Về cuốn “Nhân văn Giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc” của Thuỵ Khuê
(I)
Cung Trầm Tưởng - Trịnh Bình An giới thiệu
Trịnh Bình An
- Về Cung Trầm Tưởng: Một người sáng tác thơ - nổi tiếng nhất với 2
bài “Mùa Thu Paris” và “Lên Xe Tiễn Em Đi” đã được Phạm Duy phổ nhạc.
Ông còn là một cựu Trung tá Không Quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
- Về Thụy Khuê: Một người từng phụ trách mục Văn Học Nghệ Thuật của
đài RFI từ 1990 đến 2009.
Trân trọng giới thiệu tới bạn đọc bài viết “Những dòng cảm nghĩ về
cuốn biên khảo của Thuỵ Khuê, ‘Nhân văn Gia phầm và vấn đề Nguyễn Ái
Quốc’” của Cung Trầm Tưởng. Bài viết đã được đăng trên nguyệt san Kỷ
Nguyên Mới số 133 (Virginia-USA).
Những dòng cảm nghĩ về cuốn biên khảo của Thuỵ Khuê, “Nhân văn Giai
phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc”
Nhân văn Gia phầm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Thụy Khuê
Nguồn ảnh: Ts Tiếng Quê hương
-----------------------------------------------------------------------
---------
Từ nhiều năm nay, ở hải ngoại người ta đã viết khá nhiều về sự kiện
Nhân Văn Giai Phẩm và nhân vật Nguyễn Ái Quốc.
Công chúng nhờ đó có được một sự hiểu biết phong phú, đa nguyên, bổ
ích. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đó mới chỉ là một cái nhìn cục bộ, tản
mạn, rời rạc, không được hệ thống hóa, thiếu chuyên sâu và tính nhất
lãm. Tầm nhìn bị hạn chế trong khuôn khổ những bài viết có những khảo
hướng khác nhau, nên thiếu bề dầy, tính keo sơn và sự thống nhất tư
tưởng của một quyển sách viết nên bởi một tác giả.
Sự khiếm khuyết này của tri thức, và học thuật, nay được bổ sung với
sự ra đời của cuốn biên khảo Nhân Văn Giai Phẩm Và Vấn Ðề Nguyễn Ái
Quốc của nhà nữ phê bìnhvăn học tên tuổi Thụy Khuê.
Trước hết xin nói về hình thức.
Tác phẩm có kích thước của một pho sách: 970 trang, 25 chương, 1 phụ
lục và một thư mục gồm 204 tài liệu, tư liệu, tiểu luận, tiểu thuyết,
hồi ký, bút ký, nhật ký, tạp ghi, biên niên, thi phẩm, diễn văn, thư
từ, báo cáo, tường thuật, chấp bút những cuộc phỏng vấn ghi âm trên
điện thoại hay qua những cuộc gặp mặt giữa người hỏi và người trả lời,
và những buổi “trò chuyện với những người trong cuộc” của Thụy Khuê.
Bản liệt kê tỉ mỉ trên nhằm nói lên một điều: tác giả đã làm việc cần
cù, thận trọng, nghiêm túc, có quy mô-những đức tính cần có của một
người làm công tác học thuật chân chính.
Về phương pháp luận, Thụy Khuê đã tỏ ra am tường, tinh tế, thông minh,
linh động trong việc xử dụng những công cụ của tư duy khoa học như quy
nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, ngoại suy, loại suy, đốichiếu
(văn bản, văn khí, văn phong), khảo sát (niên đại), và vân vân.
Ðể truy tìm sự thật bị bóp méo bởi những ý đồ ám muội, Thụy Khuê đã
cần mẫn quy tập, tổ chức những sự kiện riêng lẻ thành một tổng hợp có
ý nghĩa, kết nối cái này vớicái kia thành một tương quan liên đới, dắt
dây—connecting the dots — tạo nên cái logic của tổng thể trong đó
những sự kiện cá thể trở thành những yếu tố cấu thành của tổngthể. Học
thuật như vậy là nghệ thuật ráp nối cái muôn vẻ thành một chỉnh thể có
ý nghĩa, hóa luận ngôn (hiểu theo nghĩa là sự lập ngôn của tư duy
logic) thành một bài thơ trí tuệ trong chừng mực tính chính xác của
khoa học cho phép.
