, đối với tôi việc ai đặt tên không quan trọng. Bên
cạnh đó, tôi cũng không để tâm phiền giận những tác giả trong lúc viết
bài về Nguyễn Tất Nhiên đã vô tình phóng bút quá đà (tôi từng đọc qua
một số bài viết không sát sự thật về nhà thơ yểu mệnh này). Với tôi,
viết với một tấm lòng như thế nào mới là điều đáng kể. Mới đây, khi
tìm tài liệu trên Internet để viết bài này, tôi vừa biết có một blog
viết về một “nguồn gốc” khác của bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên. Ðó là bài
của Trần Thuận Văn đề ngày 3 Tháng Bảy, 2009, viết trên blog của chính
mình. Là một người bạn cũ thời còn đi học và cùng làm thơ với Hoài Thi
Yên Thi/Nguyễn Tất Nhiên, anh viết về những kỷ niệm hồn nhiên cười ra
nước mắt của thuở học trò giữa ba người bạn thân thiết, trong đó có
một đoạn như sau: “Bắt đầu năm vào học thì Nhiên tâm sự với tôi (Trần
Thuận, bút hiệu Trần Thuận Văn) và Lưu (Hồ Văn Lưu, bút hiệu Hồ
Triều): “Tau muốn tìm bút hiệu khác, vì tau làm xong tập thơ Thiên Tai
này chuẩn bị in.” Tôi và Lưu suy nghĩ rồi góp ý đổi bút hiệu cho Nhiên
là Nguyễn Tất Nhiên liền được hắn chấp nhận ngay.” (sic)

Trong lòng không gợn một nghi vấn gì, tôi tiếp nhận những mẩu chuyện
buồn vui kể trên với một tâm trạng bùi ngùi vì hai trong ba nhân vật
(tôi quen biết cả ba anh) trong lời kể trên đã ra người thiên cổ. Âu
cũng là một câu chuyện chung quanh một sự thật mà chỉ có anh Nhiên mới
có thể trả lời. Mà anh lại qua đời sớm quá, hay ít nhất là đủ sớm để
những huyền thoại về anh cứ thế mà sản sinh.

Thành thật mà nói, trong thời gian chung sống, anh Nhiên đã kể cho tôi
biết, trước khi có bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên, anh dùng tên Hoài Thi
Yên Thi khi ra tập thơ “Dấu Mưa Qua Ðất” (1966) và “Nàng Thơ Trong
Mắt” (1968). Tôi từng cười ngặt nghẽo về bút danh quá con gái, khác
nhau một trời một vực với bút hiệu hiện thời này của anh, và anh cũng
vui vẻ công nhận rằng từ lúc anh nghe theo lời khuyên của đàn anh Du
Tử Lê đổi bút hiệu thì sự nghiệp thi ca “lên” rõ ràng. Hỏi tại sao là
Tất Nhiên thì anh cười ha hả, bảo tất nhiên phải là Tất Nhiên thôi.

Tôi ngờ rằng cái tên Hoài Thi Yên Thi đã để lại một dấu ấn nào đó khó
quên trong lòng thi sĩ đàn anh khiến ông không còn sự minh mẫn cần
thiết chăng? Bởi vì, nếu tôi nhớ không lầm, trong mớ thư từ giấy má mà
anh Nhiên ky cóp mang theo lúc vượt biên và đem ra cho tôi xem, có cả
một bức thư của nhà thơ Du Tử Lê “thân gửi Cô Hoài Thi Yên Thi” vì ông
lầm tưởng đây là một nhà thơ... nữ. Tiếc là tất cả những thứ giấy tờ
nói trên nay không còn nữa. Nhưng, giấy tờ dù mất, ký ức vẫn còn. Cho
nên, vì lương tâm đối với một người đã mất không thể tự lên tiếng, tôi
mới phải chẳng đặng đừng tiết lộ điều này chỉ vì muốn nói lên một sự
thật mà tôi may mắn được thấy qua lá thư ấy (ngoài hai đương sự), rằng
ông Du Tử Lê đã liên lạc thư từ với (cô) Hoài Thi Yên Thi từ trước chứ
không phải đợi đến buổi sáng ở quán La Pagode ông mới gặp cái tên này
lần đầu, như ông đã đặt bút thuật lại như thuật một câu chuyện vừa mới
xảy ra.