Xin khai triển điều vừa viết ra.
Nghệ thuật lý luận của Thụy Khuê liên hợp được chức năng cảm nhận với
chức năng suy nghĩ thành một cảm nghĩ hài hòa, cân đối — điều này
thích hợp với khoa học nhânvăn — thông qua một ngôn ngữ hữu cơ: sự đơm
xương nở thịt của bào thai tư tưởng. Nhà cấu trúc học Roland Barthes
diễn tả mối giao thoa này với một hình ảnh nên thơ: “Qua nghe ra tiếng
lao xao của cõi chữ, tôi hỏi về cái dợn mình của nghĩa. (C’est le
frisson du sens que j’interroge en écoutant le bruissement du
langage.)”
Ngôn ngữ lý luận của Thụy Khuê có cái cấu trúc hai tầng lao xao này.
Nó ủ men hương của trí tuệ và gợi dậy nơi người đọc một khoái cảm mỹ
học lâng lâng phiêu diêu.
Chúng ta hãy đọc đoạn cô bà bình ba câu thơ kiểu Haiku của Phùng Cung
Ðêm về khuya
Trăng ngả màu hoa lý
Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông
như sau:
“Ðêm trăng, hoa lý, tiếng gọi đò, sông...là những yếu tố của một cảnh
đêm có thể chất hoàn toàn khác nhau. Nhờ một hành động chữ, chúng đã
hóa mộng. Ðể được sốnglại trong một không gian khác, để tạo ra nghịch
cảnh của một đời người. Sự cô đơn tuyệt đối của con người bị cô lập
suốt đời, được nhà thơ biểu hiện dưới một màn trăng đêmkhông người, mà
có “tiếng gọi đò” như “con nhện vô hình” giăng nối hai bờ xa cách. Hai
quang cảnh, một của thiên nhiên hiện thực, diễm ảo Ðêm về khuya trăng
ngả màuhoa lý và một của tâm thức cô đơn tuyệt đối Tiếng gọi đò căng
chỉ ngang sông của kẻ bị cách ly, lưu đày, bị đoạt tự do và cướp ánh
sáng mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là Un Excommunié – Kẻ Bị Khai Trừ”
(Trang 421-2 NVGP&VÐNAQ).
Ngôn ngữ lý luận như vậy là tinh tế, uyên bác, đầy đặn, cặn kẽ, tài
hoa, đẹp như một bài thơ.
Sự đánh tráo lịch sử được chính thống hóa, lên kế hoạch, dựng thành
chính sách nhà nước, viết thành sách giáo khoa, xử dụng hết công suất
của một cỗ máy tuyên tuyềnkhổng lồ đập ồn ĩ vào màng nhĩ, con ngươi
người dân, cắm sâu xuống tầng tiềm thức của tâm hồn họ: họ bị tẩy não
mà không hay và sống kiếp sống thừa của một người có taimà điếc, có
mắt mà mù.
Ðối với ai còn thiết tha với dân tộc, còn biết thương đồng bào, điều
trên nói lên sự cần thiết của những liều thuốc giải độc mạnh. Chẳng
hạn cuốn tự truyện Kẻ Bị Khai Trừ bi thiết nhưng không ủy mị, vẫn giữ
được giọng châm biếm và khí chất sĩ phu ngạo nghễ của Nguyễn Mạnh
Tường; những truyện ngắn dã sử chuyên chở những thông điệpthấm thía,
mang tính phạm thượng, dân dã uyên thâm và những vần thơ phế phủ rớm
máu, toát ra một khí phách quyết liệt, không khoan nhượng kẻ thù cộng
sản của PhùngCung, và pho biên khảo Nhân Văn Giai Phẩm & Vấn đề Nguyễn
Ái Quốc chuyên sâu, tỉ mỉ, chính xác, bén như một lưỡi dao mổ của Thụy
Khuê.
Xin hậu thuẫn nhận định vừa trình bày với một ví dụ dưới dạng một câu
hỏi: Nguyễn Tất Thành thực sự đến Paris năm 1914, 1917 hay 1919?
Với cái nhìn phân tích tỉ mỉ và hiếu kỳ của một thám tử chuyên nghiệp,
Thụy Khuê đã trả lời hộ chúng ta nghi vấn trên.
Theo những tài liệu chính thức và bán chính thức của đảng Cộng sản
Việt Nam, Tất Thành đến Paris năm 1914. Thời điểm này được lựa chọn để
hợp lý hóa câu chuyện kểcủa Trần Dân Tiên — một bút hiệu của Hồ Chí
Minh — theo đó anh Ba Nguyễn Ái Quốc đã có công lớn cùng với hai nhà
cách mạng lưu vong nổi tiếng Phan Văn Trường vàPhan Châu Trinh trong
việc khởi xướng và lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp
ngay trên đất Pháp trong giai đoạn 1914-1919.
Câu chuyện phịa này bị lật tẩy vì theo hồ sơ chính thức của Sở Mật
Thám Pháp, “Tất Thành đến Paris ngày 7/6/1919. Ở số 10 Stockhom từ 7/6
đến 11/6. Ở số 56Monsieur Le Prince từ 12/6 đến 13/7. Và từ 14/7/1919
đến ở 6 Villa des Gobelins.” (Trang 473 sđđ).
Về sau, thấy việc Tất Thành đến Paris năm 1914 quá khó tin, đảng ra
lệnh cho Hồng Hà, tác giả cuốn Thời Thanh Niên của Bác Hồ, sửa
lại: “Anh bỏ nghề phụ bếp ở LuânÐôn, sang Paris năm 1917, đấy là vào
cuối năm 1917.” (Trang 471 sđđ).
Tại sao năm 1917 lại được chọn?
Là vì đó là năm xảy ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên và cuộc cách mạng
bônsêvích tháng 10 ở Nga, như vậy hợp với câu chuyện “Bác ra đi tìm
đường cứu nước và sớm giác ngộ chủ nghĩa cộng sản” của Ðảng CSVN.
Từ sự phát hiện này và những chứng minh hùng hồn của Thụy Khuê về sự
đánh cắp danh tính Nguyễn Ái Quốc và quyền sở hữu trí tuệ của ba nhà
cách mạng lỗi lạc Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh
của Hồ Chí Minh, chúng ta biết được bản chất của con người này. Ðó là
một tên đại bịp vô liêm sỉ ngoài tiếm danh ba ân nhân thầy học của
mình, còn quay lại chê bai, chỉ trích, xuyên tạc họ, và đây không khác
gì hơn là sự phản bội ghê tởm của một kẻ ăn cháo đá bát, qua sông đốt
đò.
Hơn thế nữa, hắn lại còn dám tự mình và bắt thủ hạ phải tôn vinh,
thánh hóa mình thành một lãnh tụ anh minh, liêm chính của dân tộc và
một vĩ nhân của loài người!
Ðây quả là một thóa mạ lương tri và đạo lý làm người hiếm thấy trên
sân khấu chính trị tự cổ chí kim. Phải có trong tay một quyền lực
tuyệt đối và trong đầu một tâm địaquỷ và một ám ảnh bệnh hoạn thì mới
có thể hành xử vô luân và kỳ dị như vậy. Cơ bản, hắn là một con bệnh
nhân cách — psychopath — có ý hướng cuồng vĩ và cuồng sát.
Kiện toàn hồ sơ Nhân Văn Giai Phẩm
Sự thiếu vắng những công trình biên khảo tổng hợp đã khiến cho sự hiểu
biết của chúng ta về sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) cục bộ, tản
mạn, thiếu tính hệ thống. Ở đây, chúng tôi chỉ xin bổ sung một số dữ
kiện quan trọng thu hoạch từ cuốn biên khảo của Thụy Khuê nhằm kiện
toàn bức tranh toàn cảnh.