Vậy thì, tại sao ông Du Tử Lê chọn một sự kiện mà ông không nhớ rõ để
viết thành một bài có bố cục hẳn hoi để dẫn dắt người đọc đi từ ngạc
nhiên này tới bất ngờ khác, rồi đi đến một bất ngờ gây sốc cuối cùng
cho ông mà cũng là cho độc giả, như lối dựng phim Hollywood là “gặp
lại Nhiên, với chiếc xe Honda mới” (sic) (ý hẳn ông muốn bảo rằng
Nguyễn Tất Nhiên đã đạt được điều mà anh ta đòi, là thưa Phạm Duy để
lấy tiền mua xe Honda, vì ban đầu cậu học trò này không có xe)? Thắc
mắc này cứ lởn vởn trong óc tôi từ khi đọc xong bài báo ấy. Tôi có cảm
tưởng (và mong rằng mình lầm) ông Du Tử Lê muốn trình bày cho mọi
người thấy, rằng “trường hợp” Nguyễn Tất Nhiên chẳng qua như thế này
đây: một tên tuổi hữu danh vô thực, nhờ vận may mà nổi tiếng (Phạm Duy
bắt mạch thị trường, tung ra bài nhạc phổ thơ dựa trên “triết lý nôm
na có còn hơn không”) như lời ông viết, “một sớm một chiều, Nguyễn Tất
Nhiên nổi tiếng khắp nơi - Như một hiện tượng, chưa từng xảy ra. Ngược


hẳn với sự “yên ắng” của các diễn đàn văn học: Không một bài thơ nào

của Nhiên, xuất hiện” (sic); và rằng Nguyễn Tất Nhiên trơ trẽn bon
chen, sau đó lại vô ơn bạc nghĩa đối với nhạc sĩ Phạm Duy, thẳng tay
thưa nhạc sĩ này ra tòa để đòi chia chác tiền bạc khi cần.

Kỹ thuật trình bày điêu luyện của Du Tử Lê cho thấy ông kể lại “trường
hợp” Nguyễn Tất Nhiên một cách thật tự nhiên, bởi câu chuyện khởi đi
là từ lòng hào hiệp tận tụy giúp đỡ đàn em của chính ông. Tuy nhiên,
cũng chính vì kỹ thuật này mà ông quên để một chút tình dành cho kẻ
đàn em văn nghệ của mình. Ông kể, qua lời “mắng vốn” của ông xếp Trung
Tá Nguyễn Ðạt Thịnh, có vẻ như khơi khơi tự nhiên “Nguyễn Tất Nhiên
đòi Phạm Duy phải đưa cho Nhiên một triệu đồng. Nhiên cần tiền mua một
chiếc xe Honda, đi học” (sic) mà không trình bày nguyên do, hoàn cảnh
đẩy đưa khiến câu chuyện “đòi chia bản quyền trở thành ồn ào.”

Tưởng cũng nên nhớ Nguyễn Tất Nhiên sinh năm 1952. Năm tập Thiên Tai
ra đời (1970) anh chỉ là một cậu học trò 18 tuổi và năm anh được cây
đại thụ Phạm Duy phổ nhạc, tuổi anh mới vừa quá 20, còn trong vòng bảo
bọc của gia đình (cũng khá giả), nghĩa là không phải túng thiếu hay
ham tiền đến nỗi phải thưa kiện như thế. Ðiều bận tâm duy nhất của anh
lúc đó (và muôn đời) vẫn là thơ và thơ, kèm theo việc muốn cho người
ta biết đến tài làm thơ của mình. Theo chỗ tôi được biết, anh (và nhất
là cha mẹ anh) rất bực bội khi thấy những bài nhạc được in bán dưới
hình thức từng bài lẻ đề tên người sáng tác là Phạm Duy, không hề nhắc
tới tên Nguyễn Tất Nhiên. Ngay cả lúc bài Thà Như Giọt Mưa được nhạc
sĩ Phạm Duy bán bản quyền cho hãng dĩa Việt Nam để soạn thành ca khúc
tân cổ giao duyên (dường như do các nghệ sĩ Chí Tâm và Lệ Thủy trình
bày) cũng vậy. Tên tuổi thi sĩ hoàn toàn bị gạt ra ngoài... hư vô. Với
tính tình nóng nảy, anh Nhiên tức tối nhưng không làm gì được. Anh
chạy đi cầu cứu với giới báo chí thì đúng lúc thiên hạ đang bất mãn
giùm cho thi sĩ Linh Phương (được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thơ bài Kỷ Vật
Cho Em mà không nêu tên tác giả). Cùng với báo Sống của nhà văn Chu
Tử, một số báo khác cũng đứng về phía những người làm thơ bị sang đoạt
tên tuổi, phát động phong trào đặt lại vấn đề tác quyền cho người làm
thơ và gây áp lực với giới nhạc sĩ. Theo lời kể của cha mẹ anh Nhiên,
ông Phạm Duy cũng tìm lên nhà anh ở Biên Hòa và gặp họ, nhưng gặp theo
kiểu “ghé qua nhà cho biết” chứ không hề đề cập đến vấn đề. Vẫn theo
lời ông bà, chờ đợi mãi “một lời phải quấy” nhưng không được đáp ứng,
cuối cùng họ mới giao cho một luật sư bà con đứng ra can thiệp và luật
sư này đâm đơn kiện một số cơ sở thương mại (như hãng dĩa Việt Nam) đã
mua nhạc của ông Phạm Duy. Nội vụ sau đó được điều đình để tránh việc
đem ra tòa xét xử hầu cứu vãn thanh thế cho nhạc sĩ này. Bên nguyên
cáo bãi nại và nhận một số tiền bồi thường do những nhà thương mại nói
trên đứng ra chi trả.

Nhìn qua về chuyện thưa kiện giành lại một phần tác quyền, kể ra bài
viết của ông Du Tử Lê không hẳn là sai sự thực, chỉ tiếc rằng ông
không (chịu) trình bày toàn cảnh bức tranh sự thực đó mà thôi.

Còn về bề ngoài lôi thôi, cư xử cổ quái, tính tình bừa bãi của anh
Nhiên, thì tôi không có ý kiến. Vả lại, những chi tiết này cũng đâu có
mới mẻ gì. Chúng đã được nhà báo Hoàng Dược Thảo (người bạn đời lúc đó
của ông Du Tử Lê) kể lại với tấm lòng cảm thông khoan thứ qua một bài
viết dài rất cảm động, thương tiếc người em văn nghệ tài hoa nhưng bất
toàn, bất hạnh của chồng mình. Bài được đăng trên tuần báo Sài Gòn Nhỏ
của bà ngay sau khi anh Nhiên qua đời (Tháng Tám, 1992) và sau đó có
đăng lại trên tạp chí Tân Văn (số 3, Tháng Mười, 2007) dưới tựa đề
“Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992), Buồn Hơn Trước Nhiều.” (“Buồn hơn trước
nhiều” là lời thơ của Nguyễn Tất Nhiên).

Ngoài ra, chuyện trước khi nổi tiếng, Nguyễn Tất Nhiên phải cạy cục
bon chen chỗ này chỗ nọ để đăng thơ mà không được toại nguyện, tôi
cũng không lấy gì làm thắc mắc. Sự kiện Nguyễn Tất Nhiên có được các
ngài ngự sử văn học thời đó thừa nhận hay không, bây giờ điều này
không thành vấn đề bởi những phán đoán ấy không làm cho thơ anh hay
hơn hay dở hơn, trường tồn hay mất dấu. Tôi còn phải cám ơn ông Du Tử
Lê vì khi được đọc những gì thi sĩ này vô tình hé mở đôi chút về không
khí văn nghệ đầu thập niên 70 tại Sài Gòn (một không khí nặng phần kỳ
thị vùng miền, tỉnh lẻ, thủ đô), tôi mới hiểu hơn và thương cảm những
lời thơ tự thán của người chồng cũ của mình:

“Mới ngoài hai mươi mà trầm trọng chứng đau lưng

Bởi luồn cúi mỗi ngày dăm bảy bận!

Ðời chẳng khác tay ma đầu biển lận

Keo kiệt từng phần danh lợi sớt chia

Bước ra đường ai cũng đội mão mang hia

Ai cũng cố ngụy trang cũng nặng phần trình diễn!”

(1974, Lần Cuối, trích tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Thôi thì tạm gạt bỏ cái nhìn tiêu cực cho rằng ông Du Tử Lê có hậu ý
nào đó khi đặt bút, tôi thấy tội nghiệp cho ông vì thế kẹt mà ông tự
dấn thân vào.

Một đằng ông muốn bài viết lôi cuốn nên phải chọn lựa, và nếu cần, dàn
dựng nên những chi tiết thật đậm nét, thật độc đáo lồng trong một bố
cục thật chặt chẽ theo kiểu một truyện ngắn có tính cách hư cấu. Một
mặt ông cũng biết rõ rằng nếu viết về một nhân vật có thật, một tên
tuổi nhiều người biết tới, thì bài viết lại càng “ăn khách” gấp bội.
Tuy nhiên, chọn lựa đề tài này ông chạm phải một điều mà một người cầm
bút chân chính có lòng, có lương tâm, rất cần phải cân nhắc, suy nghĩ
chín chắn trước khi làm. Ðó là viết về một người đã chết.

Tôi từng nghe các cụ ta hay dạy: Nghĩa tử là nghĩa tận. Chết là hết.
Trừ trường hợp cùng cực chẳng đã, thường thì người ta tránh nói những
điều không hay về một người đã mất cho dù điều đó là sự thật đi nữa.
Ðằng này ông Du Tử Lê viết về một Nguyễn Tất Nhiên qua đời đã gần 18
năm bằng một bài viết bới tung quá khứ với những hình ảnh phiến diện,
chắp vá và, đôi chỗ không đúng sự thật. Tại sao như vậy? Và đau lòng
hơn nữa là tại sao ông lại chọn đăng trên một tờ báo Xuân, nơi người
ta chờ đợi đọc được những điều đẹp đẽ tốt lành để khởi đầu một năm
tinh nguyên trước mặt?