Sau đây là một dữ kiện mới đối với chúng tôi.
Nhờ uy tín của bản thân mình là người phụ trách xuất sắc mục văn học
nghệ thuật của đài RFI — một mục thu hút được giới trí thức và văn
nghệ trong và ngoài đảng ở ViệtNam —Thụy Khuê đã mời được một số nhân
vật chủ chốt của phong trào NVGP tham gia những buổi “chuyện trò với
người trong cuộc” có ghi âm của bà, và nhờ đó có đượcmột lượng thông
tin quý giá, độc đáo về phong trào, đặc biệt những uẩn khúc ở bên
trong nó.
Chúng tôi xin đan cử dưới đây một số ví dụ điển hình.
Việc Giai Phẩm Mùa Xuân ra mắt tháng giêng năm 1956, tức bốn tháng
trước khi có phong trào Trăm Hoa Ðua Nở ở Trung Cộng, chứng tỏ câu
chuyện bảo rằng GiaiPhẩm chịu ảnh hưởng của phong trào là sai sự thật.
Cả Lê Ðạt lẫn Hoàng Cầm đều xác định với Thụy Khuê là họ không dính
dáng gì với phía bên Trung Cộng cả khi chuẩn bị cho ra mắt Giai Phẩm.
(Trang 828,899 – sđd).
Về chính danh, Giai Phẩm, mà mục đích chính là muốn thổi vào cho thi
ca Việt Nam một luồng gió mới, chỉ trở thành một phong trào chính trị
đòi tự do dân chủ rộng lớn — gọi chung là phong trào NVGP — khi được
tiếp sức bởi sự ra đời sau nó của những Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm
Mùa Ðông, tờ Ðất Mới của sinh viên và tờ Nhân Văn. (Trang 822 – sđd).
Về mặt thuần túy văn học, cùng lúc với phong trào thơ tự do ở miền Nam
do Thanh Tâm Tuyền của nhóm Sáng Tạo khởi xướng, Giai Phẩm Mùa Xuân ở
miền Bắc có mộtđóng góp không nhỏ cho cuộc cách mạng thi ca Việt Nam.
Ðiều này làm cho chưởng môn chính thống Tố Hữu rất bực tức và nuôi ý
định trả thù. Theo chúng tôi, đây là mộtđộng cơ có tính cá nhân khiến
các nhà thơ của Giai Phẩm phải hứng chịu những hệ lụy chính trị ghê
gớm chỉ vì việc làm thuần túy văn học đầy thiện chí của mình. Ðiều này
nóilên bản chất phi văn hóa và đê tiện của chế độ độc tài cộng sản.
Ðể có một ý niệm hoàn chỉnh về tầm vóc của phong trào NVGP, thiết
tưởng cũng phải kể đến công đóng góp quan trọng cho phong trào về tư
tưởng và học thuật của nhóm đại học gồm các giáo sư tên tuổi như
Nguyễn Mạnh Tường, Trần Ðức Thảo, Trương Tửu, Ðào Duy Anh, tạo cho
phong trào có được một cơ sở lý luận vững vàng, uyên thâm thuyết phục
được giới trí thức và sinh viên trong và ngoài đảng. Vì vậy, nếu có
gọi phong trào là một cuộc cách mạng tư tưởng tầm cỡ thì cũng là chính
danh.
Chúng tôi còn biết được là có một sự mâu thuẫn tư tưởng của nhóm cầm
đầu NVGP như sau. Họ không chủ trương chống đảng mà chỉ chống khuynh
hướng quá tả kiểu staliniste và marxist, nhưng lại tỏ ra thiết tha với
chủ nghĩa hiện thực tiểu tư sản Pháp thế kỷ 19. (Trang 811 – sđd). Ðối
với đường lối chính thống của đảng, đảng viên nào màlàm như vậy là xét
lại, là phản đảng — một tội không thể dung tha. Ðó là lý do tại sao họ
đã phải hứng chịu những hình phạt quá nặng và bị trù ếm cho đến lúc
lìa đời.
Một phát hiện khác mới đối với chúng tôi.
Do uy tín cá nhân của mình, Phan Khôi được mời đứng tên chủ nhiệm tờ
Nhân Văn, nhưng Nguyễn Hữu Ðang mới đích thực là người khởi xướng,
quán xuyến công việcvà là linh hồn chính trị của tờ báo. Dưới bút hiệu
Người Quan Sát, cũng là của Lê Ðạt-ông viết những bài xã luận chỉ
trích sắc bén đường lối và chính sáchcủa đảng mà ông cho là cực quyền,
đòi tự do dân chủ và viện dẫn hiến pháp Trung Cộng để xác định quyền
được biểu tình của người dân. Vì vậy ông bị chụp mũ là người hô hào
dân biểu tình chống chế độ, và đảng viện cớ này để đóng cửa tờ Nhân
Văn. (Trang 836-7 – sđd).
Tóm lại, có thể nói ông là một người cộng sản ly khai dứt khoát, cứng
đầu, khảng khái, không thể cải tạo. Dưới mắt đảng, ông là một kẻ xét
lại ngoan cố,một tên phản đảng, một cái gai nhọn cần phải nhổ.
Vì vậy so với các thành viên khác của phong trào NVGP, ông đã phải
lãnh bản án nặng nhất: 15 năm tù; 5 năm mất quyền công dân; 16 năm
quản thúc ở Thái Bình, thời kỳnày Phùng Quán gọi là thời kỳ giun dế;
sau, được phép trở về sống ở vùng ngoại ô Nghĩa Ðô của Hà Nội, luôn bị
công an theo dõi, cho đến lúc chết vẫn không thoát khỏi sốphận hẩm hiu
của một kẻ bị khai trừ.
Nghe nói lúc cuối đời ông trở về với Nam Hoa Kinh của Trang Tử, tức
Trang Châu. Nếu quả vậy thì phải chăng là để tìm một lối thoát duy tâm
cho một tâm hồn lỡ lạc vào mê cung hoang đường của một chủ nghĩa không
tưởng — chủ nghĩa duy vật biện chứng của Karl Marx.
Ông nói với Thụy Khuê:
“...Sau khi bị kết án 15 năm thì tôi cũng không ký chống án gì cả. Từ
bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh,
phân trần, xin xỏ khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”
(Trang 812 - sđd)
Một người trí thức suốt đời trầm luân trong bể khổ mà vẫn giữ được cái
khí phách ngạo nghễ, kiên cường và tinh ròng như thế ắt phải có một
triết lý sống caosâu làm điểm tựa. Nếu quả vậy, chuyện ông trở về với
Trang Tử lúc cuối đời là hợp lý. Chúng tôi nghĩ, ông ắt phải tâm đắc
với điều Trang Tử viết trong thiên Thiên Hạ của Nam Hoa Kinh:
“Trang Châu thấy đời chìm đắm trong ô trọc, không hiểu được lời mình
nên dùng “chi ngôn” mà gieo khắp, dùng “trùng ngôn” làm thực sự,
dùng “ngụ ngôn” chorộng hiểu. Rồi riêng một mình lại qua cùng trời đất
tinh thần mà không ngạo nghễ vạn vật, không hỏi tội thị phi, lại sống
chung cùng thế tục...Trên thì đạo cùng tạo vật, dướibạn cùng “ngoại tử
sinh, vô chung thủy”...Tông chỉ đó có thể thích hợp với bậc thượng
trí.” (Trang 17 Trang Tử Nam Hoa Kinh, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch
và bìnhchú).