Về vấn đề thưa kiện Phạm Duy của Nguyễn Tất Nhiên, chính cha mẹ anh,
vào những năm tháng gần đây, mỗi khi được hỏi đến, họ đều bùi ngùi trả
lời, “Thôi, thằng Nhiên nó chết rồi. Hãy để cho nó siêu thoát. Chuyện
qua lâu rồi, thôi để cho nó qua đi mà...”

Mười tám năm trước, năm anh vừa chẵn 40, chúng ta đã vô tình ngó lơ để
cho con dao định mệnh có dịp ứng vào lời thơ tiên tri thống thiết mà
anh làm năm 20 tuổi:

“Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ

Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian

Phải đau theo từng hớp rượu tàn

Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định!”

(1972, Giữa Trần Gian Tuyệt Vọng, trích tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mười tám năm sau, người chết đã chết, ngàn năm im bặt, mang theo sự
thật xuống dưới đáy mồ, tôi không thể cam tâm ngó lơ để cho một lần
nữa những lời thơ tiên tri của anh viết năm 21 tuổi lại trở thành linh
nghiệm:

“Ðời, vốn không nương người thất thế

Thì thôi, ô nhục cũng là danh!”

(1973, Hai Hàng Me Ðường Gia Long, trích tập Thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Trong bối cảnh “nhiễu nhương” như bây giờ, tôi ngậm ngùi hiểu thêm
được một định nghĩa khác của thuật ngữ “thất thế” mà anh dùng. Ðó là
cái “thất thế” của những Bùi Giáng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Tất Nhiên,
của những con người tài hoa nhưng đầu óc, cách suy tưởng, thái độ ứng
xử, không được bình thường. Bất hạnh hơn, Nguyễn Tất Nhiên còn “thất
thế” gấp hai lần vì anh vừa bất thường lại vừa mất sớm. Mỗi khi nhắc
tới thi hay văn tài của họ, người ta thường kèm theo những giai thoại
lạ đời mà người viết có dịp chứng kiến hoặc thậm chí chỉ nghe kể lại.
Tệ hơn nữa, có kẻ quá đỗi thường tình, chỉ thích chí khai thác những
chuyện tư riêng eo xèo đời mọn của những nhân tài này thay vì thưởng
ngoạn những tinh hoa mà họ đã chắt lọc từ phía con người bất toàn kia
để cống hiến cho đời.

Nhà thơ Ngu Yên, trong một lần mạn đàm văn học, có dí dỏm ví dòng thơ
tài tình của một thi sĩ không khác chi bộ xương của loài khủng long.
Vài ngàn năm sau, mọi thứ rã tan tàn lụi, nhờ khai quật được những bộ
xương này mà nhân loại biết có một thời kỳ trên mặt đất có loài thú
đó. Vậy khi một nhà thơ, nhà văn nào đã qua đời, thì, làm ơn, nếu
không vì nhu cầu nghiên cứu tiểu sử để tìm hiểu cặn kẽ về bối cảnh và
điều kiện sáng tác của họ, xin đừng khai thác đời tư của họ để phục vụ
cho bất kỳ một mục đích nào khác hơn là góp phần cống hiến cho đời ba
điều thật đơn giản, nghe rất nhàm tai, nhưng vô cùng cao quý, đó là:
Chân, Thiện và Mỹ. Xin gắng bảo tồn bộ-xương-thi-ca-tinh-túy của họ để
thế hệ mai sau biết được, có một thời, cuộc sống nhân loại cũng văn
minh, dù ở mấy ngàn năm trước.

Nguyễn Thị Minh Thủy

Westminster, cuối Tháng Giêng, 2010
http://nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=107571

Ruộng

unread,
Mar 3, 2010, 7:17:11 PM3/3/10
to thanhda...@googlegroups.com, annamit...@googlegroups.com
Co' le~ ba^y gio*` ba` vo*. cu?a cu?a o^ng NTN mo*"i ca?m
tha^'y the^' na`o la` ti`nh vo*. cho^`ng va` ta.i sao anh Nhie^n la.i
ye^u chi. ta qua' ddo^~i.

(Anh Nhie^n lu'c che^'t dda~ vi` qua' nghe`o tu'ng va` ma^'t khi ngu?
trong xe dda^.u ta.i 1 parking ta.i Bolsa, theo to^i nho*' qua ca'c
news cu~)

Coa`n ba^y gio*` anh na`o pho^? tho* NTN dde^? la`m nha.c thi` dda~
tra? ddu? tie^`n cho gia ddi`nh anh Nhie^n chu*a ? hay la` tro^'n
ve^` Hanoi a(n qui.t luo^n ro^`i ?

0 new messages