Qua những lời kể lại về sau của những Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Trần Dần,
Nguyễn Mạnh Tường và sau khi đọc được những lời buộc tội của “bốn bất
tử” Tố Hữu, Nguyễn Ðình Thi, Chế Lan Viên và Hoài Thanh, chúng ta có
thể mường tượng được cái không khí ngột ngạt, gay gắt của những buổi
kiểm thảo, “học tập đấu tranh chống bọn NVGP”, thực chất là những
phiên tòa xử quái đản trong đó các nhà trí thức, văn nghệ sĩ đảng viên
đóng vai trò công an văn hóa kiêm công tố buộc tội. Dưới áp lực của
những lời đe dọa quyết liệt khiến Trần Dần phải thốt lên “Chao ơi! Con
đường để đi đến chỗ “Ðúng” mới nhiều máu làm sao?” (Trang 162 – sđđ),
nếu có một số đã tỏ ra có bản lãnh, thì cũngcó một số khác vì khiếp sợ
đã quay lại đánh không thương tiếc bạn mình với hy vọng sẽ được xóa
tội hay giảm tội. Một số ngoài phong trào cũng nhân dịp này nhảy vào
đánhhôi để lấy điểm với lãnh đạo, để tiến thân.
Tóm lại, ngoài “giẻ rách hóa” nạn nhân, mục đích tối hậu của cuộc
khủng bố trắng là đánh những cái Thụy Khuê coi là “những yếu tố thiêng
liêng của con người, đánh tình bạn, đánh tình người, đánh tan nát.”
Chính Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh hay Tố Hữu mới là người
chủ trương trận đánh sa đích này. Chứng cớ là, cũng như lần đấu tố địa
chủ dưới chiêu bài cải cách ruộng đất trước kia, lần này Hồ Chí Minh
cũng thân chinh đến Bắc Kinh để học tập chính sách đàn áp trí thức và
văn nghệ sĩ ở Trung Cộng, rồi về nước chỉ thị cho tay chân phát động
chiến dịch thanh trừng NVGP.
Sự dập tắt phong trào NVGP cũng chính là sự dập tắt tiếng nói của
lương tri dân tộc. Một tội ác diệt chủng.
Bởi lương tri này chính là sự kết tinh qua bao lớp phế hưng, thăng
trầm của lịch sử của những giá trị tinh thần ưu việt, cách nhìn thế
giới, lối nghĩ về đời, tình đồng bào, bằng hữu, đạo gia tiên, nghĩa vợ
chồng, tình phụ tử.
Nó là cốt cách suy tư, sự minh triết, niềm tự hào, bản lãnh, cái hồn
của dân tộc. Tiêu diệt nó cũng là tiêu diệt văn hóa, bởi văn hóa với
hồn này là một. Chỉ những kẻ cuồng tín bán linh hồn cho ngoại bang thì
mới ăn ở thất đức như vậy.
Ðề lấp lỗ hổng gây nên bởi hành động hư vô trên, ÐCSVN đã phải mượn
văn hóa của một dân tộc khác để tồn tại. Ðây là lý do cơ bản — nguyên
nhân của nguyên nhân — của một kế hoạch bán nước dài hạn khởi từ thời
Hồ Chí Minh đến bây giờ và nối tiếp trong tương lai. Một thương vụ ô
nhục của những lái buôn bán luôn nhân cách mình.
Bán đất, bán biển, bán đảo, bán rừng, bán thác, bán ải, bán những địa
danh lịch sử, bán tài nguyên thiên nhiên, bán luôn cả tiếng mẹ đẻ cho
bá quyền ngôn ngữ Bắc Kinh. Ðã xuất hiện một số dấu hiệu cho thấy,
theo sự sắp xếp có bài bản của tập đoàn bán nước, ngôi sao vàng sẽ rời
khỏi vị trí trung tâm của nó trên lá cờ máu ở Ba Ðình để xuống làm
thân phận vệ tinh của lá cờ đỏ trên cổng Thiên An.
Cái hội chứng phiên quốc, nhược tiểu thuở nào tái phát trên cấp số
nhân, và hiểm họa Bắc thuộc lần thứ tư đang lấp ló phía chân trời.
(Còn tiếp)
http://dcvonline.net/modules.php?name=News&file=article&sid=9124
Posted using
www.webuse.net